Giá trị văn hóa của người cơ tu tỉnh Quảng Nam qua nghi lễ vòng đời người
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị văn hóa của người cơ tu tỉnh Quảng Nam qua nghi lễ vòng đời người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- gia_tri_van_hoa_cua_nguoi_co_tu_tinh_quang_nam_qua_nghi_le_v.pdf
Nội dung text: Giá trị văn hóa của người cơ tu tỉnh Quảng Nam qua nghi lễ vòng đời người
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI CƠ TU TỈNH QUẢNG NAM QUA NGHI LỄ VÒNG ĐỜI NGƯỜI Nguyễn V ă n Dũng1 CULTURAL VALUES OF THE CO TU PEOPLE IN QUANG NAM PROVINCE THROUGH THE HUMAN CYCLE RITUAL Nguyen V a n Dung1 T ó m tắt – Nghi lễ v ò n g đời người là những K e y w o r d s : ritual, life cycle ritual, cultural nghi lễ liên quan đến cá nhân từ khi sinh r a đến v a l u e , Co T u people. khi c h ế t . X é t dưới g ó c độ thuần túy xã hội - nhân v ă n , các lễ nghi liên quan đến nghi lễ v ò n g đời I. ĐẶT VẤN ĐỀ người giúp nhận diện nhân sinh quan, thế giới Giá trị v ă n hóa là y ế u tố được sáng tạo v à k ế t quan v à phản ánh cách đối nhân xử thế của tộc tinh trong qu á trình lịch sử của mỗi cộng đồng người Cơ T u . T r o n g nghiên cứu này, tác giả v ậ n dân tộc. Đó là những thành tựu của một cá nhân dụng phương pháp điền dã dân tộc học, phương hay một dân tộc đã đạt được trong mối qu a n hệ pháp tiếp cận địa - v ă n hóa, phương pháp liên v ớ i môi trường tự nhiên - xã hội. Giá trị v ă n hóa ngành nhằm làm r õ các khía cạnh: những nghi hướng đến sự thỏa mãn nhu cầu v à khát v ọ n g lễ c h í n h , giá trị nhân sinh, giá trị nghệ thuật, giá của cộng đồng v ề những điều tốt đẹp, từ đó bồi trị đạo đức liên quan đến nghi lễ v ò n g đời của đắp v à nâng cao bản c h ấ t người. T ì m hiểu giá người Cơ T u tỉnh Quảng N a m . trị v ă n hóa thông qu a nghi lễ v ò n g đời của tộc T ừ khóa: nghi lễ, nghi lễ v ò n g đời người, người Cơ T u , một mặt giúp c h ú n g ta thấy được giá trị v ă n hóa, người Cơ T u . đặc trưng v ă n hóa trong đời sống của tộc người này, mặt khác g ó p phần khẳng định sự phong A b s t r a c t – Life cycle rituals are r e l a t e d to phú, đa dạng trong bức tranh nhiều màu sắc v ề individual from birth to death. U n d e r completely v ă n hóa tộc người thiểu số ở V i ệ t N a m hiện nay. human social view, the life cycle rituals help Cơ T u là tộc người thiểu số có ngôn ngữ thuộc identify human life opinion and w o r l d point of nhóm Môn – Khmer (ngữ hệ N a m Á), c h ữ viết view. They also r e f l e c t the w a y of Co T u people’s được trình bày trên cơ sở dùng c h ữ Latin để phiên behaviour. In this st u d y, the author uses e t h n o - âm. Theo số liệu điều tra của T ổ n g cục Thống g r a p h i c approach, geocultural approach and in- k ê năm 2009, tộc người Cơ T u có số dân 61.588 terdisciplinary method in order to st u d y aspects: người, c h i ế m 0,1% dân số toàn qu ố c . T ạ i tỉnh Main rituals, human, artistic and moral v a l u e s Quảng N a m , người Cơ T u c h i ế m 45.715 người, r e l a t e d to the life cycle rituals of Co T u people đứng hàng thứ hai v ề dân số sau người V i ệ t , có in Quang N a m province. v a i trò rất qu a n trọng trong phát triển vùng c h i ế n 1 lược phía T â y của tỉnh [1]. T r o n g đời sống tinh Phân hiệu T r ư ờ n g Đại học N ộ i vụ Hà N ộ i tại tỉnh thần, tộc người này còn bảo lưu rất nhiều lễ hội, Quảng N a m Ngày nhận bài: 6/3/2018; Ngày nhận k ế t quả bình duyệt: lễ nghi mang đậm dấu ấn của cư dân nông nghiệp 01/7/2018; Ngày ch ấ p nhận đăng: 19/7/2018 trồng lúa nước. T r o n g đó, nghi lễ v ò n g đời người Email: nguyenvandungpct@gmail.com 1 được x e m là một môi trường khá bền vững trong Campus of HaNoi U n i v e r s i t y of Home Affairs in việc bảo lưu v ố n v ă n hóa truyền thống. Bởi c h í n h Quang N a m R e c e i v e d date: 6th March 2018; R e v i s e d date: 01st July những nghi lễ ấ y c h ứ a đựng mọi y ế u tố của bản 2018; A c c e p t e d date: 19th July 2018 sắc v ă n hóa: từ không gian (chiều rộng) đến thời 20
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT gian (chiều dài) của văn hóa; từ văn hóa cá nhân Nguyên nói chung và người Cơ Tu nói riêng. Mặc đến văn hóa cộng đồng. Chính vì vậy, nghi lễ dù còn hạn chế, nhưng không thể phủ nhận đây vòng đời người là một môi trường tốt nhất để là những nguồn tài liệu xuất hiện sớm, có những bảo tồn bản sắc văn hóa của mỗi tộc người. đóng góp nhất định cho buổi đầu phát triển ngành Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn làm Dân tộc học ở Việt Nam thông qua nghiên cứu rõ một số vấn đề về giá trị văn hóa liên quan đến của các học giả nước ngoài. nghi lễ vòng đời của tộc người Cơ Tu tỉnh Quảng Nam gồm hệ thống nghi lễ vòng đời người, giá B. Các học giả trong nước trị nhân sinh, giá trị nghệ thuật, giá trị đạo đức. Hiện nay, ở Việt Nam, không ít tác giả đã II. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU đi sâu nghiên cứu giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số. Trong đó, tộc người Cơ Tu cũng A. Các học giả nước ngoài đã được nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận, khai thác Giá trị văn hóa của người Cơ Tu luôn là đối trên nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, những tượng được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài công trình nghiên cứu đề cập tới nghi lễ vòng đời nước chú ý, quan tâm. Một trong số các học giả của tộc người Cơ Tu là rất khiêm tốn, nếu có đề phương Tây nghiên cứu về lịch sử phát triển, điều cập thì chỉ dừng lại ở khía cạnh “miêu thuật”, kiện tự nhiên, phong tục tập quán các dân tộc khái quát chung chứ chưa đi sâu khai thác giá trị vùng Đông Nam Á, đặc biệt người Cơ Tu ở Nam văn hóa của người Cơ Tu thông qua nghi lễ vòng Lào là tác giả Nancy A. Costell. Các công trình đời người. nghiên cứu [2]–[4] đã đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu Trong những công trình nghiên cứu về giá trị về ngôn ngữ, tập tục, truyền thống văn hóa, nghệ văn hóa của người Cơ Tu tại tỉnh Quảng Nam thuật dân gian của người Cơ Tu. Là một nhà ngôn nói riêng và người Cơ Tu sinh sống ở dọc vùng ngữ học nên trong các tác phẩm của mình, ông Trường Sơn nói chung (ở các tỉnh thành như: chủ yếu đề cập tới các vấn đề về truyện cổ dân Huế, Đà Nẵng), các tác giả tập trung khai thác gian, tập tục tang ma, ghi lại lời kể của người những nét cơ bản về văn hóa của người Cơ Tu ở Cơ Tu về cuộc sống, lễ nghi nông nghiệp và chỉ từng khía cạnh khác nhau như: nguồn gốc xuất dành vài dòng viết về trang phục miền núi các xứ của người Cơ Tu, kinh tế - xã hội, kiến trúc, dân tộc ở Trường Sơn. nghề dệt, luật tục, hôn nhân, tang ma. Về khía Trong những năm 30 của thế kỉ XX, tác phẩm cạnh này, tiêu biểu có các bài viết, công trình sách gây được tiếng vang lớn đối với các học giả nước của Tạ Đức [1], Lưu Hùng [6], Nguyễn Thượng ngoài quan tâm về các dân tộc ở miền Trung Việt Hỷ [7], Bh’riu Liếc [8], Nguyễn Hữu Thông [9], Nam là “Les chasseurs de Sang” (Những kẻ săn Trần Tấn Vịnh [10] - [11], máu) của Le Pichon (1938). Với cách viết theo Từ những năm 70 của thế kỉ XX, các nhà khoa lối văn kí sự, Le Pichon đã đưa công trình này trở học đã quan tâm nhiều tới việc nghiên cứu văn thành một trong những công trình sơ khảo dân hóa, tín ngưỡng, phong tục, tập quán và đời sống tộc học Việt Nam ấn tượng ở thời điểm đó. Sách vật chất nói chung của tộc người Cơ Tu. Ở nhóm được trình bày theo nhóm các vấn đề sau: làng, dòng họ, hôn nhân, gia đình, khá nhiều công nhà và nghệ thuật Katu, những bài hát Katu, cái trình đã được công bố của các tác giả Phạm Thị chết - sự thờ cúng người chết, những cuộc săn Xuân Bốn [12], Phan Hữu Dật [13], Lưu Hùng máu, các tập tục mê tín, lễ hội, vũ điệu Katu [5]. [6], Phạm Quang Hoan [14], Nguyễn Xuân Hồng Nguồn tư liệu trong thời kì này của các học giả [15], Nguyễn Hữu Thấu [16] Trong đó, các nước ngoài (chủ yếu là Pháp) đều nhằm mục đích nghiên cứu [13], [14], [16] là những khảo cứu phục vụ cho chính quyền thực dân và công cuộc chuyên sâu về hôn nhân và gia đình các dân tộc khai thác thuộc địa. Những tập du khảo, trang bút Bắc Trường Sơn nói chung và ở người Cơ Tu nói kí, báo cáo khoa học được công bố phần nhiều riêng. Các tác giả đã giới thiệu và phân tích một nặng về miêu thuật những hiện tượng rời rạc, ít cách hệ thống đặc điểm hình thái hôn nhân và nhiều cho thấy cách nhìn và chủ trương của họ gia đình của tộc người, các tàn tích liên minh đối với tộc người thiểu số ở miền Trung – Tây hôn nhân ba thị tộc, khái niệm dòng họ, các đặc 21
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT tính cơ bản của dòng họ - đơn vị có vai trò rất thần (Spirituels) như một định nghĩa tối thiểu về quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình tôn giáo” [21, tr.508]. Trong cuốn Nghi lễ của của người Cơ Tu. sự chuyển tiếp [22], Gennep chia đời người làm Ngoài ra, chúng ta còn có một số nghiên cứu ba giai đoạn quan trọng: sinh, trưởng thành và riêng lẻ về ăn uống, nhà cửa, trang phục, nghề tử. Trong mỗi giai đoạn lớn, Gennep lại chia ra thủ công, tín ngưỡng, lễ hội, ngôn ngữ, văn học làm ba giai đoạn nhỏ. Giai đoạn sinh gồm: chửa, và tranh ảnh về tộc người Cơ Tu dưới dạng sách, đẻ và tuổi sơ sinh, tuổi thiếu niên. Giai đoạn luận án, báo, bài viết của các tác giả Đinh Hồng trưởng thành gồm: tuổi thiếu niên, lễ thành đinh Hải [17], Trần Đức Sáng [18], Lê Anh Tuấn [19], và hôn nhân, tuổi con người cộng đồng. Giai đoạn Trần Tấn Vịnh [20] Bằng phương pháp tiếp cận tử gồm: lên lão, sự chết đi đối với tang ma và và mục đích nghiên cứu khác nhau, các tác giả cuộc sống ở thế giới bên kia [22]. Theo Ngô Đức đã giới thiệu khái quát văn hóa người Cơ Tu ở Thịnh, nghi lễ vòng đời người là “những nghi lễ Việt Nam trên các phương diện đời sống văn hóa liên quan đến cá nhân, từ khi sinh ra đến khi xã hội tộc người. chết” [23, tr.23]. Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu Tóm lại, nghi lễ vòng đời người là những nghi trên đã giới thiệu khái quát về văn hoá của người lễ thuộc về mỗi cá nhân từ khi sinh ra cho đến Cơ Tu ở một số phương diện: văn hoá vật thể và khi chết, nhưng nó được gia đình, dòng họ, cộng văn hoá phi vật thể bằng các phương pháp tiếp đồng thực hiện. Do vậy, nghi lễ vòng đời không cận và mục đích nghiên cứu khác nhau. Trên cơ chỉ liên quan đến một con người, mà liên quan sở kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên đến cả cộng đồng. Nó là sự thừa nhận của cộng cứu đi trước cùng với kết quả điền dã trong năm đồng với mỗi cá nhân trong từng giai đoạn quan 2016 tại ba huyện của tỉnh Quảng Nam (huyện trọng của cuộc đời. Thông qua nghi lễ vòng đời, Tây Giang, Đông Giang, Nam Giang), tác giả tập con người cá nhân hòa nhập với gia đình, dòng trung đi sâu tìm hiểu, khai thác các giá trị văn họ và cộng đồng. hóa của tộc người Cơ Tu tại tỉnh Quảng Nam liên quan đến nghi lễ vòng đời người. B. Lễ nghi đặt tên con Với người Cơ Tu, họ xem lễ đặt tên con như III. NHỮNG NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA một thành tố văn hóa, tôn giáo đặc biệt quan NGƯỜI CƠ TU TỈNH QUẢNG NAM trọng và có ý nghĩa sâu sắc. Lễ đặt tên khi đứa trẻ được sinh ra sau một tuần. Khi đặt tên con, A. Khái niệm nghi lễ vòng đời người Cơ Tu thường lấy họ cha, không đặt tên Nghi lễ vòng đời người xuất hiện cùng với xã trùng với người già trong dòng họ hoặc những hội loài người. Trải qua thời gian, những nghi người đã chết. Theo họ, nếu làm vậy sẽ xúc phạm lễ ấy một mặt được duy trì, một mặt được phát đối với tổ tiên và điều này sẽ là nguyên nhân đưa triển, hoàn thiện và xuất hiện những nghi lễ mới. những hồn ma về làm hại đứa trẻ. Tất cả các dân tộc trên thế giới nói chung và các Lễ vật trong lễ đặt tên con của người Cơ Tu tộc người thiểu số ở Việt Nam nói riêng, tùy vào là gà và xôi. Nghi lễ được thực hiện với ý nghĩa mức độ, biểu hiện lễ thức khác nhau, đều có các thông báo với Yang (thần linh) về sự có mặt của nghi lễ cuộc đời con người. Mặt khác, nghi lễ đứa trẻ và cầu mong Yang phù hộ để đứa trẻ vòng đời góp phần tạo ra các chuẩn mực xã hội, chóng lớn, khỏe mạnh, đồng thời tạ ơn Yang đã phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và đóng cho đứa trẻ hình hài lành lặn. Khi làm lễ đặt tên, góp lớn vào việc khẳng định bản sắc văn hóa người Cơ Tu làm một con gà, dùng máu chấm lên tộc người. trán đứa trẻ với ý nghĩa chúc phúc và đánh dấu sự Tylor, trong công trình nghiên cứu Văn hóa hiện hữu một thành viên mới của gia đình, cộng nguyên thủy [21] đã dành một chương lớn viết đồng Vêêl (làng), tạ ơn thần linh đã chấp nhận về nghi lễ và lễ nghi do con người sáng tạo ra. cho họ, một sự bổ sung vào cộng đồng một mầm Theo ông, nghi lễ là “Phương tiện giao tiếp với sống. Lễ đặt tên con của người Cơ Tu thường có những thực thể linh hồn” [21, tr.946] và “Tốt sự góp mặt đông đủ người thân trong gia đình, nhất có lẽ nên đặt niềm tin vào các thực thể tinh dòng họ. 22
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Trước đây, phụ nữ Cơ Tu khi mang thai và sinh yếu. Ngày nay, mỗi gia đình người Cơ Tu đều có nở phải kiêng cử ăn nhiều thứ. Khi sinh, người những thay đổi nhất định trong quan niệm về cái phụ nữ phải ở một mình trong cái chòi riêng để đẹp. Đối với những gia đình truyền thống, họ vẫn tránh sự phóng uế, sợ thần linh trừng phạt. Sinh còn duy trì quan niệm thẩm mĩ này. Tuy nhiên, xong ba ngày hoặc một tuần, sản phụ có thể đi những gia đình người Cơ Tu có con kết hôn với làm. Ngày nay, khi điều kiện y tế phát triển, người người Việt đã dần thay đổi phong tục này. Sự mẹ khi mang thai được trang bị đầy đủ kiến thức trưởng thành của con cái không nhất thiết phải về ăn uống và chăm sóc thai nhi. Đến ngày sinh trải qua lễ cưa răng và lễ căng tai nữa. nở, người mẹ được đưa tới trạm xá hoặc trung tâm y tế của huyện. Sau sinh, bà mẹ được nghỉ D. Lễ nghi cưới xin ngơi để giữ gìn sức khỏe và chăm sóc con nhỏ được tốt nhất. Do vậy, tình trạng người mẹ sinh Trong phong tục, tập quán của người Việt non, chết thai hay sản phụ tử vong đã hạn chế Nam, việc dựng vợ gả chồng cho con cái được rất nhiều. xem là cột mốc hệ trọng đánh dấu sự trưởng thành của đôi thanh niên nam nữ, khẳng định xã hội đã thừa nhận tình yêu của họ. Trước kia, lễ cưới được C. Lễ trưởng thành xem là một trong bốn lễ quan trọng (quan, hôn, Để đánh dấu sự trưởng thành của một cá nhân tang, tế). Ngày nay, hôn nhân của người Cơ Tu dù trong làng (Vêêl), người Cơ Tu phải trải qua lễ có đăng kí kết hôn với chính quyền địa phương cưa răng và lễ căng tai. Nếu ai chưa trải qua nghi nơi cư trú nhưng vẫn thông qua các nghi lễ, nghi thức này, dù lớn tuổi vẫn bị xem là người chưa thức truyền thống. Với người Cơ Tu, hôn nhân trưởng thành. Đây là hai lễ nghi quan trọng được chính là kết quả sau thời kì tự do tìm hiểu, lúc người Cơ Tu gìn giữ và duy trì cho đến tận ngày chàng trai và cô gái đã trải qua các nghi lễ trưởng hôm nay. thành và được cộng đồng thừa nhận. Các nghi lễ, Lễ cưa răng thường được tiến hành vào lúc nghi thức trong hôn nhân chứa đựng nhiều quan nông nhàn. Theo tập tục của người Cơ Tu, số niệm, tập quán, thể hiện sự tinh tế và độc đáo lượng cưa răng phải cân đối giữa hai hàm trên và của dân tộc ít người này. dưới (trên sáu, dưới sáu). Khi công việc cưa răng * Lễ ăn hỏi (heo hỏi) kết thúc, ba người chủ trì dùng lá đót (Ateeng) Khác với phong tục của người Việt, sau khi nhét đầy vào ống tre đựng máu, đặt lên một tảng được người làm mối (Đhờ rưng) của hai bên gia đá gần đó, nếu ống tre bị ngã trong khi đặt thì đình gặp gỡ và bàn bạc, người Cơ Tu sẽ tiến hành người bị cưa răng sẽ gặp điều chẳng lành. Đó lễ ăn hỏi (heo hỏi). Heo hỏi là nghi lễ mở đầu là sự báo hiệu của các thế lực hung ác đang đe cho một giai đoạn quan hệ mới của đôi trai gái dọa các đối tượng bị cưa răng. Do vậy, người này cũng như giữa hai gia đình, dòng họ, đánh dấu phải thực hiện việc cúng tế ngay sau đó. Gươl là sự gặp gỡ chính thức của hai bên. Nếu nhà gái nơi mà các thanh niên sau khi cưa răng được đưa nhận lễ vật tức là đồng ý. Về mặt phong tục hay về ở. Họ phải ở đó ba đêm và được người thân luật tục, đôi trai gái được thừa nhận là vợ chồng chăm sóc. nhưng vẫn chưa được phép quan hệ chăn gối với Ngoài lễ cưa răng, sự trưởng thành của một nhau. thành viên trong Vêêl còn được đánh dấu bằng Ngoài ra, nếu người Cơ Tu có trường hợp hôn lễ căng tai (caxic cơr tơr). Lễ căng tai được thực nhân con cô con cậu thì gia đình nhà trai phải hiện cho cả nam và nữ. Đây là hình thức thẩm làm một lễ cho nhà gái gọi là Píc Plô với ý nghĩa mĩ, làm duyên, làm đẹp cho cơ thể trong độ tuổi nhà trai đã đưa hết phần của cải mà gia đình mình trưởng thành và tìm hiểu bạn đời. Nghi lễ này hứa trong cuộc hôn nhân trước. Khi đó, dân làng còn thể hiện sự giàu có của một số cá nhân, gia mở hội liên hoan, tổ chức ăn uống linh đình, làm đình, dòng tộc. Các đồ vật thường dùng xâu vào kiệu rước người bố vợ. Sự tồn tại của hôn nhân tai là hạt cây Tà vạt, Tà dil. Thông thường sau con cô, con cậu hai chiều đòi hỏi những đứa con những nghi thức này, người Cơ Tu làm lễ ăn mừng trai của anh em trai từ thế hệ này sang thế hệ với quy mô nhỏ mang tính chất gia đình là chủ khác phải cưới các con gái của chị em gái làm 23
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT vợ, còn những người con gái của anh em trai, từ tộc người khác (Kinh, Xơ Đăng, Gié Triêng ) thế hệ trước qua thế hệ sau, phải lấy con trai của thì tùy vào tục lệ bên nhà gái mà quyết định. chị em gái làm chồng. Kiểu kết hôn này phù hợp Như vậy, lễ cưới xin của người Cơ Tu phần với tổ chức lưỡng hợp hai thị tộc. nào thể hiện tính nhân văn trong đời sống tinh * Lễ cưới (Pooi) thần của họ. Qua đó, lễ cưới cho thấy những vấn Lễ cưới (Pooi) được tiến hành sau lễ ăn hỏi đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm như liên (heo hỏi) một thời gian. Theo những gì đã hứa minh hôn nhân ba thị tộc và những thiết chế xung hẹn lần trước, nhà trai phải chuẩn bị một số quanh nó, về những vết tích hôn nhân gia đình thực phẩm để mang đến nhà gái rồi ở lại. Thông của thời kì mẫu hệ, góp phần xóa bỏ những phong thường nhà trai ở lại nhà gái hai đêm. Điều quan tục tập quán không còn phù hợp. trọng là của cải nhà trai mang tới phải là những con vật bốn chân (trâu, lợn, dê). Vì theo quan E. Lễ nghi về tang ma niệm của người Cơ Tu, đó là những con vật đàn ông đảm nhiệm, đi săn bắn hoặc lấy từ vùng khác Người Việt thường quan niệm, chết là về với về. Đây cũng là công việc nặng nhọc và vất vả thế giới bên kia, một thế giới hao hao như thế nên họ chứng minh tài năng của mình đối với giới bên này (thế giới của người sống). Do đó, nhà gái, còn những con vật hai chân (gà, vịt) là người Việt có câu "Trần sao Âm vậy". Người Cơ công việc nhẹ nhàng đối với nữ giới. Tu thì cho rằng: mỗi con người có phần xác và Sau lễ hiến tế, nhà trai phải tặng nhà gái vũ khí phần hồn. Từ quan niệm hồn xấu của người chết đã giết con vật đó (mác, lao, dao) và những vật là lực lượng gây ra chết chóc nên họ có cái nhìn dụng đựng máu của nó. Khi nhà gái tới, nhà trai bi quan, yếm thế về cuộc sống. phải đặt một chậu đựng nước ở cửa ra vào để cho Việc tiễn đưa người chết về nơi an nghỉ là nhà gái rửa tay, chân. Nhà trai không được mang giai đoạn cuối cùng của vòng đời người. Đối với rượu đến nhà gái. Sau khi thực hiện đủ các quy người Cơ Tu, đó như là việc đón tiếp một thành định, cũng là lúc trên phương diện xã hội, đôi viên mới chào đời, là một vòng tròn xoay chuyển nam nữ này được gọi là vợ chồng, người con gái từ bao đời nay. Họ quan niệm, sống sao chết vậy, có thể về nhà trai, nếu khác làng thì sau một thời chết không có nghĩa là hết, mà sống ở thế giới gian, mẹ cô gái sẽ dắt cô con gái tới nhà trai. khác. Điều này được phản ánh trong các nghi thức Điều đặc biệt là trước khi trở thành vợ chồng, tang ma và những quy định cấm cữ, sự phân biệt người Cơ Tu thường làm một lễ nhỏ nhưng đầy ý đối với cái chết bình thường (cheen liêm) và chết nghĩa, đó là lễ Pa zum (lễ ăn chung, làm chung, xấu (cheen mop). ngủ chung). Sáu ngày sau lễ Pa zum, người con * Đối với cái chết bình thường gái về nhà mẹ đẻ mang theo một cái rựa hoặc rìu Những cái chết mà người Cơ Tu cho là cái để thực hiện nghi thức Zibu (nghi thức này chủ chết bình thường như chết vì tuổi già, ốm đau, yếu diễn ra ở các xã của huyện Tây Giang). bệnh tật. Hay nói cách khác, đó là những cái Khi cuộc sống có nhiều thay đổi (kinh tế mới, chết không đau đớn, không có máu, chết trong di dân, sống xen cư ), người Cơ Tu có điều kiện sự chứng kiến của dân làng. Đối với người chết sống giáp ranh, sống chung với người Việt và thường, quan tài không được lấp hết và trên nắp một số tộc người khác nên bên cạnh việc gìn để những thức ăn và những đồ dùng mà người giữ và phát huy các nghi lễ trong hôn nhân và đã khuất thích khi còn sống; quan tài nằm lộ ra cưới xin truyền thống, họ đã có sự giao thoa với ngoài không khí để cho linh hồn thoát ra và trở một số phong tục từ bên ngoài. Trong hôn nhân, về quanh Gươl và gia đình của nó. người Cơ Tu đã cho phép con cái lấy chồng hoặc Đối với cái chết bình thường, các nghi lễ vợ với tộc người khác. Họ vẫn duy trì chế độ thường kéo dài nhiều ngày, tùy theo hoàn cảnh mẫu hệ, nếu con gái của tộc người mình lấy con của từng gia đình. Cái chết của người thân được trai của tộc người khác thì phải do bên nhà gái gia chủ báo hiệu bằng việc đánh một hồi chiêng, quyết định. Tức là mọi việc thách cưới, thời gian trống báo hiệu cho các thành viên trong làng biết. tổ chức hôn lễ là do nhà gái quyết định. Trường Họ thường giết một con gà lấy máu Bhuôi để hợp con trai của tộc người Cơ Tu lấy con gái của báo cho các thế lực thần linh về sự ra đi của nó. 24
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Takoh Vêêl là người chủ trì mọi công việc mai những người chết xấu sẽ quay về “bắt” người táng. Những ngày đầu, nghi thức đánh trống nuôi sống đi theo, vì cái chết này có sự can thiệp của hồn người chết (Băn rơ vai ca moách). Thi thể “con ma” – kẻ xấu có sức mạnh vô hình. Trước người chết được vệ sinh cẩn thận, người Cơ Tu kia, gia đình có người chết xấu phải tổ chức cúng lấy cây đót/lách (Ateeng) quét qua quét lại trong bái để đuổi tà ma, trong thời gian sáu ngày sáu lòng quan tài (Đha rang) với ngụ ý xua đuổi rơ đêm, gia đình đó không được đi ra khỏi nhà. vai ca moách ra ngoài. Quan tài của người chết Ngày nay, người Cơ Tu đã rút ngắn lại còn ba thường làm bằng gỗ kiền – một loại gỗ tốt, quý ngày ba đêm. hiếm. Lễ cúng “ma xấu” được tổ chức tại hai địa Trong đám tang người chết, người Cơ Tu khóc điểm (nơi họ đập phá nhà cửa chuyển đi và nơi thương cho người chết bằng nhiều hình thức. họ vừa chuyển tới). Lễ vật cúng tế là con heo Điệu Ca lâu thì dành cho phụ nữ, điệu Ca lênh thì hoặc con chó, cúng làm bốn lần (hai lần đầu, họ dành cho đàn ông. Họ nhim2 về những sự tích, cúng khoanh vùng khu đất vừa chuyển đến, các những hoạt động của người chết lúc còn sống, để lần còn lại, họ cúng nếu ai vào khu vực này sẽ cho rơ vai ca moách siêu thoát. Khi mọi việc đã chịu hậu quả). chuẩn bị xong, người chết được các thành viên * Lễ Têng ping trong Vêêl đưa ra nghĩa địa. Quan tài được chôn Trong chu kì đời người, Têng ping (lễ làm nhà) rất cạn và theo một quy tắc: đầu quay về phía là nghi lễ không thể thiếu của người Cơ Tu. Đây Tây, với ngụ ý sau khi làm lễ đaang đác (mở chính là mắt xích kết nối giữa người sống và cửa mả), rơ vai ca moách lại trở về nhà. Quanh người chết, là lễ tiễn đưa cuối cùng dành cho ngôi mộ, họ trồng một số cây lương thực (lúa, người chết. Lễ bỏ mã thường diễn ra sau thời ngô, sắn) với ngụ ý làm nguồn lương thực cho gian khoảng một hoặc hai năm. Khi đó người người chết. Đối với người chết là phụ nữ, một thân, bạn bè đọc kinh cầu nguyện, cùng với tiếng số đồ dùng trong sinh hoạt (gùi, cuốc); đối với cồng, chiêng để nâng quan tài ra khỏi hố, sau đó người chết là đàn ông, một số đồ như rìu, rựa, đặt sâu trong các quan tài của tổ tiên hoặc ngang mũi lao được đặt lên mộ của người chết. Hơn mặt đất. Khi quan tài đã đặt xong, người ta tưới thế nữa, đám tang người Cơ Tu không thể thiếu rượu để linh hồn người chết vui chơi cùng tổ tiên, “Ché”. Vật dụng này được chôn cùng người chết từ nay linh hồn người chết sẽ sống cùng gia đình. theo tục “chia cho người chết” (xi noor). Khi đó, Lễ Têng ping được tiến hành từ 5 đến 6 ngày “Ché” phải bị đục thủng ở đáy, gọi là “giết cái liên tục, lễ vật thường là trâu. Nghi lễ đâm trâu ché” (pacệt jớ) để chôn quanh nhà mồ (Ping). trong Têng ping của người Cơ Tu phải tuân thủ * Đối với cái chết xấu nguyên tắc, trước khi giết trâu, họ thường khóc Đối với những cái chết xấu, họ thường phải trâu (nơi tơ rí/nhim tơ rí) và phải có người khác rời nhà, bỏ rẫy, bỏ làng trốn khỏi nơi xảy ra cái Kabhú có động tác đâm giả vờ qua lưng trâu chết. Thân xác của họ phải chôn thật sâu vào các (thường là con rể). Nghi thức này xuất phát từ góc tối của rừng và đất phải thật nặng để nước quan niệm, nếu cùng dòng họ đâm trâu sẽ có xấu ở đó không thoát ra ngoài được. Tượng phải nguy cơ làm hại người thân. Khi trâu chết, họ bỏ đặt ở trước cửa nhà mới, chung quanh Gươl, trên xôi, rượu. . . , đặc biệt là đắp lên mình trâu những những con đường mòn quen thuộc để làm cho tấm khố, váy áo đẹp nhất, để xin thần linh ban chúng sợ, và đẩy chúng tận vào sào huyệt của cho cuộc sống yên bình, mùa màng tươi tốt. Khi chúng [18]. kết thúc mọi việc, người Cơ Tu thường đặt quan Theo các già làng ở thôn Bút Tưa, xã Sông tài theo hướng Nam – Bắc, hướng mà họ cho Kôn, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam, những rằng linh hồn con người được siêu thoát, được tự cái chết như đuối nước, thai ngén, tai nạn, thắt cổ do, sống cùng với tổ tiên. tự tử được xem là cái chết xấu. Họ cho rằng, Ngày nay, nghi lễ trong ma chay của người Cơ Tu đã có nhiều thay đổi. Từ nhận thức về cái chết cho đến nghi thức tổ chức trong tang lễ và 2Họ: chỉ những "người thân" của người đã chết và Nhim: nghĩa gốc của tiếng Cơ Tu là "khóc" (khóc thương cho người sau tang lễ đều có những chuyển biến tích cực. đã chết) Trước đây, quan tài của người chết khi an táng 25
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT không được chôn sâu dưới đất mà được đặt trên biệt sự trưởng thành của đứa trẻ đều phải trải qua mặt đất, hai đầu quan tài được kê bằng gạch để lễ cưa răng và lễ căng tai. Đây không chỉ là tập không tiếp xúc với đất. Kể từ khi có người Việt di tục truyền thống của người Cơ Tu, mà còn là quy cư lên sống chung trong cộng đồng mình, người ước về quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân Cơ Tu đã tiếp thu phong tục, tập quán của người đối với cộng đồng mà mình đang sinh sống. Việt. Họ nhận thức được sự ảnh hưởng đến môi Với người Cơ Tu, trong chu kì vòng đời người, trường xung quanh khi chôn người chết trên mặt lễ Têng ping là một trong số những nghi lễ quan đất và sát đường đi. Giờ đây, họ đã biết đào hố trọng không thể thiếu, là mắt xích kết nối, quan và quy hoạch khu chôn người chết tại một chỗ hệ giữa người sống và người chết. Người Cơ Tu trong nghĩa địa. Hay trước đây người Cơ Tu cho quan niệm, lễ Têng ping không chỉ là nghi lễ rằng, lễ làm nhà (Têng ping) là lễ tiễn đưa cuối dành cho người chết, mà còn mang ý nghĩa cầu cùng dành cho người chết. Nghĩa là người sống sẽ mùa cho cả bản làng và gia đình. Mặt khác, nghi không còn lưu luyến gì tới người đã chết. Nhưng lễ cũng là tâm niệm của người Cơ Tu cầu mong giờ họ đã tiếp thu tập tục đi cải mộ, tảo mộ, thăm làm giảm cơn tức giận của thần linh, giải tỏa tâm mộ, thắp hương và thờ cúng người chết trong nhà lí sợ hãi, nặng nề trước nỗi ám ảnh của cái chết, của người Việt. Điều này đã làm thay đổi quan đồng thời mang lại sự bình yên cho cuộc sống. niệm về cái chết trong đời sống của người Cơ Tu. Có thể nói, lễ Têng ping là lễ nghi quan trọng trong các nghi lễ chu kì vòng đời của người Cơ IV. NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG Tu. Nó thể hiện rõ nét nhân sinh quan, thế giới NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA TỘC NGƯỜI quan của người Cơ Tu. Giai đoạn chuyển tiếp CƠ TU này, vừa để cuộc chia li được kéo dài cho vơi bớt niềm thương nhớ, cũng như người sống sẽ được A. Giá trị nhân sinh hồn thiêng che chở trước khi đoạn tuyệt mọi mối Nhân sinh quan là quan niệm của con người về quan hệ. Người Cơ Tu xem đó là một quy luật, là cuộc đời, nó được xếp thành hệ thống bao gồm đạo lí của người sống, là niềm an tâm của người lí tưởng, lối sống, mà gọi chung là về thế giới sống nghĩ về người đã khuất. sống. Trong tín ngưỡng của người Cơ Tu, họ vẫn Như vậy, trong đời sống tâm linh của người Cơ tin có “linh hồn” tồn tại. Điều này được thể hiện Tu tại Quảng Nam, nghi lễ vòng đời người phản rất rõ trong các lễ nghi liên quan đến việc sinh ánh rõ nét về thế giới quan và nhân sinh quan đẻ, cưới hỏi và ma chay của người Cơ Tu. của con người. Đó cũng chính là những tư tưởng Trước kia, khi điều kiện thiết bị y tế phục vụ triết lí về không gian, thời gian tâm linh vốn đã cho việc sinh đẻ ở các tộc người thiểu số nói ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Các lễ nghi chung và người Cơ Tu tại tỉnh Quảng Nam nói trong chu kì đời người phản ánh rất rõ mối quan riêng còn nhiều khó khăn, việc kiêng cữ khi mang hệ văn hóa mang giá trị đạo đức trên – dưới, gia thai chủ yếu dựa theo kinh nghiệm, cảm tính là đình – làng bản, cá nhân – cộng đồng. Từ việc điều tất yếu. Đây cũng là quan niệm có ở hầu sinh con, nuôi dạy con cái trưởng thành, lấy vợ hết các dân tộc Đông Nam Á với những kiêng kị và chết đi đều có những tập tục thể hiện rất rõ giống nhau, đó là những kiêng cữ khi người vợ quan niệm sống của người Cơ Tu sinh sống tại mang thai [24]. Tập tục bảo vệ thai nhi và nuôi tỉnh Quảng Nam. dạy con cái phản ánh truyền thống tốt đẹp của người Cơ Tu. Họ quan niệm, khi phụ nữ mang B. Giá trị nghệ thuật thai, với mong muốn đứa con của mình khi sinh Trong đời sống của các dân tộc thiểu số sinh ra được khỏe mạnh, không bệnh tật, đau ốm, họ sống ở Trường Sơn – Tây Nguyên, tộc người Cơ phải kiêng cữ nhiều thứ, chẳng hạn không ăn một Tu là một trong những dân tộc còn bảo lưu nhiều số con vật như rắn, rùa, nhím, chuột và một số giá trị của văn hóa truyền thống liên quan đến loại hoa quả như ớt, dứa, ổi. Ngay cả khi đặt tên nghi lễ vòng đời người. Những giá trị ấy đã làm cho đứa trẻ, người Cơ Tu cũng rất coi trọng. Tên nên nét riêng biệt, độc đáo của tộc người này so con cái không được trùng với tên của người đã với các tộc người khác cùng sinh sống trên cùng chết hoặc người cao tuổi trong dòng họ. Điều đặc một địa bàn. 26
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Một trong những nét độc đáo trong đám cưới vật làm chủ đề thường được bố trí theo cặp đối của người Cơ Tu tỉnh Quảng Nam là hát lí và xứng trong không gian, hay tuân thủ các yếu tố điệu múa tung tung da dá. Hát lí được hai bên đực - cái. Theo đó, nó sẽ tạo nên một cảnh quan gia đình thực hiện để kết nối và giao lưu tại nhà hài hòa giữa thiên nhiên, con người và các mối trai sau buổi đón dâu. Hát lí có nhiều tầng, nhiều quan hệ xã hội như láng giềng, thông gia. Điều lớp ý nghĩa. Hát lí thể hiện khả năng ứng khẩu, này thể hiện ước muốn của người chết ở thế giới trình độ, kinh nghiệm của nghệ nhân, người hát. bên kia, nơi mà những con vật trên sẽ đi theo Các làn điệu làm nên âm hưởng của người hát để cùng sống với họ. Quanh nhà mồ, họ trồng lí là Ka lơi, cha chốp, xa lâu – Ka lênh và điệu một số cây lương thực (lúa, ngô, sắn. . . ) với ngụ nơ ơi. Trong hát lí, người hát phải biết lên bổng ý làm nguồn lương thực cho người chết. Đối với xuống trầm đúng lúc, đúng điệu. Cái hay của hát người chết là phụ nữ, các nghệ nhân còn tạc một lí là dùng một hình tượng để chỉ một sự việc với số đồ dùng trong sinh hoạt như gùi, cuốc. Đối những hình ảnh ví von, vì thế ngôn từ luôn ẩn ý. với người chết là đàn ông, các nghệ nhân còn tạc Chẳng hạn, nếu hình tượng là con suối thì người một số đồ dùng như rìu, rựa, mũi lao. Đặc biệt, tham gia hát phải biết được con suối đó là suối ở phía trước của ngôi nhà mồ, các nghệ nhân bố cát hay đá, nước trong hay nước đục, sâu hay trí cặp mặt nạ ma thuật (Cơb hây/ká bel) ở hai cạn, có nước bốn mùa hay chỉ có trong một mùa bên và vị thần bảo vệ cầm cây dao dài được đặt ở mưa. Sau hát lí và trao của hồi môn là nghi thức giữa để bảo vệ nhà mồ. Dù mặt nạ ma thuật được Dưm (nghi thức cảm tạ đất trời), đây là nghi thức làm bằng gỗ nhưng nó rất có sức sống, trông nó truyền thống độc đáo có hàng trăm năm nay của bất động nhưng người Cơ Tu vẫn xem mặt nạ người Cơ Tu. Đám cưới sẽ tiếp tục bằng lễ đâm ma có linh hồn riêng, trở thành một trong những trâu. Ý nghĩa của lễ đâm trâu là để cầu khấn thần thiết chế không thể thiếu trong cấu trúc nhà mồ linh cho mùa màng bội thu, buôn làng được no của đồng bào Cơ Tu vùng núi Quảng Nam. Như ấm, hạnh phúc. vậy, nét độc đáo trang trí trong nhà mồ được các nghệ nhân Cơ Tu chế tác một cách rất tỉ mỉ, khắc Nét độc đáo trong nghệ thuật của người Cơ Tu họa rất sống động những vật thể, hình ảnh sinh không chỉ biểu hiện qua các điệu múa và hát lí, động, gần gũi với đời sống thường ngày bằng cả mà còn được khắc họa qua kiến trúc, điêu khắc tấm lòng, tình cảm chân thành dành cho người nhà mồ. Dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh qua đã khuất. các huyện Tây Giang, Đông Giang và Nam Giang Văn hóa truyền thống của tộc người Cơ Tu nói tỉnh Quảng Nam, chúng ta dễ dàng bắt gặp nhiều riêng, các tộc người thiểu số sinh sống trên địa ngôi nhà mồ của đồng bào Cơ Tu với nhiều màu bàn Trường Sơn – Tây Nguyên nói chung góp sắc và phong cách khác nhau. Tuy vật liệu được phần làm nên sự phong phú, đa dạng và thống làm bằng gỗ, dụng cụ sử dụng để làm tượng mồ nhất của nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, việc đơn sơ (rìu, cưa tay, rựa, đục) nhưng qua cách gìn giữ những giá trị văn hóa vốn được xem là chế tác tỉ mỉ, công phu, các nghệ nhân Cơ Tu đã riêng biệt đó cần rất nhiều giải pháp. Trong đó, khắc họa rất sống động những vật thể, hình ảnh nghi lễ vòng đời người có thể xem là môi trường sinh động, gần gũi với đời sống thường ngày của tốt nhất để lưu giữ những giá trị văn hóa truyền tộc người này. thống của đồng bào Cơ Tu. Ở từng giai đoạn Lễ Têng ping của người Cơ Tu không thể thiếu quan trọng của cuộc đời mỗi con người, nhiều nghệ thuật tạo hình. Nó được thể hiện rõ nét trên giá trị văn hóa - nghệ thuật được tái hiện (điệu roọc (quan tài nhỏ), trên nóc (Achua), Apớ abhui, múa, hát lí, điêu khắc nhà mồ ). Tất cả đã làm bốn góc xung quanh, các cột của nhà mồ. Ở đó sẽ nên nét độc đáo trong đời sống văn hóa của tộc xuất hiện tượng người phụ nữ đang múa (padil người Cơ Tu tỉnh Quảng Nam. yơ yã), người đàn ông thổi kèn và đánh trống (pal trui ting tung). Ngoài ra, ở đó còn có hoa văn như mặt trời (Pơlanh), mặt trăng (Cơ xee), C. Giá trị đạo đức các hoa Atút (đùng đình), cá, gà, chim. Người Nghiên cứu nghi lễ vòng đời của con người Cơ Tu quan niệm rằng, trong điêu khắc, các con là hướng tiếp cận khá phổ biến về văn hóa tộc 27
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT người. Xét dưới góc độ thuần túy xã hội – nhân lễ mở cửa mả thì linh hồn người chết mới hoàn văn, nghi lễ vòng đời là cách thức về đối nhân toàn cắt đứt ràng buộc với người sống. Do phong xử thế và quy phạm đạo đức của một tộc người tục truyền thống của người Cơ Tu là không thờ (hay dân tộc). Với tộc người Cơ Tu, các lễ nghi người chết, không cúng giỗ hằng năm như người liên quan đến nghi lễ vòng đời người đều phản Việt nên sau khi lễ mở cửa mả đã kết thúc thì mọi ánh rất rõ mối quan hệ đạo đức trên - dưới, trước người sẽ “quên” hẳn người chết, không còn nhớ - sau, gia đình - làng, cá nhân - cộng đồng. thương gì nữa. Người Cơ Tu xem lễ bỏ mả là nghi Trong hôn nhân, các nghi lễ, nghi thức thể hiện lễ cuối cùng đối với người chết. Để bày tỏ tâm rõ tư tưởng và đạo đức của tộc người này. Người tư, tình cảm và sự tiếc thương với người đã chết, Cơ Tu quan niệm, hôn nhân chính là kết quả sau trước khi làm lễ, người thân sẽ nói chuyện với thời kì tự do tìm hiểu, lúc chàng trai và cô gái đã người chết. Vì trong đời sống tâm linh của người trải qua các nghi lễ trưởng thành và được Vêêl Cơ Tu, khi đó linh hồn người chết vẫn còn quẩn thừa nhận. Một trong những tập tục tiêu biểu, quanh bên gia đình, người thân của họ. Cách ứng độc đáo của người Cơ Tu là “ngủ duông” (lướt xử của người Cơ Tu đối với người đã khuất đã zướng) hay còn gọi là “ngủ mái”. Đây là giai phần nào cho thấy ẩn sâu trong đời sống tâm linh đoạn tiền hôn nhân của người Cơ Tu sinh sống của họ là sợi dây liên hệ mật thiết với tổ tiên, tạo ở các huyện thuộc khu vực miền núi phía Tây sự kết nối giữa quá khứ với thực tại. của tỉnh Quảng Nam (gồm các huyện Tây Giang, Có thể nói, nghi lễ vòng đời là một hiện tượng Đông Giang, Nam Giang). Trong thời gian “ngủ văn hóa tộc người, mà thông qua đó, con người, duông”, đôi trai gái không giới hạn về mặt thời với tư cách là chủ thể văn hóa, bộc lộ văn hóa ứng gian, mà chỉ cần kết quả tìm hiểu nhau có thành xử của mình. Văn hóa ứng xử này phản ánh mối vợ thành chồng hay không mà thôi. Điều đặc biệt quan hệ giữa những người sống với nhau, giữa trong phong tục này là họ chỉ tâm tình dưới đêm người sống với người đã chết và giữa con người trăng chứ không bao giờ có những chuyện đi quá với thế giới thần linh, siêu nhiên. Ở Việt Nam, giới hạn trên thân xác. nghi lễ vòng đời mang dấu ấn của văn hóa có Sau khi hai bên gia đình thực hiện các lễ nghi nguồn gốc nông nghiệp lúa nước với đặc trưng: theo phong tục, đôi trai gái chính thức nên vợ tính cộng đồng sâu sắc, ứng xử giữa con người nên chồng. Tuy nhiên, đôi trái gái còn thực hiện với môi trường xã hội, tôn trọng hòa hợp trong nhiều lễ nghi để cảm ơn người mai mối, trả ơn ứng xử với môi trường tự nhiên. bố mẹ, tri ân bà con dân làng. Lễ tắp blo, prơ pơ lăng được xem là lễ quan trọng thể hiện sự tri ân V. KẾT LUẬN của đôi nam nữ và gia đình đối với bà con dân làng. Ngoài ra, sau khi cưới, người Cơ Tu còn tổ Trong tiến trình phát triển và sáng tạo văn hóa, chức lễ trơ ping cơlưng (cảm ơn người mai mối tộc người Cơ Tu là một trong số ít tộc người thiểu cho đôi nam nữ nên vợ thành chồng) và lễ prơ rơ số ở Việt Nam còn bảo lưu được nhiều giá trị văn lăng/prơ rơ lêh (có ý nghĩa trả ơn bố mẹ vợ). Để hóa truyền thống tương đối nguyên vẹn, mang sắc đáp lại nghi lễ này, bên nhà vợ cũng tổ chức lễ thái riêng biệt, độc đáo. Tìm hiểu giá trị văn hóa vui bua (gùi rượu) với các lễ vật như gà, cá, xôi, Cơ Tu thông qua nghi lễ vòng đời sẽ có ý nghĩa rượu để đãi nhà trai. Sau những nghi lễ này, đôi thiết thực, cụ thể trong việc tiếp cận với nền văn nam nữ mới thấy an tâm, thoải mái vì đã thực hóa cổ xưa. Các lễ nghi trong nghi lễ vòng đời hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với hai bên gia đình người phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan [25]. Dù xét ở phương diện nào đi chăng nữa, trong nhận thức của cộng đồng người này, thể lễ cưới xin của người Cơ Tu cũng phần nào thể hiện sự phong phú trong đời sống tâm linh, tôn hiện tính nhân văn trong đời sống tinh thần của giáo và thẩm mĩ, cũng như tính thống nhất, đa người Cơ Tu. dạng của văn hóa vùng. Nét độc đáo trong đời sống của người Cơ Tu Bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa còn thể hiện trong nghi lễ tang ma. Người Cơ Tu – hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, việc quan niệm: khi chết, linh hồn của người đó sẽ về di dời, phân vùng, kinh tế mới, sự biến đổi văn với thế giới bên kia, về đoàn tụ với tổ tiên. Sau hóa đang tác động đến văn hóa truyền thống 28
- TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 30, THÁNG 6 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT của các tộc người ở Việt Nam. Trước bối cảnh [16] Nguyễn Hữu Thấu. Đôi nét về quan hệ hôn nhân gia đó, những giá trị văn hóa tộc người nói chung, đình người Pa Cô, Pa Hi và Ca Tu ở tây Thừa Thiên, giá trị văn hóa của tộc người Cơ Tu nói riêng, Quảng Nam. Dân tộc học. 1976;1:87–96. [17] Đinh Hồng Hải. Linh hồn các tác phẩm nghệ thuật đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Tại người Cơ Tu. Văn hóa Nghệ thuật. 2003;4:57–62. tỉnh Quảng Nam, nhiều giá trị văn hóa truyền [18] Trần Đức Sáng. Nghi lễ Teeng Ping trong đời sống thống của người Cơ Tu, đặc biệt là các lễ nghi người Cơ tu. Văn hóa Nghệ thuật. 2007;7:87–96. trong nghi lễ vòng đời người cũng đang dần bị [19] Lê Anh Tuấn. Biểu tượng cột tế Xơnur trong không biến đổi. gian xã hội tộc người Cơtu vùng Trường Sơn - Tây Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định, Nguyên. Nghiên cứu Đông Nam Á. 2016;8:56–66. nhưng chúng tôi hi vọng rằng kết quả đạt được [20] Tấn Vịnh. Hoa văn kết hạt cườm trên thổ cẩm Cơ Tu. Văn hóa Nghệ thuật. 2005;3:79–83. của bài viết sẽ góp phần giúp các nhà quản lí [21] Tylor E B. Văn hóa nguyên thủy (Huyền Giang dịch). tỉnh Quảng Nam đưa ra các giải pháp thiết thực, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật. 2001;. khoa học và có chính sách kịp thời trong công tác [22] Gennep A V. Các nghi thức chuyển tiếp (Riter de quản lí, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền passage). Hà Nội: Picard, Paris; 1981. Bản dịch đánh thống của người Cơ Tu nói chung và giá trị văn máy vi tính chưa xuất bản của Viện Nghiên cứu Văn hoá Dân gian, Hà Nội năm 2002. hóa trong nghi lễ vòng đời người vốn được xem [23] Ngô Đức Thịnh. Văn hóa, văn học tộc người và văn là nguyên sơ của tộc người này nói riêng một hóa Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã cách phù hợp, hiệu quả. hội; 2006. [24] Võ Thành Hùng. Nghi lễ vòng đời người Khmer tỉnh TÀI LIỆU THAM KHẢO Sóc Trăng. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn hóa Dân tộc; 2010. Tìm hiểu văn hóa Cơtu [1] Tạ Đức. . Huế: Nhà Xuất bản [25] Nguyễn Văn Dũng. Nghi lễ vòng đời của người Cơ Thuận Hóa; 2001. Tu. Văn hóa Nghệ thuật. 2016;385:30–33. [2] Costello, Nancy A. Katu-Vietnamese-English. Tủ sách Ngôn - ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam; 1991. [3] Costello, Nancy A. Katu folktales and society. Tủ sách Ngôn - ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam; 1993. [4] Costello, Nancy A. Death and burial in Katu culture. Tủ sách Ngôn - ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam; 1980. [5] Le Pichon. Les chassenrs de sang. BAVH. 1938;4. [6] Lưu Hùng. Góp phần tìm hiểu văn hóa Cơtu. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội; 2007. [7] Nguyễn Thượng Hỷ. Kiến trúc, điêu khắc của người Cơ Tu. Văn hóa Nghệ thuật. 2005;3:75–78. [8] Bh’riu Liếc. Văn hóa người Cơ Tu. Nhà Xuất bản Đà Nẵng; 2009. [9] Nguyễn Hữu Thông. Katu - Kẻ sống đầu ngon nước. Huế: Nhà Xuất bản Thuận Hóa; 2004. [10] Trần Tấn Vịnh. Người Cơ-tu ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Thông tấn; 2009. [11] Trần Tấn Vịnh. Nghề dệt và trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ Tu tỉnh Quảng Nam [Luận án Tiến sĩ]. Viện Nghiên cứu Văn hóa; 2009. [12] Phạm Thị Xuân Bốn. Hôn nhân của người Cơ Tu ở huyện Hiên tỉnh Quảng Nam [Luận văn Thạc sĩ]. Viện văn hóa; 2007. [13] Phan Hữu Dật. Cơ sở dân tộc học. Hà Nội: Nhà Xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp; 1973. [14] Phạm Quang Hoan. Về quan hệ hôn nhân gia đình của người Cơtu. Ban Dân tộc Quảng Nam, Tam Kỳ; 2005. [15] Nguyễn Xuân Hồng. Phong tục tập quán và lễ hội các dân tộc ở Quảng Nam. Sở Văn hóa – Thông tin Quảng Nam; 2003. 29