Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Nguyễn Thị Minh Thái

pdf 107 trang Hùng Dũng 05/01/2024 2290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Nguyễn Thị Minh Thái", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_co_so_van_hoa_viet_nam_nguyen_thi_minh_thai.pdf

Nội dung text: Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Nguyễn Thị Minh Thái

  1. HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG KHOA THIẾT KẾ VÀ SÁNG TẠO ĐA PHƯƠNG TIỆN GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG (Phương pháp đào tạo theo tín chỉ) CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM Mã học phần: CDT1240 (02 tín chỉ) Biên soạn Nguyễn Thị Minh Thái LƯU HÀNH NỘI BỘ PTIT Hà Nội, 12/2014
  2. LỜI NÓI ĐẦU Bài giảng “Cơ sở văn hóa Việt Nam” dùng cho sinh viên tham khảo, trong chuyên ngành truyền thông Đa phương tiện, thuộc lĩnh vực Công nghệ Đa phương tiện. Nội dung tài liệu đề cập, cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình ra đời và phát triển của các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử loài người. Bài giảng này gồm 4 chương đem lại cho người đọc sự hiểu biết cơ bản và hệ thống về văn hóa nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở những kiến thức khoa học, môn học này nhằm góp phần xây dựng quan điểm nhân văn, biết quý trọng và giữ gìn những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn minh nhân loại, biết vận dụng hữu ích vào viêc hoàn thiện nhân cách của mỗi người và kiến thiết đất nước theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Tác giả xin chân thành cám ơn các cán bộ Viện công nghệ Thông tin và Truyền thông CDIT, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông PTIT đã trợ giúp để hoàn thành tài liệu này. PTIT 2
  3. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 2 CHƯƠNG I – VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 5 1. Văn hóa và văn hóa học 5 1.1. Định nghĩa văn hóa 5 1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa 6 1.3. Văn hóa với Văn minh, Văn hiến, Văn vật 7 1.4. Cấu trúc của văn hoá: 9 1.5. Cơ sở văn hóa và các bộ môn văn hóa học 10 2. Định vị văn hóa Việt Nam 10 2.1. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp 10 2.2. Chủ thể và thời gian văn hóa Việt Nam 12 2.3. Hoàn cảnh địa lí, không văn hóa và các vùng văn hóa Việt Nam 13 2.4. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội của văn hóa Việt Nam 15 CHƯƠNG II – DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM 16 1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử 16 1.1. Văn hoá thời tiền sử 16 1.2. Văn hoá thời sơ sử: 19 1.2.1. Từ văn hoá tiền Đông Sơn đến văn hoá Đông Sơn: 19 1.2.2. Văn hoá Sa Huỳnh: 22 1.2.3. Văn hoá Đồng Nai: 25 2. Văn hóa Việt Nam thiên niên kỉ đầu công nguyên 27 2.1. Văn hoá Việt Nam thời kì Bắc thuộc: 27 2.2. Văn hoá Việt Nam thời Đại Việt: 31 2.3. Văn hóa Việt Nam thời tự chủ 34 3. Văn hoá Việt Nam từ 1858 đến 1945: 45 3.1. Bối cảnh lịch sử vănPTIT hóa: 45 3.2. Đặc trưng văn hoá giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945: 47 4. Văn hoá Việt Nam từ 1945 đến nay: 53 4.1. Bối cảnh lịch sử: 53 4.2. Đặc điểm của văn hóa từ năm 1945 đến nay 56 CHƯƠNG III: TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO 60 1. Tín ngưỡng: 60 1.1. Tín ngưỡng phồn thực: 60 1.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên 62 2. Tôn giáo: 67 2.1. Nho giáo: 67 2.2. Phật giáo: 70 3
  4. 2.3. Đạo giáo: 72 2.4. Kitô giáo: 73 CHƯƠNG IV: KHÔNG GIAN VĂN HÓA VIỆT NAM 74 1. Vùng văn hoá Tây Bắc: 74 1.1. Đặc điểm tự nhiên: 74 1.2. Đặc điểm văn hoá: 77 2. Vùng văn hoá Việt Bắc: 80 2.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội: 80 2.2. Đặc điểm văn hoá: 82 3. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ: 85 3.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội: 85 3.2. Đặc điểm văn hoá: 87 4. Vùng văn hoá Trung Bộ: 91 4.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội: 91 4.2. Đặc điểm văn hoá: 92 5. Vùng văn hoá Tây Nguyên: 95 5.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội: 95 5.2. Đặc điểm văn hoá: 96 6. Vùng văn hoá Nam Bộ: 100 6.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội: 100 6.2. Đặc điểm văn hoá: 103 PTIT 4
  5. CHƯƠNG I – VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 1. Văn hóa và văn hóa học 1.1. Định nghĩa văn hóa Văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa), theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn văn hóa. Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động Chính với các hiểu rộng này, văn hóa mới là đối tượng đích thị của văn hóa học. Một cách hiểu khác, văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ kuitura. Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hoá với hai khía cạnh: trồng trọt, thính ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp. Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng vào thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp. Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hoá (văn minh) thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hoá hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo (E.B. Taylor) là đại diện củaPTIT họ. Theo ông, văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Theo F. Boa (F. Boas), ý nghĩa văn hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn hoá không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. A. L. Kroibơ (A.L. Kroeber) và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn) quan niệm văn hoá là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại 5
  6. bằng biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra. Tóm lại, khái niệm văn hóa là: “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. 1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa 1.2.1. Văn hóa có tính hệ thống Đặc trưng này để phân biệt hệ thống với tập hợp, giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa, phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng xã hội. Văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để đối phói với mọi biến động. 1.2.2. Tính giá trị Đặc trưng quan trọng thứ hai là tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen là “trở thành đẹp. trở thành có giá trị”. Tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đô mức độ nhân bản của xã hội con người. Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sự dụng, giá trị đạo đức. Theo thời gian: giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. 1.2.3. Tính nhân sinh Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất hoặc tinh thần. 1.2.4. Tính lịch sử PTIT Tính lịch sử cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh nhưu sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. 6
  7. 1.3. Văn hóa với Văn minh, Văn hiến, Văn vật 1.3.1. Khái niệm văn minh: Văn minh là danh từ Hán - Việt (Văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, luật pháp, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có căn gốc Latinh là civitas với nghĩa gốc: đô thị, thành phố, và các nghĩa phái sinh: thị dân, công dân. W. Đuran (W. Durrant) sử dụng khái niệm văn minh để chỉ sự sáng tạo văn hoá, nhờ một trật tự xã hội gây ra và kích thích. Văn minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã hội, tổ chức luân lí và hoạt động văn hoá. Văn minh trong tiếng Đức là để chỉ các xã hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức đô thị và chữ viết. Theo F. Ăngghen, văn minh là chính trị khoanh văn hoá lại và sợi dây liên kết văn minh là nhà nưPTITớc. Như vậy khái niệm văn minh thường bao hàm bốn yếu tố cơ bản: Đô thị, Nhà nước, chữ viết và các biện pháp kĩ thuật cải thiện, xếp đặt hợp lí, tiện lợi cho cuộc sống của con người. Tuy vậy, người ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ văn minh đồng nghĩa với văn hoá. Các học giả Anh và Pháp thường sử dụng lẫn lộn hai khái niệm văn hoá (culture), văn minh (civilisation) để chỉ toàn bộ sự sáng tạo và các tập quán tinh thần và vật chất riêng cho mọi tập đoàn người. Thực ra, văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại. Như vậy, văn minh khác với văn hoá ở ba điểm: Thứ nhất, trong khi văn hoá có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại. Thứ hai, trong khi văn hoá bao gồm cả văn hoá vật chất lẫn tinh thần thì văn minh chỉ 7
  8. thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật. Thứ ba, trong khi văn hoá mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính siêu dân tộc- quốc tế. Ví dụ nền văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp và văn hoá Việt Nam, văn hoá Nhật Bản, văn hoá Trung Quốc Mặc dù giữa văn hoá và văn minh có một điểm gặp gỡ nhau đó là do con người sáng tạo ra. 1.3.2. Khái niệm văn hiến: Ở Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm văn hiến. Từ điển thường định nghĩa văn hiến là “truyền thống văn hóa lâu đời”. Thời Lê (thế kỉ XV), Nguyễn Trãi viết “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang”- (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ văn hiến mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hoá cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng. Văn hiến (hiến = hiền tài) - truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp. GS. Đào Duy Anh khi giải thích từ văn hiến khẳng định: “là sách vở” và nhân vật tốt trong một đời. Nói cách khác văn là văn hoá, hiến là hiền tài, như vậy văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt. 1.3.3. Khái niệm văn vật (vật = vật chất): Văn vật là khái niệm bộ phận của văn hóa. Văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, khái niệm văn vật cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử. Người ta thường nói “Hà Nội – Thăng Long ngàn năm văn vật”. Khái niệm văn hiến, văn vật thường gắn với phương Đông nông nghiệp trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây đô thị. Như vậy, cho đến nay, chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định nghĩa của văn hoá. Từ 1952, hai nhà dân tộc học Mĩ A. L. Kroibơ (A.L. Kroeber) và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn) đã trích lục được trên dưới 300 định nghĩa, mà các tác giả khác nhau của nhiềuPTIT nước từng phát ra từ trước nữa cho đến lúc bấy giờ. Từ đó cho đến nay, chắc chắn số lượng định nghĩa tiếp tục tăng lên và đương nhiên, không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hay hoà hợp, bổ sung cho nhau. 8
  9. Sự khác nhau giữa văn vật , văn hiến, văn hóa, văn minh 1.4. Cấu trúc của văn hoá: Văn hóa thường được chia đôi thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Bên cạnh dó là những cách chia ba: văn hóa vật chất – văn hóa xã hội – văn hóa tinh thần 1.4.1. Văn hoá vật chất: Một trong các hình thức văn hoá của mỗi tộc người, bao gồm: làng bản, nhà cửa, áo quần, trang sức, ăn uống, phương tiện đi lại, công cụ sản xuất, vũ khí, vv. Theo UNESCO gọi là văn hoá hữu thể (Tangible) 1.4.2. Văn hoá tinh thần: Bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hoá được lưu truyền và biến đổi qua thời gian, với một quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng rộng rãi . Những di sản văn hoá tạm gọi là vô hình (intangible) này theo UNESCO bao gồm cả âm nhạc, múa, truyền thống, văn chương truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, tư thế, nghi thức, phong tục, tập quán, y dược, cổ truyền, việc nấu ăn và các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền thống PTIT 9
  10. 1.5. Cơ sở văn hóa và các bộ môn văn hóa học Văn hóa học (culturology) là khoa học nghiên cứu về văn hóa học. Văn hóa bao quát một phạm vi quá rộng cho nên trong một thời gian dài người ta chỉ chú ý đến các khoa học bộ phận mà không có khoa học nào lấy văn hóa làm đối tượng. Ở phương Tây, mãi đến năm 1871, “văn hóa” mới được E.B. Taylor định nghĩa lần đầu tiên trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy xuất bản ở London. Trong sự phát triển của văn hóa học nửa đầu TK XX có sự đóng góp quan trọng của các nhà nhân học văn hóa Mĩ về việc mở rộng đối tượng và quy mô nghiên cữu. Văn hóa có thể được xem xét từ nhiều hướng, do vậy văn hóa học có thể được nghiên cứu và trình bàyPTIT dưới nhiều góc độ khác nhau, tạo nên nhiều môn và phân môn: - Dưới góc độ thời gian: môn lịch sử văn hóa - Dưới góc độ không gian: môn địa lí văn hóa - Dưới góc độ lí luận khái quát chung: văn hóa đại cương Cơ sở văn hóa là môn học trình bày những đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình thành và phát triển của một nền văn hóa cụ thể. 2. Định vị văn hóa Việt Nam 2.1. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp 10
  11. Các nền văn hóa trên thế giới vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên giữa các nền văn hóa có không ít nét tương đồng. Để giải thích nét tương đồng này đã có nhiều học thuyết khác nhau. Thuyết khuếch tán văn hóa phổ biến ở châu Âu với quan niệm văn hóa được hình thành từ trung tâm rồi lan tỏa các nơi khác. Thuyết vùng văn hóa phổ biến ở Mĩ với quan điểm về khả năng tồn tại nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác nhau trên cùng một vùng lãnh thổ. Thuyết loại hình kinh tế - văn hóa phổ biến trong dân tộc học Xô Viết cho rằng trong lịch sử nhân loại từng tồn tại ban hóm loại hình: săn bắt – hái lượm – đánh cá. Trong lịch sử lục địa Á – Âu, hình thành hai vùng văn hóa lớn là “phương Tây” và “phương Đông”. Phương Tây là khu vực tây bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy Uran), phương Đông gồm châu Á và châu Phi. Môi trường sống của cư dân phương Đông là xứ nóng ẩm, tạo nên các cong sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Còn phương Tây là xứ lạnh với khí hậu khô với những đồng cỏ mênh mông. Hai loại địa hình này khiến cho cư dân hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau. Trồng trọt và chăn nuôi. Chăn nuôi là nghề phổ biến ở phương Tây đến mức trong Kinh Thánh, từ “cừu” được nhắc tới trên 5000 lần. Người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt và uống sữa bò, áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Về sau các dân tộc ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán, các dân tộc trong lục địa thì làm nông nghiệp nhưng chăn nuôi vẫn là mối quan tâm chủ yếu của họ. Sau này, các dân tộc phương Tây đã chuyển sang thương nghiệp, rồi phát triển công nghiệp và đô thị, nhưng cái gốc du mục đã để lại dấu ấn quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. Do đó, căn cứ vào nguồn gốc của hai khu vực văn hóa, ta có thể nêu ra khái niệm về hai loại hình văn hóa: loại hình văn hóa gốc nông nghiệp và loại hình văn hóa gốc du mục. Loại hình văn hóa gốcPTIT nông nghiệp có những đặc trưng như sau: - Với môi trường tự nhiên: nghề trồng trọt là chính. Phụ thuộc vào thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên. Ví dụ người Việt Nam có câu: “Lạy trời, nhờ trời, ơn trời”. - Nông nghiệp lúa nước là hoạt động chính. - Tổ chức cộng đồng sống theo nguyên tắc trọng tình. Sống hòa thuận lấy tình nghĩa làm đầu. - Coi trọng ngôi nhà, cái bếp, coi trọng người phụ nữ. Chế độ mẫu hệ. - Có lối sống linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. - Biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Coi trọng cộng đồng, tập thể. 11
  12. 2.2. Chủ thể và thời gian văn hóa Việt Nam Thời gian văn hóa được xác định từ lúc một nền văn hóa hình thành đến khi tàn lụi. Thời điểm khởi đầu của một nền văn hóa là do thời điểm hình thành dân tộc (chủ thể văn hóa) quy định. Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc trong phạm vi của trung tâm hình thành loài người phía Đông và trong khu vực hình thành của địa chủng phương Nam. Trên nền đó, quá trình hình thành các dân tộc ở Việt Nam có thể được hình dung theo ba giai đoạn: Thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước). Sự kết hợp giữa người đại chủng Mongoloid với cư dân Melanesien bản địa dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien. Từ đây lan tỏa ra tàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5.000 năm về trước): tại khu vực mà nay là nam Trung Hoa và bắc Đông Dương, trên cơ sở chuyển biến từ loại hình Indonesien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid phía bắcPTIT đã hình thành một chủng mới là chủng Nam Á. Dần dần chủng Nam Á này đã được chia thành một loạt dân tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt. Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các tộc người cụ thể, trong đó có người Việt (Kinh) chiếm tới 90% dân số cả nước. 12
  13. Như vậy, người Việt cùng tuyệt đại bộ phận các tộc người trong thành phần dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc chung là nhóm loại hình Indonesien. Điều dó đã tạo nên tính thống nhất cao của con người và văn hoa Việt Nam. 2.3. Hoàn cảnh địa lí, không văn hóa và các vùng văn hóa Việt Nam 2.3.1. Hoàn cảnh địa lí – khí hậu Hoàn cảnh địa lí khí hậu Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản: nóng ẩm, sông nước và ngã tư đường của cácPTIT nền văn hóa, văn minh. 2.3.2. Không gian văn hóa 13
  14. Không gian văn hóa liên quan đến lãnh thổ nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó bao quát tất thảy những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại. Do vậy, không gian văn hóa bao giờ cũng rộng hơn không gian lãnh thổ. Không gian gốc của văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Bách Việt. Đây là cái nôi của nền nông nghiệp lúa nước, của nghệ thuật đúc đồng với những trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Ở phạm vi rộng, không gian văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Indonesien lục địa. Xét từ trong cội nguồn, không gian văn hóa Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á. PTIT 2.3.3. Vùng văn hóa Sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chugn của văn hóa Việt Nam, còn tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng gọi là vùng văn hóa. Văn hóa Việt Nam được chia thành 6 vùng: - Vùng văn hóa Tây Bắc - Vùng văn hóa Việt Bắc - Vùng văn hóa Bắc Bộ - Vùng văn hóa Trung Bộ - Vùng văn hóa Tây Nguyên - Vùng văn hóa Nam Bộ 14
  15. PTIT Các vùng văn hóa Việt Nam 2.4. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội của văn hóa Việt Nam Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch sử - xã hội của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Trong đó quan hệ với văn hóa Trung Hoa để lại dấu ấn sâu đậm hơn cả nó khiến cho trong 15
  16. nhận thức của nhiều người có định kiến cho rằng văn hóa Việt Nam chỉ là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, là một bộ phận của nó. Có thể hình dung cơ cấu của văn hóa Trung Hoa như sau: Mối liên hệ, tác động qua lại giữa văn hóa Việt Nam với Trung Hoa, giữa văn hóa phương Bắc cổ đại với văn hóa phương Nam cổ đại có thể trình bày như sau: CHƯƠNG II – DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM 1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử 1.1. Văn hoá thời tiền sử Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN. Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hoá Việt Nam. Giai đoạn này có thể được chia làm hai thời kì. Thời tiền sử từ buổi đầu đầu đến cuối thời đại đá mới và thời sơ sử cách đây khoảngPTIT trên dưới 4000 năm. Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài người. Cách đây khoảng 40- 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích còn lại, chúng ta biết rằng người vượn (Homo - Erectus) đã có mặt ở nhiều vùng từ Bắc tới Nam. Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là Văn hoá núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kì thời đại đồ đá cũ phát hiện được ở núi Đọ, thuộc huyện Triệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá). Trên bề mặt Núi Đọ, các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè (hay mảnh tước như các nhà khảo cổ học thường gọi), có bàn tay gia công của người nguyên thuỷ. Những công cụ đá này rất thô sơ, chứng tỏ “tay nghề” ghè đẽo còn rất vụng về. Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc rìu tay, loại công cụ được chế tác cẩn thận nhất 16
  17. của người vượn. Sau văn hoá Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt Nam. Đó là văn hoá Sơn Vi (xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Thời gian từ 20 đến 15 nghìn năm TCN, con người (người hiện đại- Homo sapiens) đã cư trú trên một địa bàn rất rộng, họ là chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam, từ Sơn La ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở Phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các gò đồi của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, người Sơn Vi còn sống cả trong các hang động núi đá vôi. Đây là các bộ lạc săn bắt (bắn), hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt, nạo hay cắt, có loại cắt ngang ở một đầu, có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh, có loại công cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa tròn của viên cuội, hoặc có lưỡi ở hai đầu. Dù điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng, phong phú của các loài quần động thực vật phương Nam, song vết tích cư trú của loài người thời nàychỉ hạn chế ở một số vùng, trên các gò đồi, trong một số hang động vì thời kì này những đồng bằng Bắo Bộ đều đang ở giai đoạn hình thành, chưa thích hợp cho đời sống định cư lâu dài của con ngưòi. Dựa vào kĩ thuật chế tác công cụ của cư dân Sơn Vi, giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng họ đã có tư duy phân loại. Tư duy phân loại này thể hiện trong lựa chọn nguyên liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ. Người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Họ chôn người ngay trong nơi cư trú, thức ăn chủ yếu là nhuyễn thể, những cây, những quả, hạt và một số động vật vừa và nhỏ. Việc chôn người chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ về một thế giới khác, mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao động được chôn bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy. Trong giai đoạn tiền PTITsử, cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay đổi quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước vào thời đại đồ đá mới. Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến bộ về phương thức sản xuất cũng như kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên ấm, ẩm ướt, khí hậu môi trường có những biến đổi lớn, thuận tiện cho sự tồn tại, phát triển của con người, động và thực vật. Thời kì này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hoá Hoà Bình. Cư dân văn hoá Hoà Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi. Họ thích cư trú trong các khu vực gần cửa hang, thoáng đãng, có ánh sáng. 17
  18. Môi trường hoạt động của họ rất rộng bao gồm hang- thung- thềm sông, suối. Vì thế, văn hoá Hoà Bình còn được gọi là nền văn hoá thung lũng. Văn hoá Hoà Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay. Người Hoà Bình sống chủ yếu bằng săn bắt (bắn) và hái lượm, song do đặc điểm của hệ sinh thái phồn tạp vùng rừng nhiệt đới, phương thức săn bắn (bắt) và hái lượm của người tiền sử là theo phổ rộng, lượm trong rừng đủ thứ có thể ăn và sử dụng được. Mặt khác, do môi trường không thuận lợi cho hoạt động săn bắn nên phương thức sống của cư dân Hoà Bình chủ yếu là hái lượm. Gần đây, người ta đã tìm thấy hạt và quả của nhiều loài cây thuộc họ rau đậu và họ bầu bí, được coi là đã thuần dưỡng trong một số di chỉ văn hoá Hoà Bình. Vì vậy đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá Hoà Bình. Cuộc sống định cư tương đối là một nhân tố tạo cho sự nảy sinh nghề trồng trọt. Tất nhiên vai trò của nó còn rất nhỏ bé so với các hoạt động truyền thống hái lượm, và săn bắt (bắn). Có lẽ các hoạt động này vẫn là hoạt động kinh tế cơ bản của họ. Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hoá thuộc trung kì và hậu kì đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn. Trong giai đoạn trung kì và hậu kì của thời đá mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, con người đã chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi, trước núi và ven biển. Ở vùng sinh thái ven biển, nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời kì này được đặc trưng bởi các nền văn hoá Đa Bút (Thanh Hoá), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long với những làng định cư lâu dài, ổn định, trong đó, bên cạnh quan hệ dòng máu đã xuất hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp. Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên, những hang động và những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. ĐiềuPTIT này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên. Thời kì này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những mảnh thổ hoàng Người Hoà Bình, theo GS. Hà Văn Tấn có lẽ đã có những biểu hiện về nhịp điệu, thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch trên các hòn đá cuội được tìm thấy trong hang động. Dù mới chỉ giả thiết về số đếm, cách tính ngày những di vật được tìm thấy trong văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về thời gian vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nông lịch sơ khai. 18
  19. Những điều kiện định cư lâu dài và sự phát triển của nông nghiệp đã làm hình thành rõ nét tính địa phương của văn hoá trong những khu vực hẹp vào cuối thời đại đá mới (cách đây khoảng 5000 năm). Thời kì này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành một trong những thần linh quan trọng đối với con người. 1.2. Văn hoá thời sơ sử: Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam, từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai, đã bước vào thời đại kim khí. Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hoá lớn là Đông Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam). Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người Việt cổ. Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa. Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai- Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay, văn hoá Óc Eo thường được gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỉ II đến hết thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long. 1.2.1. Từ văn hoá tiền Đông Sơn đến văn hoá Đông Sơn: Nhiều học giả đã thừa nhận rằng chí ít văn hoá Đông Sơn hình thành trực tiếp từ ba nền văn hoá ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Các nền văn hoá Phùng Nguyên- Đồng Đậu- Gò Mun thuộc giai đoạn đồng thau (từ khoảng 2000 đến 700 năm TCN) phân bố ở lưu vực sông Hồng. Trong giai đoạn này con người vẫn sử dụng đá, gỗ, tre, nứa, xương, sừng để chế tạo công cụ và vũ khí. Đồ gốm đạt độ nung cao hơn, dày và cứng hơn, đa số có màu xanh mốc. Bên cạnh đó, việc xuất hiện củaPTIT vật liệu mới- đồng, đã gây ra những tác động to lớn đối với kinh tế, xã hội và văn hoá của các cộng đồng người. Trong thời đại đồng thau ở miền Bắc Việt Nam, đặc điểm văn hoá địa phương còn khá rõ ràng. Dựa vào đặc điểm, tính chất của di vật, di tích ta thấy có sự phát triển riêng của từng khu vực ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Điều này phản ánh một thời kì tồn tại của các nhóm bộ lạc hay liên minh bộ lạc giữa các vùng. Ở các khu vực nói trên có sự giao lưu văn hoá mạnh mẽ thông qua việc tiếp xúc kinh tế - xã hội (hoạt động trao đổi kinh tế, trao đổi phi kinh tế như trao đổi tặng phẩm, vật phẩm tôn giáo), hoặc quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao, xung đột và hoà giải. Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước, họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn gà, Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hoá dày. Bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng. 19
  20. Cư dân văn hoá thời đại đồng thau miền Bắc Việt Nam có đời sống tinh thần phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của họ. Đặc biệt, họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kĩ thuật chế tác đá, đúc đồng. Vào khoảng thế kỉ VII TCN, các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hoà chung vào một nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn hoá được hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt- Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình, mặc dù theo các nhà khảo cổ học nhà nước này vẫn có những dáng hình địa phương. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng chưa có một văn hoá tiền Đông Sơn nào trước đó lại có phạm vi phân bố rộng như vậy. Một số sách cổ của Trung Quốc như Thuỷ kinh chú, Giao châu ngoại vực kí đã ghi chép về nghề trồng lúa nước của người Việt cổ ở giai đoạn này. Vì thế, cư dân văn hoá Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp trồng lúa. Họ canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng chờ mưa. Thời kì này họ có thể đã có những kĩ thuật trị thuỷ như đắp đê chống lụt. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đa dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong kĩ thuật canh tác. Nông nghiệp dùng cày phát triển (có nhiều lưỡi cày đồng, với các chủng loại phù hợp với từng loại đất). Cũng có thể ngay từ thời kì này người ta đã biết làm một năm hai vụ. Bên cạnh trồng trọt là chăn nuôi, việc chăn nuôi trâu bò đã phát triển, trước tiên là để đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp. Trên trống đồng người ta tìm thấy khắc hoa văn hình bò, trong một số di chỉ khảo cổ học còn tìm thấy tượng đầu gà. Kĩ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kì này, với một trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc.PTIT Số lượng và loại hình công cụ, vũ khí bằng đồng tăng vọt. Đặc biệt, người Đông Sơn đã đúc những hiện vật bằng đồng kích thước lớn, trang trí hoa văn phong phú, mà cho tới ngày nay nó vẫn là biểu tượng của văn hoá dân tộc. Đó là những trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng, chứng tỏ trình độ kĩ thuật và bàn tay tài hoa của người thợ Đông Sơn. Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển, đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn hoá Đông Sơn. Ngoài những ngành nghề kể trên, người Đông Sơn còn biết chế tạo thuỷ tinh, làm mộc, sơn, dệt vải, đan lát, làm gốm, chế tác đá. Làng xóm thời kì này thường phân bố ở những nơi đất cao, thậm chí ở sườn núi hay trên những quả đồi đất nhưng bao giờ cũng nằm gần các sông lớn hay các chi lưu của chúng. Khoảng cách giữa làng và sông thường từ 1 đến 5 20
  21. km Việc chọn nơi cư trú như vậy cho thấy người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên. Bởi lẽ đất cao sẽ khô ráo mà lại tránh được ngập lụt vào mùa mưa. Làng thời kì này có quy mô tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay, có chừng vài trăm người. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu vực cư trú đông đúc. Đó là hiện tượng thường gặp đối với cư dân nông nghiệp ở những vùng đồng bằng phì nhiêu. Có lẽ do hiện tượng chiến tranh đã trở nên thường xuyên (thể hiện trong các truyền thuyết, và tỉ lệ cao của các loại vũ khí, đồ dùng cho binh lính) nên chung quanh làng, có những vành đai phòng thủ, mà khả năng lớn là các luỹ tre làng. Công trình phòng thủ thực sự với hệ thống thành luỹ quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta mới chỉ biết đến có một, đó là thành ốc Cổ Loa. Người Đông Sơn đã có những phong tục, y phục khá phong phú, không phải chỉ biết có ở trần, đóng khổ, mặc vỏ sui như nhiều người thường nghĩ. Dựa trên trang trí trên cán dao găm hình người, hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ, ta biết được ít nhất có bốn kiêủ để tóc. Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quần áo theo phương châm giản dị, gọn gàng tới mức tối đa: Ở trần, đóng khố, đi chân đất. Riêng với nữ phổ biến mặc váy thay khố. Tuy vậy cũng có một số áo cánh dài tay, áo xẻ ngực bên trong có yếm. Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết, khố dài thêu Người Đông Sơn ưu thích đồ trang sức, họ đeo đồ trang sức ở tay, cổ tay và cả ở chân. Đồ trang sức thường được làm bằng đồng, thuỷ tinh, song không thấy đồ vàng bạc hay đá quý. Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân Đông Sơn bắt đầu ăn gạo tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng nổ dân số vào giai đoạn đầu của văn hoá Đông Sơn, khiến cho cư dân phải mở rộng diện cư trú đến những vùng đất mới. Phương thức quảng canh, trồng cấy đại trà ở những vùng đất mới này không thích hợp với giống lúa nếp. Từ đó suy ra hệ quả là gạo tẻ trở thành thành phần chính trong cơ cấu lương thực, gạo nếp trở thành quý hiếm, được dùng chủ yếu trong lễ tết cầu cúng. Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu, rau quả, thuỷ sản. MôPTIT hình cơm- rau- cá trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo và sự hoà hợp cao độ của người Đông Sơn với môi sinh. Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng những vật liệu dễ bị phá huỷ theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong, mái tròn, và là nhà sàn. Lựa chọn kiểu kiến trúc nhà sàn cũng là sự ứng xử thông minh trước môi trường của người Việt cổ. Về phương tiện đi lại, chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai, trên lưng. Và con người đã biết thuần dưỡng voi, dùng voi để chuyên chở. Thời kì này là thời kì hình thành những huyền thoại, thần thoại. Hệ thống thần thoại này dù đã bị vỡ ra từng mảnh trong thời kì Bắc thuộc, trước sự tiếp biến với văn hoá Hán cũng như với các tôn giáo lớn từ bên ngoài, song vẫn còn 21
  22. lại ít nhiều qua các ghi chép về sau này của người Việt và dưới dạng sử thi- thần thoại ở các bài mo “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường. Song nếu đã có một hệ thống thần thoại, thì tính đa thần giáo hẳn còn rõ nét. Những huyền thoại này đã phản ánh quá trình khai phá và chiếm lĩnh các đồng bằng của cư dân Việt cổ, quá trình hội nhập các bộ lạc hay nhóm bộ lạc. Qua đó, ta có thể thấy rõ những mối quan hệ của con người thời bấy giờ với tự nhiên và xã hội. Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó là tục thờ mặt trời, mưa dông, các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp gái trai, tục đua thuyền, tục thả diều, Đặc điểm nổi bật của thời kì này theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước là tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp. Đó là một loại tư duy phân loại chia đôi đã tồn tại khá lâu và có ở nhiều vùng trên thế giới. Ở Đông Nam Á và Việt Nam lối tư duy này tồn tại lâu dài tạo thành một đặc điểm khá nổi bật. Người xưa cho rằng thế giới được chia đôi: Có đàn ông ắt có đàn bà, có đực tất có cái, có âm ắt có dương. Người Đông Sơn còn có tư duy khoa học, điều này thể hiện ở tri thức thiên văn học, khái niệm số đếm, khái niệm lịch pháp Phong tục tập quán của người Đông Sơn cũng rất đa dạng ví như tục nhuộm răng ăn trầu, xăm mình, ăn đất nung non, uống nước bằng mũi, giã cối làm lệnh, tục ma chay, cưới xin Các lễ hội: hội mùa với lễ hiến sinh trâu bò, hội cầu nước với lễ hiến tế, hội khánh thành trống đồng. Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Nhạc cụ đáng lưu ý là trống đồng, sau đó là sênh, phách, khèn. Giao lưu văn hoá thời kì này rất rộng rãi. Ngoài giao lưu với Sa Huỳnh và Đồng Nai, ở phía Bắc có mối quan hệ và tiếp xúc với các cư dân Nam Trung Hoa, phía Đông với các hải đảo, phía Tây với lục địa. Các nhà nghiên cứu Việt Nam phần đông đều nhất trí cho rằng đã hình thành một quốc gia Văn Lang và một nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hoá Đông Sơn. Dựa trên những chứngPTIT cứ về mật độ phân bố và quy mô của các di tích khảo cổ học (nơi cư trú, mộ táng, công xưởng ) trên các địa hình khác nhau từ miền núi, đồng bằng, duyên hải và đảo, của các hiện vật khảo cổ học, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng có một sự mở rộng các quan hệ giao lưu giữa các công xã. Loại hình công xã thời hậu kì đá mới là loại hình công xã thị tộc phát triển. Xã hội của người Việt đến đây vẫn hoàn toàn là xã hội nguyên thuỷ. 1.2.2. Văn hoá Sa Huỳnh: Trung tâm hay đỉnh cao của văn hoá thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi tên theo một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hoá Sa Huỳnh. 22
  23. Nền văn hoá này có quan hệ gốc gác với các nền văn hoá hậu kì đá mới, sơ kì thời đại đồng thau ven biển như văn hoá Bàu Tró, Hoa Lộc, Hạ Long, nhất là văn hoá Bầu Tró, có không gian phân bố cận kề với văn hoá Sa Huỳnh. Văn hoá Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kì thời đại đồng thau (hơn 4000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kì thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7- 6 TCN tới thế kỉ 1- 2 trước và sau công nguyên). Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là giữa các nhóm di tích của cả ba giai đoạn sơ, trung kì (thời đại đồng thau) và hậu kì (sơ kì thời đại sắt) đều có những đặc trưng chung và văn hoá Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn từ những di tích của thời đại đồng thau và chắc chắn có sự tham gia ảnh hưởng của một số yếu tố văn hoá khác. Về giới hạn dưới hay thời điểm kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh, dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn ( Phú Hoà- Đồng Nai), Quế Lộc (Quảng Nam) và những hiện vật văn hoá Hán như tiền Ngũ Thù, Vương Mãng ở di tích Hậu Xá (Hội An- Quảng Nam), có thể chấp nhận niên đại muộn nhất của các di tích là thế kỉ I, II SCN. Chủ nhân Văn hoá Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hoá hậu kì đá mới, sơ kì đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hoá Bàu Tró mà chủ nhân văn hoá trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Mã Lai- Pôlinêdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hoá Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hoá hậu kì đá mới- sơ kì đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hoá trên được coi là tiền Môn- Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hoá này nói tiếng Nam Đảo hay Malai- Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á. Đặc trưng văn hoá: Một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạnPTIT sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu- Quảng Ngãi). Tuy vậy, nguồn gốc của hình thức mai táng này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu tiếp. Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông, đã phát hiện nhiều khu mộ- những bãi mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn, phân bố thành cụm hay lẻ tẻ. Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tuỳ táng với các chất liệu đá, đá quý, thuỷ tinh, đồng, sắt và gốm. Ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng trẻ em (Hậu Xá- Hội An- Quảng Nam, Mỹ Tường- Thuận Hải), hầu như các chum chỉ còn đồ tuỳ táng, cát trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hoả táng, có thể do hình thức mộ tượng trưng. Ở những giai đoạn sớm và giữa, đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối, đồ sắt 23
  24. chiếm lĩnh cả về số lượng và chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương pháp rèn). Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số lượng lên đến hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc, văn hoá Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt của văn hoá Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn. Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang), cư dân văn hoá Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo gốm, làm đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại và những dấu vải còn in trên công cụ vũ khí bằng sắt trong các mộ chum. Nghề gốm rất phát triển với nhiều loại chum, vò, bát bồng, đèn, hình bình lãng hoa, bình con tiện, cốc cao chân và vô số những đồ gia dụng. Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu, khắc vạch. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao, lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành). Cư dân văn hoá Sa Huỳnh cũng là những người có năng khiếu thẩm mĩ, rất khéo tay và có một mĩ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai ) bằng thuỷ tinh, mã não, đá, gốm, nephrit. Chất liệu được ưa thích nhất là mã não (mã não được nhập từ nơi khác đến vì vùng miền Trung không có nguyên liệu này). Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mẩu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. Trong các di tích văn hoá Sa Huỳnh tìm thấy số lượng lớn những loại khuyên tai này. Ở di tích Đại Lộc- Quảng Nam còn tìm thấy một khuyên tai hai mấu còn ở tình trạng chế tác dở dang. Trong một số di tích đương đại của nền văn hoá Đông Sơn (Bắc Việt Nam), Philipin, Thái Lan cũng tìm thấy những loại khuyên tai này. Đó là bằng chứng của sự lan toả ảnh hưởng của văn hoá Sa Huỳnh. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn biết nấu cát làm thuỷ tinh và dùng thuỷ tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tai, khuyên tai ba mấu, hai đầu thú ). Từ đây đồ trang sức thuỷ tinh lan ra cả phía Bắc và vàoPTIT phương Nam. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nong nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển cồn bàu. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa thành phần, họ sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển, của rừng, biết phát triển các nghề phổ thông, từng bước họ đã mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và rộng hơn với Ấn Độ, với Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển miền Trung, vào những thế kỉ trước, sau công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai. Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hoá Sa Huỳnh là chứng cớ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại, số lượng của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất 24
  25. mạnh mẽ của cư dân văn hoá này, đều chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai. Sự trùng hợp về địa bàn phân bố, của niên đại kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh và niên đại mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức, của táng thức, của các ngành nghề kinh tế cho thấy Nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Nhà nước Chămpa được hình thành trên cốt lõi của văn hoá Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hoá ngoại sinh Trung Hoa, Ấn Độ. Và sự “Ấn Độ hoá” ban đầu chỉ xảy ra ở lớp mặt của văn hoá (tôn giáo) ở tầng lớp trên của xã hội. 1.2.3. Văn hoá Đồng Nai: Sau thời đại đá cũ, bẵng đi một thời gian dài, đến khoảng hơn 4000 năm cách ngày nay, trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện một lớp cư dân mới. Họ thuộc chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm), sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau. Đông Nam Bộ vào những thiên niên kỉ II- I TCN đã trở thành một trong ba trung tâm văn hoá lớn của thời đại kim khí. Văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam. Văn hoá Đồng Nai được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hoá tại chỗ ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Hàng trăm di tích của các giai đoạn sớm, giữa, muộn đã được phát hiện và nghiên cứu. Những di tích này phân bố suốt từ vùng đồi gò cao cho tới trung, hạ lưu các con sông và ven biển. Mỗi một tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức sản xuất- văn hoá thích hợp. Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh- Bình Long. Vùng liên kết đồi bazan- đá phiến- phù sa cổ dọc hệ thống Sông Bé- Đồng Nai, nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ- mộ táng- xưởng thủ công đơn hay đa ngành, tiêu biểu nhất là SuPTITối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa. Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm Cỏ với những di chỉ, di chỉ kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Đinh Ông, Rạch Núi. Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu Đồng Nai - Vàm Cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu vùng kinh tế - văn hoá mới tạo thành từ đầu thiên niên kỉ I TCN như Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ Ở cả năm tiểu vùng văn hoá tiền - sơ sử Đông Nam Bộ, di vật được đưa ra khỏi lòng đất từ nhiều dạng di di tích khảo cổ khác nhau với nhiều chất liệu gốm, đá, gỗ, đồng, sắt, xương Đó là loại di vật phổ biến và có số lượng lớn. Đây cũng là đặc điểm lớn nhất của văn hoá Đồng Nai- nơi mà công cụ, dụng cụ bằng đá lấn át mạnh mẽ và dài lâu- kim loại do thiếu vắng các nguồn quặng đồng và hợp kim bản địa trong 25
  26. toàn miền. Kĩ thuật chế tác đá mang nhiều tính chất thực dụng, tiết kiệm tối đa công sức và nguyên liệu. Bộ công cụ đá mang đặc tính chuyên môn hoá cao. Chiếm số lượng nhiều nhất là công cụ sản xuất, vũ khí (rìu, bôn, cuốc, mai, dao hái, đục, mũi nhọn- mũi tên). Loại hình trang sức thường gặp là các loại vòng, vật đeo. Tại di tích Đồi Phòng Quân đã tìm được nhiều dấu tích của di chỉ xưởng. Công xưởng này được chuyên môn hóa để chế tạo một loại sản phẩm duy nhất là vòng đá. Một loại hình nữa là đàn đá- đây là chế phẩm đặc thù của văn hoá Đồng Nai, đàn đá có mặt ở nhiều di tích, có niên đại khoảng 3000 năm cách ngày nay. Đặc biệt là ở Bình Đa, lần đầu tiên đàn đá được tìm thấy trong một tầng văn hoá cổ, cùng với tổ hợp di vật gốm đá khác. Phát hiện này đã giúp xác định được niên đại đàn đá, khẳng định sự tồn tại của một nhạc cụ cổ truyền ở Đồng Nai nói riêng và ở nước ta nói chung. Nghề đúc đồng và luyện kim đồng đã xuất hiện vào khoảng 4000 năm cách ngày nay. Tuy vậy, dựa trên những tư liệu mới, có thể thấy rằng đồ đồng đã khá phổ biến vào khoảng 3000 năm cách ngày nay. Nhiều di chỉ đúc đồ đồng đã được phát hiện ở Suối Chồn, Cái Vạn, Dốc Chùa, Bưng Bạc với hàng loại khuôn đúc loại hai mang liên hoàn nhiều vật đúc. Về loại hình ít nhất có ba loại rìu, giáo, mũi dao. Ngoài ra trên khuôn đúc còn thấy lưỡi đục, lưỡi câu, mũi xiên, chuông, lục lạc, lao ngạnh, kim, bông tai Ở giai đoạn muộn có loại hình qua. Giai đoạn muộn của văn hoá Đồng Nai được đặc trưng bởi những khu mộ chum kiểu mộ chum văn hoá Sa Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt, bằng đá, đá mã não, thuỷ tinh bên cạnh những hiện vật gốm, đá điển hình của văn hoá Đồng Nai. Về sự xuất hiện của những di tích mộ chum này, hiện nay còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất. Nghề gốm và nghề làm gốm đã xuất hiện trong những di tích sớm và tồn tại trong suốt quá trình lịch sử cư dân văn hoá Đồng Nai. Chế tạo và sử dụng đồ dùng đun nấu- ăn uống đơn giản về dáng vẻ, mộc mạc và trang trí không cầu kì, song gốm được nung ở độ nungPTIT cao và bằng kĩ thuật bàn xoay. Với những loại hình chủ đạo nồi vò bát, bát có chân Cà ràng, dọi xe sợi, bi, bàn xoa gốm. Loại hình Cà ràng (còn được gọi là gốm sừng bò) thực chất là một loại bếp ba chân có bàn đế thích hợp với môi trường sông nước, được phát hiện trong nhiều di tích bàn xoa gốm là loại dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng đồ đựng bằng gốm nhằm xoa lên mặt trong gốm cho đều, phẳng, nhẵn và làm cứng phôi gốm. Văn hoá Đồng Nai còn nổi tiếng bởi sưu tập công cụ gỗ phong phú về loại hình, nhiều về số lượng. Đặc biệt những tổ hợp hiện vật gỗ tìm thấy ở các di tích vùng ngập mặn ven biển như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn Bên cạnh đó là bộ sưu tập công cụ- đồ dùng chế tác từ xương sừng hết sức độc đáo chưa từng có ở Đông Nam Á, với những lưỡi câu lớn gia công từ sừng hươu, dao và kim 26
  27. dùi từ xương trụ của chó nhà, rìu có vai từ mai rùa biển và nhóm trang sức đủ loại. Về đời sống kinh tế của cư dân văn hoá Đồng Nai; dựa trên hệ thống tư liệu, các nhà nghiên cứu cho rằng những hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong đời sống kinh tế truyền thống Đông Nam Bộ là trồng lúa cạn không dùng sức kéo, trồng rau đậu, cây có quả- củ cho bột bằng phương pháp phát- đốt đặc thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, tôm và nhuyễn thể của sông biển. Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế- kĩ thuật và văn văn hoá của những nhóm cư dân trong văn hoá Đồng Nai, cần nhấn mạnh đến đặc thù của quá trình chuyên môn hoá- phân công lao động- phân vùng kinh tế hoà nhập với từng miền sinh cảnh. Cần có sự quan tâm đặc biệt tới mối ràng buộc thiết yếu giữa những ngành kinh tế chủ đạo nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và cả nghề trồng lúa nước ở những tiểu vùng khả thực nhất (trồng hoa màu, cây có củ- quả và chăn nuôi) và những ngành cung ứng lương thực- thực phẩm tiền sử khác (săn bắn, đánh cá và hái lượm theo phổ rộng những sản phẩm thực- động vật của rừng, suối, sông đầm lầy và biển). Giữa nông nghiệp- khai thác- thủ công (sản xuất đá- công cụ và trang sức; chế luyện kim loại- đúc đồng và rèn sắt, chế tạo gốm- đồ đựng, bàn xoa và dọi se sợi, dệt vải) và thông thương nội, ngoại. Đời sống tinh thần của cư dân văn hoá Đồng Nai được biết đến qua những hiện vật nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình gần ôvan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu, tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng ở Dốc Chùa, tượng Trút Long giao bằng đồng Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh. Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hoá láng giềng như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hoá Sa Huỳnh. Ở giai đoạn cuối của nền văn hoá này, khi kim loại thực sự đã chiếm vị trí quan trọng, giữ vai trò chủPTIT đạo trong đời sống của cư dân, mở rộng những tiểu vùng kinh tế sản xuất và khai thác mới, củng cố những liên hệ kinh tế- văn hoá nội vùng, tạo thành những điều kiện tập trung của cải phân bố giàu nghèo và cố kết quyền lực trung tâm, hình thành cơ cấu xã hội có giai cấp sơ khai và Nhà Nước khởi thuỷ vào những thế kỉ đầu công nguyên. 2. Văn hóa Việt Nam thiên niên kỉ đầu công nguyên 2.1. Văn hoá Việt Nam thời kì Bắc thuộc: 2.1.1. Bối cảnh lịch sử: Vào những thế kỉ cuối của thiên niên kỉ TCN, nền văn hoá Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách ghê gớm. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa được xác lập và tồn tại chưa được bao lâu đã rơi vào tình trạng bị 27
  28. đô hộ. Năm 179 TCN, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông- Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 TCN, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là thứ sử, đầu quận là thái thú. Thời kì này kéo dài từ năm 179 TCN (tuy vậy nó được bắt đầu thực sự sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng, năm 43 sau công nguyên) tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỉ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kì này thường được gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục. Tổ tiên ta đã “mất nước”. Bấy giờ không còn một nước Việt cổ đại, và nếu nói như F. Ăngghen thì bấy giờ dân Việt cổ “không còn có một hành động độc lập trong lịch sử ”. Trong diễn trình lịch sử văn hoá bên cạnh xu hướng Hán hoá là xu hướng chống Hán hoá mạnh mẽ, giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt, văn hoá Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc, đã tiến hành đồng hoá về mặt dân tộc và văn hoá. Nếu như quốc gia, dân tộc và văn hoá Âu Lạc trước đó chưa hình thành hoặc chưa đạt tới trình độ phát triển cao, chưa định vị được những bản sắc vững chắc của riêng mình thì chắc chắn với những chính sách cưỡng chế đồng hoá trong suốt hơn 10 thế kỉ, nhà nước Việt, dân tộc Việt, văn hoá Việt đã trở thành một phần lãnh thổ, một bộ phận cư dân, một tiểu khu văn hoá của Trung Hoa đại lục. Song điều đó đã không thể xảy ra, trong thời kì này, đặc trưng cơ bản của văn hoá Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hoá của mình, bảo vệ dân tộc mình, chống lại chính sách đồng hoá, đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. 2.1.2. Thành tựu văn hoá: Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hoá bản địa, nội sinh tích luỹ được qua hàng nghìn năm trước. Đành rằng trong suốtPTIT thời kì dài đằng đẵng đó, nhân dân ta phải sống cảnh “cá chậu chim lồng” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân, nhân dân vẫn, trong một môi trường sinh thái cụ thể và quen thuộc, không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hoá. Bất cứ lực lượng xã hội nào, bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn cản được sự phát triển kinh tế, văn hoá tự mở lấy đường đi. Nét hằng xuyên của văn hoá Việt Nam là sự “không chối từ” việc tiếp thu, tiêu hoá và làm chủ những ảnh hưởng văn hoá của nước ngoài. Qua con đường giao lưu văn hoá, trào lưu di cư của một số sĩ phu và bần dân Hán tộc xuống Giao Chỉ, trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử!) nằm trong phạm vi của đế chế ấy, nhân 28
  29. dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc về văn hoá vật chất cũng như về văn hoá tinh thần. 2.1.3. Văn hoá vật chất: Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hoá vật chất, từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tòi, khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trầm, rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng, có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chỉ có chảo), ống nhổ, bình con tiện đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang”của đồng bào Mơnông gần đây. 2.1.4. Văn hoá tinh thần: Chủ thể mang truyền thống văn hoá ngàn xưa và sáng tạo nền văn hoá mới trong khi không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hoá ngoại sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hoá, trước tiên là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hoá của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt. Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hoá Việt đặng chống đồng hoá là sự bảo tồn tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Tiếng nói là một thành tựu văn hoá, là một thành phần của văn hoá. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời, bản địa của dân tộc ta trên dải đất này. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ, tiếng Hán- và chữ Hán- được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi một lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình, cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt. Cố nhiên, dưới ách thốngPTIT trị lâu năm của người ngoài, trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần, đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải qua nhiều thế kỉ, tiếng Việt ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu những yếu tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán. Người ta thấy nhiều từ gốc Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng của Hán ngữ một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hoá những từ ngữ ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mới mà sau này người ta gọi là từ Hán- Việt. (Có một quá trình ngược lại, nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt- Hán). Trước và trong thời Bắc thuộc, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai, Tạng- Miến, và nhất là Ấn Độ (các từ chỉ cây trồng như 29
  30. mít, lài và đặc biệt là các từ thuộc về Phật giáo như Bụt, bồ đề, bồ tát, phù đồ, chùa, tháp, tăng già ). Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Từ thời Hùng Vương, đã có một nền phong hoá riêng của người Việt cổ tuy còn giản dị, chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó, nhất định ảnh hưởng đến phong hoá Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân gian của nền phong hoá Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển. Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước,tính chất phụ quyền trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt) thì mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của ta, ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền bá tới miền này). Nét đặc biệt, là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hoá Việt cổ. Lễ giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ, cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe “tam tòng, tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh giặc và lãnh đạo nhân dân đánh giặc của Hai Bà Trưng, Bà triệu Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao. Cùng với phong tục dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc, xăm mình, chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục nhuộm răng, ăn trầu cau Cố nhiên, trong diễn trình lịch sử, nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống đồng), từ đầu công nguyên trở về sau, người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp (theo hệ thống đòn bẩy). Từ tập tục ở nhà sàn, dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng Từ thời Hán, nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao và có ảnh hưởng lớn ở vùng ĐôngPTIT Á. Nền văn học nghệ thuật ấy cũng dần dần được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch, với mục đích nô dịch nên mức độ truyền bá cũng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn chế nhiều. Nhưng dù sao nó cũng để lại dấu ấn trên sự phát triển của nền văn hoá Việt. Thời Văn Lang, Âu Lạc, ta chưa có một nền văn học chính thức và thành văn tuy vẫn có một đời sống văn hoá khá cao. Nét đặc trưng của nó là văn hoá ngôn từ (chứ không phải chữ nghĩa sách vở) với phương thức thông tin truyền miệng. Nền văn nghệ dân gian của ta khá giàu có và tiếp tục phát triển dưới dạng các huyền thoại, huyền thích hay cao dao, tục ngữ. Cuộc sống của nông dân còn hạn chế trong khuôn khổ xóm làng, vùng địa phương, với những điều kiện còn chật hẹp, cho nên sự sáng tạo về nghệ thuật còn mang tính chất giản dị. Sự du nhập nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã có một tác dụng tích cực nhất định đối 30
  31. với đời sống văn hoá Việt Nam, nhất là ở một số trung tâm chính trị và buôn bán tập trung như Luy Lâu, Long Biên Cho đến một hai thế kỉ sau công nguyên, văn hoá Đông Sơn và nghệ thuật Đông Sơn vẫn tiếp tục tồn tại tuy đang trên đà suy thoái mạnh. Dựa vào những hiện vật phát hiện được trong các mộ gạch cổ thuộc các thế kỉ I- VI, người ta hay nói đến sự nảy sinh một nền văn hoá nghệ thuật Hán - Việt trong thời gian này. Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ có chịu ảnh hưởng Trung Hoa như khánh, chuông chịu ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm, vẫn tồn tại những nhạc cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng chiêng Phần cốt lõi của văn hoá tinh thần, là tư tưởng mà ngày trước thường biểu hiện chủ yếu dưới hình thức tôn giáo, tín ngưỡng Phong tục tập quán thời các vua Hùng dựng nước nhìn chung còn thuần hậu, chất phác. Đó là phong hoá tín ngưỡng của một cư dân sống trong khung cảnh một nền văn minh nông nghiệp lúa nước đang phát triển. Phong hoá Giao Chỉ cho đến đầu công nguyên còn rất khác với văn minh Hán. Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong thời Bắc thuộc, người Việt mất nước chứ không mất làng. Bởi vậy, như một tác giả phương Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một toà nhà chỉ bị thay đổi “mặt tiền” mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền văn hoá Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hoá, giành lại độc lập dân tộc. Nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc chỉ có bề dài của thời gian, chứ thiếu bề rộng trong không gian và càng thiếu hẳn bề sâu trong lòng cấu trúc của xã hội nước ta. Nền đô hộ ấy bạo ngược và thâm độc, song vẫn có phần hờt hợt và chỉ có tác động trên bề mặt của xã hội Việt Nam. 2.2. Văn hoá Việt Nam thờiPTIT Đại Việt: 2.2.1. Bối cảnh lịch sử: Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ, từ năm 938 cho đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh. Sau chiến thắng Bạch Đằng, Đại Việt bước vào thời kì xây dựng quốc gia độc lập. Mở đầu là nhà Ngô, năm 938, Ngô Quyền không xưng là Tiết độ sứ nữa mà xưng là Ngô Vương và định đô ở Cổ Loa. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn tan 12 sứ quân, thu giang sơn về một mối, đặt kinh đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, xây dựng quốc gia, củng cố chính quyền. Năm 981, Lê Hoàn kế thừa quốc gia của nhà Đinh lập ra nhà tiền Lê. Năm 1010, nhà Lý lên ngôi, dời đô về Đại La, đổi tên thành này là thành Thăng Long, năm 1054, đổi tên nước là 31
  32. Đại Việt. Năm 1226, nhà Trần thay nhà Lý. Năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần để rồi đất nước Đại Việt rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Năm 1428, sau một thời gian dài kháng chiến, Lê Lợi giành lại độc lập cho đất nước, lên ngôi vua, lập ra nhà Lê. Năm 1527, nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê, sau đó là thời kì Nam Bắc triều và xung đột Lê - Mạc. Từ năm 1570 đến năm 1786, Đàng Trong và Đàng Ngoài xung đột giữa một bên là nhà Lê - Trịnh và một bên là chúa Nguyễn. Năm 1771, anh em Tây Sơn khởi nghĩa, lập lại nền thống nhất đất nước vào năm 1786. Năm 1802, nhà Nguyễn thắng thế, đặt nền cai trị của mình trên toàn bộ đất nước. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Như vậy, diễn trình lịch sử của Việt Nam từ năm 938 đến năm 1858 diễn ra với những đặc điểm sau: - Các vương triều liên tục thay thế nhau xây dựng một quốc gia tự chủ. Sự thay thế các vương triều không làm đứt đoạn lịch sử mà vẫn khiến cho lịch sử là một dòng chảy liên tục. - Đất nước được mở rộng dần về phương Nam, đến giữa thế kỉ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi cà Mau. Mặt khác, thời kì này cũng có nhiều biến đổi từ ngoại cảnh, chủ yếu là các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và những cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt. Bắt đầu từ năm 981, nhà Tiền Lê đã phải đương đầu với sự xâm lược của nhà Tống. Từ năm 1075 đến năm 1077, nhà Lý lại phải chiến đấu chống quân xâm lược Tống. Năm 1258, quân dân nhà Trần bước vào kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất. Năm 1285, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên lần thứ hai lại nổ ra và kết thúc với những chiến thắng vẻ vang. Năm 1288, lần thứ ba giặc Nguyên Mông lại xâm lược Đại Việt để rồi chịu thất bại trước lòng yêu nước vô bờ của quân dân nhà Trần. Năm 1406, giặc Minh xâm lược và đô hộ Đại Việt. Nghĩa quân Lam Sơn sau mười năm “nếm mật nằm gai”, “căm giặc nước thề khôngPTIT cùng sống” đã làm nên chiến thắng, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta năm 1428. Năm 1784, quân Xiêm tràn vào xâm lược vùng Nam Bộ, với tài thao lược của Nguyễn Huệ và lòng yêu nước vô bờ bến của người dân, dân tộc ta lại chiến thắng vẻ vang. Năm 1788, giặc Thanh ồ ạt vào xâm lược Bắc Bộ, một lần nữa, người anh hùng áo vải Tây Sơn, với sự can trường quả cảm của trăm họ lại lập nên kì tích vào năm 1789. Như thế, liên tục chống xâm lược là một nét đặt biệt của lịch sử Việt Nam thời tự chủ. Người dân cũng như các vương triều đều phải tiến hành cuộc chiến đấu tự bảo vệ mình và cộng đồng. Đó là thời kì lịch sử biến động dữ dội, đầy bão táp. Bọn xâm lược, dù dưới màu áo của vương triều nào, dù đến từ chân trời nào đều có chung một ý tưởng: Huỷ hoại nền văn hoá của cộng đồng cư dân bị chúng xâm lược. Thế nhưng, người dân Việt mỗi lần bị xâm lăng là một lần trỗi 32
  33. dậy, chứng tỏ lòng yêu nước bất khuất của mình. Văn hoá Việt lại trỗi dậy, đạt đến những đỉnh cao. Do đó, khi nhìn nhận văn hoá Việt Nam thời tự chủ, các nhà nghiên cứu thường khẳng định rằng có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc: - Lần thứ nhất vào thời Lý- Trần. Sự phục hưng này diễn ra sau khi đất nước được giải phóng khỏi ách Bắc thuộc. - Lần thứ hai vào thế kỉ XV, sau khi giặc ngoại xâm bị quét sạch ra khỏi bờ cõi, thì văn hoá dân tộc bước vào thời kì phục hưng từ đời Lê Thái Tổ đến đời Lê Thánh Tông. - Lần thứ ba vào cuối thế kỉ XVIII, một lần nữa văn hoá dân tộc lại có sự phục hưng mãnh liệt. Mỗi lần phục hưng văn hoá dân tộc như thế, văn hoá Việt Nam lại có những thay đổi cả về lượng lẫn về chất, mà chúng ta chỉ có thể nhìn rõ khi xem xét từng giai đoạn văn hoá. 2.2.2. Thế kỉ X và thành tựu văn hoá triều đại Ngô- Đinh- Tiền Lê: Sau khi đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa, thực sự đã khôi phục nền độc lập và chủ quyền quốc quốc gia, chấm dứt 10 thế kỉ Bắc thuộc. Nói như sử cũ “ Ngô vương nối lại quốc thống”. Tài năng và uy tín cá nhân đã giúp Ngô Quyền duy trì được một chính quyền trung ương tập quyền, mặc dù lúc đó vẫn tồn tại trong nước nhiều thế lực của các hào trưởng địa phương, có xu hướng cát cứ. Năm năm sau, Ngô Quyền mất (944), các con Ngô Quyền (Xương Ngập, Xương Văn) không đủ uy tín và sức mạnh để duy trì chính quyền trung ương tập quyền. Dương Tam Kha (em vợ Ngô Quyền) âm mưu cướp ngôi. Các thổ hào, lãnh chúa nổi lên khắp nơi, cát cứ chống lại chính quyền trung ương. Sau khi Xương Ngập (954) và Xương Văn (965) chết, triều Ngô thực tế không còn tồn tại, đất nước rơi vào thế hỗn loạn của nhiều tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương, đánh lẫn nhau. Sử cũ gọi là “Loạn 12 xứ quân”. Lãnh thổ Việt Nam giữa thế kỉ X bao gồm phần đất Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trên địa bàn đó, tồn tạiPTIT 12 xứ quân cát cứ: - Phú Thọ, Vĩnh Phúc có các xứ quân: Kiều Công Hãn, Nguyễn Khoan - Hà Nội: Nguyễn Siêu - Hà Tây: Ngô Nhật Ánh, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Thuận - Bắc Ninh: Lý Khuê, Nguyễn Thủ Tiệp - Hưng Yên: Phạm Bạch Hổ, Lữ Đường - Thái Bình: Trần Lãm (sau liên kết với Đinh Bộ Lĩnh) - Thanh Hoá: Ngô Xương Xí (con Ngô Xương Ngập) Trước yêu cầu chấm dứt tình trạng cát cứ, Đinh Bộ Lĩnh đã đứng lên đánh bại các sứ quân đối địch, thống nhất đất nước, lập ra nhà Đinh. Năm 968, ông lên ngôi, xưng là hoàng đế (thường gọi là Đinh Tiên Hoàng) lấy niên hiệu Thái Bình, đặt tên nước Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, xây dựng triều chính, bước 33
  34. đầu thống nhất đất nước và tiến thêm một bước là “bắt đầu định giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo”. Thời Đinh, các nhà sư có vai trò rất lớn và rất được coi trọng. Nhà nước lấy đạo Phật làm quốc giáo, định phẩm tước cho sư tăng, ngoài ra còn cử một số sư tăng ra làm quan, gọi là Tăng Quan. Đứng đầu Tăng Quan là các đại sư có quyền hành rất lớn. Nước ta lúc đó được chia làm 10 đạo. Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng tổ chức quân đội thành 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Đứng đầu quân đội là chức Thập đạo tướng quân. Nhưng triều Đinh không tồn tại được bao lâu, năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị giết hại. Đinh Toản (mới 6 tuổi) lên nối ngôi. Các tướng lĩnh trong triều chia thành phe phái đánh lẫn nhau. Ở Trung Quốc, nhà Tống đang lăm le xâm phạm bờ cõi. Trong điều kiện đó, quân sĩ và một số quan lại đã suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua (thường gọi là Lê Đại Hành), lập ra nhà Tiền Lê. Ông nhanh chóng tổ chức lực lượng, tiến hành kháng chiến chống Tống thắng lợi, tiếp tục khôi phục và củng cố chính quyền. Lê Hoàn vẫn đóng đô ở Hoa Lư, xây dựng cung thất, tổ chức các đơn vị hành chính, phân chia thành các lộ, phủ, châu. Bộ máy chính quyền trung ương đại thể mô phỏng theo quan chế thời Đường Tống. Ngoài chức Thái sư còn chức Tổng quản coi việc quân dân, chức Thái uý chỉ huy quân lữ. Năm 1008, Long Đĩnh sửa đổi lại và định ra một số điều khoản mới về quan chế, triều phục. Các hoàng tử đều được phong tước vương và ban cấp. Phật giáo vẫn là tôn giáo thịnh trị, các sư đều được trọng đãi. Về binh chế, năm 1002, Lê Hoàn định quân ngũ, phân tướng hiệu làm hai ban văn võ, tổ chức quân cấm vệ. Dưới triều Lê, ở các địa phương có đặt chức An phủ xứ cai trị các lộ, tri phủ và tri châu cai trị các phủ, châu. Các quan lại địa phương ngoài quyền hành chính còn có cả quyền tư pháp. Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh chấp ngôi vua, Lê Long Đĩnh nối ngôi, là người tàn ác, truỵ lạc, mắc bệnh phải nằm họp triều đình (nên thường gọi là Lê Ngoạ triều) khôngPTIT đủ năng lực và uy tín trị nước. Sau khi Lê Long Đĩnh chết (1009), triều đình đã suy tôn chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt nhà Tiền Lê. Vai trò: Các vương triều Ngô- Đinh- Tiền Lê vừa kế tục chính quyền họ Khúc- Dương vừa tiến lên tự khẳng định chính quyền quốc gia ở mức độ cao hơn. Và bằng hai cuộc kháng chiến thắng lợi chống quân Nam Hán 938 và quân Tống 981, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc, những thành tựu mà các vương triều đã xác lập được ở thế kỉ X về mặt nhà nước dẫu còn đơn giản nhưng đó chính là nền tảng, là cơ sở cho sự phát triển với quy mô lớn hơn ở các thế kỷ tiếp theo. 2.3. Văn hóa Việt Nam thời tự chủ 34
  35. 2.3.1. Thế kỉ XI- XV và thành tựu văn hoá triều đại Lý- Trần, Hồ: Với việc dời đô về Đại La và đổi tên là thành Thăng Long, nhà Lý đã mở đầu một giai đoạn phục hưng văn hoá Đại Việt. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, đưa đất nước phát triển về mọi mặt. Thành tựu văn hoá: + Về văn hoá vật chất: Sau khi dời đô, tại Thăng long, nhà Lý cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài, thành luỹ. Thành Thăng Long là một công trình xây dựng thành luỹ lớn nhất trong các triều đại phong kiến.Với hai vòng, thành dài khoảng 25km, bên trong lại có những cung điện cao ba, bốn tầng. Kiến trúc thời Lý phát triển rất mạnh. Những di tích thời Lý còn lại đến nay như Chùa Giạm, chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa Dọi- Hà Nam), tháp Chương Sơn (Ý Yên- Nam Định) đều là những công trình có quy mô lớn. Tuy nhiên các công trình này đều có sự hoà hợp với thiên nhiên xung quanh. Vì vậy, nói đến mĩ thuật thời kì này chủ yếu là kiến trúc các ngôi chùa và tượng Phật. Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm thể hiện một phong cách đặc sắc và một tay nghề khá thuần thục. Bố cục tượng gọn, đẹp và cân xứng nhưng không trùng lặp và đơn điệu. Từng chi tiết được chú ý khi chạm trổ, những đường cong mềm mại, gợi tả nên vẫn thanh thoát, nhẹ nhàng. Hình tượng con rồng thời Lý khá độc đáo. Bởi vậy, kiến trúc, mĩ thuật thời Lý có nét tương đồng với kiến trúc, mĩ thuật Chăm cũng như một số nước Đông Nam Á. Có thể, trong ý thức của người Việt để “giải Hoa” về văn hoá, người Việt vẫn có ý muốn quay trở lại với cội nguồn Đông Nam Á của mình. Tuy nhiên, người Việt không cực đoan, vẫn tiếp thu những tinh hoa của văn minh Trung Hoa. Cùng với kiến trúc, các nghề thủ công rất phát triển ở thời Lý như dệt, gốm, mĩ nghệ Nghề dệt đã có nhiều thành tựu. Từ vải, lụa đến những loại gấm đoạn với đủ các màu sắc vPTITà hoạ tiết trang trí đặc sắc đã được những người thợ dệt khéo tay và thông minh nhà Lý làm ra. Nghề gốm là nghề có bước phát triển khá dài và đạt trình độ cao. Những lò gốm thời kì này làm ra khá nhiều gạch, ngói đặc biệt là loại ngói bằng sứ trắng, ngói tráng men và những loại gạch khổ lớn có trang trí và khắc niên hiệu đời Lý. Thời Trần, nghề thủ công còn có những bước phát triển mới, hình thành những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định, như làng Ma Lôi (Hải Hưng). Kinh thành Thăng Long mở rộng chia thành 61 phường. Tại đây không chỉ có chợ mà còn có phường thủ công và phố xá buốn bán. + Hệ tư tưởng: Đặc trưng nổi trội thời Lý- Trần là sự dung hoà tam giáo (Nho- Phật- Đạo), còn gọi là chính sách Tam giáo đồng nguyên. Tinh thần văn hoá Lý - Trần 35
  36. là tinh thần khai phóng đa nguyên phối hợp Phật, Nho, Đạo cùng các tín ngưỡng dân gian khác kể cả ảnh hưởng của tôn giáo Chămpa. Đến thế kỉ X, Phật giáo đã có những bước phát triển lớn, nhiều chùa chiền xuất hiện. Đó là các đại danh lam kiên hành cung; các trung danh lam và chùa của các đại sư. Tất nhiên là ngay từ cuối thời Bắc thuộc, đạo Phật đã có tư cách là một tác nhân của khối đoàn kết, là chỗ dựa tinh thần của dân tộc. Đặc biệt vai trò quan trọng của các trí thức Phật giáo lúc bấy giờ. Tinh thần đó vẫn được duy trì dưới thời Lý nhằm tạo ra một phần sức mạnh của sự kiến thiết. Trong một chừng mực, chúng ta thấy khá rõ, đạo Phật thời này đã nhập thế, vì yêu cầu của con người mà tồn tại và phát triển. Sự dung hội với tín ngưỡng dân dã cũng là điểm nổi, để tạo ra một đạo Phật được Việt Hoá phù hợp với hoàn cảnh. Năm 1031, triều Lý bỏ tiền ra xây dựng 950 ngôi chùa. Năm 1129, mở hội khánh thành 84000 bảo tháp (tháp bằng đất nung). Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất sùng mộ đạo Phật. Các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất, do đó có một cơ sở kinh tế nhất định. Nho sĩ còn thưa thớt, vì thế nhà chùa cũng là nơi đào tạo ra những sư tăng đồng thời là những tri thức thời đại. Những trí thức Phật giáo này đã nối liền Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo. Chính họ là người đặt nền cho chính sách tam giáo đồng nguyên. Với những người trí thức ấy, Phật giáo đã gạt bỏ những nhân tố thụ động để tham gia vào sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước. Trong các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, các cao tăng đã tham gia chính sự ở triều đình. Chẳng hạn, sư Vạn Hạnh đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý, sư Đa Bảo và Viên Thông được tham dự bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua. Với những người trí thức ấy, Nho giáo đã tiếp thu thêm những nhân tố từ bi, bác ái của nhà Phật phù hợp với tâm tư nguyện vọng của đời sống người Việt. Phật giáo giai đoạn này còn tác động đến tư tưởng, tâm lí, phong tục và nếp sống của đông đảo nhân dân ở các làng xã. Nó có ảnh hưởng to lớn với kiến trúc, điêu khắc, thơ văn và nghPTITệ thuật. Thời kì đầu giai đoạn tự chủ Nho giáo chưa mạnh, nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn tại trong xã hội Việt Nam như một hiện tượng xã hội hiển nhiên. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo mới bắt đầu. Số lượng nho sĩ được đào tạo hãy còn ít, cho nên ảnh hưởng của nó trong xã hội còn hạn chế. Để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại cho bộ máy hành chính, nhà Lý bắt đầu chăm lo cho việc học tập và thi cử. Năm 1070, nhà Lý dựng Văn Miếu, dựng tượng Chu Công, mở Quốc Tử Giám. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu để chọn lựa nhân tài. Sau đó, nhà Lý còn mở các khoa thi đầu tiên với các môn thi: viết chữ, làm tính, hình luật Từ đây, Nho giáo bắt đầu có địa vị trong xã hội. 36
  37. Đến nhà Trần, vương triều đã chính quy hoá, tạo ra quy củ cho việc học hành, thi cử, lập Quốc học viện để cho con em quý tộc, quan lại, nho sĩ vào học. Tại lộ, phủ, châu, chức học quan được đặt ra. Không chỉ có những trường học của vương triều, các nho sĩ còn lập ra trường học ở các xóm làng. Thể lệ thi cử, học vị (bảng nhãn, thám hoa) dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kì thi Đình. Bởi vậy, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Trong hàng ngũ quan lại, người xuất thân từ nho sĩ ngày càng nhiều hơn. Nho giáo dần phát triển lấn át Phật giáo. Đáng lưu ý là từ nền giáo dục này, tinh thần Khổng giáo đã thấm vào mọi ngõ ngách của đời sống người dân Việt Nam. Vì nền giáo dục học thuật kéo dài qua hàng trăm thế hệ ấy đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hoá, trong tâm thế ứng xử của người dân Việt Nam. Dĩ nhiên, tư tưởng Nho giáo du nhập vào Việt Nam, đặc biệt trong các tầng lớp bình dân người Việt có những độ “khúc xạ” riêng. Bởi lẽ, đất nước, cơ cấu làng xã, ảnh hưởng đến người dân Việt Nam khác với người dân phương Bắc. Mặt khác, Nho giáo chỉ “cấu trúc hoá lại tín ngưỡng, phong tục, nghi lễ đời sống theo hình thức Nho giáo”. Tựu trung, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong giáo dục đạo đức, luân lí , đặc biệt là ở những giá trị phổ quát mang tính nhân bản sâu sắc. Những giá trị phổ quát này được tích hợp vào những giá trị văn hoá bản địa, phù hợp với tâm lí, tâm linh người Việt. Theo một số nhà nghiên cứu, trong sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV có hai khuynh hướng cơ bản: Một là tư tưởng chính trị xã hội gắn liền với thực tiễn dựng nước và giữ nước, hai là chủ nghĩa duy tâm có tính chất tín ngưỡng của Phật giáo. + Nền văn hoá bác học được hình thành và phát triển: Nền văn học chữ viết được hình thành với một đội ngũ tác giả hùng hậu. Đội ngũ này được tạo ra từ hai nguồn: một là các trí thức Phật giáo, hai là các trí thức Nho giáo. Căn cứ vào tài liệu hiện có, từ thế kỉ X đến thế kỉ XII có trên 50 tác giả, trong số đó, đa số làPTIT các nhà sư; từ thế kỉ XIII đến hết thế kỉ XIV có trên 60 tác giả, trong số đó đa số là Nho sĩ. Phần chủ yếu trong văn học thời Lý là thơ, mà phần lớn lại là thơ của các nhà sư, do đó, nội dung liên quan đến triết học và giáo lí Thiền tông. Tuy thế, nhiều bài thơ có ý nghĩa nhân sinh và giá trị văn hoá. Đáng lưu ý nhất là Nam quốc sơn hà của Lý thường Kiệt, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Ở thời nhà Trần, đa số thi nhân đều khác thi nhân thời Lý, họ đều là các nho sĩ. Các tác giả như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Phi Khanh còn để lại các tập thơ ở đời, đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình. Mặt khác, bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, thời kì này chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nôm. Chữ Nôm có thể có từ thời Lý nhưng thơ văn bằng chữ Nôm từ thời Lý thì chưa có bằng cứ. Sử sách có nhắc đến các tác giả có tác phẩm bằng chữ Nôm thời kì này là Trần Nhân Tông với Cư trần 37
  38. lạc đạo phú Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca, Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú, Huyền Quang với Vịnh hoa Yên Tử phú, Ngoài ra, thời kì này các tác giả văn Nôm khác như Nguyễn Sĩ Cồ, Chu Văn An, Hồ Quý Ly. Đặt trong diễn trình lịch sử văn hoá dân tộc, sự xuất hiện một nền văn học viết (cả hai hình thức: cả chữ Nôm và chữ Hán) đều là bước phát triển và về số lượng và chất lượng của nền văn hoá. Cùng với văn học, các ngành nghệ thuật như ca múa, nhạc, chèo, tuồng cũng ra đời và phát triển. Trên cơ sở khai thác những giá trị của kho tàng văn hoá dân gian, thâu hoá những thành tựu văn hoá bác học Trung Hoa, Ấn Độ, các ngành nghệ thuật này rất nhanh chóng định hình bản sắc dân tộc. Nghệ thuật điêu khắc thời Trần mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và thực hơn. Chẳng hạn như con rồng ở cánh cửa chùa Phổ Minh, như tiên nữ và nhạc công ở các bức chạm gỗ chùa Thái Lạc. Cuối thời nhà Trần, nhà Hồ thay thế một khoảng thời gian rất ngắn (1400- 1407). Hồ Quý Ly đã tiến hành những cải cách có những mặt tiến bộ nhất định. Chế độ thi cử được chấn chỉnh theo hướng thiết thực. Hồ Quý Lý coi trọng chữ Nôm, làm thơ Nôm, dịch sách Nôm Nhưng các chính sách cải cách này chưa đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và chưa trả lời được những câu hỏi lớn của dân tộc đang đặt ra một cách gay gắt. 2.3.2. Đặc trưng văn hoá thời Minh thuộc và Hậu Lê Tháng 4- 1407, sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà Minh đã tiến hành một chính sách vô cùng tàn bạo. Có thể nêu ra những đặc điểm của chính sách đó như sau: - Thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt, nhà Minh thực hiện chế độ chiếm đóng quân sự trên đất nước ta mà trong lịch sử chưa từng có. Trên toàn quốc, chúng lập ra 39 thành trì, trong đó có những thành rất lớn với một đạo quân khổng lồ. Đồng thời, chúng thiết lập một bộ máy hành chính,PTIT tài chính với hơn 800 cơ quan để vơ vét bóc lột của dân như Nguyễn Trãi đã từng tố cáo trong Bình Ngô đại cáo. - Thủ tiêu nền văn hoá Đại Việt bằng mọi cách: đập phá các văn bia, đốt sạch tất cả những sách, tài liệu do người Việt viết, hoặc đem về Trung Quốc, bắt ăn mặc theo kiểu Trung Quốc, đem về Trung Quốc những thợ thủ công tài giỏi. Rõ ràng, chính sách của nhà Minh đối với Đại Việt là nhằm huỷ diệt nền văn hoá của người Việt ta, nhằm đồng hoá người Việt thành người Hán. Toàn thể dân tộc Việt đang đứng trước một thử thách vô cùng ngặt nghèo. Sự cưỡng bức về chính trị, quân sự, cùng với sự cưỡng bức về văn hoá, dẫn đến sự giao thoa văn hoá cưỡng bức, cả dân tộc Đại Việt phải giữ gìn bản sắc văn hoá của mình là đặc điểm của diễn trình văn hoá thời kì này. 38
  39. Cuộc tụ nghĩa ở Lam Sơn của người dân, của những người thức giả có lòng yêu nước, với lòng “căm giặc nước thề không cùng sống” đã dẫn đến chiến thắng của các dân tộc Đại Việt trước sự xâm lược và độ hộ của nhà Minh. Trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hoá dân tộc bước vào thời kì phục hưng lần thứ hai. Trước hết là ứng xử với tự nhiên, nhà Lê rất quan tâm đến đê điều và các công trình thuỷ lợi. Một số đê điều cũng được tu bổ lại. Một số đê mới ở ven biển được đắp để ngăn mặn có kè đá chắc chắn. Triều đình đặt chức Hà đê sứ để trông nom đê điều. Từ năm 1492, triều đình cho mỗi xã có một xã trưởng trông nom về đê điều và nông nghiệp. Trong khi đó, với chủ trương lộc điền và quân điền, nhà Lê đã một mặt vẫn bảo tồn công xã, nhưng mặt khác biến công xã thành cơ sở bóc lột của chính quyền phong kiến, biến thành viên công xã thành những nông dân lệ thuộc vào Nhà nước. Đó chính là sự huỷ bỏ dần quyền tự trị của công xã, đẩy nhanh quá trình phong kiến hoá cơ cấu xã hội Việt Nam. Sự thay đổi này trên phương diện quan hệ sở hữu, không tác động nhiều đến cơ cấu tổ chức của làng xã Bắc Bộ. Chính quyền phong kiến phải chấp nhận một số tục lệ cổ truyền của công xã. Sau một thời kì bị tàn phá nặng nề, các ngành nghề, làng nghề phát triển. Nhiều trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện: Kinh thành Thăng Long chia lại thành 36 phường, nhiều phường có phố xá buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Một số tên phường lúc ấy vẫn còn đến bây giờ như phường Yên Thái làm giấy, phường Thuỵ Chương và Nghi Tàm dệt vải, lụa, phường Hàng Đào nhuộm điều. Ngoài ra, nghề dệt, gốm, đúc đồng cũng phát triển. Riêng quan hệ buôn bán với nước ngoài, nhà Lê có phần bị hạn chế nên ngoại thương cũng không được phát triển bằng nhà Lý, Trần. Về giáo dục, vương triều nhà Lê chú trọng mở mang giáo dục. Chế độ đào tạo nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy. Tại kinh thành, cơ quan giáo dục lớn nhất là Quốc Tử Giám hay còn gọi là Thái học viện. Tại các viện, bên cạnh các trường PTITdo nhà nước quản lý còn có các trường học tư. Nội dung học tập kinh điển và lịch sử các vương triều phương Bắc. Đối tượng học của các trường này có phần cởi mở hơn so với thời trước. Không những con em quý tộc quan lại được đi học đi thi, mà cả con em bình dân cũng được như vậy. Không kể giàu nghèo, lệ “ bảo kết hương thi” quy định rất rõ làng xã làng xã cần phải chịu trách nhiệm về người dự thi- Lệ “cung khai tam đại” bắt người đi thi phải trình báo rõ lí lịch ba đời. Cả hai lệ này đều không cho con nhà xướng ca, hoặc gia đình thân nhân có tội với triều đình được đi học và đi thi. Chế độ thi cử của nhà Lê khá quy củ. Từ 1422 trở đi, cứ ba năm một lần tại kinh thành có thi Hội, tại các địa phương có thi Hương, triều đình đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ vào bia đá dựng ở Văn 39
  40. Miếu gọi là bia tiến sĩ. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa qua thi cử, hầu hết, chỉ có số ít là quý tộc, tôn thất. Chính vì vậy, Nho giáo đã nhanh chóng chiếm một địa vị ưu thế trong đời sống tư tưởng, so với các tôn giáo khác. Nho giáo thời Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo đời Tống. Trên phương diện triết học, Tống Nho tàng chứa phần duy tâm đậm hơn, biện hộ cho chế độ quân chủ chuyên chế. Phật giáo, Đạo giáo bị lấn át, nhất là Phật giáo mất vị trí ưu thế của mình đã từng có ở thời Lý, Trần. Thế lực của nhà sư thua kém nho sĩ. Chính sách độc tôn của Nho giáo của nhà Lê gặp không ít sự phản kháng trong dân gian, mà văn hoá dân gian là nơi thể hiện rõ rệt sự phản kháng này. Ở lĩnh vực văn hoá, tổ chức đời sống xã hội, thành tựu văn hoá phải ghi nhận thời kì này là luật Hồng Đức. Năm 1483, Lê Thánh Tông sưu tập tất cả các điều luật đã ban hành rồi bổ sung, hệ thống lại và gọi là luật Hồng Đức. Bộ luật này được thi hành cho đến cuối thế kỉ XVIII, về sau có bổ sung một số điều, tổng cộng là 721 điều, chia làm 6 quyển, 16 chương. Bộ luật này thật ra bao gồm cả luật hình sự, luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự và luật tố tụng. Tất cả đều được trình bày dưới hình thức quy phạm hình luật, nên gọi là Lê triều hình luật. Nhìn từ góc độ văn hoá, bộ luật Hồng Đức là một bước phát triển quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ở loại hình văn hoá ngôn từ, dòng văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi với 254 bài thơ là khối lượng thơ Nôm cổ nhất hiện còn, khẳng định “Nguyễn Trãi là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam” và “Nguyễn Trãi đã làm cả một cuộc cách mạng mà từ trước ông khá lâu, tuy cũng đã có mấy người khởi xướng, nhưng điều ngẫu nhiên của lịch sử là chỉ những thành tựu của ông mới may mắn còn giữ được, và cái phần tài sản tinh thần còn giữ được ấy cho phép khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã thành công, thật sự thành công.” (Nguyễn Trãi, khí phách và tinh hoa dân tộc, Nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1980). Từ sau cuộc cách mạng này, nền văn học tiếng Việt rồi PTITđây còn đi rất xa. Sau Nguyễn Trãi là hội Tao Đàn của Lê Thánh Tông. Hai mươi tám hội viên của hội Tao Đàn để lại khá nhiều tác phẩm, về hình thức tuy còn khuôn sáo, nhưng có ít nhiều đóng góp cho tiến trình văn học, văn hoá dân tộc. Ngoài ra, thời kì này còn khá nhiều tác giả văn chương thể hiện được lòng tự hào dân tộc, khí phách anh hùng và một chủ nghĩa yêu nước vô bờ bến như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn. Nếu như ở phương diện văn chương, thời kì này có nhiều tác gia, tác giả lớn thì ở phương diện khoa học cũng có những tác giả tiêu biểu. Đó là Lương Thế Vinh với Đại thành toán pháp, Vũ Hữu với Lập thành toán pháp Một số loại hình như ca, múa, nhạc vẫn tiếp tục phát triển. Tuồng, chèo là hai thể loại sân khấu đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật. Cuốn Hỷ trường phả lục của Lương Thế Vinh đã hoàn thành 1501 chính là tác 40
  41. phẩm lí luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền, chứng tỏ bước phát triển của tư duy nghệ thuật dân tộc về phương diện lí luận. Về kiến trúc và điêu khắc, sự tác động của hệ thống tư tưởng mà triều đình chọn lựa rất mạnh. Hình tượng con rồng thời Lê đã chuyển hoá khác con rồng thời Lý- Trần. Con rồng thời Lê đầu to, khoẻ, có sừng và lông gáy tua tủa, có chân năm móng quặp vào, trở thành biểu tượng cho quyền uy của phong kiến. Mặt khác, quyết định năm 1492 của vương triều nhà Lê giao cho làng xã quản lí đình làng sẽ tạo điều kiện cho vị thần làng của dân chúng ngự trị tại đây. Tín ngường thờ cúng thành hoàng có sự thay đổi cả về lượng lẫn diện mạo. Đình làng trụ sở thần linh ở mỗi làng quê và cũng mang chức năng mới- là công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của nhà nước. Trên diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam, thế kỉ XV là thời kì phát triển rực rỡ, nói cách khác, đây là thời kì phục hưng của văn hoá Đại Việt. 2.3.3. Đặc trưng của văn hoá từ thế kỉ XVI đến năm 1858: Đặc điểm thời kì này là sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt. Sự xung đột giữa nhà Mạc và nhà Lê rồi sự xung đột gay gắt giữa nhà Lê- Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ và sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng. + Hệ tư tưởng: - Trên thực tế, nhà Mạc chống lại tư tưởng độc tôn Nho giáo của nhà Lê. Nhưng từ trong tiềm thức giai cấp phong kiến vừa bảo vệ Nho giáo, vừa dùng Nho giáo làm kỉ cương cho đời sống xã hội. Từ cuối thế kỉ XVI, cho đến hết thế kỉ XVIII, đời sống tư tưởng ở Việt Nam càng trở nên phức tạp. Giai cấp phong kiến càng sa đọa, đánh mất vai trò làm chủ xã hội của mình. Thế kỉ XVIII đánh dấu sự đổ vỡ của Nho giáo, mọi giá trị của Nho giáo đứt tung không có cách gì có thể cứu vãn được. Những lời của tiến sĩ Phạm Công Thế trả lờiPTIT triều đình khi được hỏi: “Ngươi khoa giáp, sao lại theo giặc?” là “Danh phận không rõ từ lâu, thuận nghịch lấy gì mà phân biệt”; lời của Nguyễn Trang trả lời thầy học: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, quý chúa không bằng quý thân” đã là những cứ liệu xác đáng chứng tỏ sự tan vỡ của Nho giáo trong đời sống xã hội. Tầng lớp nho sĩ bị phân hoá. Một số có tấm lòng ưu thời mẫn thế thì hoặc là lui về ở ẩn, hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa nông dân, đa số đua chen trong trường danh lợi. Sự suy sụp của Nho giáo kéo dài đến nửa đầu thế kỉ XIX. Bắt đầu từ vua Gia Long tới vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, đều ra sức củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tư tưởng văn hoá. Vua Minh Mệnh soạn ra “Mười điều huấn dụ”, vua Tự Đức diễn Nôm thành “Thập điều diễn ca” nhằm truyền bá tư tưởng Nho giáo. Dù có cố gắng bằng mọi cách 41
  42. nhưng các thế lực vương triều cũng không làm cho Nho giáo có được vị thế của nó như ở thế kỉ XV. Trong dân gian, luồng tư tưởng nhân văn chủ nghĩa trỗi dậy và phát triển. - Bắt đầu từ thế kỉ XVI, một tôn giáo mới được du nhập vào nước ta, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi: “Năm Nguyên Hoà thứ I (1533) đời vua Lê Trang Tông có một người Tây tên là Inêkhu theo đường biển lẻn vào giảng đạo Giatô ở các làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ nay thuộc Nam Định.” Từ đó, các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha tìm đến ngày càng đông để truyền giáo. Như vậy là trong đời sống tư tưởng Việt Nam có thêm một tôn giáo. Đó là Kitô giáo. - Sự phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam có phần khác biệt với Phật giáo, Nho giáo ở Việt Nam. Thái độ của các vương triều đối với tôn giáo này qua các thời kì lịch sử có khác nhau. “Trong thế kỉ XVII, chính quyền Trịnh- Nguyễn nhiều lần ra lệnh cấm đạo, trục xuất giáo sĩ. Tuy vậy, nhiều giáo sĩ vẫn lén lút hoạt động để chuẩn bị cơ sở cho những hành động can thiệp và xâm lược sau này” (Lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971) Nhà Nguyễn giai đoạn này đối xử với Kitô giáo trong từng thời kì có khác nhau, lúc thì cho phép hoạt động, lúc thì cấm đoán ngặt nghèo. Nhưng dù sao, Kitô giáo cũng đã xuất hiện ở Việt Nam với tư cách một tôn giáo trong đời sống tư tưởng- văn hoá của người dân. + Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ: Diễn trình lịch sử của tiếng Việt đến thế kỉ XV đã đạt đến độ trong sáng, là một thứ ngôn ngữ giàu và đẹp. Từ thế kỉ XVII, khi vào nước ta để truyền đạo, các giáo sĩ đã học tiếng Việt để giảng đạo, dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt. Chữ Quốc ngữ dần dần xuất hiện. Vì thế, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Italia đã dùng chữ này để soạn sách giáo lí, và làm từ điển tổ chức việc đúc chữ in. Năm 1649- 1651, AlêchxanPTIT đơ rốt (Alexandre de Rhodes) đã cho ra mắt công chúng ở Roma cuốn từ điển Việt- Bồ- Latinh và cuốn Phép giảng tám ngày, một cuốn sách giáo lí bằng hai thứ tiếng Việt- Latinh Sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây, nhưng rõ ràng, trong công trình này, đóng góp của nhiều người Việt Nam không phải là nhỏ. Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới. Tuy nhiên, giai cấp thống trị thời ấy đã không nhận ra lợi ích của việc dùng chữ quốc ngữ. Mãi sau này, các thức giả của thời đại mới nhận thấy và sử dụng nó. + Đàng Trong và sự phát triển văn hoá Việt: 42
  43. Giữa thế kỉ XVI, sau khi Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm nắm tất cả quyền hành, tước đoạt mọi quyền lực của dòng họ Nguyễn. Con trai Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng phải xin vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 rồi kiêm trấn thủ Quảng Nam năm 1570. Thực ra, trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm, lưu dân Việt đã vào đây để khai phá lập làng, lập ấp. Sau khi li khai với tập đoàn Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và tiến hành những cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến, các chúa Nguyễn đã biến Thuận - Quảng thành vùng đất trù phú. Rồi từ Thuận - Quảng các chúa Nguyễn mở rộng dần sự khai phá của mình vào Nam Bộ. So với Đàng Ngoài, Đàng Trong chính là một vùng đất mới của người Việt. Đặc điểm thiên nhiên có nhiều nét khác biệt so với vùng đất cội nguồn là nơi tổ tiên người Việt sinh sống lâu đời. Do vậy, diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam, vùng đất mới sẽ có nhiều nét riêng biệt. Người Việt sẽ phải xử lí một số quan hệ như sau để phát triển vốn văn hoá của mình: - Thứ nhất là giữa vốn văn hoá ẩn trong tiềm thức họ mang theo từng vùng đất cội nguồn và điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng đất mới. - Thứ hai là giữa vốn văn hoá của tộc người Việt và vốn văn hoá của các dân tộc khác trên cùng địa bàn. - Thứ ba là giữa vốn văn hoá của lưu dân khai phá và vốn văn hoá của lớp cư dân xa xưa, nhất là ở Nam Bộ. Mặt khác, suốt hai trăm năm tạo ra cõi trời riêng ở phương Nam, các chúa Nguyễn đã tác động, dù là vô thức tạo cho văn hoá Đàng Trong tính chất khép kín, xa cách với văn hoá Đàng Ngoài. Tuy nhiên, với người dân, sự tác động vô thức của vương triều không làm mất đi hay mờ nhạt ý thức cội nguồn, cả về phương diện văn hoá, cho nên, tính thống nhất của văn hoá Việt vẫn được bảo đảm. Sự thống nhất quốc gia vào thời Quang Trung, sau đó vào thời vua Gia Long, tạo cho sự thống nhấtPTIT này bền vững hơn. + Sự phát triển của các ngành văn hoá nghệ thuật: Đầu tiên là văn học. Nét đáng chú ý của văn học giai đoạn này là văn Nôm, được khởi phát từ các giai đoạn trước đã càng ngày càng phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ đều dùng chữ Nôm để sáng tác. Một số truyện Nôm (khuyết danh) như Truyện Vương Tương, Tô Công phụng sứ xuất hiện xuất hiện ở thế kỉ XVII- XVIII. Sang đến thế kỉ XVIII- XIX, những tác phẩm bằng chữ chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ưu thế trên văn đàn. Những tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, thơ của Bà Huyện Thanh Quan, những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị Độ mai, Quan Ân Thị Kính, Phạm Công- Cúc Hoa, Phạm Tải- Ngọc Hoa, Hoàng Trừu, Thạch Sanh là những tác phẩm có giá trị nhất, không chỉ với thời đại này, mà cả các thời đại sau. Tương ứng với sự phát triển 43
  44. của văn học viết bằng chữ Nôm là sự phát triển của thơ lục bát và song thất lục bát. Hai thể này đã đạt đủ độ nhuần nhuỵ nhất của nó. Chưa bao giờ, nền văn học dân tộc lại đạt đến đỉnh cao rực rỡ như thời kì này. Cùng với sự phát triển của văn học thành văn là sự nở rộ của những sáng tác dân gian. Truyện cười, truyện trạng, tục ngữ đều nở rộ trong giai đoạn này. Các hình thức diễn xướng dân gian như hát tuồng, hát chèo, hát ả đào đều phát triển rất mạnh mẽ. Về kiến trúc, sự trỗi dậy của Phật giáo và Đạo giáo khiến cho những thiết chế của tôn giáo này đều được xây dựng khá nhiều. Đình, đền, chùa khá phát triển mang phong cách dân gian đậm nét. Thế kỉ XVI- XVII, kiến trúc đình làng phát triển mạnh. Bên cạnh các chủ đề tâm linh nhân thế, điêu khắc đình làng còn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hoá đời thường. Vị thành hoàng đã có những bước đi chắc chắn, về ngự tại đình làng, nhất là sau năm 1572, vương triều nhà Lê chủ trương san định thần tích của các vị thần ở các làng và giao cho Nguyễn Bính làm công việc này. Thế kỉ XVIII, những cuộc chiến tranh nông dân bùng nổ như vũ bão đưa đến thắng lợi như vũ bão của phong trào Tây Sơn đã khiến cho tài năng sáng tạo của nghệ sĩ được phát triển mạnh mẽ. Những ngôi chùa, những đình làng được xây dựng trong giai đoạn này như đình Thạch Lỗi (Mỹ Văn- Hưng Yên), đình làng Đình Bảng (Bắc Ninh) thể hiện được phong cách điêu khắc thế kỉ XVII, cảnh sinh hoạt ít dần trong các hoa văn trang trí, nhưng nghệ thuật trang trí thì vẫn tự nhiên, thoải mái. Nghệ thuật tạc tượng thế kỉ XVIII đã đạt đến một trình độ điêu luyện. Tiêu biểu cho sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian giai đoạn này là các pho tượng ở chùa Tây Phương. Đề tài được lấy từ sự tích của Đạo Phật nhưng các pho tượng vẫn mang phong cách Việt, hiện thực và gợi cảm. Đáng chú ý là kiến trúc điêu khắc dưới thời các vua Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX ở kinh thành Huế. Năm 1802, vua Gia Long đã chọn Huế làm kinh đô thay cho Thăng Long. Trên một mặt bằng gần vuông, kinh đô Huế được xây dựng theo bố cục ba lớp thànhPTIT bao bọc khác nhau là: kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành. Lối kiến trúc truyền thống cả ở Thăng Long và Tây Đô vẫn được tiếp nối với kiến trúc của kinh thành Huế. Là một toà kiến trúc đồ sộ và kiên cố, kinh thành nghiêng về một thành quân sự hơn là một kinh đô. Hoàng thành gần vuông không nằm đúng trung tâm của kinh thành mà hơi lệch về phía Nam. Về cơ bản, Hoàng thành là thành bảo vệ cho bộ máy chính quyền nhà Nguyễn. Tử Cấm thành được bố cục theo hình chữ nhật, nằm hơi lùi về phía sau, nhằm tạo ra một thế giới biệt lập cho cuộc sống của nhà vua. Điêu khắc Huế gồm tượng người và thú ở các lăng mộ, tượng các linh vật như tượng rồng, tượng các con cù, tượng ở các chùa và chạm nổi quanh cửu đỉnh. Tại các cửu đỉnh “mạch truyền thống điêu khắc thời Lê được tiếp thu và 44
  45. phát triển ở thời Nguyễn, nhưng nó đã được hiện đại hơn và phần nào tiếp cận với nghệ thuật tạo hình phương Tây đương thời.” Tóm lại, diễn trình văn hoá Việt Nam ở thiên niên kỉ thứ hai (từ năm 938 đến năm 1858) đã phát triển với nhiều nét đặc biệt. Sự phát triển cả về lượng và chất của các thành tố văn hoá đã khiến cho văn hoá Việt Nam đạt đến trình độ rực rỡ nhất nhất cho đến lúc ấy. Ba lần văn hoá dân tộc phục hưng, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của một dân tộc đã trưởng thành, một quốc gia văn hiến, là một sức mạnh để dân tộc ta hội nhập vào thế giới hiện đại, để đi qua những sóng gió, bão tố lịch sử ở giai đoạn sau. 3. Văn hoá Việt Nam từ 1858 đến 1945: 3.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lí do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán. Năm 1859, khi không thắng nổi quân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của nhà Nguyễn, thực dân Pháp đã quay vào Nam Bộ và tiến công thành Gia Định. Triều đình nhà Nguyễn phân vân, có phái chủ chiến, có phái chủ hoà. Năm 1862, thực dân Pháp đã chiếm được các tỉnh thành ở Gia Định như Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long Năm 1867, chúng lại chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, đặt ách thống trị ở Nam Bộ. Năm 1873, người Pháp bắt đầu đánh ra Bắc Bộ. Năm 1874, triều Nguyễn lại kí với thực dân Pháp một hiệp ước đầu hàng ( còn gọi là hiệp ước Giáp Tuất) gồm 22 khoản, trong đó có những khoản chủ yếu công nhận chủ quyền của Pháp ở cả lục tỉnh, thay đổi chính sách đối với đạo Thiên chúa, mở của cho Pháp tự do buôn bán. Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội. Năm 1883, chúng lại đánh vào kinh thành Huế. Ngày 25- 8- 1883, triều Nguyễn đã phải kí tại Huế một “Hiệp ước hoà bình” (còn gọi là hiệp ước Hácmăng) với người Pháp, thừa nhận Pháp đặt quyền thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam. Từ đây, triều đình Huế thừa nhậnPTIT Nam Kì là thuộc địa của người Pháp, còn lại Trung Kì, Bắc Kì thuộc chế độ bảo hộ. Phần đất từ Bình Thuận trở vào Nam là thuộc địa; phần đất từ Khánh Hoà tới Đèo Ngang là chế độ nửa bảo hộ: An Nam tức Trung Kì; phần đất từ Đèo Ngang ra bắc là theo chế độ bảo hộ của người Pháp. Đồng thời người Pháp cũng tước bỏ hoàn toàn quyền ngoại giao của triều đình Huế. Nói như cách nói của F. Ăngghen: dân tộc Việt Nam đã mất hành động độc lập trong lịch sử. Đứng trước vận mệnh lớn lao của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên chống Pháp. Những quan lại của triều đình Huế như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết , những lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực ở Nam Kì, như Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Cầm Bá Thước ở Bắc Kì, Trung Kì liên tục đứng 45