Đo lường lợi thế cạnh tranh, sản phẩm động lực (chủ lực) và một số kết quả tính toán cho các sản phẩm TP HCM

pdf 10 trang Gia Huy 18/05/2022 1870
Bạn đang xem tài liệu "Đo lường lợi thế cạnh tranh, sản phẩm động lực (chủ lực) và một số kết quả tính toán cho các sản phẩm TP HCM", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdo_luong_loi_the_canh_tranh_san_pham_dong_luc_chu_luc_va_mot.pdf

Nội dung text: Đo lường lợi thế cạnh tranh, sản phẩm động lực (chủ lực) và một số kết quả tính toán cho các sản phẩm TP HCM

  1. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng ĐO LƯỜNG LỢI THẾ CẠNH TRANH, SẢN PHẨM ĐỘNG LỰC (CHỦ LỰC) VÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ TÍNH TOÁN CHO CÁC SẢN PHẨM TP.HCM GS.TS. Nguyễn Thị Cành Trường ĐH Kinh tế-Luật, ĐHQG-HCM TÓM TẮT Bài nghiên cứu nêu các tiêu chí đo lường sản phẩm cạnh tranh hay sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm chủ lực theo cách phương pháp, quan điểm khác nhau và áp dụng tính toán cho một số sản phẩm tại TP.HCM. Kết quả cho thấy, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cũng là những sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao, và có thể là các sản phẩm động lực có độ lan tỏa lôi kéo và thúc đẩy sản phẩm ngành khác phát triển. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, sản phẩm được bảo hộ cao (thuế nhập khẩu cao), lợi thế cạnh tranh sẽ thấp và ngược lại. Từ khóa: Sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm chủ lực, 1. Cơ sở lý thuyết về lợi thế cạnh tranh và sản phẩm chủ lực Lợi thế so sánh có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nhà kinh tế. Adam Smith là người đầu tiên đưa ra khái niệm lợi thế tuyệt đối, qua đó một quốc gia xuất khẩu một mặt hàng nếu nước đó sản xuất được mặt hàng này với chi phí thấp. David Ricardo sửa lại khái niệm này và đưa ra khái niệm lợi thế so sánh, ông nhận ra rằng những áp lực thị trường sẽ phân bố nguồn lực sản xuất trong một nước vào những ngành có năng lực sản xuất tương đối cao nhất. Lý thuyết lợi thế so sánh của Heckscher và Ohlin dựa vào khái niệm rằng tất cả quốc gia đều có công nghệ tương tự nhưng khác biệt về dự sẵn có cái gọi là nhân tố sản xuất ví dụ như lao động, đất đai, vốn và tài nguyên thiên nhiên. Lý thuyết lợi thế so sánh dựa trên nhân tố sản xuất và những khác biệt về chi phí nhân tố đã đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định cơ cấu thương mại ở nhiều ngành công nghiệp. Theo Michael Porter (1990), lợi thế cạnh tranh được biểu hiện dưới hai dạng cơ bản sau. Thứ nhất, nếu hai sản phẩm cùng chủng loại và có chất lượng ngang nhau thì sản phẩm nào có chi phí sản xuất và giá thành thấp hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Thứ hai, một sản phẩm có tính đặc thù, độc đáo riêng biệt (về mẫu mã, tính năng độc đáo hay giá trị sử dụng ) mà không sản phẩm cùng chủng loại nào khác có được, cho dù giá cả có cao hơn các sản phẩm khác thì nó vẫn có một lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các sản phẩm cùng chủng loại. Ngành sản phẩm chủ lực theo chúng tôi là những ngành sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và những ngành có khả năng lôi kéo thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Sản phẩm chủ lực là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên bình diện quốc gia và quốc tế, là sản phẩm có tỷ trọng giá trị sản lượng cao trong ngành và có tỷ trọng xuất khẩu cao, và có thể là các sản phẩm động lực. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế trong các giai đoạn phát triển phải thể hiện định hướng được các ngành kinh tế chủ lực, và sản phẩm chủ lực. Sản phẩm được coi là chủ lực, theo chúng tôi có thể phải đạt được một số các tiêu chí sau đây: Thứ nhất, phải là những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong các năm gần đây hoặc đối với ngành mới phải có tỷ trọng tiềm năng lớn trong tổng kim ngạch xuất trong tương lai. Điều này lý giải rằng những sản phẩm có vị trí cao trong xuất khẩu là những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 9
  2. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Thứ hai, là sản phẩm xuất khẩu và có đóng góp tỷ trọng cao trong GDP hay trong giá trị gia tăng (GAV) của ngành hoặc trong chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành, và của toàn bộ khu vực ngành hay nền kinh tế. Ngoài các ngành kinh tế chủ lực, còn có các ngành kinh tế động lực. Ngành kinh tế động lực ở đây được hiểu là những ngành sản phẩm có mối quan hệ liên ngành thúc đẩy hay lôi kéo các ngành khác phát triển, chẳng hạn các ngành thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội như hàng không, cảng biển, giao thông nói chung, một số ngành công nghiệp chế biến cung cấp đầu vào và sử dụng đầu ra của các ngành khác Sản phẩm có lợi thế cạnh tranh được coi là sản phẩm chủ lực thường phải đạt đa số các tiêu chí sau đây: Thứ nhất, phải là những sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong các năm gần đây hoặc có tỷ trọng tiềm năng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong tương lai, (có khả năng cạnh tranh quốc tế). Thứ hai, là sản phẩm xuất khẩu và có đóng góp tỷ trọng cao trong GDP hoặc trong chỉ tiêu giá trị sản xuất của một quốc gia. Thứ ba, là sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao trong sản phẩm xuất khẩu của vùng và của cả nước. Thứ tư, là sản phẩm tuy có tỷ trọng GDP hoặc giá trị sản xuất (GTSX) nhỏ nhưng sản xuất chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, tức có tỷ lệ doanh thu xuất khẩu cao. Thứ năm, một số tiêu chí được xem xét thêm đó là mối quan hệ đầu vào-đầu ra, như đầu tư vốn, thu hút lao động để gia tăng giá trị sản xuất hoặc xuất khẩu. Chi phí thấp so với sản phẩm cùng loại, có thương hiệu, có thị trường trong nước và quốc tế kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Các tiêu chí này thể hiện ngành hàng sản xuất có hiệu quả hay không, có thể đảm bảo điều kiện phát triển lâu dài và bền vững. 2. Các phương pháp đo lường lợi thế cạnh tranh và khả năng cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm Muốn nhận biết được sản phẩm nào có lợi thế cạnh tranh –là một trong những tiêu chí quan trọng của ngành sản phẩm chủ lực cần phải đo lường lợi thế cạnh tranh và khả năng cạnh tranh. Ở cấp độ sản phẩm, một số nhà kinh tế đã đưa ra các chỉ tiêu đo lường lợi thế cạnh tranh qua các hệ số lợi thế so sánh trông thấy, hệ số bảo hộ hiệu dụng và hệ số chi phí nguồn lực trong nước được trình bày dưới đây. Hệ số lợi thế so sánh trơng thấy (Revealed Comparative Advantage - RCA) Hệ số lợi thế so snh trơng thấy RCA (do nhà kinh tế học Balassa đề xuất vào năm 1965) được tính theo cơng thức sau:  X ij X ij j RCA1 = : (1) X wj  X wj j Trong đó: i là nước i, w là tòan thế giới, với j là sản phẩm j, X là xuất khẩu, M là nhập khẩu. Trong công thức 1, nếu tỉ trọng xuất khẩu của nước i so với thế giới về mặt hàng j (là ) mà lớn hơn tỉ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i so với tổng xuất khẩu của tòan thế giới (là ), tức hệ số RCA1 lớn hơn 1, thì nước i được cho là có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Hệ số này càng cao thì chứng tỏ lợi thế so sánh của sản phẩm j càng cao. Nếu RCA1 mà nhỏ hơn 1 thì nước i được cho là không có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Ví dụ, giả sử tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia ABC chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của tòan thế giới, trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ABC chiếm 3% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 10
  3. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng tòan thế giới và kim ngạch xuất khẩu thép của ABC chiếm 1% kim ngạch xuất khẩu thép tòan thế giới. Hệ số lợi thế so sánh trông thấy đối với hàng dệt may của quốc gia ABC là 3%/2% = 1,5>1, còn đối với thép là 1%/3% = 0,5<1. Vậy, quốc gia ABC có lợi thế so sánh về hàng dệt may và không có lợi thế so sánh về sản phẩm thép. Công thức 2 dưới đây có tính đến yếu tố này, tức là vừa có xuất khẩu và nhập khẩu trong cùng một ngành sản phẩm. Hệ số RCA2 có gía trị từ -1 (hòan tòan không có lợi thế so sánh) đến +1 (có lợi thế so sánh rõ rệt). Nếu hệ số RCA2 có giá trị lớn hơn 0 thì nước i có lợi thế so sánh ở sản phẩm j, còn nếu hệ số RCA2 có giá trị nhỏ hơn 0 thì nước i có bất lợi thế so sánh ở sản phẩm j. Giá trị RCA2 gần bằng không là tình trạng không rõ ràng. RCA2 = (Xj - Mj)/( Xj + Mj) (2) Trong đó, Xj là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j và Mj là kim ngạch nhập khẩu sản phẩm j của một quốc gia. Các hệ số RCA trong công thức 1 và 2 ở trên có thể dùng để đánh giá lợi thế so sánh của các ngành sản phẩm khác nhau cho một nước và đồng thời có thể dùng để so sánh giữa các nước với nhau. Một hệ số RCA2 có giá trị lớn hơn 0 thì nước chủ nhà so với nước i có lợi thế so sánh ở sản phẩm j, còn nếu hệ số RCA2 có giá trị nhỏ hơn 0 thì nước chủ nhà so với nước i không có lợi thế so sánh ở sản phẩm j. Hệ số Bảo Hộ Hiệu Dụng (Effective Rate of Protection- ERP) Thuế nhập khẩu là thuế gián thu đánh vào hàng nhập khẩu. Mục đích đánh thuế có thể là để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, hoặc chỉ đơn thuần là thực hiện chính sách phân biệt đối xử với các đối tác thương mại khác nhau. Dù với lý do gì đi nữa, thì việc đánh thuế nhập khẩu sẽ làm gia tăng giá cả của mặt hàng đó trong nước với một lượng bằng mức thuế. Điều này sẽ làm gia tăng sản lượng sản xuất trong nước bởi vì giá cả tăng lên sẽ làm lợi nhuận tăng lên. Mức thuế suất ghi trong biểu thuế nhập khẩu còn gọi là mức bảo hộ danh nghĩa. Tác động của bảo hộ danh nghĩa lên sản lượng sản xuất trong nước còn tùy thuộc vào thuế nhập khẩu đánh vào đầu vào sản xuất của hàng hóa đó. Nếu thuế đầu vào này cao thì nó sẽ làm giảm bớt tác động gia tăng sản lượng của bảo hộ danh nghĩa, và như vậy, mức bảo hộ thực tế đối với hàng hóa đó là thấp hơn so với mức bảo hộ danh nghĩa cho thấy. Hệ số bảo hộ hiệu dụng là hệ số đo lường mức độ bảo hộ thật của quá trình sản xuất, chứ không chỉ có sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất như hệ số bảo hộ danh nghĩa. Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính theo giá trong nước của ngành sản phẩm đó và giá trị gia tăng tính theo giá thế giới rồi chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. Ngành j sử dụng các đầu vào i, kết hợp với các nhân tố sản xuất (vốn, lao động), tạo ra giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của ngành sản phẩm j. Mức bảo hộ hiệu dụng ej làm tăng trị giá gia tăng trong nước, và được định nghĩa là: * * ej = (V j - Vj)/Vj = V j/ Vj - 1 (3) Trong đó: Vj là trị giá gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới (tức là trong trường hợp không có bất cứ loại thuế * nhập khẩu nào đối với i và j), V j là trị giá gia tăng tính theo giá trong nước (tức là mức giá đó bao gồm thuế nhập khẩu). Việc tính giá trị gia tăng tính theo giá trong nước (V*j) và giá thế giới (Vj) của các ngành sản phẩm phải được dựa vào Bảng cân đối liên ngành (I/O). Hiện nay, chúng ta có Bảng I/O của cả nước năm 1996, 2000 2012 (do Tổng cục Thống kê thực hiện) và Bảng I/O của TP.HCM năm 2000, 2007, 2012 (do Viện Kinh tế / Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM và Cục Thống Kê TP.HCM thực hiện). * Vj và V j được tính như sau: n Vj = GTSXj (1 -  aij) (4) i 1 11
  4. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng n V*j = GTSXj {(1+tj) -  [aij(1+ti)]} (5) i 1 Trong đó: GTSXj là giá trị sản xuất của ngành sản phẩm j tính theo giá trong nước; tj là mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của j (thuế quan đầu ra); ti là mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của các đầu vào i (thuế quan đầu vào), và aij là hệ số chi phí trực tiếp của đầu vào i trong sản xuất sản phẩm j. Như vậy: ej = {(1+tj) - [aij(1+ti)]}/ (1 - aij) - 1 ej = (tj - aijti)/(1 - aij) (6) Trong đó: aij là tổng tất cả hệ số chi phí trực tiếp của đầu vào (1, ,n) trong sản xuất sản phẩm j và aijti là trung bình có trọng số của thuế nhập khẩu danh nghĩa của tất cả các đầu vào (1, ,n) với trọng số là hệ số chi phí trực tiếp tương ứng. Công thức 6 cho thấy rằng khi các điều kiện khác không đổi thì: Hệ số bảo hộ hiệu dụng sẽ cao hơn khi mức thuế quan đầu ra tj cao hơn. Hệ số bảo hộ hiệu dụng sẽ cao hơn khi mức thuế quan đầu vào ti thấp hơn. Hệ số bảo hộ hiệu dụng sẽ cao hơn khi hệ số aij cao hơn. Về mặt lý thuyết thì hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể âm, có thể dương và có thể bằng không. Hệ số bảo hộ hiệu dụng thường âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành sản phẩm đó bằng không, trong khi đó đầu vào sản xuất lại phải chịu thuế nhập khẩu. Vì vậy những ngành có mức bảo hộ hiệu dụng âm mà vẫn tồn tại và phát triển được là những ngành có lợi thế cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hệ số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (Domestic Resource Cost - DRC) Có hai phương pháp tính chi phí nguồn lực trong nước. Nội dung của phương pháp thứ nhất tính hệ số chi phí nguồn lực trong nước (Domestic Resource Cost - DRC) của một sản phẩm (hay ngành sản phẩm) là tính chi phí sản xuất theo giá trị của các đầu vào trung gian ở mức giá thế giới và các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội. Ý nghĩa của hệ số DRC là nó phản ánh chi phí thật sự mà xã hội phải trả trong việc sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Thuế quan và các rào cản phi thuế quan làm tăng giá của các đầu vào trung gian, làm cho chí phí sản xuất đối với từng nhà sản xuất riêng rẽ khác với chi phí sản xuất chung mà xã hội phải gánh chịu. Do đó, việc loại bỏ các ảnh hưởng của thuế quan và phi thuế quan là nhằm để ước lượng chi phí thật sự mà xã hội phải trả trong việc sản xuất ra háng hóa đó. Trong các nghiên cứu ứng dụng, việc định lượng các ảnh hưởng của phi thuế quan thường rất khó khăn, nên việc định lượng chỉ dừng lại với các ảnh hưởng thuế quan. Chi phí cơ hội của một nhân tố sản xuất được định nghĩa là thu nhập của nhân tố đó khi tham gia vào một hoạt động sản xuất thay thế khác gần nhất. Chi phí cơ hội của vốn thường bằng lãi suất trên thị trường. Đối với các nước nông nghiệp, đông dân, thường các nhà kinh tế tính chi phí cơ hội cho các công nhân công nghiệp ở những ngành phổ thông, không đòi hỏi chuyên môn cao là bằng thu nhập của lao động trong nông nghiệp, hoặc cao hơn mức thu nhập này một ít. Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC) là tỉ lệ giữa chi phí các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội so với trị giá gia tăng theo giá quốc tế. Nếu hệ số DRC nhỏ hơn 1 thì có nghĩa là cần một lượng nguồn lực trong 12
  5. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng nước nhỏ hơn 1 để tạo ra được 1 đồng trị giá gia tăng theo giá quốc tế. Trong trường hợp đó thì sản phẩm hay ngành sản phẩm trên là có lợi thế cạnh tranh. Ngược lại, nếu hệ số DRC lớn hơn 1 thì có nghĩa là cần một lượng nguồn lực trong nước lớn hơn 1 để tạo ra được 1 đồng trị giá gia tăng theo giá quốc tế, và như vậy là không cò lợi thế cạnh tranh. Công thức tính DRC như sau: DRCj = (DCj)/IVAj (7) Trong đó: DCj là chi phí trong nước cho các nhn tố sản xuất theo chi phí cơ hội để sản xuất ra sản phẩm j, IVAj là trị giá gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới. Hệ số DRC càng cao có nghĩa là càng tốn nhiều các nhân tố sản xuất trong nước để tạo ra 1 đồng trị giá gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. Giả sử thị trường các nhân tố sản xuất là cạnh tranh hòan hảo và không có các hàng hóa phi khả thương, khi đó chi phí các nhân tố sản xuất hiện tại bằng với chi phí cơ hội của chúng, tức là DCj bằng VAj, trong đó VAj là trị giá gia tăng trong nước. Khi đó công thức 7 trở thành: DRCj = (DCj)/IVAj = (VAj)/IVAj Từ công thức 6 tính hệ số bảo hộ hiệu dụng, chúng ta có: ej = (VAj - IVAj)/IVAj = (VAj)/IVAj -1 = DRCj -1 Như vậy: DRCj = ej + 1 (8) Hay: n DRCj = {(1+tj) -  [aij(1+ti)]}/ (1 - aij) (9) i 1 Do đó, nếu tính được hệ số bảo hộ hiệu dụng, ta có thể suy ra hệ số chi phí nguồn lực trong nước tương ứng và ngược lại. Phương pháp thứ hai tính Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (DRC) như sau: Về cơ bản, phương pháp này tính chi phí cơ hội trong việc sản xuất hàng hóa cụ thể ở giá biên giới của cả đầu vào, đặc biệt là đầu vào nhập khẩu và/hoặc khả thương, và đầu ra. Phương pháp này cho thấy cần sử dụng bao nhiêu nguồn lực trong nước, về mặt giá trị, để thu được hay tiết kiệm được một đơn vị ngoại tệ. Một sự so sánh giữa hệ số DRC tính được và một hệ số thích hợp về tỷ giá hối đóai có thể cho chúng ta biết được rằng một quốc gia có được lợi về mặt kinh tế hay không trong việc sản xuất hàng hóa. DRC đo lường tổng chi phí nguồn lực trong nước cần thiết cần có trong một hoạt động để thu được (hay tiết kiệm) một đơn vị ngoại tệ: m FsjVs E j s 1 DRC j (10) U j M j R j Trong đó: DRCj = chi phí nguồn lực trong nước cần có trong hoạt động j; Fsj = số lượng đầu vào thứ s sử dụng trong hoạt động j; Vs = chi phí cơ hội của đầu vào s; Ej = ngoại tác của hoạt động j; Uj = tổng giá trị của hoạt động j tính ở mức giá biên giới và tính bằng ngoại tệ; 13
  6. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Mj = tổng giá trị của tất cả đầu vào nhập khẩu và/hoặc khả thương tính ở mức giá CIF (C: chi phí; I: bảo hiểm; F: vận tải) và tính bằng ngoại tệ; Rj = tổng chi phí cơ hội của tất cả các nhân tố thu được ngoại tệ tính bằng ngoại tệ Tử số của phương trình trên là tổng chi phí nguồn lực trong nước được sử dụng trong hoạt động j tính bằng nội tệ, và mẫu số là tổng ngoại tệ thu được (hay tiết kiệm được) từ cùng hoạt động đó. Vì vậy, thương số là tỷ giá hối đóai ngụ ý tạo ra từ việc thực hiện hoạt động j. Do vậy, nếu giá mờ của tỷ giá hối đóai được ký hiệu là V, thì chúng ta có thể rút ra các kết luận sau: 1. Nếu DRCj = V, thì hoạt động j ở điểm cân bằng; 2. Nếu DRCj V, thì hoạt động j không có lợi thế so sánh. Hệ Số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (DRCC) được định nghĩa bằng DRC chia cho giá mờ (shadow price) của ngoại hối V: DRC DRCC j (11) j V Chúng ta cũng có thể rút ra các kết luận sau: 1. Nếu DRCCj = 1, hoạt động j là cân bằng; 2. Nếu DRCCj 1, hoạt động j không có lợi thế so sánh. Ngòai các phương pháp nêu trên, thường trong phân tích tính cạnh tranh có liên quan đến sự tăng (giảm) của chi phí đầu vào ảnh hưởng đến tăng (giảm) chi phí chung cũng như tác động của nó đến tăng (giảm) sản lượng sản xuất. Hệ số lan toả của các ngành sản phẩm qua Bảng I/O đo lường sản phẩm động lực Các ngành sản phẩm chủ lực đôi khi cũng thể hiện là những ngành sản phẩm động lực. Những ngành sản phẩm động lực là những ngành có hệ số lan tỏa cao lôi kéo hay thúc đẩy các ngành khác phát triển được tính theo bảng I/O qua hệ số liên kết ngược (backward linkages) và liên kết xuôi (forward linkages). Trong nền kinh tế, sự thay đổi cấu trúc của các ngành có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Một số ngành phụ thuộc nhiều vào các ngành khác trong khi đó một số ngành khác chỉ phụ thuộc vào một số ít ngành còn lại. Kết quả là sự thay đổi của một số ngành nào đó sẽ có ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế hơn những ngành khác. Các phân tích I/O thường dựa trên các liên kết ngược (backward linkages) và liên kết xuôi (forward linkages) coi đó là các công cụ đo lường mối liên hệ của một ngành với các ngành khác, với vai trò một ngành sử dụng đầu vào hay một ngành cung cấp đầu vào. Liên kết ngược (Backward linkages) Liên kết ngược dùng để đo mức độ quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Liên kết ngược được xác định bằng tỷ lệ của tổng các phần tử theo cột của ma trận Leontief so mức trung bình của toàn bộ hệ thống sản xuất. Tỷ lệ này gọi là hệ số lan tỏa (Index of the power of dispersion) và được xác định như sau: -1 BLi = ∑ rij (Cộng theo cột của ma trận nghịch đảo Leontief- ( I A ) ) ) Hệ số lan tỏa (liên kết ngược) = n.BLi/ ∑BLi Trong đó: rij là các phần tử của ma trận Leontief n là số ngành trong mô hình Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn, khi ngành đó phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của toàn bộ các ngành cung ứng sản phẩm vật chất và dịch vụ của toàn bộ hệ thống. 14
  7. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Liên kết xuôi (Forward linkages) Liên kết xuôi hàm ý mức độ quan trọng của một ngành như là nguồn cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế. Mối liên kết này được xem như độ nhậy của nền kinh tế và được đo lường bằng tổng các phần tử theo hàng của ma trận nghịch đảo Leontief so với mức trung bình của toàn bộ hệ thống sản xuất. Hệ số liên kết xuôi của một ngành được tính như sau: FLi = ∑ rij (Cộng theo hàng của ma trận nghịch đảo Leontief) Hệ số độ nhậy (liên kết xuôi) = Trong đó: rij là các phần tử của một ma trận Leontief n là số ngành trong mô hình Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa liên kết xuôi của ngành đó càng lớn, càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó đối với các ngành còn lại. Một số quốc gia đã ứng dụng bảng I/O để lựa chọn ngành kinh tế được ưu tiên đầu tư, các ngành này sẽ phát triển trong trung hạn và đóng vai trò ngành kinh tế động lực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy việc tái cấu trúc các ngành kinh tế, bên cạnh xem xét tỷ trọng của các ngành trong GDP; vai trò của ngành đối với lao động, việc làm, an sinh xã hội, đối với vấn đề môi trường .Các nhà hoạch định chính sách kinh tế có thể dựa vào hệ số lan tỏa và độ nhậy kinh tế như một tham khảo quan trọng trong việc chọn ngành kinh tế trọng điểm. Quan điểm của các nhà kinh tế học A.Hirschman và Ramusse cho rằng: “Ngành kinh tế trọng điểm là những ngành kinh tế có khả năng là động lực thúc đẩy đến sự phát triển của các ngành khác và quá trình phát triển bền vững của quốc gia trong những khoảng thời gian xác định”. 3. Một số kết quả tính toán lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm chủ lực của TP.HCM Lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm TP.HCM theo Hệ số Bảo Hộ Hiệu Dụng (Effective Rate of Protection- ERP) và Hệ số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (Domestic Resource Cost - DRC) (trước thời điểm AFTA 2003 và sau 2003) được phản ánh qua các bảng dưới đây. Dữ liệu sử dụng: Để tính ERP (ej) theo công thức 6 ở Mục 2 cần các thông tin về giá trị sản xuất của ngành sản phẩm j tính theo giá trong nước; tj mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của j (thuế quan đầu ra); ti là mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của các đầu vào i (thuế quan đầu vào), và aij là hệ số chi phí trực tiếp của đầu vào i trong sản xuất sản phẩm j. Các sản phẩm mà chúng tôi chọn khảo sát tính toán gồm gạo, mì ăn liền, tôm đông lạnh và dầu thực vật. Năm 2002 với sự tài trợ của Quỹ Châu Á (Mỹ), chúng tôi đã tiến hành khảo sát chi phí đầu vào của các sản phẩm này, từ đó xác định thuế nhập khẩu đầu vào có trung bình trọng số chi phí các đầu vào. Dựa vào số liệu khảo sát sẽ biết được các loại chi phí đầu vào, qua đó tính hệ số chi phí trực tiếp aij. Dựa vào số liệu khảo sát cùng số liệu thống kê sẽ tính được giá trị sản xuất của ngành sản phẩm. Từ khi TP.HCM có bảng I-O năm 2007, 2012 có thể dựa vào bảng I-O để tính hệ số chi phí trực tiếp aij và giá trị sản xuất cho các năm sau này. Kết quả tính toán lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm TP.HCM thông qua Hệ số Bảo Hộ Hiệu Dụng (Effective Rate of Protection- ERP) và Hệ số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (Domestic Resource Cost - DRC) cho các giai đoạn được thể hiện qua các bảng 3.1-3.3. Để tính hệ số lan tỏa các các ngành sản phẩm, nghiên cứu sử dụng các bảng I/O năm 2007 và năm 2012 của TP.HCM. Kết quả tính toán: Kết quả tính toán bảng 3.1. cho thấy, các hệ số ERP và DRC tính được đều quá cao (đồng nghĩa với sản phẩm nghiên cứu không có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh). Nguyên nhân là do các sản phẩm này trước năm 2003 được bảo hộ quá mức cần thiết (biểu hiện qua các mức thuế nhập khẩu danh nghĩa đều rất cao, từ 35% đến 50% (chỉ trừ gạo 10%). Bảng 3.1: ERP và DRC của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm trước năm 2003 15
  8. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Sản phẩm ERP=(tj - aijti)/( DRC= ERP + Thuế NK đầu Thuế nhập khẩu Kết luận 1 - aij) 1 vào ti đầu ra tj 1. Gạo 0,100 1,100 10,0% 10,0% Không LTCT 2. Mì ăn liền 1,744 2,744 19,5% 50,0% Không LTCT 3. Tôm đông 2,969 3,969 13,6% 41,7% Không lạnh LTCT 4. Dầu thực vật 3,772 4,772 11,4% 35,0% Không LTCT Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra năm 2002 và bảng thuế suất thuế nhập khẩu Việt Nam đã gia nhập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) và thực hiện Hiệp định Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực chung (CEPT) vào năm 2003, khi đó thuế nhập khẩu của các sản phẩm trên đều phải hạ xuống đến mức từ 0 - 5%. Kết quả tính ERP và DRC khi thuế suất nhập khẩu thay đổi theo CEPT được thể hiện trong bảng 3.2. Theo đó khi thuế suất nhập khẩu giảm xuống dưới 5% thì các sản phẩm nghiên cứu đều có lợi thế so sánh. Bảng 3.2: ERP và DRC của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm sau năm 2003 (Theo CEPT thì ERP=0, DRC=1) Sản phẩm ERP=(tj - aijti)/( DRC= ERP + Thuế NK đầu Thuế nhập khẩu Kết luận 1 - aij) 1 vào ti đầu ra tj 1. Gạo 0,000 1,000 5,0% 4,4% Có LTCT 2. Mì ăn liền 0,000 1,000 4,1% 3,3% Có LTCT 3. Tôm đông lạnh 0,000 1,000 2,6% 2,3% Có LTCT 4. Dầu thực vật 0,000 1,000 4,6% 4,3% Có LTCT Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra năm 2002 và bảng thuế suất thuế nhập khẩu thay đổi sau năm 2003 Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất 2/4 mặt hàng nhập khẩu đầu ra giảm bằng không, thuế suất của 2/4 mặt hàng nhập khẩu đầu ra bằng 5% dù thuế suất nhập khẩu đầu vào không giảm so với CEPT, vì vậy kết quả tính ERP và DRC trong bảng 3.3 cũng khác so với kết quả bảng 3.2 Bảng 3.3: ERP và DRC của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm sau khi gia nhập WTO khi thuế đầu vào bình quân trọng số từ 0 đến 5% và thuế đầu ra bằng 0 hoặc 5% Sản phẩm ERP=(tj - aijti)/( DRC= ERP Thuế NK đầu Thuế nhập khẩu Kết luận 1 - aij) + 1 vào ti đầu ra tj 1. Gạo -0,392 0,608 5,0% 0% Có LTCT 2. Mì ăn liền 0,087 1,087 4,1% 5% Kg LTCT 3. Tôm đông lạnh -0,233 0,767 2,6% 0% Có LTCT 4. Dầu thực vật 0,112 1,112 4,6% 5% Kg LTCT Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra, bảng I-O 2007 và bảng thuế suất thuế nhập khẩu năm 2007 Bảng 3.3 cho thấy, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải gỡ bỏ hàng rào bảo hộ, giảm thuế nhập khẩu đối hàng hóa nhập khẩu theo lộ trình, hai mặt hàng ít bảo hộ là gạo và tôm đông lạnh có lợi thế cạnh tranh cao 16
  9. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng (DRC<1). Đối với mì ăn liền và đầu thực vật, do phần nguyên vật liệu chính của hai sản phẩm này chủ yếu phải nhập khẩu, và mức thuế nhập khẩu đầu ra còn cao (5%) nên lợi thế cạnh tranh không cao. Hệ số lan tỏa. Sử dụng bảng I/O 2007 đại diện cho cấu trúc kinh tế của TP.HCM trong giai đoan 2006 – 2010 và bảng I/O 2012 đai diện cho giai đoạn 2011 – 2015 để tính hệ số lan tỏa cho các ngành, nhóm ngành sản phẩm tại TP.HCM. Kết quả cho thất, một số ngành có sự thay đổi khá nhiều về mức độ lan tỏa (hệ số liên kết ngược BL). Biểu đồ 1 mô tả xếp hạng các ngành sản phẩm của TP.HCM theo hệ số lan tỏa (BL) từ Bảng I-O năm 2007 và Bảng I-O năm 2012. Theo biểu đồ 1, những ngành có hệ số lan tỏa cao cho cả hai giai đoạn là những ngành xuất khẩu cao của TP.HCM, và cũng có lợi thế cạnh tranh cao khi đã vượt qua các giai đoạn tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường. Theo nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ IX nhiệm kỳ 2010-2015, có bốn nhóm ngành sản phẩm mà TP.HCM xây dựng thành bốn nhành trọng yếu chủ lực là (1) Công nghệ thông tin, điện tử; (2) Hóa chất và sản phẩm từ hóa chất, nhựa, cao su; (3) Chế biến lương thực, thực phẩm; (4) Cơ khí chế tạo. Trong đó ba nhóm sản phẩm đầu đều có tỷ trọng xuất khẩu cao (chiếm từ 15%-19% tổng kim ngạch xuất khẩu của TP.HCM), đồng thời có hệ số lan tỏa cao nhất trong các ngành kinh tế của TP. HCM. Tách riêng từng sản phẩm, trong giai đoạn tự do hóa thương mại, thuế nhập khẩu giảm và bằng không nhiều sản phẩm trong bốn nhóm ngành trọng yếu nêu trên cũng có hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC <1). Ngoài ra, một số ngành công nghiệp truyền thống tuy không phải là trọng yếu nhưng lại có tỷ trọng xuất khẩu cao và hệ số lan tỏa cao bao gồm dệt may, giày gia, chế biến đồ gỗ, giấy (tỷ trọng xuất khẩu chiếm từ 17% đến 25% già trị xuất khẩu cùng ngành của cả nước). Lý do TP.HCM không xếp các nhóm ngành này vào công nghiệp trọng yếu, chủ lực là vì, các ngành này là những ngành thâm dụng lao động, gây ô nhiễm môi trường cao, trong khi TP.HCM có định hướng xây dựng thành trung tâm dịch vụ, và phát triển các ngành công nghệ cao, ít gây ô nhiễm môi trường. Biểu đồ 1 : Xếp hạng các ngành của TP.HCM theo hệ số lan tỏa tính toán từ Bảng I-O năm 2007 và Bảng I-O năm 2012 Tài chính-Tín dụng 0.547 Quản lý Nhà nước, ANQP 0.598 SX phân phối điện, nước 0.603 Giáo dục-đào tạo 0.609 Kinh doanh bất động sản,tv 0.659 Thương nghiệp 0.717 Công nghiệp khai thác 0.85 Hoạt động khoa học 0.86 Vận tải, kho bãi 0.916 Các ngành dịch vụ khác 0.932 Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 1.036 Các ngành công nghiệp khác 1.037 Năm 2012 Khách sạn, nhà hàng 1.079 Năm 2007 Giày da 1.101 SX giường, tủ, bàn ghế, SP từ gỗ 1.107 Sx sp từ chất khoáng phi kim loại 1.155 Dệt may 1.161 Xây dựng 1.166 Cơ khí chế tạo 1.217 In 1.27 Chế biến lương thực, thực phẩm 1.323 Giấy 1.324 Hóa chất-Cao su-Nhựa 1.34 Điện tử-công nghệ thông tin 1.393 0 0.2 0.4 0.6 0.8 1 1.2 1.4 1.6 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ bảng I/O 2007 và bảng I/O 2012 17
  10. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 4. Kết luận và hàm ý chính sách Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tác động của tự do hóa thương mại đã làm tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp chế biến tại TP.HCM. Tuy nhiên lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm trọng yếu của TP.HCM thấp như sản phẩm cơ khí (tỷ trọng xuất khẩu thấp); Các ngành công nghiệp trọng yếu của TP.HCM đều có hệ số lan tỏa lớn hơn 1- thể hiện tính chất đúng của ngành là thúc đẩy các ngành khác phát triển, tuy nhiên hệ số lan tỏa bình quân của năm 2012 thấp hơn năm 2007 .Hệ số lan tỏa của một số ngành sản phẩm giảm trọng yếu giảm sau 5 năm như điện tử, công nghệ thông tin, hóa chất, cao su nhựa. Dù có hệ số lan tỏa không đo lường đóng góp trực tiếp của các ngành vào tăng trưởng kinh tế, nhưng các ngành kinh tế có hệ số lan tỏa cao sẽ có đóng góp gián tiếp vào tăng trưởng các ngành kinh tế khác và tăng trưởng kinh tế chung do thúc đẩy và lôi kéo các ngành khác phát triển. Dù các ngành sản phẩm của TP.HCM có lợi thế cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập, tự do hóa thương mại, nhưng tỷ trọng xuất khẩu một ngành công nghiệp truyền thống đang giảm dần do nhiều doanh nghiệp dệt may, giày da, giấy gỗ đang chuyển ra các tỉnh khác do TP.HCM đang cấu trúc lại các ngành công nghiệp chế biến, loại dần những ngành sản phẩm gây ô nhiễm đối với thành phố đông dân nhất cả nước. Mặt khác, bốn ngành sản phẩm trọng yếu đều có chi phí trung gian cao và gia tăng theo thời gian. Để cạnh tranh được hệ số chi phí trung gian phải giảm. Nguyên nhân chi phí trung gian cao là do nhiều ngành hàng phải nhập khẩu đầu vào với chi phí hàng nhập khẩu cao. Muốn giảm chi phí, các doanh nghiệp phải sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước đảm bảo chất lượng cao chi phí thấp. TP.HCM cần thúc đẩy các chương trình đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để hạn chế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu theo hướng nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm chi phí nhập khẩu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Michael E. Porter, On Competition, Harvard Business Review,1984; [2] Michael E. Porter Competitive Advandage, New York Press,1985 [3] Michael Porter “The Competitive Advantage of Nations”, The MacMillan Press Ltd., London and Basingstoke (1990) [4] Cockburn, J. et al. (1998) , ‘Measuring Competitiveness And Its Sources: The Case Of Mali’s Manufacturing Sector’, African Economic Policy Paper Discussion Paper No.16 [5] Farrel, M.J. (1957), "The Measurement of Productive Efficiency," Journal of Royal Statistical Society, Series A (General), Vol. 120, 253-281. [6] Institute of Economics (2001) ‘Trade liberalization and competitiveness in Vietnam’, Vol. 1-5. Hanoi: Vietnam [7] Institute for Economic Research-HCMC (2002), “Input costs and competitiveness of some foodstuff processing products in HCM city ”, Statistical Publishing House, 2002 [8] Institute for Development Studies of HCMC (2015 ), I/O Tables in 2007 and 2012 [9] World Economic Forum “Global Competitiveness Report 2002”, New York, Oxford University Press, 2003 18