Giáo trình môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế - Trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 124 trang Gia Huy 19/05/2022 2260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế - Trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_hoc_lich_su_cac_hoc_thuyet_kinh_te_truong_cao.pdf

Nội dung text: Giáo trình môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế - Trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH   GIÁO TRÌNH MÔN HỌC LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ MÃ MÔN HỌC MH2104067 BẬC TRUNG CẤP Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020
  2. ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH   GIÁO TRÌNH MÔN HỌC LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ MÃ MÔN HỌC MH2104067 THÔNG TIN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI Họ và tên: Huỳnh Thị Tuyết Hồng Học vị: Thạc sĩ Đơn vị: Khoa Kế Toán Tài Chính TRƯỞNG KHOA TỔ TRƯỞNG CHỦ NHIỆM BỘ MÔN ĐỀ TÀI HIỆU TRƯỞNG DUYỆT Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020 Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020
  3. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  4. LỜI GIỚI THIỆU Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, đang vận dụng tổng hợp nhiều lý thuyết kinh tế mà thực tiễn là vận dụng chủ nghĩa Marx - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó chủ nghĩa Marx - Lenin là trọng tâm với học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin làm nền tảng. Việc nghiên cứu lịch sử học thuyết kinh tế giúp ta hiểu sâu, rộng, có nguồn gốc về các học thuyết kinh tế trong đó có kinh tế chính trị Marx – Lenin. Mở rộng và nâng cao kiến thức về kinh tế nhằm trang bị cơ sở lí luận, để hiểu, lý giải các hiện tượng kinh tế và các đường lối chính sách kinh tế hiện nay, nhằm phục vụ cho nghiên cứu các khoa học kinh tế và hoạt động thực tiễn. Mặt khác, nó cũng giúp chúng ta thấy rõ hơn tính khoa học, tính cách mạng của học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin. Sinh viên học sinh nghiên cứu lịch sử học thuyết kinh tế nhằm vận dụng vào đời sống thực tiễn lao động của bản thân và trang bị kiến thức nền tảng để nghiên cứu các vấn đề kinh tế hiện đại. Với mục đích nghiên cứu sự ra đời, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của các học thuyết kinh tế, ở đây chỉ dừng lại việc nghiên cứu những tư tưởng kinh tế đã trở thành hệ thống lý luận kinh tế hoàn chỉnh. Các trường phái kinh tế đều phân tích điều kiện ra đời, đặc điểm cơ bản của trường phái, các lý thuyết, đại biểu tiêu biểu cho mỗi trường phái và đánh giá về vai trò lịch sử của mỗi trường phái kinh tế trong hệ thống tư tưởng của nhân loại đặt trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội. Giáo trình môn học này được biên soạn theo chương trình môn Lịch sử các học thuyết kinh tế dùng cho sinh viên hệ trung cấp, cao đẳng thuộc các ngành chuyên kinh tế và quản trị kinh doanh, gồm 9 chương: Chương 1: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của môn Lịch sử các học thuyết kinh tế Chương 2: Các tư tưởng kinh tế thời Cổ đại và Trung cổ Chương 3: Các học thuyết kinh tế của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Chương 4: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tưởng Chương 5: Học thuyết kinh tế cuả chủ nghĩa Mác – Lênin Chương 6: Các trường phái kinh tế của trào lưu tân cổ điển Chương 7: Các học thuyết kinh tế của trường phái Keynes Chương 8: Các học thuyết kinh tế tư sản hiện đại Chương 9: Các lý thuyết hiện đại về phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển
  5. Chúng tôi đã cố gắng phân tích cụ thể, mở rộng những lý luận chủ yếu của các đại biểu tiêu biểu của các trường phái kinh tế để người học có thể hiểu và nắm được những quan điểm, tư tưởng, học thuyết kinh tế cơ bản chi phối sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường qua các thời kỳ lịch sử. Đồng thời cũng góp phần làm sáng tỏ quá trình đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay. Đó cũng chính là những nội dung kiến thức cơ bản của môn học. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc rằng tài liệu này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong được sự đóng góp ý kiến để hiệu chỉnh, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng của bài giảng. Xin chân thành cảm ơn. TpHCM, ngày tháng . năm . Chủ biên
  6. MỤC LỤC TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN 3 LỜI GIỚI THIỆU 4 CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ 1 Giới thiệu 1 Mục tiêu 1 1.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ 2 1.1.1 Lịch sử các học thuyết kinh tế là gì? 2 1.1.2.Vấn đề cơ bản của lịch sử các học thuyết kinh tế 2 1.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ 3 1.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng 3 1.2.2. Phương pháp logic kết hợp với lịch sử 4 1.2.3. Một số phương pháp khác 4 1.3. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU CỦA MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ 4 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 5 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 5 CHƯƠNG II 1 Giới thiệu 1 Mục tiêu 1 2.1. CÁC TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỔ ĐẠI 2 2.1.1. Hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm tư tưởng kinh tế cổ đại 2 2.1.2. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu của Hy Lạp cổ đại 3 2.1.3. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu của La mã cổ đại 5 2.1.4. Các tư tưởng kinh tế cổ đại ở Trung Quốc 5 2.2. CÁC TƯ TƯỞNG KINH TẾ THỜI TRUNG CỔ 6 2.2.1. Hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm tư tưởng kinh tế thời Trung cổ 6 2.2.2. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu thời Trung cổ 7 2.2.3. Tư tưởng kinh tế phong kiến ở Trung Quốc 8 2.2.4. Tư tưởng kinh tế phong kiến ở Nhật Bản 8 2.2.5. Tư tưởng kinh tế ở Ấn Độ 9 2.2.6. Sự phát sinh tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng thời kỳ Trung cổ 9 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 9 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 10 CHƯƠNG III 1 Giới thiệu 1 Mục tiêu 1 3.1. CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG 1 3.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa trọng thương 1 3.1.2. Những quan điểm kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương 3
  7. 3.1.3. Đánh giá những cống hiến của chủ nghĩa trọng thương 4 3.2. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN 5 3.2.1. Hoàn cảnh xuất hiện các trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển 5 3.2.2. Đặc điểm của kinh tế học tư sản cổ điển 5 3.3. CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TRONG THỜI KÌ RA ĐỜI CỦA KINH TẾ HỌC TƯ SẢN CỔ ĐIỂN 6 3.3.1. William Petty và sự ra đời học thuyết kinh tế tư sản cổ điển ở nước Anh 6 3.3.2. Sự phát sinh kinh tế học tư sản cổ điển Pháp - trường phái trọng nông 9 3.3.3. Học thuyết kinh tế của Adam Smith (1723 - 1790) 10 3.3.4. Học thuyết kinh tế của David Ricardo: 17 3.3.5. Các quan điểm kinh tế của S. Sismondi (1773-1842) 21 3.4. CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ THỜI KÌ HẬU CỔ ĐIỂN 22 3.4.1. Các tư tưởng kinh tế của Thomas Robert Malthus (1766-1834) 22 3.4.2. Các tư tưởng kinh tế của Jean Baptiste Say (1767-1832) 24 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 26 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 27 CHƯƠNG IV 29 Giới thiệu 29 Mục tiêu 29 4.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG TƯỞNG. 30 4.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa xã hội không tưởng Tây Âu đầu thế kỷ XIX 30 4.1.2. Đặc điểm cơ bản của học thuyết kinh tế chủ nghĩa xã hội không tưởng 30 4.2. TƯ TƯỞNG KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG TƯỞNG 31 4.2.1. Tư tưởng kinh tế chủ yếu của Saint Simon (1760 – 1825) 31 4.2.2. Tư tưởng kinh tế chủ yếu của Charles Fourier (1772 – 1832) 32 4.2.3. Tư tưởng kinh tế của Robert Owen (1771 – 1858) 35 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 38 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 38 CHƯƠNG V 1 Giới thiệu 1 Mục tiêu 1 Nội dung chính 2 5.1. TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MARX 2 5.1.1. Tiền đề về kinh tế - xã hội 2 5.1.2. Tiền đề về tư tưởng 3 5.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỘ TƯ BẢN 3 5.3. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA MARX VÀ ENGELS TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ 8 5.4. NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA LENIN TRONG HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MARX - LENIN 8 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN: 12 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM: 13
  8. CHƯƠNG VI 1 Giới thiệu 1 Mục tiêu 2 6.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI TRÀO LƯU TÂN CỔ ĐIỂN 2 6.2. CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CỦA TRÀO LƯU TÂN CỔ ĐIỂN 3 6.2.1. Học thuyết kinh tế của trường phái cận biên Áo 3 6.2.2. Học thuyết kinh tế của trường phái Anh 6 6.2.3. Học thuyết kinh tế của trường phái Mỹ 8 6.2.4. Học thuyết kinh tế của trường phái Jonh Maurice Clark (1884 – 1963) 9 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 9 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 10 CHƯƠNG VII 12 Giới thiệu 12 Mục tiêu 13 7.1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA TRƯỜNG PHÁI KEYNES 13 7.2. CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG PHÁI KEYNES 15 7.3. CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁP KEYNES MỚI 21 7.4. Ý NGHĨA CỦA LÝ THUYẾT KINH TẾ TRƯỜNG PHÁI KEYNES 23 7.5. HẠN CHẾ CỦA LÝ THUYẾT TRƯỜNG PHÁI KEYNES 23 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN: 24 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM: 24 CHƯƠNG VIII 1 Giới thiệu 1 Mục tiêu 1 8.1. CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO MỚI 2 8.2. LÝ THUYẾT VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC 3 8.3. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG PHÁI CHÍNH HIỆN ĐẠI 6 8.3.1. Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện 6 8.3.2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế trường phái chính hiện đại 6 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 7 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 7 CHƯƠNG IX 10 Giới thiệu 10 Mục tiêu 10 9.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 11 9.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHẤT TRIỂN 11 9.2.1. Thuyết “Cái vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ bên ngoài” của Paul Anthony Samuelson: 11 9.2.2. Thuyết “Cất cánh” của Rostow: 12
  9. 9.2.3. Lí thuyết phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hóa 12 9.2.4. Lí thuyết tăng trưởng kinh tế ở châu Á gió mùa 13 CÂU HỎI ÔN TẬP TỰ LUẬN 14 CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
  10. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ Mã môn học: MH2104067 Vị trí, tính chất của môn học: - Vị trí: Môn học lịch sử các học thuyết kinh tế là môn học cơ sở, được phân bổ trong học kỳ II. - Tính chất: Môn học cung cấp các kiến thức liên quan đến sự hình thành và vận dụng các học thuyết kinh tế trong hoạt động thực tiễn. Mục tiêu môn học: - Về kiến thức: + Nhận biết được các thông tin liên quan đến công tác lịch sử hình thành các học thuyết về kinh tế. + Trình bày được lịch sử các học thuyết kinh tế quan trọng về trọng nông, trọng thương, các hiện tượng kinh tế, tìm hiểu về một số nhà kinh tế đóng góp to lớn trong lịch sử và các đường lối, chính sách kinh tế hiện nay. + Vận dụng nghiên cứu các khoa học kinh tế và hoạt động thực tiễn. - Về kỹ năng: Nhận diện được các mô hình kinh tế. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của các học thuyết đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Tinh thần cầu tiến trong học tập và công việc. + Tôn trọng đạo đức nghề nghiệp và nội quy của doanh nghiệp.
  11. CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ Giới thiệu: Trong chương này người học cần nắm vững các nội dung cơ bản: *Về đối tượng nghiên cứu môn Lịch sử các học thuyết kinh tế. Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn khoa học nghiên cứu quá trình hình thành, phát sinh, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của các trường phái kinh tế do các giai cấp cơ bản trong các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau thực hiện. Đối tượng nghiên cứu môn học là hệ thống các quan điểm kinh tế của các trường phái khác nhau gắn với từng giai đoạn lịch sử nhất định, mà các quan điểm kinh tế đó đã được hình thành trong một hệ thống chính trị nhất định. *Về phương pháp nghiên cứu của môn học. Sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu trong đó chính yếu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Marx - Lenin. Đặc biệt, sử dụng quan điểm lịch sử cụ thể trong nghiên cứu môn học. *Về mục tiêu cần đạt được của môn học. Hiểu được những nét cơ bản nhất của lịch sử lý luận kinh tế, các học thuyết kinh tế chính qua các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội. Hiểu được bản chất, nội dung của những lý luận kinh tế, học thuyết kinh tế được học và phương pháp luận của các đại biểu, các trường phái đã đề xuất các học thuyết lý luận trong từng giai đoạn lịch sử. Hiểu bản chất của học thuyết kinh tế để có thái độ đúng đối với giá trị của các học thuyết. *Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Ý nghĩa của việc nghiên cứu môn học này nhằm giúp cho người học hiểu có nguồn gốc về những vấn đề kinh tế nói chung và kinh tế chính trị Marx - Lenin nói riêng. Mặt khác, việc nghiên cứu môn học này còn giúp cho người học có nền tảng để nghiên cứu các vấn đề kinh tế hiện đại. Mục tiêu: Hiểu được đối tượng nghiên cứu của môn lịch sử các học thuyết kinh tế, phân biệt môn học này với các môn học kinh tế khác. Vận dụng các phương pháp chính yếu để nghiên cứu môn học.
  12. Nhận thức được ý nghĩa và sự cần thiết phải nghiên cứu môn lịch sử các học thuyết kinh tế. Nội dung chính: 1.1. Đối tượng nghiên cứu của môn lịch sử các học thuyết kinh tế 1.1.1. Lịch sử các học thuyết kinh tế là gì? Phân biệt một số khái niệm sau: Tư tưởng kinh tế: Là những quan hệ kinh tế được phản ánh vào trong ý thức của con người, được con người nhận thức và đúc kết thành kết quả của quá trình nhận thức những quan hệ kinh tế của con người. Học thuyết kinh tế: Là hệ thống những quan điểm kinh tế của các đại biểu tiêu biểu cho các tầng lớp, các giai cấp trong một chế độ xã hội nhất định. Hệ thống những quan điểm kinh tế là kết quả của việc phản ánh các quan hệ sản xuất vào ý thức con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kinh tế chính trị: Là môn khoa học xã hội, nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung nhất của đời sống con người tức là những quan hệ kinh tế trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. Lịch sử tư tưởng kinh tế: Là môn khoa học nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng kinh tế được thể hiện qua hệ thống chính sách, cương lĩnh, điều luật, các tác phẩm, các học thuyết kinh tế của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, nhằm hệ thống lại quy luật phát sinh, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của các tư tưởng kinh tế. Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn khoa học xã hội, nghiên cứu quá trình hình thành, phát sinh, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của hệ thống quan điểm kinh tế thuộc các giai cấp cơ bản trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Hay nói cách khác, lịch sử các học thuyết kinh tế là bảng tổng kết những thành tựu trong lĩnh vực khoa học kinh tế của loài người. 1.1.2. Vấn đề cơ bản của lịch sử các học thuyết kinh tế Đối tượng nghiên cứu của môn học là hệ thống các quan điểm kinh tế của các trường phái khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Hệ thống các quan điểm kinh tế là kết quả tổng hợp những tư tưởng kinh tế giải thích bản chất của các hiện tượng kinh tế nhất định, có mối liên hệ phụ thuộc
  13. lẫn nhau. Những tư tưởng kinh tế đó phát sinh là kết quả phản ánh của các quan hệ sản xuất vào ý thức của con người. Trong quá trình học, người học nhận thức được những cống hiến, những giá trị khoa học cũng như phê phán khoa học theo quan điểm lịch sử về những hạn chế nhất định của các đại biểu, các trường phái kinh tế học. Không dừng lại ở cách mô tả mà phải hiểu bản chất của vấn đề, cụ thể là tìm hiểu quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp được giải quyết vì lợi ích của giai cấp nào, tầng lớp nào. Cụ thể: - Hiểu rõ, lý giải được điều kiện nảy sinh lý luận tư tưởng - Hiểu được nội dung, bản chất giai cấp của học thuyết. - Hiểu được phương pháp luận của trường phái đề xuất học thuyết - Hiểu được sự vận động và phát triển có tính quy luật của học thuyết. Tất cả các học thuyết kinh tế đều xoay quanh giải quyết hai vấn đề cơ bản: Thứ nhất, giá trị hàng hóa là gì? Nó được hình thành, phân phối, trao đổi và sử dụng như thế nào? Thứ hai, con người có vai trò như thế nào trong quá trình hình thành, phân phối, trao đổi và sử dụng giá trị hàng hoá? Hai vấn đề này xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu nội dung của môn học, là cơ sở để phân biệt, so sánh các trường phái kinh tế và chi phối mọi vấn đề kinh tế khác trong hệ thống quan điểm kinh tế của các học thuyết kinh tế. Lịch sử phát triển của các học thuyết kinh tế tuân theo các quy luật của quá trình nhận thức. Đó là sự vận động phát triển từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của các hình thái kinh tế - xã hội. Vì thế, không có học thuyết kinh tế nào là tuyệt đối, là hoàn hảo cuối cùng, mà tất cả các học thuyết kinh tế đã xuất hiện trong lịch sử chỉ là những nấc thang trong tiến trình lịch sử nhận thức của con người về lĩnh vực kinh tế. Cho nên, việc xem xét lại, bổ sung, phát triển các khái niệm, các phạm trù kinh tế là đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của khoa học kinh tế dựa trên cơ sở sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. 1.2. Phương pháp nghiên cứu của môn lịch sử các học thuyết kinh tế 1.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng Phương pháp duy vật biện chứng là phương pháp cơ bản, xuyên suốt quá trình nghiên cứu. Là phương pháp nhận thức khoa học, nhằm nghiên cứu một cách
  14. sâu sắc, chỉ rõ bản chất của các hiện tượng kinh tế - xã hội. Phương pháp này đòi hỏi trong nghiên cứu phải đảm bảo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể. Hệ thống các quan điểm kinh tế là kết quả của việc phản ánh quan hệ sản xuất vào trong ý thức con người ở những giai đoạn nhất định của lịch sử, mà các quan điểm kinh tế này là yếu tố quan trọng của kiến trúc thượng tầng xã hội. Vì thế, cần phải tìm hiểu nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển và thay thế lẫn nhau của các quan điểm kinh tế, học thuyết kinh tế ngay trong nền kinh tế - xã hội đó. 1.2.2. Phương pháp logic kết hợp với lịch sử Phương pháp này đòi hỏi khi nghiên cứu các quan điểm kinh tế phải gắn với từng thời điểm lịch sử và sự vật hiện tượng cụ thể, phân chia thành các giai đoạn phát triển của chúng, không dùng các tiêu chuẩn đo lường hiện tại để đánh giá ý nghĩa, đo lường hay phê phán các quan điểm kinh tế trước đó. 1.2.3. Một số phương pháp khác Phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh nhằm đánh giá chính xác những giá trị đóng góp, hạn chế, tính phê phán, tính kế thừa và phát triển của các trường phái kinh tế, các nhà lý luận kinh tế trong lịch sử. Mặt khác, phản ánh một cách khách quan tính phê phán vốn có của các học thuyết kinh tế, không phủ nhận tính độc lập tương đối của các học thuyết kinh tế và ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 1.3. Ý nghĩa nghiên cứu của môn lịch sử các học thuyết kinh tế Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhằm giúp cho người học hiểu có nguồn gốc về những vấn đề kinh tế nói chung và kinh tế chính trị Marx–Lenin nói riêng. Bởi vì, lý luận kinh tế là sự phản ánh hiện thực khách quan, song hiện thực khách quan luôn luôn biến động, vì vậy nghiên cứu nguồn gốc, phạm trù, quy luật của kinh tế chính trị không thể bỏ qua tiến trình lịch sử của nó. Mặt khác, còn giúp cho việc nghiên cứu các vấn đề kinh tế hiện đại, mở rộng kiến thức về kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao hiểu biết về các khoa học kinh tế khác. Từ đó trang bị những kiến thức cần thiết cho các nhà quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, các nhà kinh tế học và cho mỗi cá nhân trong hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh. Mô hình kinh tế của Việt Nam hiện nay có sự vận dụng tổng hợp các lý thuyết kinh tế trong đó, học thuyết kinh tế chính trị Marx-Lenin là nền tảng. Vì vậy,
  15. việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế trang bị cho người học cơ sở để hiểu các quan điểm, chủ trương đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, góp phần củng cố niềm tin có cơ sở khoa học vào định hướng phát triển kinh tế của đất nước. 1.4. Câu hỏi ôn tập tự luận 1. Phân biệt tư tưởng kinh tế và học thuyết kinh tế, lịch sử tư tưởng kinh tế và lịch sử học thuyết kinh tế? 2. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử các học thuyết kinh tế là gì? 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu môn học này? 4. Các học thuyết kinh tế thường nghiên cứu về vấn đề gì? 1.5. Câu hỏi ôn tập trắc nghiệm Câu 1: Hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của loài người là? A. Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ (1). B. Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thuỷ (2). C. Hình thái kinh tế xã hội phong kiến (3). D. Các phương án (1), (2), (3) đều sai. Câu 2: Đối tượng của môn Lịch sử các học thuyết kinh tế là? A. Hệ thống các quan điểm kinh tế của các giai cấp trong lịch sử. B. Các quan điểm kinh tế. C. Các quan điểm kinh tế của các đại biểu tiêu biểu của các giai cấp trong lịch sử. D. Ý kiến khác. Câu 3: Câu tục ngữ nào sau đây thể hiện tư tưởng kinh tế gian lận? A. Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái (1). B. Treo đầu dê, bán thịt chó (2). C. Trong vốn thì nài, ngoài vốn thì buông (3). D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 4: Việc nghiên cứu môn Lịch sử các học thuyết kinh tế có ý nghĩa: A. Hiểu sâu sắc kinh tế chính trị và kinh tế học (1). B. Hiểu chủ trương, đường lối của Đảng ta hiện nay (2). C. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. D. Mở rộng và nâng cao hiểu biết về kinh tế thị trường (3).
  16. Câu 5: Phương pháp nghiên cứu của môn Lịch sử các học thuyết kinh tế là? A. Phương pháp duy vật biện chứng. (1) B. Phương pháp phân tích. (2) C. Phương pháp tổng hợp. (3) D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 6: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế là môn học nghiên cứu vấn đề gì? A. Giá trị hàng hóa. B. Quá trình hình thành, phân phối, trao đổi và sử dụng giá trị hàng hoá. C. Vấn đề lợi nhuận kinh tế. D. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học kinh tế của loài người. Câu 7: Quá trình nhận thức các học thuyết kinh tế trong lịch sử là? A. Quá trình nhận thức từ thấp đến cao. (1) B. Quá trình nhận thức từ đơn giản đến phức tạp. (2) C. Quá trình nhận thức từ hiện tượng đến bản chất. (3) D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 8: Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn học mang tính? A. Giai cấp. (1) B. Phổ dụng. (2) C. Tầm thường. (3) D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 9: Lịch sử tư tưởng kinh tế bắt đầu từ khi nào? A. Xuất hiện chữ viết. (1) B. Xuất hiện tiền. (2) C. Xuất hiện nền trao đổi hàng hoá. (3) D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 10: Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn học cơ sở cho các môn khoa học nào? A. Thương mại quốc tế (1). B. Kinh tế vĩ mô (2). C. Kinh tế vi mô (3). D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng.
  17. CHƯƠNG II: CÁC TƯ TƯỞNG KINH TẾ THỜI CỔ ĐẠI VÀ TRUNG CỔ Giới thiệu: Trong chương này người học cần nắm vững các nội dung cơ bản: *Các tư tưởng kinh tế thời cổ đại Trình bày tóm tắt hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm các tư tưởng kinh tế Hy lạp cổ đại với những đặc thù lịch sử cụ thể của chế độ chiếm hữu nô lệ. Các nhà tư tưởng thời kỳ này phủ nhận thương nghiệp, trao đổi và tư bản cho vay nặng lãi, vì họ có cùng quan điểm rằng các hoạt động này có thể gây nguy hiểm cho chính quyền. *Các tư tưởng kinh tế thời trung cổ Đêm trường thời trung cổ là bức tranh của các thế lực phong kiến tranh giành quyền lợi đan xen lẫn nhau làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội của nhân dân. Các đại biểu tư tưởng thời kỳ này, nêu lên khái niệm về giá cả công bằng là sự trao đổi ngang giá. Dưới xã hội nô lệ và phong kiến, các tư tưởng kinh tế của các đại biểu tiêu biểu như Xenophon, Platon, Aristoteles, Khổng Tử, Thomas d’Aquin đề cập tới những phạm trù như: phân công lao động, phân phối thu nhập, hàng hoá, tiền tệ, tư bản, ruộng đất. Những tư tưởng đó phản ánh sự đấu tranh của giai cấp thống trị để bảo vệ kinh tế tự nhiên hoặc ủng hộ kinh tế hàng hóa đang có xu hướng phát triển. Những tư tưởng này nhằm giải quyết những vấn đề đạo đức, luân lý, chính trị, giai cấp hơn là giải quyết về bản thân của vấn đề kinh tế. Do vậy, có thể nhận định rằng các tư tưởng kinh tế thời cổ đại và trung cổ còn rất sơ khai, nó chỉ phản ánh hình thức bên ngoài, thiếu tính khái quát và bản chất của vấn đề kinh tế nội tại nên chưa trở thành hệ thống lý luận về kinh tế hoàn chỉnh. Mặt khác, do chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng thần học và đạo giáo nên các tư tưởng kinh tế giai đoạn này thiếu tính khách quan, chưa xây dựng được lý luận khoa học về kinh tế. Mục tiêu: Hiểu được hoàn cảnh ra đời hệ thống lý luận về kinh tế của thời cổ đại và trung cổ. Các tư tưởng tiêu biểu thể hiện qua các tác phẩm văn học, sử học, triết học và các kiến nghị của tầng lớp quý tộc. Phân biệt được hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm của các tư tưởng kinh tư tưởng kinh tế chủ yếu của Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc cổ đại, các tư tưởng kinh tế chủ yếu thời trung cổ và một số tư tưởng kinh tế phong kiến.
  18. Nội dung chính: 2.1. Các tư tưởng kinh tế cổ đại 2.1.1. Hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm tư tưởng kinh tế cổ đại Thời kỳ cổ đại với nền văn minh Hy Lạp, La Mã cổ đại và nền văn hoá sông Nin, sông Hằng. Ở phương Đông, thời cổ đại bắt đầu từ cuối thế kỷ IV đến thế kỷ thứ III, trước công nguyên. Ở phương Tây, thời cổ đại bắt đầu từ cuối thế kỷ III đến cuối thế kỷ II trước công nguyên. 2.1.1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tư tưởng kinh tế cổ đại Một là, chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển mạnh mẽ, chế độ công xã nguyên thuỷ dần tan rã. Số nô lệ tăng nhanh hơn dân số tự do, đặc biệt ở Hy Lạp số nô lệ gấp hơn chín lần dân số tự do, nghĩa là cứ mười người nô lệ mới có một người dân tự do. Hai là, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình thành. Người dân Hy Lạp biết đúc tiền, tổ chức các hoạt động tín dụng như cho vay nặng lãi đã phổ biến rộng rãi. Có sự tiến bộ trong phân công lao động ở các ngành nghề như: nông nghiệp, tiểu thủ công, thương nghiệp. Ba là, chế độ tư hữu phát triển mạnh mẽ, phân hoá giai cấp diễn ra dữ dội tạo ra mối mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ ngày càng gay gắt hơn. Đến thế kỷ thứ VI thì xuất hiện nhà nước chủ nô. 2.1.1.2. Đặc điểm tư tưởng kinh tế cổ đại Thừa nhận sự tồn tại của chế độ chiếm hữu nô lệ là hợp lý và duy nhất nên thực hiện bảo vệ nó một cách kiên quyết. Các nhà tư tưởng lúc này nêu lên quan điểm để bảo tồn và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ như: làm thế nào để có nô lệ, sử dụng nô lệ như thế nào để có hiệu quả kinh tế, phát triển quy mô sản xuất. Tình hình đó đặt ra cho những nhà tư tưởng chủ nô nhiệm vụ là phải tìm cách làm giảm mâu thuẫn của xã hội nô lệ, bảo vệ sự sống còn của xã hội nô lệ và lợi ích của giai cấp chủ nô. Thời kỳ này diễn ra chiến tranh dai dẳng giữa các thành bang. Tư tưởng coi khinh lao động chân tay. Platon cho rằng lao động chân tay là điều nhục nhã, đáng hỗ thẹn vì nó làm hư hỏng con người, người lao động không thể là người bạn tốt: như nghề nông, thủ công dành cho nô lệ, chiến sĩ mới là người tốt. Aristote thì quan niệm công dân chỉ nên tham gia chiến trận và quản lý nhà nước, không nên làm nghề thủ công, buôn bán và cày ruộng là những công việc “trái với lòng từ thiện”. Lên án hoạt động thương nghiệp, cho vay nặng lãi, đồng thời lý tưởng hóa nền kinh tế tự nhiên. Platon cho rằng thương nghiệp là một tội ác, là công việc nhục nhã, xấu xa đối
  19. với con người vì nó phát triển tính giả dối, lường gạt. Aristote cho rằng hoạt động cho vay nặng lãi cũng xấu xa như kinh doanh nhà chứa và so với việc cho vay nặng lãi thì cướp bóc trực tiếp là điều vinh dự hơn. Khi lên án sự tồn tại và phát triển của tầng lớp quý tộc, tài chính trong xã hội, Platon mơ ước đến một xã hội lý tưởng, trong xã hội đó không có chế độ tư hữu. Đó là một xã hội toàn những công dân tự do nhưng vẫn còn nô lệ. Aristote thì phê phán gay gắt sự phân hóa giàu nghèo và sự bần cùng của xã hội, nhưng đồng thời ông cũng không có chủ trương chống lại chế độ tư hữu. Trong lý luận của các nhà lý luận Hy Lạp cổ đại đã chú ý phân tích yếu tố kinh tế. Họ đã biết đến những phạm trù như: phân công lao động, giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, một số chức năng của tiền tệ. Nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế, ảnh hưởng cung - cầu, đến giá cả hàng hóa. 2.1.2. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu của Hy Lạp cổ đại 2.1.2.1. Tư tưởng kinh tế Xenophon Xenophon (430-354 trước công nguyên), là nhà sử học, nhà thực tiễn, học trò của nhà triết học nổi tiếng Socrat. Tư tưởng kinh tế của ông có thể khái quát như sau: Về phân công lao động, Xenophon xuất phát từ thực tế quá trình phát triển và trao đổi hàng hoá để bàn về phân công lao động. Xenophon cho rằng phân công lao động thúc đẩy lưu thông hàng hoá, vì vậy ở các thành phố lớn phân công lao động phát triển hơn ở các thành phố nhỏ. Thấy được mối quan hệ giữa phân công lao động với qui mô của thị trường. Về hàng hoá, Xenophon cho rằng giá trị của một vật phụ thuộc vào tính hữu ích của nó và việc con người biết sử dụng vật đó. Có những vật mặc dù người sở hữu nó không biết sử dụng nó nhưng khi đem bán vẫn có giá trị. Như vậy, Xenophon thấy được tác dụng hai mặt của vật thể hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Về tiền tệ, Xenophon cho rằng nên sử dụng nô lệ vào việc khai thác bạc, vì bạc là tiền có nhu cầu vô hạn. Ông thấy được vai trò của tiền trong nền kinh tế nhưng chỉ chú trọng vào chức năng cất trữ của tiền. Về giá cả, Xenophon khuyên giới quý tộc nên mua nô lệ từng tốp nhỏ để không ảnh hưởng đến giá nô lệ, mặc dù nhu cầu cần nhiều nô lệ để mở rộng quy mô sản xuất. Vậy là ông đã thấy được ảnh hưởng của quy luật cung – cầu tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường. Xenophon coi khinh lao động chân tay, lao động chân tay là điều nhục nhã, hổ
  20. thẹn của người dân. Tuy vậy, ông vẫn thấy điều tốt đẹp ở lao động nông nghiệp và bênh vực nền kinh tế tự nhiên, đặc biệt là nông nghiệp. 2.1.2.2. Tư tưởng kinh tế Platon Platon (427-347 trước công nguyên) là nhà triết học thuộc trường phái duy tâm. Ông có nhiều tác phẩm cho rằng sự tồn tại của giai cấp trong xã hội là tất yếu. Ông là đại biểu cho giai cấp chủ nô nên ông cho rằng sự phân chia giai cấp là tình trạng tự nhiên của xã hội, cơ sở sinh ra giai cấp, từ giai cấp lại sinh ra nhà nước. Ông luôn thuyết phục cho tư tưởng “cha truyền, con nối” trong lĩnh vực nghề nghiệp để chuyên môn hoá sản xuất và nâng cao năng xuất. Trên cơ sở phân công lao động xã hội, ông xây dựng một nhà nước lý tưởng bao gồm các tầng lớp giai cấp sau: Tầng chóp: bao gồm các triết nhân và quân nhân đứng đầu cộng đồng nô lệ; Tầng trung gian: gồm những người dân; Tầng đáy: gồm những người nô lệ. Sự trao đổi sản phẩm cũng là tất yếu và bắt nguồn từ sự phân công lao động xã hội, nó là hình thức liên hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Những vấn đề lý luận về sản xuất hàng hóa. Ông nghiên cứu tiền tệ với các chức năng của nó là phương tiện lưu thông, cất trữ, thước đo giá trị và tiền tệ thế giới. Platon chống lại khuynh hướng công thương trong nền kinh tế Hy Lạp, chống lại sự phát triển kinh tế hàng hóa, muốn quay lại với nền kinh tế tự nhiên, bảo vệ cho chế độ sở hữu công về ruộng đất. 2.2.2.3. Tư tưởng kinh tế Aristotle Aristotle (384-322 trước công nguyên), là một nhà khoa học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại trên nhiều lĩnh vực như: triết học, logic học, kinh tế học, văn học, sử học . Ông cho rằng công dân chỉ nên tham gia chiến trận và quản lý nhà nước chứ không nên làm nghề thủ công, cày ruộng hay buôn bán. Ông chống lại quan điểm về sở hữu công của Platon, bảo vệ chế độ tư hữu tài sản, coi nô lệ, súc vật đều là một, nô lệ chỉ là một công cụ có linh hồn. Về một số phạm trù của kinh tế hàng hóa và trao đổi hàng hóa như: “Sự trao đổi không thể có được nếu không có sự bằng nhau”. Ông nói: “Có một công cụ của trao đổi là tiền tệ”. Karl Marx nhận xét: “Thiên tài Aristotle là chỗ đó, trong biểu hiện giá trị của hàng hóa, ông tìm ra quan hệ bình đẳng” hay còn gọi là nguyên tắc “trao đổi ngang giá”. Tuy nhiên, ông chưa tìm ra cơ sở của sự ngang giá. Về tiền tệ, ông giải thích nguồn gốc xuất hiện của tiền là do khó khăn trong vấn đề trao đổi, do thỏa thuận của những người đem trao đổi, do việc mở rộng quan hệ thị trường và khẳng định chỉ có tiền mới làm cho các hàng hóa so sánh với nhau được.
  21. Về thương nghiệp, ông phân biệt ba loại thương nghiệp là: Thương nghiệp trao đổi H – H; Thương nghiệp hàng hóa H - T – H; Đại thương nghiệp T – H – T’ trao đổi nhằm mục đích làm giàu, tăng khối lượng tiền tệ. Ông cho rằng có hai loại kinh doanh. Một là, những hoạt động kinh tế: giá trị sử dụng có tác dụng kích thích là chủ yếu, trao đổi là phương tiện để tổ chức kinh tế tốt hơn. Hai là, việc sản xuất ra của cải: Mục đích của loại kinh doanh này là làm giàu và tăng khối lượng tiền tệ. Về nguồn gốc của lợi nhuận thương nhân và các nhà sản xuất lớn, Aristotle cho rằng lợi nhuận là do địa vị độc quyền mà có và lợi nhuận này cũng như lợi tức cho vay là một hiện tượng không bình thường, trái quy luật tự nhiên. Tư tưởng của các nhà tư tưởng cổ đại đã trở thành mầm móng, nền tảng xuất phát cho những tư tưởng kinh tế chính trị khoa học. 2.1.3. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu của La mã cổ đại 2.1.3.1. Tư tưởng kinh tế Carton Carton (234-149 trước công nguyên) với tư tưởng kinh tế ca ngợi nền kinh tế tự nhiên, chủ yếu là lao động chăn nuôi, trồng trọt. Ông tích cực bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ và giai cấp chủ nô. Về lợi nhuận, ông cho rằng lợi nhuận chính là số dư ra ngoài giá trị, mà giá trị là chi phí sản xuất ra vật phẩm, hàng hoá. 2.1.3.2. Tư tưởng kinh tế Granky Tibery Granky Tibery (163-132 trước công nguyên) không đồng tình với việc chiếm hữu đất đai của các đại điền chủ. Ông tham gia hoạt động phản kháng cùng với nô lệ. Tư tưởng của ông thể hiện yêu cầu ổn định vị trí của người dân trong xã hội và phân tán ruộng đất. 2.1.4. Các tư tưởng kinh tế cổ đại ở Trung Quốc Quan điểm kinh tế của phái Khổng học: Người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 trước công nguyên). Ông là người ca ngợi chế độ công xã, tuyên truyền thờ cúng tổ tiên nhưng ông cũng không phê phán chế độ chiếm hữu nô lệ. Ông là người chủ trương đức trị với quan điểm xem trọng con người trong lao động sản xuất nhưng vẫn kêu gọi mọi người phục tùng số mệnh, thực hiện nhiệm vụ được giao. Quan điểm kinh tế của phái Pháp gia: Đây là trào lưu tư tưởng gắn chặt với chủ nô và nhà giàu. Theo họ, chỉ có nghề nông với nghề binh là nghề chính đáng, còn thương mại và thủ công là có hại cho nhà nước bởi vì họ làm giàu tư nhân dễ dẫn đến chiếm đoạt chính quyền. Đại diện cho trường phái này là Thương Ửng (tể tướng nước
  22. Tần vào khoảng năm 350 trước công nguyên), người tích cực bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ bành trướng. Quan điểm kinh tế của tác phẩm Quản Tử Luận: Phân chia xã hội thành đẳng cấp, coi sĩ, nông, công, thương là cơ sở của đất nước. Xem nghề nông là nghề chủ yếu. Tán thành sự can thiệp nhà nước vào đời sống kinh tế. Thị trường là nơi điều tiết tất cả các hàng hóa. Những người gắn liền với thị trường có thể biết vì sao mà có trật tự, không trật tự, vì sao mà hàng hóa nhiều hay ít mặc dù họ không sản xuất ra hàng hoá đó. 2.2. Các tư tưởng kinh tế thời trung cổ 2.2.1. Hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm tư tưởng kinh tế thời Trung cổ 2.2.1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tư tưởng kinh tế Trung cổ Sơ kỳ Trung cổ từ thế kỷ V đến cuối thế kỷ XI: thời kỳ hình thành xã hội phong kiến. Trung kỳ trung cổ từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV: thời kỳ phát triển của xã hội phong kiến. Hậu kỳ trung cổ từ thế kỷ XVI - thế kỷ XVII: thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Thời đại phong kiến với hoạt động lao động sản xuất chính là kỹ thuật thủ công nên người nông nô thường là làm việc độc lập, ít có sự hợp tác trong lao động, năng xuất lao động cao hơn so với chế độ chiến hữu nô lệ nên việc sản xuất ra giá trị thặng dư cao hơn và trở thành mục tiêu để chúa phong kiến chiếm đoạt. Nền kinh tế của chế độ phong kiến là nền kinh tế tự nhiên, tuy nhiên ở thời kỳ này hàng hoá cũng phát triển mạnh nên xuất hiện mối mâu thuẫn giữa nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hoá. 2.2.1.2. Đặc điểm tư tưởng kinh tế Trung cổ Tư tưởng kinh tế thời kỳ này chủ yếu quan tâm bênh vực cho nền kinh tế tự nhiên, ít chú ý đến những vấn đề kinh tế hàng hóa như: Giá trị, giá cả, năng xuất lao động, tiền tệ v.v Các tư tưởng thời kỳ này không có khái niệm giá trị, lên án thương nghiệp và cho vay nặng lãi. Chiếm vị trí quan trọng trong các quan điểm kinh tế thời kỳ phong kiến là học thuyết “giá cả công bằng”. Tư tưởng kinh tế thời trung cổ gắn với tư tưởng tôn giáo, các chúa đất phong kiến dựa vào quyền lực tinh thần để công khai bóc lột người dân. Hoạt động lao động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp. Hình thức bóc lột lao động thặng dư lúc bấy giờ của các chủ đất là các loại địa tô qua các thời kỳ như: thu tô hiện vật, thu tô lao dịch, địa tô tiền. Ở Tây Âu, giáo hội và tăng lữ giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chính trị, xã hội. Nhà thờ chiếm giữ 1/3 đất đai canh tác và thực hiện phát canh thu tô như các
  23. chúa đất phong kiến. Tư tưởng kinh tế thời trung cổ gắn với những phong trào xã hội, phản ánh thông qua các cuộc khởi nghĩa của nông dân, các yêu sách kinh tế thể hiện lợi ích của giai cấp. 2.2.2. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu thời Trung cổ 2.2.2.1. Tư tưởng kinh tế của Augustin Siant Augustin Siant (354-450) là linh mục người Ý. Ông là người đưa ra thuật ngữ “giá cả công bằng” với ý nghĩa: giá cả công bằng phù hợp với giá cả trung bình, phù hợp với chi phí lao động; cùng một hàng hoá có thể có giá cả công bằng khác nhau tuỳ theo sự đánh giá của các đẳng cấp nhác nhau. Như vậy, trong tư tưởng giá cả công bằng ông đã kết hợp cả hai yếu tố chi phí lao động và lợi ích của sản phẩm. 2.2.2.2. “Chân lý Sali”, “Luật tạp chủng” Trong thời kỳ đầu trung cổ, công việc đồng áng là công việc duy nhất, xã hội chưa phân chia thành các tầng lớp. “Chân lý Sali” được tạo ra ở vương quốc Phơ Răng, nó là biểu tượng phát sinh chế độ phong kiến, xã hội công xã tan rã. Nó bảo vệ chế độ sở hữu công cộng của công xã và bảo vệ sở hữu từng thành viên của công xã. “Chân lý Sali” phản ánh quá trình tách biệt hoá của từng hộ nông dân, minh chứng sự phát sinh giai cấp. Các học giả tư sản phản động đã xuyên tạc “Chân lý Sali” bằng cách minh chứng tính cổ xưa của sở hữu tư nhân của giai cấp. Cuối thời kỳ Trung cổ người ta thiết lập các quan hệ phong kiến, xuất hiện “Luật tạp chủng” bảo vệ sở hữu nông nô của chế độ phong kiến. 2.2.2.3. Tư tưởng kinh tế của Thomas d’Aquin Thomas d’Aquin là linh mục, nhà thần học người Ý. Ông áp dụng logic để gắn các phạm trù kinh tế với các tín đồ tôn giáo theo luận điểm “chúa trời có quyển sở hữu, còn con người chỉ có quyền sử dụng của cải”. Coi trọng lao động vì lao động là để tự nuôi sống và ngăn ngừa sự lười biếng, lao động trí óc là tốt nhất, trí tuệ con người là pháp quyền tự nhiên. Về quyền tư hữu, ông ca ngợi chế độ tư hữu tài sản, bênh vực chế độ tư hữu và nhà thờ. Ông coi quyền quản lý tài vật là do tạo hóa giao phó. Thomas d’Aquin phát triển lý luận “giá cả cân bằng” vì giá cả hàng hoá phụ thuộc vào lao động hao phí nên trao đổi phải ngang giá. Về các hoạt động kinh tế, Thomas d’ Aquin phân biệt hai loại: Những nỗ lực trực tiếp tạo ra của cải vật chất để chiếm hữu và hưởng dụng là rất đáng thương, đáng quý và rất đáng kính trọng; Những hoạt động trung gian hưởng lợi dựa trên lao động người
  24. khác là những hoạt động đáng chê trách và đáng bị trừng phạt như thương nghiệp và cho vay nặng lãi. Về tư bản và lợi nhuận, quan niệm lúc bấy giờ cấm cho vay nặng lãi vì tiền không thể sinh ra tiền được. Về địa tô, Thomas d’Aquin quan niệm địa tô là khoản thu nhập của ruộng đất, khoản này là tặng vật của tự nhiên, của thượng đế ban tặng con người, khác với thu nhập có được từ tư bản và tiền tệ là kích thích lòng tham của con người. Về dân số, Thomas d’Aquin lo ngại và cảnh báo về sự gia tăng dân số quá mức. Cùng với sự gia tăng dân số thì việc đi lại thuận lợi, có sự giao thương giữa các vùng. 2.2.3. Tư tưởng kinh tế phong kiến ở Trung Quốc Quan điểm về ruộng đất: Thời cổ đại, ruộng đất chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Đến thời Xuân Thu chuyển sang chế độ thái ấp, “tỉnh điền” bắt đầu tan rã, xuất hiện việc mua bán ruộng đất, ruộng đất tư hữu bắt đầu ra đời. Hai hình thức sở hữu này tồn tại song song đến cuối chế độ phong kiến. Trong chính sách đất công, từng triều đại quy định khác nhau ít nhiều nhưng có điểm thống nhất ở chính sách quan điền là nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý chia cho nông dân cày cấy kể cả quan lại gọi là bổng lộc. Cuối triều Minh thì ruộng đất phần lớn chủ yếu trong tay địa chủ và quan lại, cứ mười người dân thì có đến chín người không có ruộng đất. Quan điểm về thuế: Dưới thời phong kiến người dân nộp tô thuế rất nặng nề, mức thuế là năm phần mười thu hoạch dưới thời nhà Tống được duy trì suốt chế độ phong kiến. Quan điểm về thương mại: Quan điểm coi thường nghề buôn vì sự giàu có của nghề buôn làm cho nông dân càng thêm nghèo khổ. Một số nhà buôn giàu có lại mua ruộng đất trở thành địa thương gia kiêm địa chủ. Tình hình đó đã ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh của nền kinh tế hàng hoá và nảy sinh quan hệ sản xuất mới. 2.2.4. Tư tưởng kinh tế phong kiến ở Nhật Bản Quan điểm về ruộng đất Từ năm 642 dưới thời Thiên Hoàng Hoàng Cực, nhà nước sở hữu toàn bộ ruộng đất, nếu ruộng đất là phần thưởng thì được truyền lại cho con cháu. Do gia tăng dân số nên nhà nước khuyến khích khai khẩn đất hoang với nhiều chính sách trong đó có chính sách cấp quyền sở hữu vĩnh viễn cho người khai khẩn. Thực hiện chính sách này dẫn đến việc ruộng đất nhà nước ngày càng thu hẹp, ruộng đất tư càng phát triển, chế độ ban
  25. điền tan rã, chế độ trang viên phong kiến ra đời mâu thuẫn với lợi ích của nhà nước. Nhà nước ban hành nhiều chính sách với mục đích thẩm tra lại ruộng đất. Tuy nhiên, lúc bấy giờ chế độ trang viên đã phát triển khắp cả nước nên ruộng đất tư hữu vẫn giữ vai trò quyết định. Quan điểm về thuế Việc nộp thuế của dân cày là rất nặng nề nên năm 645, Thiên Hoàng Hiếu Đức lên ngôi, niên hiệu Tai-ca đã hạ chiếu cải cách nhằm tước bỏ quyền lợi bất chính của thượng lưu thiểu số, bãi bỏ chế độ “tư dân”. Nghĩa là giới quý tộc phong kiến không được giữ dân làm vật tư hữu. 2.2.5. Tư tưởng kinh tế ở Ấn Độ Quan điểm về ruộng đất ở Ấn Độ thời kỳ này là quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhà nước, ngoài ra các đền chùa tôn giáo và các loại thầy tu cũng có ruộng đất. Mức thuế ruộng đất người dân phải nộp bằng một phần sáu thu hoạch mùa vụ. Ngoài ra người dân còn phải chịu lao dịch như: đắp thành, xây cung điện, làm các công trình thuỷ lợi, khai khẩn Đến cuối thời Trung cổ, mức thuế tăng lên 1/3 thu hoạch nên đời sống người dân rất khổ cực, nếu gặp thiên tai thì họ có thể bị chết đói hàng loạt. 2.2.6. Sự phát sinh tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng thời kỳ Trung cổ Thomas More (1478-1535), mô tả sự phá sản bần cùng hoá của nông dân nước Anh do tích luỹ nguyên thuỷ nên ông khẳng định “ở những nơi chế độ sở hữu tư nhân thống trị thì tất cả của cải vật chất chỉ rơi vào tay một số ít người mà thôi”. Ông cho rằng sự đói khổ trong xã hội là do thiếu tiền nên ông xác định một đất nước không tưởng là một đất nước có chế độ sở hữu công cộng, không có sự tách biệt giữa nông thôn và thành thị, điều tiết sản xuất, ngày làm 6 giờ, phân phối công bằng và không có chiến tranh xâm lược. Cuối thời Trung cổ, dân số tăng nhanh, giao thương phát triển, hình thành tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh là tiền thân của giai cấp tư sản. 2.3. Câu hỏi ôn tập tự luận 1. Đặc điểm nổi bật của các tư tưởng kinh tế cổ đại và trung cổ? 2. Những quan điểm tương đồng và bất đồng về kinh tế của các nhà tư tưởng thời kỳ Hy Lạp cổ đại? 3. Các tư tưởng kinh tế quan trọng của thời phong kiến là tư tưởng về vấn đề gì?
  26. 4. Trình bày những điểm chủ yếu của tư tưởng kinh tế ở phương Đông thời Trung cổ? 5. Trình bày những điểm chủ yếu của tư tưởng kinh tế ở La Mã cổ đại? 2.4. Câu hỏi ôn tập trắc nghiệm Câu 1: Tư tưởng kinh tế thời cổ đại phê phán hoạt động kinh tế nào? A. Nông nghiệp. B. Tiểu thủ công. C. Tư bản cho vay nặng lãi. D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 2: Hoàn cảnh ra đời tư tưởng kinh tế cổ đại? A. Chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển mạnh (1). B. Nền kinh tế hàng hoá bắt đầu phát triển (2). C. Phát triển hình thức sở hữu tư hữu (3). D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 3: Tư tưởng kinh tế cổ đại là tư tưởng kinh tế của giai cấp nào? A. Địa chủ. B. Tư sản. C. Chủ nô. D. Địa chủ. Câu 4: Chế độ “tỉnh điền” thời Trung Quốc cổ đại là gì? A. Chỉ có đất tư. B. Đất đai của quan lại. C. Đất đai vừa có đất công, vừa có đất tư. D. Toàn bộ đất đai là của chung. Câu 5: Tư tưởng kinh tế thời cổ đại phê phán hoạt động kinh tế nào? A. Nông nghiệp (1). B. Tiểu thủ công (2). C. Thương nghiệp (3). D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 6: Đối tượng chủ yếu của sở hữu thời cổ đại là?
  27. A. Nông dân (1) B. Thợ thủ công (2) C. Nô lệ (3) D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 7: Quy luật kinh tế nào đã được các nhà tư tưởng cổ đại đề cập đến? A. Quy luật giá trị (1) B. Quy luật cung – cầu (2) C. Quy luật lượng – chất (3) D. Các phương án (1), (2), (3) đều đúng. Câu 8: Các tư tưởng kinh tế thời cổ đại và trung cổ bảo vệ cho: A. Nền kinh tế tự nhiên. B. Nền kinh tế hoàng hóa. C. Nền kinh tế thị trường. D. Nền kinh tế tri thức. Câu 9: Hoạt động lao động sản xuất chính thời phong kiến là kỹ thuật gì? A. Kỹ thuật thủ công B. Kỹ thuật công nghiệp C. Kỹ thuật số D. Kỹ thuật cơ khí. Câu 10: Đặc điểm nổi bật về kinh tế thời trung cổ là: A. Lãnh địa là cơ sở kinh tế đóng kín, mang tính chất tự cung, tự cấp. B. Giao thương kinh tế phát triển C. Sản xuất tạo ra năng suất cao D. Ý kiến khác
  28. CHƯƠNG III: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN Giới thiệu: Trong chương này người học cần nắm vững các nội dung cơ bản: *Các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản ở các nước Châu Âu chủ yếu nghiên cứu lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Ra đời trong bối cảnh phương thức sản xuất phong kiến tan rã vào thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. *Các học thuyết kinh tế của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Các học thuyết kinh tế của kinh tế tư sản cổ điển xuất hiện chủ yếu ở nước Anh và nước Pháp nghiên cứu từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá trong bối cảnh phương thức sản xuất tư bản phát triển cuối thế kỷ XVII. Giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ và đồng thời phát triển giai cấp công nhân. *Các học thuyết kinh tế của trường phái kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển Từ những năm 30 của thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập ở nhiều nước. Một mặt, sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được khẳng định. Mặt khác giai cấp vô sản ở các nước không ngừng lớn mạnh. Phong trào của giai cấp công nhân phát triển mạnh cả về quy mô và tính chất, đe doạ đến sự sống còn của chủ nghĩa tư bản. Thời kỳ này xuất hiện những hình thức khác nhau của chủ nghĩa xã hội không tưởng, phê phán kịch liệt chế độ tư bản, có tác động ảnh hưởng mạnh trong giai cấp vô sản. Bởi vậy, giai cấp tư sản cần có lý luận khoa học để chống lại lý luận của chủ nghĩa xã hội không tưởng nên trường phái hậu cổ điển ra đời. Mục tiêu: Trình bày các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương. Các giai đoạn phát triển và đặc điểm của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Liệt kê các học thuyết kinh tế trong thời kỳ ra đời của kinh tế tư sản cổ điển. Trình bày các học thuyết kinh tế thời kỳ hậu cổ điển. Nội dung chính: 3.1. Các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương 3.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa trọng thương Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản, ra đời trước hết ở
  29. nước Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII rồi bị suy tàn dần. Ra đời trong bối cảnh phương thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành: Về mặt lịch sử: Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương. Việc tích lũy tiền tô có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Về kinh tế xã hội: Sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hóa, bắt đầu hình thành nền kinh tế thị trường. Thương nghiệp chiếm ưu thế, tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực. Xã hội bấy giờ “Khắp nơi xuất hiện chân dung nhà thương gia táo bạo, lạc quan, mạo hiểm, độc ác. Hắn ra vào các cung điện, lung lạc cả chính quyền. Vai trò của tư bản thương nghiệp đòi hỏi sự ra đời của lý thuyết kinh tế phản ánh lợi ích của tư bản thương nghiệp thay cho những quan điểm phong kiến và tôn giáo. Về mặt chính trị: Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến. Về phương diện khoa học - kỹ thuật: Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này có những thành tựu phát kiến mới về mặt địa lý như: Christopher Colompo tìm ra Châu Mỹ, Vasco da Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương. Trong thời kỳ này, thương nghiệp đóng vai trò rất to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đường, hướng dẫn hoạt động thương nghiệp. Về mặt tư tưởng, triết học: Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng, trong xã hội đề cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ. Chủ nghĩa trọng thương xuất hiện trước hết là do kết quả của tích lũy nguyên thủy của tư bản đã dẫn đến phân hóa giai cấp nhanh chóng làm mất đi những đặc quyền, đặc lợi của quý tộc phong kiến. Thay vào đó là sự sùng bái, lý tưởng hóa sức mạnh của đồng tiền, trước hết là vàng bạc.
  30. 3.1.2. Những quan điểm kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương Thứ nhất, đánh giá cao vai trò của tiền tệ (vàng, bạc) Chủ nghĩa trọng thương coi tiền tệ (vàng bạc) là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Theo họ “một xã hội giàu có là có được nhiều tiền”, “sự giàu có tích luỹ được dưới hình thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn”. Họ đã đồng nhất tiền với của cải và sự giàu có của một quốc gia, quốc gia càng nhiều tiền thì càng giàu. Tiền mới là tài sản thực sự của một quốc gia, hàng hóa chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ. Làm kinh tế tức là phải tích lũy tiền tệ. Từ đó, những người theo chủ nghĩa trọng thương phê phán những hoạt động không dẫn đến tích lũy giá trị tiền tệ. Quan điểm này coi tiêu dùng xa xỉ phẩm là tiêu cực, coi nông nghiệp chỉ là nghề trung gian giữa cái tích cực và cái tiêu cực vì không làm tăng thêm khối lượng tiền tệ cho quốc gia và cũng không làm tổn hại tới khối lượng tiền tệ của quốc gia. Tiền đã được dùng để đánh giá tính hữu ích của mọi hình thức hoạt động nghề nghiệp. Hume là một nhà tư tưởng nổi bật của thời kỳ trọng thương viết: “Khi bất kỳ số lượng tiền tệ nào được nhập vào một nước, thì trước tiên không nên phân tán cho nhiều người, mà phải được tập trung vào kho bạc của một vài người, những người biết sử dụng nó một cách có lợi nhất”. Thứ hai, để có tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, mà trước hết là ngoại thương, họ cho rằng: “Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm”, muốn tăng của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương”. Từ đó đề ra nhiệm vụ cho ngoại thương là phải xuất siêu mới đạt được mục đích của nền kinh tế, tăng khối lượng tiền tệ cho quốc gia. Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vực lưu thông, mua bán trao đổi. Theo Montchrestien “Kinh tế chính trị là khoa học về của cải thương nghiệp mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều, mua ít”. Thứ ba, lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán, trao đổi sinh ra, nhờ việc mua rẻ, bán đắt. Do đó chỉ có thể làm giàu thông qua con đường ngoại thương, không quan tâm lợi ích của các dân tộc khác, chỉ quan tâm mua rẻ, bán đắt. Thứ tư, tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ về mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng ít càng thì nước mình càng phát triển. Chủ nghĩa trọng thương đề cao vai trò và sử dụng quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế. Bởi vì, những biện pháp họ đề xuất đều phải dựa vào sự đồng ý, ủng hộ của nhà nước mới thực hiện được. Cụ thể như tích lũy tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ, khuyến khích bảo trợ công trường thủ công, xây dựng hàng hải, lực lượng thủy quân để xâm chiếm
  31. cướp bóc thuộc địa. Trong điều kiện mới ra đời còn non yếu, chủ nghĩa tư bản chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có sự ủng hộ của nhà nước. 3.1.3. Đánh giá những cống hiến của chủ nghĩa trọng thương Chủ nghĩa trọng thương là lý luận kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, tầng lớp tư sản thương nhân trong điều kiện chế độ phong kiến tan rã nhưng giai cấp phong kiến vẫn nắm địa vị thống trị, giai cấp tư sản đang lên là giai cấp tiên tiến, có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm quyền thống trị quốc gia. Một là, chủ nghĩa trọng thương rất ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu mô tả bề ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản chất của các hiện tượng kinh tế. Do điều kiện lịch sử lúc đó đòi hỏi phải tích lũy nhiều tiền. Giai cấp tư sản lúc này có nhiệm vụ trung tâm là tạo nguồn vốn ban đầu cho sự ra đời nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Muốn vậy phải dựa vào nhà nước để thực hiện các biện pháp phi kinh tế chứ không phải dựa vào các quy luật kinh tế. Chủ nghĩa trọng thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò của nhà nước đối với kinh tế. Chủ nghĩa trọng thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà chưa nghiên cứu lĩnh vực sản xuất. Tính thực tiễn thể hiện ở chỗ biết kêu gọi thương nhân dùng ngoại thương buôn bán và cướp bóc thuộc địa để làm giàu. Khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc, cương lĩnh, chính sách. Điều này là hiện thực và tiến bộ trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó. Adam Smith đã nhận xét: “quan điểm lý luận của chủ nghĩa trọng thương là ngây thơ”. Hai là, chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng ở các nước khác nhau thì có những sắc thái dân tộc khác nhau phản ánh đặc điểm của sự phát triển kinh tế của nước đó. Cụ thể, ở Pháp chủ nghĩa trọng thương kỹ nghệ Pháp (chủ nghĩa trọng thương công nghiệp). Ở Tây Ban Nha là chủ nghĩa trọng thương trọng kim (chủ nghĩa trọng thương vàng) chỉ dừng ở thuyết tiền tệ. Ở Anh là chủ nghĩa trọng thương trọng thương mại, được coi là sự phát triển điển hình nhất của chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương phát triển ở hầu hết các nước Tây Âu nhưng mạnh nhất là ở ba nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Ba là, học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương mang tính không triệt để, chỉ phản ánh quá trình bắt đầu chuyển biến từ chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản. Mặc dù là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, phản ánh lợi ích của bộ phận tư sản đầu tiên là tư bản thương nghiệp nhưng không chỉ giai cấp tư sản mà cả giai
  32. cấp quý tộc cũng có thể lợi dụng để phục vụ lợi ích của mình. Điều này thể hiện rất rõ trong thời kỳ tan rã của chủ nghĩa trọng thương. 3.2. Các giai đoạn phát triển và đặc điểm của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển 3.2.1. Hoàn cảnh xuất hiện các trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Thế kỷ thứ XVI – XVII, sự thống trị của tư bản thương nghiệp qua việc thực hiện chủ nghĩa trọng thương chính là bộ phận của học thuyết tích luỹ nguyên thuỷ, dựa trên cướp bóc và trao đổi không ngang giá ở trong nước và cả quốc tế, làm thiệt hại lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, kìm hãm sự phát triển của tư bản công nghiệp. Khi nguồn tích luỹ nguyên thuỷ đã cạn thì chủ nghĩa trọng thương trở thành đối tượng để phê phán. Sự phê phán chủ nghĩa trọng thương đồng thời là sự ra đời một lý thuyết mới làm cơ sở lý luận cho cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản, hướng lợi ích của họ vào lĩnh vực sản xuất. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời. Ở một số nước, do hậu quả của chủ nghĩa trọng thương dẫn đến nông nghiệp bị đình đốn. Thế nên, việc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương gắn liền với việc phê phán chế độ phong kiến nhằm thoát khỏi những ràng buộc phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa, điều này làm xuất hiện chủ nghĩa trọng nông. Những đại biểu của chủ nghĩa trọng nông ở Pháp là những người đặt cơ sở cho việc nghiên cứu, phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở nước Anh, từ khi thương nghiệp mất dần ý nghĩa lịch sử, giai cấp tư sản Anh đã sớm nhận thấy lợi ích của họ trong sự phát triển công trường thủ công nghiệp. Họ chỉ rõ là muốn làm giàu thì phải bóc lột lao động. Lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu. Đó là điểm cốt lõi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, là học thuyết kinh tế chủ yếu của giai cấp tư sản ở nhiều quốc gia. 3.2.2. Đặc điểm của kinh tế học tư sản cổ điển Về đối tượng nghiên cứu: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển, chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất, trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô từ đó rút ra quy luật vận động chung của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về nội dung: Các nhà kinh tế tư sản cổ điển tìm ra nguồn gốc của cải, sự giàu có từ lao động. Quan điểm của kinh tế chính trị tư sản cổ điển là quan điểm về giá trị lao động. Mặt khác, các nhà tư tưởng này cũng ủng hộ tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của nhà nước, xem xét, nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất đơn thuần do
  33. các quy luật tự nhiên điều tiết, nên tư tưởng tự do kinh doanh nhấn mạnh cơ chế thị trường tự phát. Về mục tiêu nghiên cứu: Luận chứng cương lĩnh kinh tế và các chính sách kinh tế của giai cấp tư sản, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế trong xã hội tư bản nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất. Về phương pháp nghiên cứu: Thể hiện tính chất hai mặt: Một là, sử dụng phương pháp trừu tượng hoá để tìm hiểu các mối liên hệ bản chất bên trong các hiện tượng và các quá trình kinh tế, để rút ra những kết luận có giá trị khoa học. Hai là, do những hạn chế về mặt thế giới quan, phương pháp luận và điều kiện lịch sử cho nên khi gặp phải những vấn đề phức tạp, họ chỉ mô tả được hiện tượng, chưa phân tích cụ thể bản chất nên đưa ra một số kết luận sai lầm. 3.3. Các học thuyết kinh tế trong thời kì ra đời của kinh tế học tư sản cổ điển 3.3.1. William Petty và sự ra đời học thuyết kinh tế tư sản cổ điển ở nước Anh William Petty (1623-1687), là con trong một gia đình làm nghề thủ công. Ông là người học rộng, hiểu biết nhiều và tài năng nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực hoạt động khoa học, thực tiễn như vật lý, giải phẫu, âm nhạc, thống kê học, động cơ. Nhờ tài năng của mình nên ông có thu nhập lớn, ông bước vào hàng ngũ các nhà địa chủ quý tộc và trở thành một nhà tư bản công nghiệp lớn. Do hoạt động lý luận gắn liền với thực tiễn nên thế giới quan và phương pháp luận của ông vượt xa những nhà trọng thương thời bấy giờ. Ông đã tìm hiểu sâu bản chất bên trong của quá trình kinh tế và thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan. Những tác phẩm chủ yếu của William Petty: - Bàn về thuế khoá và lệ phí (năm 1672) - Giải phẫu học chính trị Ireland (năm 1672) - Số học chính trị (năm 1676) - Bàn về tiền tệ (năm 1682) Công lao lớn nhất của William Petty là đưa nguyên lý giá trị lao động, điều đó làm cho ông xứng đáng là người sáng lập của khoa học kinh tế chính trị. 3.3.1.1. Lý luận về giá trị - lao động William Petty là người đầu tiên xây dựng học thuyết giá trị - lao động bởi ông đã nhấn mạnh vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị, nguồn gốc thật sự của của cải.
  34. William Petty không trực tiếp trình bày lý luận về giá trị nhưng thông qua những luận điểm của ông về giá cả có thể khẳng định ông là người đầu tiên đưa ra nguyên lý về giá trị - lao động. Ông đã hiểu đúng giá trị - lao động với thuật ngữ “giá cả tự nhiên”. Nghiên cứu về giá cả, ông cho rằng có hai loại giá cả là “giá cả tự nhiên” và “giá cả chính trị”. - Giá cả chính trị là giá cả thị trường do nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối tác động, nên rất khó xác định chính xác. - Giá cả tự nhiên là giá trị do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định, và chính năng suất lao động có ảnh hưởng tới mức hao phí đó. Khi trình bày về mối quan hệ của năng suất lao động đối với lượng giá trị hàng hoá: Ông khẳng định giá cả tự nhiên là giá trị sẽ tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Ông xác định giá cả tự nhiên của hàng hoá bằng cách so sánh lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động hao phí để tạo ra bạc hay vàng. Theo ông giá cả tự nhiên hay giá trị của hàng hoá là sự phản ánh giá cả tự nhiên của tiền tệ, cũng như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của mặt trời. Nhưng ông lại chỉ thừa nhận lao động khai thác vàng là lao động tạo ra giá trị còn giá trị của hàng hoá chỉ được xác định khi trao đổi với tiền. Điều chính yếu là do ông chưa nhận thấy được tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Ông đã đặt vấn đề nghiên cứu về lao động giản đơn và lao động phức tạp, so sánh chúng trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình trong nhiều năm để so sánh các loại lao động với nhau, nhưng chưa thành công với ý định giải quyết mối quan hệ giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp. Một luận điểm nổi tiếng của ông đó là: “lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải”, luận điểm này đúng nếu xem của cải là giá trị sử dụng, song sẽ là sai nếu hiểu lao động và tự nhiên là nhân tố tạo ra giá trị. Ông đã tìm thước đo thống nhất của giá trị là thước đo chung đối với tự nhiên và lao động, ông đưa ra quan điểm “thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bình hàng ngày của mỗi người, chứ không phải là lao động hàng ngày của người đó”. Với luận điểm này đã chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chưa biết đến tính chất xã hội của giá trị. 3.3.1.2. Lý luận về tiền tệ Trong quan điểm về tiền tệ của William Petty thể hiện rất rõ quá trình chuyển biến tư tưởng của ông từ chủ nghĩa trọng thương sang trường phái tư sản cổ điển.
  35. William Petty nghiên cứu hai thứ kim loại giữ vai trò tiền tệ là vàng và bạc. Ông cho rằng, quan hệ tỷ lệ giữa chúng là do lượng lao động hao phí để tạo ra vàng và bạc quyết định. Ông đưa ra luận điểm, giá cả tự nhiên của tiền tệ là do giá cả của tiền tệ có giá trị đầy đủ quyết định. Từ đó ông khuyến cáo, nhà nước không thể hy vọng vào việc phát hành tiền không đủ giá, vì lúc đó giá trị của tiền tệ sẽ giảm xuống. Ông phê phán chế độ song bản vị (dùng hai kim loại vàng và bạc làm tiền tệ) và ủng hộ chế độ đơn bản vị (dùng một kim loại). William Petty là người đầu tiên nghiên cứu số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hoá trong lưu thông và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Ông cho rằng thời gian thanh toán càng dài thì số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông càng lớn. Ông phê phán những người trọng thương về tích trữ tiền không hạn độ. Ông cho rằng không phải lúc nào tiền tệ cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có, tiền tệ chỉ là công cụ của lưu thông hàng hoá, vì thế không cần phải tăng số lượng tiền tệ quá mức cần thiết. Chung lại quan điểm về tiền tệ của William Petty có nhiều phát kiến mà sau này các nhà kinh tế học theo quan điểm giá trị - lao động tiếp tục phát triển. 3.3.1.3. Lý luận về tiền lương William Petty không định nghĩa về tiền lương mà chỉ là người nêu ra một số vấn đề về tiền lương. Ông cho rằng tiền lương của công nhân không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết cho họ. Ông là người luận chứng đạo luật cấm tăng lương vì nếu trả lương cao cho công nhân sẽ làm thâm hụt nhà nước mà công nhân hưởng lương cao cũng không muốn làm việc mà chỉ biết rượu chè. Điều này rất phù hợp với chủ nghĩa tư bản ở phát triển giai đoạn đầu nhằm đảm bảo lợi nhuận cho nhà tư sản. Quan điểm của ông về tiền lương được xem xét trong mối quan hệ với lợi nhuận, với giá cả tư liệu sinh hoạt, với cung cầu về lao động. Ông cho rằng tiền lương cao thì lợi nhuận giảm và ngược lại, nếu giá cả của lúa mì tăng lên thì sự bần cùng của công nhân cũng tăng lên, số lượng lao động tăng lên thì tiền lương sẽ giảm xuống. Việc tăng lương trực tiếp gây thiệt hại cho các nhà tư bản, tức là thiệt hại cho xã hội. 3.3.1.4. Lý luận về lợi nhuận, địa tô: William Petty không trình bày lợi nhuận của các doanh nghiệp công nghiệp, ông chỉ trình bày hai hình thái của giá trị thặng dư là địa tô và lợi tức cho vay. Theo ông địa tô là khoản chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm tiền lương và chi phí về giống. Địa tô là một phần của lợi nhuận nhờ độ màu mỡ của đất đai và vị trí canh tác, coi đó là số chênh lệch giữa giá trị
  36. hàng hoá và chi phí sản xuất, ngoài ra ông cũng đã nghiên cứu địa tô chênh lệch nhưng chưa nghiên cứu địa tô tuyệt đối. Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là tô của tiền, mức lợi tức phụ thuộc vào mức địa tô. Về giá cả ruộng đất, ông cho rằng giá cả ruộng đất là do mức địa tô quyết định, với những số liệu thực tế ông đưa ra công thức tính giá cả ruộng đất bằng địa tô nhân hai mươi năm. Vì ông thông qua kinh nghiệm thống kê, giả dụ một gia đình có ba thế hệ cùng sống chung thì những người này có thể sống chung 20 năm (ông 57 tuổi, con trai 27 tuổi và cháu 7 tuổi). Phương pháp của William Petty chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật tự phát, ông là người đã áp dụng các phương pháp khoa học tự nhiên vào trong nghiên cứu kinh tế, thừa nhận và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Chính điều này là mầm mống của tư tưởng tự do kinh tế. Mặt khác, ông chưa phân biệt được sự khác nhau giữa quy luật kinh tế và quy luật tự nhiên, nên ông cho rằng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn. Trong nội dung học thuyết, thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương. Các quan điểm kinh tế của William Petty mặc dù còn một số hạn chế song đã đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống những nguyên lý của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển ở nước Anh. 3.3.2. Sự phát sinh kinh tế học tư sản cổ điển Pháp - trường phái trọng nông Vào giữa thế kỷ thứ XVIII hoàn cảnh kinh tế - xã hội Pháp đã có những biến đổi làm xuất hiện chủ nghĩa trọng nông Pháp. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản sinh ra trong lòng chủ nghĩa phong kiến, tuy chưa làm được cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, nhưng sức mạnh kinh tế là rất to lớn, đặc biệt là thể hiện muốn cách tân trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi phải có lý luận và cương lĩnh kinh tế mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thứ hai, sự thống trị của giai cấp phong kiến ngày càng tỏ ra lạc hậu mà mâu thuẫn sâu sắc với xu thế đang lên của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận giải quyết những mâu thuẫn đó. Thứ ba, nguồn gốc của cải duy nhất là tiền, nguồn gốc sự giàu có của một quốc gia, dân tộc duy nhất là dựa vào đi buôn, quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã không đủ sức đảm đương, bế tắc, cản trở tư bản sinh lời từ sản xuất đòi hỏi cần phải đánh giá lại những quan điểm đó. Thứ tư, ở Pháp lúc này có một hoàn cảnh đặc biệt không giống các nước khác, đúng lý là đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương sẽ mở đường cho công trường thủ
  37. công phát triển thì lại khuyến khích chủ nghĩa trọng nông ra đời. Sự phát triển nông nghiệp Pháp theo hướng kinh tế chủ trại, kinh doanh nông nghiệp theo lối tư bản chứ không bó hẹp kiểu phát canh thu tô theo lối địa chủ như trước. Đúng như Karl Marx đánh giá: xã hội Pháp lúc bấy giờ là chế độ phong kiến nhưng lại có tính chất tư bản, còn xã hội tư bản lại mang cái vỏ bề ngoài của phong kiến. Những đại biểu thuộc trường phái trọng nông như: Francois Quesnay, Mirabeau, Némour, Baudeau, Trosne, Turgot . 3.3.3. Học thuyết kinh tế của Adam Smith Học thuyết kinh tế của Adam Smith (1723 - 1790), là một trong những học thuyết rất nổi tiếng, trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách quan. Học thuyết kinh tế của Adam Smith có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều năm. Về lập trường giai cấp: phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản. Chỉ rõ tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến, theo ông “các đại biểu được kính trọng nhất trong xã hội” như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu cũng giống như những người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả. Nhận định chế độ thuế khoá độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ thuế thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc là ngăn cản việc tích luỹ của nông dân. Ông cũng lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là “thể chế dã man” ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp. Chủ trương bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mì vì nó gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Vạch rõ tính chất vô lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê. Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ “không bình thường”, là sản phẩm của sự độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, là một chế độ trái với trật tự ngẫu nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở cạnh tranh tự do, mậu dịch tự do. Về chủ nghĩa trọng thương: Adam Smith là người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ nghĩa trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là việc làm quan trọng bậc nhất để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp. Rằng chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ, mà sự giàu có không phải ở chỗ có tiền mà phải là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì bằng tiền. Ông cho rằng lưu thông hàng hoá chỉ thu hút được một số tiền nhất định và không bao giờ dung nạp quá số đó. Thế nên, ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của ngoại thương và cách làm giàu bằng cách trao đổi không ngang giá. Vì việc nâng cao tỷ suất lợi nhuận trong thương nghiệp bằng độc quyền thương
  38. nghiệp sẽ làm chậm tiến trình cải tiến sản xuất. Muốn làm giàu thật sự thì phải thực hiện phát triển sản xuất. Ông cũng nhấn mạnh việc chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế. Mà chức năng chính của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù. Nhà nước có thể thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp riêng lẻ như xây dựng đường sá, sông ngòi và các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát triển kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước. Về chủ nghĩa trọng nông: mục tiêu phê phán của ông là chỉ rõ các ảo tưởng của phái trọng nông về tính chất đặc biệt của nông nghiệp, phá vỡ những luận điểm đề cao của họ về tính chất không sản xuất của công nghiệp. Phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường là giai cấp không sản xuất và đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất như năng suất lao động, tích luỹ tư bản. 3.3.3.1. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về “bàn tay vô hình” Adam Smith đưa ra phạm trù con người kinh tế. Ông quan niệm động lực thúc đẩy hoạt động của con người là lợi ích cá nhân, khi chạy theo tư lợi thì “con người kinh tế” còn chịu sự tác động của “bàn tay vô hình” buộc con người kinh tế làm việc không nằm trong dự kiến từ trước mà là đáp ứng nhu cầu xã hội, có ý nghĩa cho xã hội. Đôi khi điều này còn đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn là có ý định từ trước. Ví như cố gắng tạo ra nhiều sản phẩm tốt chỉ là do ban đầu nghĩ đến lợi ích cá nhân song sau đó lại là có ích cho xã hội. “Bàn tay vô hình” là sự hoạt động tự phát của các quy luật kinh tế khách quan chi phối hoạt động của con người và nó cũng điều khiển các quá trình trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế có khả năng tự điều chỉnh tạo ra sự cân bằng. Ông cho rằng chính các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên”. Để có hoạt động của trật tự tự nhiên thì cần phải có những điều kiện nhất định đó là sự tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá, tự do kinh tế, quan hệ bình đẳng về kinh tế giữa những người sản xuất. Theo ông chỉ có trong chủ nghĩa tư bản mới có các điều kiện này. Chủ nghĩa tư bản là xã hội được xây dựng trên cơ sở quy luật tự nhiên mà các hình thái kinh tế xã hội trước đó như xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến là không bình thường. Quan điểm này khẳng định việc đề cao vai trò cá nhân, ủng hộ sở hữu tư nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của thị trường, thực hiện tự do cạnh tranh. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Ông cho rằng cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có chu kỳ sống riêng của nó.
  39. Theo ông: “quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy sự hoạt động của các quy luật kinh tế”. Khi được hỏi: “Chính sách kinh tế nào là phù hợp với trật tự tự nhiên?”, ông trả lời: “Tự do cạnh tranh”. Kết luận rằng xã hội muốn giàu có thì phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do, cần phải “Laisse – faire!” tức là “Mặc kệ nó!”. Đây chính là nội dung cơ bản của chủ nghĩa tự do kinh tế. 3.3.3.2. Lý luận về thuế khoá Adam Smith là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khoá của giai cấp tư sản, chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động. Ông xác định thu nhập của nhà nước có thể từ hai nguồn: một là từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản đem lại lợi nhuận, ruộng đất đem lại địa tô; hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt nguồn từ địa tô, lợi nhuận, tiền công. Ông đưa ra bốn nguyên tắc để thu thuế: - Các thần dân phải có nghĩa vụ nuôi chính phủ, “tuỳ theo khả năng và sức lực của mình”. - Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác. - Thuế chỉ thu vào thời gian thuận tiện và với phương thức thích hợp. - Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế. Ông đưa ra hai loại thuế phải thu: đó là thuế trực thu và thuế gián thu: - Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền công và tài sản kế thừa. - Thuế gián thu, ông cho rằng không nên đánh thuế vào các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, mà chỉ đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người “sống trung bình hoặc cao hơn trung bình”. 3.3.3.3. Lý luận về kinh tế hàng hoá * Lý luận về phân công lao động Adam Smith cho rằng phân công lao động là sự tiến bộ hết sức vĩ đại trong sự phát triển sức sản xuất lao động. Nếu trình độ phân công phân công lao động càng cao sẽ làm tăng thêm năng suất lao động và tăng hiệu suất lao động với ví dụ về việc sản xuất ghim, cụ thể nhờ có sự nhân công lao động mà mười người thợ làm một ngày được 48.000 chiếc ghim, trong khi đó nếu họ làm riêng lẻ thì chỉ đạt 200 chiếc ghim. Xác định nguyên nhân dẫn đến phân công lao động là do trao đổi, nên mức độ phân công lao động phụ thuộc vào quy mô của thị trường, điều kiện để thực hiện phân
  40. công là mật độ dân số cao và sự phát triển của hệ thống giao thông, liên lạc. * Lý luận về tiền tệ Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lịch sử trao đổi, từ vật làm giá trị ngang giá đến lấy kim loại vàng làm vật ngang giá, do khó khăn trong việc xác định trọng lượng vàng người ta để đúc tiền, sau đó là tiền giấy. Ông cũng nêu lên quy luật số lượng cung của tiền trong lĩnh vực lưu thông. * Lý luận về giá trị - lao động Adam Smith đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi phân tích về giá trị trao đổi ông đã tiến hành phân tích qua các bước: - Xét hàng hoá trao đổi với lao động: Ông cho rằng, thước đo thực tế của giá trị hàng hoá là lao động nên giá trị hàng hoá là do lao động sống mua được. Như vậy là ông đã đồng nhất giá trị là lao động kết tinh trong hàng hoá với lao động mà hàng hoá đó trao đổi. - Xét trao đổi hàng hoá với hàng hoá: Ông khẳng định: “giá trị trao đổi của chúng bằng một lượng hàng hoá nào đó”. Như vậy giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa các hàng hoá với nhau. - Xét trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ: Theo ông, khi chấm dứt nền thương nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hoá được đo bằng tiền và giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả hàng hoá có hai loại thước đo đó là lao động và tiền tệ, trong đó thước đo là lao động là thước đo chính xác nhất của giá trị, còn tiền tệ chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định mà thôi. Ông đã phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, bác bỏ quan niệm cho rằng giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Ví dụ: không có gì hữu ích bằng nước, nhưng có nước thì hầu như không thể mua được gì cả. Adam Smith là người đưa ra quan niệm đúng đắn về giá trị hàng hoá đó là: giá trị hàng hoá là do lao động hao phí tạo ra, khẳng định mọi thứ lao động đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị. Lao động là cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị, là thước đo giá trị. Lao động là nguồn gốc của sự giàu có của mọi quốc gia, không phải là vàng hay bạc mà sức lao động mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo ra mọi của cải cần thiết trong cuộc sống. Khi đề cập đến lượng giá trị, Adam Smith cho rằng lượng giá trị là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định chứ không phải lượng lao động hao phí thực tế. Điều này cho thấy, trong việc xác định lượng giá trị, ông đã có sự trừu tượng hóa các dạng lao động cụ thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét giá trị do lao động tạo ra
  41. như một đại lượng xác định mang tính chất xã hội. Ông còn chỉ rõ giá trị hàng hoá bằng số lượng lao động đã chi phí bao gồm lao động quá khứ và lao động sống, phân biệt phạm trù lao động giản đơn và lao động phức tạp nhưng chưa thấy được tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá trị thị trường, nhưng ông lại chưa chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân. Một quan điểm giáo điều của Adam Smith là ông cho rằng: “tiền công, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi, là ba bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá”, lẫn lộn giữa hình thành giá trị và phân phối giá trị. * Lý luận về tư bản Adam Smith quan niệm tư bản là những tài sản đem lại thu nhập, ông đã phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động song không chỉ rõ đó là đặc trưng của tư bản sản xuất, không phân biệt các loại tư bản khác nhau như tư bản sản xuất và tư bản lưu thông. Vì thế, ông đã nhầm lẫn trong việc xác định các yếu tố nội hàm của tư bản cố định và tư bản lưu động. Cụ thể: -Tư bản lưu động là tư bản không đem lại thu nhập nếu nó vẫn ở trong tay người chủ sở hữu và giữa nguyên hình thái như: tiền, lương thực dự trữ, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm và bán thành phẩm. Nói cách khác là bộ phận tư bản mang lại thu nhập cho người chủ của nó do kết quả của việc bán hàng hóa. -Tư bản cố định là tư bản đem lại lợi nhuận mà không chuyển quyền sở hữu, như: máy móc, công cụ lao động, các công trình xây dựng đem lại thu nhập, những năng lực có ích của dân cư. Từ đó ông coi tư bản lưu động không có tính chất sản xuất và không chứa bộ phận tiền lương của công nhân. Nguyên nhân của sai lầm này là do căn cứ phân biệt chưa đúng và chưa nhất quán. Khi thì dựa vào nguyên nhân mang lại lợi nhuận, khi thì dựa vào đặc tính của vật thể mà không căn cứ vào đặc tính di chuyển giá trị. Về tích luỹ tư bản: Ông khẳng định chỉ có lao động mới là nguồn gốc của tích luỹ tư bản: “tích luỹ tư bản tăng là do kết quả của sự tiết ước và chúng giảm đi là do hoang phí và không tính toán cẩn thận”. Điều này thể hiện quan điểm tiết kiệm, nhà tư bản phải tiết kiệm, dành một phần thu nhập của mình để mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm nhờ đó mới tăng của cải. Theo ông: “Mỗi kẻ hoang phí là kẻ thù của sự giàu có của xã hội, mỗi người tiết kiệm là người làm giàu cho xã hội”. * Lý luận về thu nhập Tiền lương:
  42. Ông quan niệm tiền lương là một phần thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần của sản phẩm lao động. Tiền lương cần phải đảm bảo cho người công nhân mua phương tiện sống, tồn tại và phải ở mức cao hơn đó bởi nếu thấp hơn mức đó thì họ sẽ không làm việc thậm chí bỏ ra nước ngoài. Vì thế, ông ủng hộ việc trả tiền lương cao để thu hút lao động. Hai yếu tố quyết định đến mức tiền lương là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh hoạt, ông cũng đã phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa nhưng chưa hiểu bản chất của tiền lương. Về lợi nhuận, lợi tức: Adam Smith chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: là một khoản khấu trừ do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động đem lại và lợi nhuận của nhà tư bản do tư bản ứng trước, nên ông phủ nhận bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận, được đẻ ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản cho vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần tuý và do mức lợi nhuận thuần tuý quyết định. Ông cũng chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận như: tiền công, quy mô tư bản, lĩnh vực đầu tư, cạnh tranh, sự can thiệp của nhà nước. Ông cũng là người chỉ ra xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận, và cho rằng tư bản đầu tư ngày càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp Về địa tô: Adam Smith có hai luận điểm về khái niệm địa tô: một là, địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động; hai là, địa tô là khoản tiền trả về việc sử dụng đất đai, phụ thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai và việc người nông dân có khả năng trả tiền cho ruộng đất. Về hình thức địa tô, Adam Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tô chênh lệch I, nhưng ông lại chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II. *Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội Adam Smith đã hiểu một số vấn đề của lý luận về tái sản xuất mà Karl Marx lấy làm nền tảng xây dựng sau này như: - Giá trị mỗi hàng hóa gồm: giá trị tư liệu sản xuất, phần khấu hao tư bản cố định và các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu. - Tổng sản phẩm hàng năm của xã hội gồm các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng được tái sản xuất trong năm. Ông đã phân chia tổng sản phẩm xã hội thành hai mặt là mặt hiện vật (hình thái hiện vật) gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng; mặt giá trị
  43. (hình thái giá trị) gồm toàn bộ các chi phí vật chất để sản xuất hàng hoá. - Ông cũng đưa ra các khái niệm về tổng thu nhập và thu nhập thuần túy. Phân biệt tích lũy và cất trữ khi xem xét tái sản xuất mở rộng. - Đặc biệt ông có “gợi ý thiên tài” là phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực: sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. Đáng tiếc là các hiểu biết trên không được ông sử dụng để nghiên cứu tái sản xuất xã hội. Về mặt hạn chế: Lý luận về tái sản xuất Adam Smith được xây dựng trên quan điểm của giá trị hàng hoá bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Trong quá trình phân tích, ông đã trình bày các khái niệm: tổng thu nhập, thu nhập thuần tuý, nhưng ông không lấy tổng thu nhập làm điểm xuất phát mà lấy thu nhập thuần tuý làm điểm xuất phát và toàn bộ lý luận tái sản xuất chỉ xoay quanh thu nhập thuần tuý. Ông đã bỏ qua lao động quá khứ trong phân tích về tái sản xuất. Karl Marx đã đặt tên cho sai lầm này là “tín điều của Adam Smith”. Mặt khác, ông phân chia tư bản xã hội làm hai bộ phận: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, nhưng sự phân chia này chưa rành mạch, ông đã đồng nhất tư bản với của cải xã hội, chứ không phải tư bản là bộ phận dự trữ. 3.3.3.4. Lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối” Adam Smith là người đưa lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối” được xây dựng trên cơ sở lý luận giá trị - lao động. Ông cho rằng, việc buôn bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này có lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược lại quốc gia khác lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai nước đều có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chuyên môn hoá sản xuất loại hàng hoá mà họ có lợi thế hơn chẳng hạn như chí phí lao động thấp hơn. Nhưng trong thực tế lý luận này cho rằng nếu quốc gia nào không có lợi thế tuyệt đối thì không thể tham gia giao thương với các nước khác, bởi vậy lý thuyết này của Adam Smith có những điểm hạn chế, về sau Ricardo là người phát triển lý thuyết về lợi thế tuyệt đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh. Tựu trung lại, những tư tưởng của Adam Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, trên phương diện khoa học và phương diện tầm thường. Song ông đã xác định được nhiệm vụ cụ thể của kinh tế chính trị học, đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước đó trở thành một chỉnh thể.
  44. 3.3.4. Học thuyết kinh tế của David Ricardo: David Ricardo (1772 – 1823), sinh ra trong một gia đình giàu có tại Anh. Bố ông là người Hà Lan di cư sang Anh, một nhà kinh doanh chứng khoán Châu Âu. Năm1784, ông sang học ở Amsterdam, là người tinh thông về kinh doanh chứng khoán, từ số vốn ban đầu là 800 bảng Anh, sau bốn năm ông thu được số tiền là 500.000 bảng Anh, trở thành những người giàu nhất nước Anh lúc bấy giờ. Năm 1797, ông tiếp tục học tập và nghiên cứu các môn khoa học cơ bản. Từ năm 1807 ông chuyên tâm nghiên cứu kinh tế chính trị và công bố nhiều tác phẩm về tiền tệ. Tác phẩm “Giá cả cao của thoi nén là bằng chứng của việc giảm giá ngân phiếu” công bố năm 1811 đã gây ra một chấn động lớn trong dư luận khoa học và các tầng lớp tư sản. Năm 1815, ông xuất bản cuốn “Bàn về giá cả lúa mì”, luận chứng sự cần thiết phải bãi bỏ thuế quan về lúa mì và lên án các luật lệ bảo vệ người thu địa tô. Năm 1817, ông xuất bản tác phẩm “Những nguyên lý cơ bản của chính trị, kinh tế học và thuế khoá”, tác phẩm này đã làm cho ông nổi tiếng trên toàn thế giới David Ricardo là một nhà khoa học một nhà kinh doanh chứng khoán, một nhà quý tộc, một nhà hoạt động chính trị, làm quận trưởng hai nhiệm kỳ, là nghị sĩ quốc hội từ năm 1819 đến lúc qua đời. 3.3.4.1. Lý luận về giá trị: Lý luận về giá trị là lý luận chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan điểm kinh tế của Ricardo. Trong lý luận giá trị - lao động cũng như các lý thuyết khác, David Ricardo đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Adam Smith. Ông định nghĩa giá trị hàng hoá, hay số lượng của một hàng hoá mà hàng hoá khác trao đổi, là số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Ông cũng đã có sự phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, ông nhấn mạnh “ích lợi không phải là thước đo của giá trị trao đổi, mặc dù nó rất cần thiết cho giá trị này. Nếu đối tượng không cần thiết cho chúng ta nó sẽ mất đi giá trị trao đổi, cũng như nó không do lao động tạo ra thì nó cũng không có giá trị trao đổi”. Theo ông lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá không phải chỉ có lao động trực tiếp, mà còn có cả lao động cần thiết trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ, nhà xưởng dùng vào việc sản xuất ấy. Về thước đo giá trị, ông cho rằng cả vàng hay bất cứ một hàng hoá nào không bao giờ là một thước đo giá trị hoàn thiện cho tất cả mọi vật. Mọi sự thay đổi trong giá
  45. cả hàng hoá là kết quả của những thay đổi trong giá trị của chúng mà ra. Về giá cả ông khẳng định: giá cả hàng hoá là giá trị trao đổi của nó, những biểu hiện bằng tiền, còn giá trị được đo bằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá, ông cũng đã tiếp cận với giá cả sản xuất thông qua việc giải thích về giá cả tự nhiên. David Ricardo cũng đã đề cập đến lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng ông chưa lý giải việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn. Về lượng giá trị của hàng hóa, theo ông là do lao động xã hội cần thiết quyết định. Ông cũng là người đầu tiên mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá trị, bao gồm ba bộ phận cấu thành là: c, v, m. Tuy nhiên ông chưa phân biệt được sự chuyển dịch của c vào sản phẩm như thế nào, và không tính đến yếu tố c2. Mặt khác, ông chưa làm rõ được tính chất lao động xã hội quy định giá trị cụ thể như thế nào? Theo ông, lao động xã hội cần thiết là do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. 3.3.4.2. Lý thuyết về tiền tệ và tín dụng: Lưu thông tiền tệ và ngân hàng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong học thuyết của David Ricardo. David Ricardo vẫn coi vàng là cơ sở của tiền tệ nhưng theo ông, muốn việc trao đổi thuận lợi thì ngân hàng phải phát hành tiền giấy. Ông cho rằng giá trị của tiền là do giá trị của vật liệu làm ra tiền quyết định. Nó bằng số lượng lao động hao phí để khai thác vàng bạc quyết định. Tiền giấy chỉ là ký hiệu giá trị của tiền tệ, được so sánh tưởng tượng với một lượng vàng nào đó, do nhà nước và ngân hàng quy định. Ông phát triển lý luận của William Petty về tính quy luật của số lượng tiền trong lưu thông. Ông đối chiếu giá trị của khối lượng hàng hoá với giá trị của tiền tệ và cho rằng tác động qua lại giữa số lượng hàng hoá với lượng tiền trong lưu thông diễn ra trong những khuôn khổ nhất định. David Ricardo đã có nhiều luận điểm đúng đắn về tiền tệ song vẫn còn những hạn chế nhất định như: chưa phân biệt được tiền giấy với tiền tín dụng; chưa phân biệt rõ ràng giữa lưu thông tiền giấy và tiền kim loại nên đi đến một kết luận chung rằng giá trị của tiền là do lượng của chúng điều tiết, còn giá cả của hàng hoá thì tăng lên một cách tỷ lệ với tăng số lượng tiền. Ông là người theo lập trường của thuyết số lượng tiền và lý thuyết của ông chưa phân tích đầy đủ các chức năng của tiền tệ cũng như bản chất của tiền tệ. 3.3.4.3. Lý luận về tiền lương, lợi nhuận, địa tô Về tiền lương: Ông coi tiền lương là giá cả tự nhiên của hàng hoá lao động, là giá cả các tư liệu sinh hoạt nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta. Ông cho rằng
  46. mức tiền lương dựa vào yếu tố lịch sử văn hoá và ủng hộ quy luật sắt về tiền lương. Theo ông tiền lương cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng nhanh, dẫn đến thừa lao động, làm cho tiền lương hạ xuống, đời sống công nhân xấu đi, tất cả là kết quả của việc tăng dân số. Công lao to lớn của Ricardo là phân tích tiền lương thực tế và đặc biệt là đã xác định được tiền lương như là một phạm trù kinh tế. Ông xét tiền lương trong mối quan hệ giai cấp, mối quan hệ về lợi ích. Về lợi nhuận: David Ricardo xác nhận giá trị mới do công nhân sáng tạo ra bao gồm tiền lương và lợi nhuận. Ông đã phát hiện ra quy luật vận động của tư bản là: Nếu năng suất lao động tăng thì tiền lương sẽ giảm tương đối còn lợi nhuận của tư bản sẽ tăng tuyệt đối. Điều này chứng tỏ ông thấy được sự bóc lột và thừa nhận nó, chứ không hình thành khái niệm giá trị thặng dư. Ông đã có nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân, những tư bản có đại lượng bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau nhưng không chứng minh được. Ông cho rằng nếu hạ thấp tiền công thì lợi nhuận tăng lên còn giá trị hàng hoá không đổi. Ông đã thấy xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận tuy nhiên chưa giải thích được đầy đủ vần đề này. Về địa tô: Ông là người đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động để giải thích địa tô. Ông cho rằng do ruộng đất có giới hạn, độ màu mỡ của đất đai giảm sút, năng suất đầu tư bất tương xứng, dân số lại tăng nhanh, dẫn đến nạn khan hiếm nông sản, cho nên xã hội phải canh tác tất cả ruộng đất xấu và giá trị nông sản là do hao phí trên ruộng đất xấu quyết định. Nếu kinh doanh trên ruộng đất xấu và trung bình sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch, phần này phải nộp cho địa chủ dưới hình thức địa tô. Ông cũng đã phân biệt được địa tô và tiền tệ. Địa tô là việc trả công cho những khả năng thuần tuý tự nhiên, còn tiền tô bao gồm cả địa tô và lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất. 3.3.4.4. Lý thuyết về tư bản: David Ricardo coi tư bản là những vật nhất định như: tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng chứ không phải là quan hệ xã hội. Ông đã phân biệt được tư bản cố định và tư bản lưu động. Tuy nhiên, trong tư bản lưu động ông chỉ tính đến yếu tố tiền lương. Theo ông, bộ phận ứng trước để mua công cụ, phương tiện lao động là tư bản cố định, nó hao mòn dần dần khi chuyển giá trị vào sản phẩm và nó không làm tăng giá trị của hàng hoá, phân tích của ông cũng chưa đạt tới khái niệm tư bản bất biến và tư bản khả biến. 3.3.4.5. Lý thuyết tái sản xuất: Ông coi tiêu dùng quyết định bởi sản xuất, muốn mở rộng sản xuất thì phải tích luỹ, phải làm cho sản xuất vượt quá tiêu dùng. Khi sản xuất phát triển sẽ tạo ra thị
  47. trường. Tuy nhiên, ông không thấy được mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Ông phủ nhận khủng hoảng sản xuất thừa trong chủ nghĩa tư bản. Vì theo ông lượng cầu thường là lượng cầu có khả năng thanh toán. Lượng cầu đó được củng cố thêm lượng cung hàng hoá và sản phẩm thì bao giờ cũng được mua bằng sản phẩm hay sự phục vụ, tiền chỉ dùng làm thước đo khi thực hiện sự trao đổi đó. “Một hàng hóa riêng lẻ nào đó có thể được sản xuất với khối lượng quá nhiều và thị trường thì thừa tới mức nhà tư bản không đầu tư để sản xuất hàng hóa này nữa. Song điều này không thể xảy ra một cách đồng thời đối với tất cả các hàng hóa”. Vì thế vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản là phải tích lũy tư bản, mở rộng sản xuất. Như nhiều nhà kinh tế cổ điển khác, ông cho rằng sản xuất tư bản chủ nghĩa là tiến bộ tuyệt đối vì sản xuất, vì lợi nhuận. Khi lợi nhuận tăng thì thúc đẩy tích lũy tư bản, do đó tăng nhu cầu sức lao động dẫn đến tăng lương, tăng thu nhập và tiêu dùng, tăng sức mua nên không có sản xuất thừa. Vậy nên ông cho rằng sự điều tiết tự nhiên là lý tưởng và hợp lý. 3.3.4.6. Lý luận về thuế khoá: David Ricardo phát triển lý luận về thuế khoá của Adam Smith và trình bày nhiều đặc điểm xuất sắc về thuế khoá. Ông cho rằng “thuế cấu thành cái phần của chính phủ trong sản phẩm xã hội”, “tất cả các thứ thuế đều lấy trong thu nhập ròng để trả”. Nếu thuế đánh vào tư bản, nó sẽ làm thu hẹp hoạt động của sản xuất. Đánh thuế vào thu nhập, thì nó sẽ làm yếu về tích luỹ hoặc giảm bớt tiêu dùng. David Ricardo nghiên cứu hai loại thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu đánh vào thu nhập, bao gồm: lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tiền công và tài sản kế thừa. Theo ông, không một giai cấp nào trong xã hội thoát khỏi thứ thuế này và mỗi người đóng góp theo những phương diện của mình. Thuế gián thu là loại thuế đánh vào chi tiêu. Ông cho rằng phải hết sức thận trọng khi đánh thuế vào lương thực, sẽ làm cho giá lương thực tăng, dẫn đến tiền công tăng, lợi nhuận sẽ giảm xuống. 3.3.4.7. Lý thuyết về “lợi thế so sánh” Trên cơ sở phát triển lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, ông đã xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh, còn gọi là lý thuyết về chi phí so sánh, cụ thể: Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ “đường hai chiều” có lợi cho mọi nước tham gia, vì bất kỳ nước nào cũng có lợi thế tương đối, tức là lợi thế có được trên cơ sở so sánh với các nước khác. Các lợi thế tương đối được xem xét rõ ràng của lý luận giá trị lao động, có nghĩa là chỉ thông qua trao đổi quốc tế mới xác định được mối tương quan giữa mức chi phí
  48. lao động cá biệt của từng quốc gia so với mức chi phí lao động trung bình quốc tế, trên cơ sở đó mà lựa chọn phương án tham gia vào quá trình phân công chuyên môn hoá quốc tế cho có lợi cao nhất. Mục đích cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là tiết kiệm chi phí lao động xã hội - nghĩa là tăng năng suất lao động xã hội. Bởi vậy mỗi quốc gia chỉ nên tập trung sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có hiệu quả cao, hoặc mức độ bất lợi thấp hơn và nhập khẩu những hàng hoá có bất lợi cao hơn thì khi so sánh mức độ hao phí lao động trung bình ở trình độ quốc tế theo từng sản phẩm sẽ có lợi và tiết kiệm được chi phí sản xuất, mặt khác lỗ trong xuất khẩu hàng hoá sẽ được bù lại nhờ lãi trong nhập khẩu. Karl Marx hoàn toàn đồng ý quan điểm này và cho rằng ngay cả với những nước có nền kinh tế kém phát triển cũng có lợi vì “những nước này dẫu sao cũng nhận được hàng hóa rẻ hơn so với sản xuất trong nước”. Lợi thế so sánh là, các nước cần lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hóa sản xuất theo công thức so sánh giữa chi phí sản xuất các sản phẩm của đất nước với chi phí sản xuất sản phẩm của thế giới. Chi phí sản xuất sản phẩm X của nước C A = Chi phí sản xuất sản phẩm X của thế giới Chi phí sản xuất sản phẩm Y của nước C B = Chi phí sản xuất sản phẩm Y của thế giới Trường hợp A < B thì nước C nên chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm X, còn thế giới sẽ chuyên sản xuất sản phẩm Y. Như thế thì đôi bên cùng có lợi. David Ricardo là người kế thừa xuất sắc của Adam Smith. Và ông cũng đã chỉ ra những mâu thuẫn trong học thuyết của Adam Smith, vượt qua được giới hạn của Adam Smith, phân tích sâu sắc hơn những quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Ông đứng trên lập trường lý luận giá trị - lao động để giải thích các vấn đề kinh tế. 3.3.5. Các quan điểm kinh tế của S. Sismondi Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773-1842), là nhà nghiên cứu về lịch sử kinh tế và thể chế xã hội, ông cho rằng đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là phúc lợi vật chất của con người. Ông đứng trên lập trường kinh tế học cổ điển, phân
  49. tích tính chất xã hội đặc thù của lao động tạo ra giá trị hàng hoá. Khi xác định giá trị của hàng hoá, ông căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết chứ không phải là lao động cá biệt với khái niệm “thời gian lao động xã hội cần thiết”. Nội dung lý luận của ông phân tích giá trị, lợi nhận, địa tô, tiền giấy, tiền tín dụng, sự bóc lột thợ thuyền và phân tích tính tất yếu của khủng hoảng kinh tế trong xã hội tư bản. Ông cho rằng khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản là do tiêu dùng không đủ và đi tìm lối thoát là quay về với nền sản xuất nhỏ. Như vậy, ông cho rằng nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong xã hội tư bản là sự phá sản của nền sản xuất nhỏ, luận điểm này cũng thể hiện ông là đại biểu cho tầng lớp tiểu tư sản. 3.4. Các học thuyết kinh tế thời kì hậu cổ điển Đầu thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập ở nhiều nước. Sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được khẳng định, giai cấp vô sản không ngừng lớn mạnh. Phong trào của giai cấp công nhân ở các nước phát triển mạnh cả về quy mô và tính chất, đe doạ đến sự sống còn của chủ nghĩa tư bản. Thời kỳ này xuất hiện những hình thức khác nhau của chủ nghĩa xã hội không tưởng, phê phán kịch liệt chế độ tư bản, có tác động mạnh mẽ đến giai cấp vô sản. Bởi vậy, giai cấp tư sản cần có lý luận khoa học để chống lại lý luận của chủ nghĩa xã hội không tưởng nên kinh tế chính trị hận cổ điển ra đời còn gọi là trường phái kinh tế học tầm thường. 3.4.1. Các tư tưởng kinh tế của Thomas Robert Malthus Thomas Robert Malthus (1766-1834), sinh ra trong một gia đình quý tộc, theo con đường tu hành. Tốt nghiệp đại học Cambridge và trở thành mục sư ở nông thôn vào năm 1788. Tác phẩm chính của ông: “Bàn về quy luật nhân khẩu” (1789). Đặc điểm nổi bật trong phương pháp luận của ông là nặng về phân tích hiện tượng, thay thế các quy luật kinh tế bằng những quy luật tự nhiên sinh học. Ông là người ủng hộ tư bản kinh doanh ruộng đất, bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản, là nhà tư tưởng của giai cấp quý tộc địa chủ tư sản hóa. 3.4.1.1. Lý luận về nhân khẩu là lý thuyết trung tâm của Malthus Nội dung theo ông đề xuất là quy luật sinh học thì 25 năm dân số tăng gấp đôi tức là tăng theo cấp số nhân, số liệu ông lấy mẫu nghiên cứu là dân số ở Mỹ trong thế kỷ XVIII (số liệu khoa học là do di dân). Còn tư liệu sinh hoạt thì chỉ tăng theo cấp số cộng. Do đó nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là tất yếu, sự bần cùng đói rét có tính chất phổ biến cho mọi xã hội. Trong xã hội tư bản cũng vậy, nạn thất nghiệp, nghèo khổ, bần cùng diễn ra, không phải do chế độ xã hội tư bản mà do “những quy luật tự nhiên và
  50. những sự say đắm của con người”, “Nhân dân phải tự buộc tội mình là chủ yếu về những sự đau khổ của mình” – Bàn về quy luật tăng nhân khẩu. Từ đó, ông đưa ra biện pháp khắc phục cho: Lao động quá sức, nạn đói, bệnh tật, chiến tranh là biện pháp phòng ngừa, nhấn mạnh hạn chế sinh đẻ, đưa dân cư đến khai thác những vùng đất mới. Quan điểm Malthus có những hạn chế: Thứ nhất, đem quy luật của giới động thực vật hay giới tự nhiên để áp dụng máy móc, võ đoán cho con người và xem đây là phát hiện ra một quy luật vĩnh cửu đúng với mọi giai đoạn lịch sử. Thứ hai, trong nghiên cứu bộc lộ tính chất tùy tiện, phiến diện thiếu khoa học: Lấy những căn cứ, số liệu về tăng dân số ở nước Mỹ và quy luật màu mỡ đất đai giảm ở nước Pháp rồi đưa ra kết luận. Thực tế lịch sử thế kỉ XX đã chứng minh kết luận của Malthus là chưa chính xác. Phát triển cách mạng khoa học kĩ thuật ở các nước Tây Âu dẫn đến dân số giảm, đẩy lùi giới hạn khả năng của sản xuất. 3.4.1.2. Lý luận về giá trị, lợi nhuận và thuyết người thứ ba Về giá trị: Malthus ủng hộ định nghĩa thứ hai của Adam Smith về giá trị hàng hóa là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hóa này quyết định và bổ sung thêm gồm: chi phí lao động để sản xuất hàng hóa và lợi nhuận của tư bản ứng trước, dẫn đến phủ nhận lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị và coi lợi nhuận có nguồn gốc ngoài lao động sống. Lợi nhuận: Là khoản cộng thêm danh nghĩa vào giá cả, xuất hiện trong lưu thông nhờ bán hàng hóa bán đắt hơn mua. Luận điểm này quay trở lại quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, lợi nhuận có được là do mua rẻ, bán đắt. Thuyết người thứ ba: Malthus cho rằng khối lượng hàng hóa sản xuất ra nếu trông chờ vào công nhân và tư bản thì không thể tiêu thụ hết, dẫn đến thừa hàng hóa nghĩa là tổng tiền lương nhỏ hơn tổng giá trị hàng hóa. Vì thế xã hội chỉ có công nhân và tư bản sẽ là tai họa. Để khắc phục, theo ông phải có tầng lớp người thứ ba là lớp người chỉ tiêu dùng, không sản xuất gồm quý tộc, tăng lữ, cảnh sát, quân đội, nhân viên nhà nước để chống khủng hoảng thừa. Tích lũy tư bản phát triển thì tiêu dùng của “người thứ ba” phải phát triển, nhu cầu tiêu dùng hoang phí hơn, trở thành “cứu tinh” cho chủ nghĩa tư bản, nhờ đó nhà tư bản thu được lợi nhuận. Theo ông, cần phải thực hiện thuế cho nhà nước, địa tô cho địa chủ, quý tộc, chi phí cho quân đội, chiến tranh phải phát triển.