Giáo trình nội bộ Lịch sử âm nhạc thế giới - Trường Cao đẳng Lào Cai

pdf 113 trang Gia Huy 21/05/2022 1742
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình nội bộ Lịch sử âm nhạc thế giới - Trường Cao đẳng Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_noi_bo_lich_su_am_nhac_the_gioi_truong_cao_dang_l.pdf

Nội dung text: Giáo trình nội bộ Lịch sử âm nhạc thế giới - Trường Cao đẳng Lào Cai

  1. UBND TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC/MÔ ĐUN: LỊCH SỬ ÂM NHẠC THẾ GIỚI NGÀNH: THANH NHẠC; ORGAN; BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG Lưu hành nội bộ Năm 2019 1
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 3
  3. LỜI GIỚI THIỆU Giáo trình lịch sử âm nhạc thế giới là một trong các giáo trình được quy định trong chương trình khung đào tạo âm nhạc cho tất cả các ngành: sáng tác lý luận, chỉ huy và tất cả các ngành biểu diễn: thanh nhạc, nhạc đàn bậc đại học. tuy nhiên, giáo trình này có thể dùng cho sinh viên bậc cao đẳng hay cho học sinh bậc trung học có yêu cầu cần tìm hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử, một tác giả hay một tác phẩm nào đó. đồng thời có thể phục vụ cho các ngành nghệ thuật khác: sân khấu, múa, điện ảnh và cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề lịch sử âm nhạc thế giới. Cuốn giáo trình nhằm giới thiệu khái quát về tình hình tiến triển của nền văn hoá âm nhạc qua các thời đại lịch sử; những thành tựu nổi bật theo trình tự thời gian lịch sử, để nêu lên nội dung tư tưởng của từng trào lưu âm nhạc do tác động qua lại của các chuyển biến xã hội; để khẳng định phong cách cũng như thủ pháp của các trào lưu thông qua các tác giả, tác phẩm. Cuốn giáo trình âm nhạc gồm có năm chương Lịch sử âm nhạc thế giới từ nguồn gốc cho tới đầu thế kỷ XX là thời kỳ của âm nhạc sử sách, ít có những nốt nhạc, băng âm thanh để giúp sinh viên có thể tự nghiên cứu thêm; do vậy, nhóm tác giả cố gắng trình bày những nét khái quát nhất, và trong điều kiện có thể sẽ trích những ví dụ âm nhạc hoặc tranh ảnh nhằm minh chứng cho các nhận định của các giai đoạn này. Cách trình bày của từng giai đoạn lịch sử, từng chương, từng tác giả theo trình tự từ khái quát tới chi tiết; từ những thành tựu chung đến các lĩnh vực riêng biệt. với lối dẫn giải như vậy, sẽ giúp ích cho sinh viên dễ dàng tự học; đồng thời làm cho cuốn sách đáp ứng được yêu cầu của từng ngành học riêng biệt, có nguyện vọng đi sâu về từng lĩnh vực riêng của mình. Khi sinh viên đã có giáo trình này, việc thay đổi cách dạy bộ môn lịch sử âm nhạc, cần phải được coi trọng. giáo viên nên theo trình tự như sau: Sinh viên cần tự đọc và nghiên cứu trước nội dung sắp được học, kể cả những sách khác do giáo viên gợi ý và cả các tác phẩm sẽ phân tích và chuẩn bị trả lời các vấn đề mà giáo viên yêu cầu. Tổ chức cho sinh viên trao đổi, toạ đàm ngay tại lớp, nghe các trích đoạn tác phẩm. giáo viên hướng dẫn sinh viên cách nhận xét, so sánh để từ đó giúp họ hệ thống lại những vấn đề thuộc nội dung bài giảng. Khi viết cuốn sách này, nhóm tác giả đã cố gắng sử dụng các thuật ngữ theo khái niệm của nhiều người đã công nhận. tên gọi các tác giả, hình thức, thể loại, địa dư, được ghi theo nguyên dạng (nhưng có phiên âm cách đọc lúc đầu) để giúp sinh viên dễ dàng tiếp xúc với tổng phổ. Để môn lịch sử âm nhạc đạt được yêu cầu cao, ngoài việc cải tiến cách dạy của giảng viên và cách học của sinh viên, còn đòi hỏi nhiều sự hỗ trợ khác nữa của nhà trường. trước hết, thư viện của nhà trường cần mua thêm các giáo trình khác của các cơ 4
  4. sở đào tạo khác, kể cả các giáo trình nước ngoài. song song, cần sưu tầm các tổng phổ, các băng âm thanh giúp sinh viên đổi mới cách học. Để hoàn thành cuốn giáo trình này nhóm tác giả đã rất cố gắng; bởi ở việt nam chưa có cơ sở đào tạo nào viết toàn bộ lịch sử âm nhạc thế giới từ cổ đại đến hết thế kỷ xx ở bậc đại học. Cuối cùng, chúng tôi mong nhận được những nhận xét của các bạn đồng nghiệp, các sinh viên âm nhạc nói riêng và các độc giả nói chung. Lào Cai, năm 2019 Người biên soạn Kiều Đức Thăng 5
  5. MỤC LỤC CHƯƠNG I: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ NGUYÊN THỦY, CỔ ĐẠI, TRUNG CỔ 12 Bài 1. Âm nhạc Châu âu thời kỳ nguyên thủy, cổ đại, trung cổ 12 1. Âm nhạc thời kỳ nguyên thủy 12 2. Âm nhạc thời kỳ cổ đại. 13 3. Âm nhạc thời kỳ trung cổ. 14 3.1 Âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ 14 3.1.1 Âm nhạc dân gian 14 3.1.2 Âm nhạc nhà thờ 14 3.2. Các trung tâm âm nhạc thời Trung cổ 15 3.2.1. Âm nhạc Trung Hoa 15 3.2.2. Âm nhạc Ả Rập 15 3.2.3. Âm nhạc Slaves 15 3.2.4. Âm nhạc tây âu. 15 CHƯƠNG II. ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG 17 Bài 1: Âm nhạc thời kỳ Phục hưng 17 1. Khái quát Âm nhạc Phục hưng. 17 2. Các trung tâm Âm nhạc nổi bật. 17 CHƯƠNG III: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII - XVIII 20 Bài 1: Nhà soạn nhạc G. F. Henden 20 1. Thân thế sự nghiệp. 20 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 21 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. 21 Bài 2: Nhà soạn nhạc Giohan Xebaxchien Bắc 22 1. Tiểu sử. 22 2. Ngôn ngữ và thủ pháp âm nhạc. 22 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 23 CHƯƠNG IV: TRƯỜNG PHÁI ÂM NHẠC CỔ ĐIỂN VIÊN 25 Bài 1: Khái quát trường phái Âm nhạc Cổ điển Viên 25 1. Sự hình thành và phát triển. 25 2. Những thành tựu cơ bản. 25 Bài 2: Nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck 25 1. Cược đời và sự nghiệp 26 2. cuộc cải cách nhạc kịch của gluck 27 Bài 3: Nhà soạn nhạc Josepn Haydn 30 6
  6. 1. Thân thế sự nghiệp. 30 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 31 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. 31 Bài 4: Nhà soạn nhạc W. A. Mozart 33 1. Thân thế sự nghiệp. 33 2. Ngôn ngữ âm nhạc. 33 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. 34 Bài 5: Nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven 36 1. Thân thế sự nghiệp. 36 1.1 Những năm tuổi thơ ở quê hương. 36 1.2 Thời sớm ở Viên (1792-1802). 36 1.3 Giai đoạn thành thục (1803- 1812). 36 1.4 Những năm cuối đời (1816 -1827). 36 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 37 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. 37 3.1 Các tác phẩm Sonate cho Piano. 37 3.2 Các tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng. 37 CHƯƠNG IV. CHỦ NGHĨA ÂM NHẠC LÃNG MẠN 39 Bài 1: Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn 39 1. Sự hình thành và phát triển. 39 2. Những thành tựu cơ bản. 39 Bài 2: Nhà soạn nhạc F. Schubert 41 1. Thân thế sự nghiệp. 41 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 41 3. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu. 41 Bài 3: Nhà soạn nhạc C. M. Vêbe (Carl Marie Weber) 44 1. Thân thế sự nghiệp. 44 2. Sự nghiệp sáng tác. 44 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. 44 Bài 4: Nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon Batođi 46 1. Thân thế sự nghiệp. 46 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 46 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. 47 Bài 5: Nhà soạn nhạc Robert Schuman 49 1. Thân thế sự nghiệp. 49 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 49 7
  7. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 49 Bài 6: Nhà soạn nhạc Giochino Rossini 51 1. Thân thế sự nghiệp. 51 2. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu. 51 Bài 7: Nhà soạn nhạc Hector Berlioz 53 1. Thân thế sự nghiệp. 53 2. Ngôn ngữ âm nhạc. 53 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 53 Bài 8: Nhà soạn nhạc Federic Chopin 54 1. Thân thế sự nghiệp. 54 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 54 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 54 Bài 9: Nhà soạn nhạc Mikhail Glinka 56 1. Thân thế sự nghiệp. 56 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 56 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 56 Bài 10: Nhà soạn nhạc Frank Liszt 58 1. Thân thế sự nghiệp. 58 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 58 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 58 Bài 12: Nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs 59 1. Thân thế sự nghiệp 59 2. Ngôn ngữ Âm nhạc 59 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 59 Bài 13: Nhà soạn nhạc Josph Verdi 61 1. Thân thế sự nghiệp 61 2. Ngôn ngữ Âm nhạc 61 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 61 Bài 14: Nhà soạn nhạc George Bizet 63 (G. bi-dê: 1838 - 1875) 63 1. cuộc đời và sự nghiệp 63 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 65 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 65 Bài 15: Nhà soạn nhạc Bedrich Smetana 69 1. cuộc đời và sự nghiệp 69 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 70 8
  8. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 71 Bài 16: Nhà soạn nhạc Antonin Dvorak (1841- 1904) 75 1. cuộc đời và sự nghiệp 75 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 77 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 77 Bài 17: Nhà soạn nhạc Edvard Grieg 80 1. cuộc đời và sự nghiệp 80 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. 82 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. 82 3.1. Sáng tác piano; 83 3.2 sonate; 83 3.3. concerto piano và dàn nhạc - amoll op.16 83 Bài 19: Các nhạc sĩ nhóm khỏe của Nga 85 1. M.a.balakirev (1836-1910) 86 2. césar cui (1835-1918) 87 3. a.p.borodine (1833-1887) 87 3.1. cuộc đời và sự nghiệp 87 3.2. tác phẩm 88 4. M. p. moussorgski (1839-1881) 89 4.1. Cuộc đời và sự nghiệp 90 4.2. tác phẩm 91 4.3. Sáng tác khí nhạc 93 5. N.A.Rimsky-Korsakov (1844-1908) 94 5.1. Cuộc đời và sự nghiệp. 94 5.2. Tác phẩm 95 Bài 20: V. Piotr illitch Tchaikovski (1840-1893) 97 1. cuộc đời và sự nghiệp 97 2. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu 98 2.1. giao hưởng 98 2.2. Nhạc kịch 99 2.3. Nhạc vũ kịch (ballet) 100 2.4. Sáng tác cho các thể loại khác 100 CHƯƠNG V: ÂM NHẠC THẾ KỶ XX 102 Bài 1. Nhà soạn nhạc Claude debussy 102 1. Thân thế sự nghiệp. 102 2. Hoạt động về Âm nhạc. 103 9
  9. CHƯƠNG VI: GIỚI THIỆU MỘT SỐ KHUYNH HƯƠNG MỚI CỦA ÂM NHẠC THẾ KỶ XX. 107 Bài 1: Âm nhạc biểu hiện 107 Bài 2: Âm nhạc giảm thiểu 109 10
  10. GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Lịch sử âm nhạc thế giới Mã môn học: MHT13 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học: - Vị trí: Lich sử Âm nhạc thế giới là học phần trong khối các môn học lý thuyết cơ sở ngành bắt buộc của chương trình đào tạo Trung cấp và Cao đẳng Âm nhạc chuyên nghiệp – Chuyên ngành; Thanh nhạc, Organ, Nhạc cụ truyền thống. Học phần nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lịch sử Âm nhạc thế giới. - Tính chất: Môn học lý thuyết cơ sở ngành bắt buộc - Ý nghĩa và vai trò của môn học: Lịch sử Âm nhạc thế giới có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc trang bị cho học sinh những nền tảng kiến thức về các thời kỳ Âm nhạc và thân thế sự nghiệp của những nhà soạn nhạc tiêu biểu trên thế giới. Từ đó học sinh có thể nắm được tính chất và tính thể loại Âm nhạc của các thời kỳ cùng với những đặc điểm sáng tác của các nhạc sĩ, để áp dụng vào bài học chuyên ngành. Mục tiêu của môn học: - Về kiến thức: Trang bị cho học sinh kiến thức về lịch sử Âm nhạc thế giới ở các thời kỳ; Âm nhạc thời kỳ Phục hưng, trường phái Âm nhạc Cổ điển viên, trường phái Âm nhạc Lãng mạn, Âm nhạc thế kỷ XX và một số khuynh hướng khác của nền Âm nhạc thế kỷ XX. - Về kỹ năng: Sau khi học xong học phần này, học sinh nắm được các giai đoạn hình thành và phát triển của nền âm nhạc Phương tây từ thời kỳ Nguyên thủy đến thế kỷ XX, nhận biết và hiểu được các thể loại Âm nhạc. Thông qua đó vận dụng vào việc sử lý các tác phẩm chuyên ngành được tốt hơn. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Trong giờ lên lớp HSSV phải có trách nghiệm tham gia góp ý xây dựng bài, thái độ học tập nghiêm túc. 11
  11. CHƯƠNG I: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ NGUYÊN THỦY, CỔ ĐẠI, TRUNG CỔ Giới thiệu: Tìm hiểu về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Nguyên thủy, cổ đại, trung cổ và những thành tựu đạt được ở những thời kỳ này. Mục tiêu: Kiến thức: Cung cấp kiến thức về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Nguyên thủy, Cổ đại, Trung cổ Kỹ năng: Hiểu biết về lịch sử Âm nhạc Châu âu thời kỳ Nguyên thủy, Cổ đại, Trung cổ. Bài 1. Âm nhạc Châu âu thời kỳ nguyên thủy, cổ đại, trung cổ 1. Âm nhạc thời kỳ nguyên thủy. Trong sự phân định các quá trình phát triển của lịch sử âm nhạc, thời nguyên thủy được coi là âm nhạc sơ khai, âm nhạc nguồn gốc. Âm nhạc nguyên thủy là âm nhạc của từng cộng đồng, là nghệ thuật tự biên, tự diễn, chưa có âm nhạc chuyên nghiệp. Dấu tích đầu tiên của nghệ thuật nguyên thủy được biết đến từ thời cổ đại đồ đá - thời đại đồ đá cũ và thời đại đồ đá mới. Đó là thời kỳ của bộ tộc không giai cấp. Các cuộc khai quật của ngành khảo cổ đã tìm thấy những chứng cứ và những di tích của các nhạc cụ âm nhạc thời xa xưa này. Trên các vách đá, trong các hang động, người ta phát hiện thấy các hình vẽ cảnh săn bắt tập thể, cảnh kịch câm, cảnh có tính nghi lễ tín ngưỡng và họ giả định những cảnh ấy có sự phụ trợ của âm nhạc, nhằm phục vụ cho cuộc sống lao động, trong đấu tranh với thiên nhiên, với kẻ thù vì sự tồn tại của cộng đồng. Người ta còn tìm thấy những nhạc cụ rất thô sơ được làm từ xương và từ các vật thể khác nhau như chiếc còi, chiếc sáo Hoạt động nghệ thuật nguyên thủy có đặc điểm tập thể, không phân biệt giữa người sáng tác, biểu diễn và thính giả. Những bài ca cổ nhất không chỉ được biểu diễn tập thể, mà còn biểu hiện tình cảm chung của cả tập thể xã hội bộ tộc. Muộn hơn, việc biểu diễn tồn tại hai dạng: đồng ca và đơn ca. Những bài ca có cấu trúc đơn giản về hình tượng nhưng được đa dạng hoá qua các biến khúc hoặc thay đổi về âm sắc, cường độ. Sau này, các bài ca còn chứa đựng những yếu tố mang tính thể loại khác nhau như: lao động, phong tục, ngợi ca, trữ tình, anh hùng Có thể cho rằng, một trong những thành tựu của văn hoá âm nhạc chế độ không giai cấp còn cả loại biểu hiện nhiều bè. Ở một số bộ tộc có các dạng nhiều bè khác nhau, đặc biệt là phỏng mẫu. Nhạc cụ; 12
  12. Người nguyên thủy dùng nhạc cụ là một phương tiện quan trọng để tạo sự phong phú về mầu sắc và nhấn mạnh tiết tấu. Tuy nhạc cụ còn thô sơ nhưng khá phong phú về chủng loại. Sáo được làm từ xương động vật hoặc thân cây. Nhạc cụ gõ. Xuất xứ là những vật thể vang bằng các chất liệu rắn, dùng gõ vào nhau hay dậm, đập xuống đất, hoặc các vật thể rỗng, ở trong có các hạt khô, cứng dùng để lắc đệm cho hát, múa. Nhạc cụ dây. Là phỏng từ chiếc cung dùng để săn bắn tạo thành, qua nhiều quá trình thay đổi để hoàn thiện, ở các thời đại sau có tên gọi là harpe (hác-pơ). Những nét đặc trưng của nền âm nhạc nguyên thủy được kế thừa, tiếp tục, phát triển ở các thời đại nối tiếp. Đồng thời, những sinh hoạt âm nhạc ấy gần như được tồn tại nguyên dạng ở một vài cộng đồng người đang sống trên một vài vùng khác nhau của trái đất. Qua kết quả và các chứng cứ của các ngành khoa học và quan sát sinh hoạt âm nhạc của số ít cộng đồng ấy, cho phép các nhận xét về văn hoá âm nhạc thời nguyên thủy là có tính khoa học, logíc. 2. Âm nhạc thời kỳ cổ đại. Thời cổ đại với chế độ chiếm hữu nô lệ, là bước ngoặt trong sự tiến bộ của loài người. Tuy nhiên, ở chế độ xã hội này lại phân chia thành đẳng cấp nên sự mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, liên tiếp diễn ra các cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô. Điều đó được phản ánh trong nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Nghệ thuật âm nhạc trong chế độ chiếm hữu nô lệ cũng phân thành hai: của đại đa số nhân dân và của tầng lớp quý tộc, vua chúa. Ở thời cổ đại, âm nhạc dân gian vẫn tiếp tục phát triển, đồng thời còn xuất hiện những nhân tố của âm nhạc chuyên nghiệp. Đầu tiên là âm nhạc chuyên nghiệp bình dân của các ca sĩ, nhạc công dùng giọng hát, tiếng đàn của mình đi hát rong khắp nơi để kiếm kế sinh nhai. Tiếp đến, do nhu cầu trong cuộc sống của tầng lớp quý tộc, vua chúa họ được tuyển chọn vào các dinh thự của chủ nô để thực hiện các nghi thức hoặc thoả mãn các thú vui để trở thành âm nhạc chuyên nghiệp quý tộc, cung đình. Tất cả những dòng nhạc ấy là dòng nhạc thế tục. Thời cổ đại, âm nhạc còn phục vụ các lễ nghi tín ngưỡng tôn giáo trong các đền đài, nhà thờ, (tuy không nhiều), đó là dòng nhạc tôn giáo. Khác với thời nguyên thủy, âm nhạc thời cổ đại không gắn với những mục đích có ý nghĩa thực dụng. Âm nhạc thời đại này đã khẳng định vại trò của nó trong cuộc sống, khiến các nhà triết học đã dùng âm nhạc với mục đích giáo dục. Thành tựu. Âm nhạc thời cổ đại đạt được các thành tựu về sáng tác, biểu diễn, kinh nghiệm về chế tác nhạc cụ, về giáo dục, đào tạo. Đồng thời, đã xuất hiện các môn khoa học về mỹ học, về lý thuyết âm nhạc và ở một vài quốc gia đã hình thành cách ghi nhạc. Âm nhạc thời cổ đại phong phú bằng các chủ đề và các thể loại mới. Âm nhạc vang lên trong các 13
  13. đền đài, cung đình và ngoài xã hội. Sáng tác dân gian là một kho tàng vô cùng phong phú và là nền tảng cho nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như nghệ thuật quý tộc, cung đình. Những trung tâm Âm nhạc lớn. Ở Châu Phi có nền văn minh Ai Cập; Châu Á có nền văn minh Lưỡng Hà, Syrie (Xi-ri), Palestrine (Pa-le-xtrin), Ấn Độ, Trung Hoa và cả nền văn minh Văn Lang, Âu Lạc , còn ở Châu Âu có nền văn minh Hy Lạp, La Mã, Trung, Nam Mỹ là nền văn minh Andes (Ăng-đex), nền văn minh của người Maya của người da đỏ. Nền âm nhạc của các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Palestrina, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã rất phong phú, đa dạng. Nền âm nhạc của họ đã tổng kết thành những kiểu điệu thức, những tổ chức quy luật của tiết tấu, nhịp điệu khiến giai điệu và tiết tấu âm nhạc khá hoàn chỉnh. Các quốc gia này đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển âm nhạc, đặc biệt là sự phát triển về nhạc cụ và khoa học nghiên cứu âm nhạc. Những giá trị nghệ thuật được sáng tạo từ những nền văn minh đầu tiên có ý nghĩa lịch sử rất lớn cho toàn nhân loại. 3. Âm nhạc thời kỳ trung cổ. Thời Trung cổ kéo dài gần một nghìn năm. So với thời cổ đại, âm nhạc thời Trung cổ của Châu Âu có nhiều hiện tượng mới rất đáng lưu tâm. Lịch sử âm nhạc của thời Trung cổ là lịch sử đấu tranh giữa nhạc dân gian, nhạc bình dân với nhạc nhà thờ và nhạc quý tộc. 3.1 Âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ 3.1.1 Âm nhạc dân gian Âm nhạc dân gian tồn tại và phát triển trong quần chúng nhân dân, nó không chỉ đem đến niềm vui mà còn cả sự thông cảm, chia sẻ những nỗi buồn khổ, mà người dân đang chịu đựng, mặt khác vạch trần sự tàn ác của giai cấp thống trị. Vì vậy, chính quyền phong kiến và nhà thờ đã truy đuổi và bóp chết họ bằng những luật lệ cực kỳ dã man, hà khắc. Nhưng sáng tác dân gian không hề bị tiêu diệt, mà luôn là ngọn nguồn vô tận, tràn đầy sinh lực. Lúc đầu, âm nhạc dân gian có vị trí lớn trong các nhà thờ thiên chúa giáo. Ca sĩ hát rong đã sử dụng những nhạc cụ dân gian đa dạng từ các nơi mà họ đã qua. Đó là các nhạc cụ dây không có vĩ và sau có cả nhạc cụ dây có vĩ, các nhạc cụ hơi và các nhạc cụ gõ. 3.1.2 Âm nhạc nhà thờ Âm nhạc nhà thờ ở thời kỳ đầu của thời Trung cổ đã dùng các giai điệu của nhạc thế tục để phổ lời theo nội dung của họ. Âm nhạc là một phương tiện mạnh mẽ để tuyên truyền tôn giáo, thu hút giáo dân, tạo ảnh hưởng to lớn trong quần chúng. Từ thế kỷ thứ IV - VII ở Rôm mới hoàn thành việc tuyển chọn và sáng tác, để hệ thống hoá các lối hát của nhà thờ như: Đồng ca Grigorie: Đó là loại hát một bè của đồng ca và đơn ca trên nội dung kinh Phúc âm và tôn giáo, chỉ biểu diễn trong nhà thờ. 14
  14. Messa: là loại hát nghi lễ được hình thành từ các phần của đồng ca Grigorie, nhưng là một liên khúc gồm năm phần, giai điệu của chúng được hát trên các lời ca không thay đổi. Ảnh hưởng của âm nhạc thế tục còn được thâm nhập vào nhà thờ và nẩy sinh một số loại nữa như Sequentia (Xê-căng-tia), Tropi (Trô-pi) và Dramma liturgia (dra-ma li- tua-gia). 3.2. Các trung tâm âm nhạc thời Trung cổ 3.2.1. Âm nhạc Trung Hoa Đến thế kỷ XII - XIII, sân khấu cổ Trung Hoa được hoàn thiện, giống như Opera hoặc ca kịch. Đó là thể loại tổng hợp phức tạp, gồm có nhảy múa, động tác kịch câm, đối thoại, hát với phần đệm của nhạc cụ. Chủ đề của các vở được xây dựng từ truyền thuyết dân gian, các nhân vật anh hùng trong lịch sử đấu tranh với kẻ thù của nhân dân. Tư tưởng chính của các ca kịch này là cuộc đấu tranh giữa cái thiện, ác. 3.2.2. Âm nhạc Ả Rập Trên nền tảng học thuyết cổ về âm nhạc, nền mỹ học và lý thuyết âm nhạc Ả Rập đã đạt tới trình độ cao hơn, từ đó là cơ sở cho lý thuyết âm nhạc thời Trung cổ ở Tây Âu. Người dân Ả Rập sử dụng nhiều nhạc cụ khác nhau: các loại trống, nhạc cụ xóc, nhạc cụ thổi, sáo, gaida, harpe, sixtre và lyth. Tiếp theo các nhạc cụ cổ Ấn Độ, người Ả Rập là một trong những dân tộc đầu tiên có các nhạc cụ dây dùng vĩ kéo (rabab = vièle). Âm nhạc Ả Rập là loại nhạc một bè, giai điệu có mối liên quan chặt chẽ tới thơ và biểu hiện những cảm xúc trữ tình đa dạng. Tiết tấu tự do. Ý nghĩa và vai trò của âm nhạc Ả Rập trong thời Trung cổ là rất lớn, góp phần là một luồng mới đem đến bước ngoặt cho nghệ thuật trữ tình thế tục của ca sĩ - hiệp sĩ (troubadour). 3.2.3. Âm nhạc Slaves Người Slaves không chỉ có nền nghệ thuật dân ca, dân vũ mà họ còn có rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau và nghệ thuật nhạc đàn khá phát triển như người Tiệp đã có dàn nhạc gồm nhiều tổ hợp nhạc cụ. Một thành tựu đáng chú ý của âm nhạc Slaves thời Trung cổ là họ quan tâm đến việc nghiên cứu và giáo dục âm nhạc như trường Đại học tổng hợp Praha có khoa đào tạo nghệ thuật tự do trong đó có cả thực hành và lý thuyết. 3.2.4. Âm nhạc tây âu. Nền âm nhạc Tây Âu trong thời Trung cổ đã đạt được những thành tựu lớn lao trong lĩnh vực lý thuyết âm nhạc, đặc biệt là đã hoàn thiện lối ghi nhạc, đọc nhạc và hệ thống hoá các điệu thức. Lối ghi nhạc và đọc nhạc: Lối ghi nhạc và đọc nhạc là một trong những vấn đề khó khăn nhất và chưa được giải quyết của thực tiễn âm nhạc. Cho tới thế kỷ thứ IX, những bản nhạc vẫn dùng ghi theo lối "nơm" (neuma). Đến thế kỷ XI, Guido d' Arezzo (Gui-đô xứ A-rét-dô: 995 - 15
  15. 1050) ở Ý đã hoàn thiện việc cải tiến và đưa ra lối ghi mới. Để gọi tên các âm thanh, ông đã dùng vần thứ nhất của sáu câu thơ trong một bài Hymne có thứ tự từ thấp lên cao dần là: ut, rê, mi, fa, sol, la. Ông dùng bốn đường kẻ ngang, có những mầu sắc khác nhau: đầu tiên cho âm đô (ut) - màu vàng; cho âm fa - màu đỏ v.v Do vậy, lối ghi mới này đã tạo ra cao độ chính xác giữa các âm. Phải đến thế kỷ XVI mới xuất hiện vạch nhịp trong lối ghi. Điệu thức thời Trung cổ: Điệu thức âm nhạc Tây Âu thời Trung cổ gồm tám điệu thức nguyên thể diatonic: 4 điệu thức gốc và bốn điệu thức biến tương ứng, có tên gọi như các điệu thức cổ đại: Dorien, Phrygien, Lydien, Mixolydien. Học thuyết về quãng cũng được phát triển trong thời đại này. Bắt đầu hình thành các quan điểm mới, mở ra con đường đến nghệ thuật mới và tư duy lý luận của thế kỷ XVI. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà nội – Hà nội 1983). 16
  16. CHƯƠNG II. ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG Bài 1: Âm nhạc thời kỳ Phục hưng ` Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Phục hưng. Kỹ năng: Hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Khái quát Âm nhạc Phục hưng. Thời đại phục hưng trong lịch sử nghệ thuật tây âu kéo dài suốt ba thế kỷ XIV, XV và XVI (XIV tiền PH – XV PH – XVI PH). Đối với văn học thì âm nhạc đi sau gần một thế kỷ. Âm nhạc thời PH bắt đầu đi những bước non trẻ từ TK XIV và chỉ đạt tới những thành tựu xuất sắc ở mức độ ngang hàng với lĩnh vực nghệ thuật khác ở các TK XVII và đầu XVIII với nền nhạc kịch, Violino ở Ý, nhạc Clavexanh ở pháp với Henden ở Anh và Gi-Bắc ở Đức. Âm nhạc PH bắt đầu từ phong trào “nghệ thuật mới” do nhà lý luận nổi tiếng Pháp là Ph.vit ri đề xướng khoảng năm 1530 nhằm đả phá kiểu hát nhiều bè theo lối cũ và thay vào đó bằng lối viết tự do hơn. Trong suốt ba thế kỷ, âm nhạc PH đã đạt được không ít những thành tựu như; Tiếp thu âm nhạc dân gian ở các thời kỳ trước đồng thời phát triển thêm làm cho nó nảy lộc đơm hoa. Vào thời PH âm nhạc dân gian nói riêng và âm nhạc thế tục nói chung đã có vị trí vững vàng. Bên cạnh đó âm nhạc nhà thờ trải qua hơn một nghìn năm tồn tại, đã tạo nên những hình thức những thủ pháp trở thành ngôn ngữ âm nhạc quen thuộc với quảng đại quần chúng như hình thức Mexa, Cantat Nhiều nhạc sĩ chính phái của nhạc nhà thờ như Palext rina, Gabrien không chỉ vết những tác phẩm phục vụ cho nhà thờ mà còn để biểu diễn trong các phòng hoà nhạc thế tục. (Âm nhạc nhà thờ đã tạo nên hình thức Mexa, Cantat ) Phong trào “nghệ thuật mới” đã được thổi bùng lên và lan rộng ra không chỉ ở Pháp mà còn ở Ý, Nideclan, Đức, Anh, Tiệp điều đó chứng tỏ âm nhạc thời PH được mở rộng hơn rất nhiều so với âm nhạc thời kỳ trung cổ. 2. Các trung tâm Âm nhạc nổi bật. Âm nhạc Ý thời Phục hưng. Khái niệm “Nghệ thuật mới” được người Pháp đề ra về mặt lý luận, nhưng lại được người Ý thực hiện một cách chững chạc và hoàn thiện trước hết. Sở dĩ vậy là do điều kiện lịch sử của Ý tỏ ra chín muồi hơn pháp. Nền dân chủ tư sản và chế độ cộng hoà nhân dân ở nhiều thành phố được thiết lập chống lại chế độ phong kiến và thế lực nhà thờ. Cuộc đấu tranh giữa thế lực cũ và mới rất quyết liệt dẫn đến nghệ thuật cũng phải đi tiên phong theo cái mới. Bên cạnh đó Ý còn ở cạnh và tiếp thu nền văn minh Hy lạp cổ đại làm ngôn ngữ cho âm nhạc. Nhạc hát. 17
  17. Phloren là trường phái âm nhạc tiên phong cho “nghệ thuật mới” đây là một trường phái âm nhạc chuyên nghiệp, có trình độ điêu luyện. Mục đích của trường phái này là chống lại các công thức của nhạc hát nhiều bè nhà thờ, đem lại sức sống mới cho nghệ thuật dân gian. Họ cho ra nhiêù thể loại nhạc hát mới mẻ như; Catra, Balat, Madrigan. Catra (săn bắt, vượt đuổi) là loại bài hát có tính tả cảnh rõ rệt, thể loại này có thể lấy tiếng kèn, tiếng gọi nhau, nhịp vó ngựa và chân chạy để làm chất liệu cho tác phẩm. VD35 tr51. Balat (múa) là loại hát múa thường viết cho đơn ca có nhạc cụ đệm hoặc đôi khi có cả dàn hợp xướng tham gia. VD36 tr52. Mađrigan (dịch la tinh là bài hát bằng tiếng mẹ đẻ) là thể loại hát sâu sắc nhất về nội dung và tinh xảo nhất về hình thức. Phần lời của loại bài hát này mang tính chất trữ tình, giãi bày, có khi cả phê phán. Giai điệu luôn được gọt rũa đến từng chi tiết để có thể kết hợp với bè đệm đàn với kĩ thuật đối vị khá phức tạp. VD 37 tr53. Trường phái âm nhạc Phloren có tiếng tăm lừng lẫy ở khắp nước Ý và các nước khác vào TK XIV nhưng sang đến TK XV thì đã bị lu mờ, duy chỉ có thể loại Madrigan là có sức sống bền bỉ và được phục hồi lại ở TK XVI. Nhạc đàn. Nhạc đàn Ý thời PH cũng phát triển mạnh và nổi bật trước hết là đàn Luyt, nhạc cụ hầu như có từng trong gia đình (mục đích để thổi những giai điệu hát múa dân gian) -> các nhạc sĩ soạn những bản nhạc riêng cho đàn Luyt và dùng làm nhạc cụ đệm. Sau Luyt là đàn Organ với những trường phái nổi tiếng như Phloren và Vơni. Một vài thể loại hay dùng để viết cho Organ như; Preluyt (khúc dạo), Ritrecat (tìm kiếm), Caxon (bài hát). Một bộ phận quan trọng nữa trong nền âm nhạc thời PH của Ý là nhạc nhà thờ mà nổi bật là hai trường phái ở Rim và Vơni, đạt tới đỉnh cao ở TK XVI. Trường phái Rim: Là một trung tâm quan trọng nhất của phong cách phức điệu nghiêm khắc, dựa trên cơ sở hệ thống điệu thức trung cổ. Đại biểu là Palext rina. Trường phái Vơni: Là một chi nhánh của nhạc phức điệu Ý TK XVI, Đại biểu cuả trường phái này là Gabrieli. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà nội – Hà nội 1983). 18
  18. CHƯƠNG III: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII - XVIII Bài 1: Nhà soạn nhạc G. F. Henden Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc G. F. Henden. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Năm 1685, Handel chào đời ở Halle Đức cùng năm sinh với Johann Sebastian Bach. Từ khi còn bé, Händel đã thể hiện mình là một tài năng âm nhạc; 7 tuổi đã là một nhạc công điêu luyện, 9 tuổi cậu bắt đầu soạn nhạc. Bố Hendel muốn ông học luật nhưng mẹ ông lại đồng ý cho ông học nhạc, nhờ đó, Handel được phép học đàn và sáng tác. Năm 1702, chiều ý cha, Handel đến học luật tại Đại học Halle, nhưng ngay trong năm sau, khi thân phụ qua đời, cậu liền bỏ ngành luật để theo học âm nhạc, và trở thành người đàn phong cầm cho Đại Giáo đường Kháng Cách ở Halle. Năm 1704, Handel đến sống tại Hamburg, nhận đàn violon và hapsichord cho dàn nhạc của nhà hát opera. Hai vở opera đầu tiên của Handel, Almira và Nero, hoàn thành năm 1705; còn hai vở opera khác, Daphne và Florindo, viết xong năm 1708. Năm 1706, Handel đến Ý. Khi ấy do nhạc opera bị cấm đoán theo lệnh của giáo hoàng, Handel quay sang sáng tác nhạc thánh; và Dixit Dominus nổi tiếng ra đời trong thời gian này (1707). Handel viết nhiều bản cantata mang âm hưởng opera. Năm 1710, Handel đến Luân Đôn và sống ở đó cho đến năm 1712, Nữ hoàng Anne ban cho ông khoản tiền 200 bảng Anh mỗi năm. Trong những năm ở Luân Đôn, một trong những người bảo trợ quan trọng nhất của Handel là nhà quý tộc trẻ tuổi và giàu có Richard Boyle, Bá tước Burlington, một trong những người đầu tiên yêu thích âm nhạc của Handel. Ông vui hưởng những ngày hạnh phúc ở đây, và sáng tác một vài tuyệt phẩm âm nhạc cho bá tước. Năm 1723, Handel dời đến ngôi nhà mới xây dựng ở số 25 Đường Brook, Luân Đôn, và sống ở ngôi nhà thuê này cho đến khi từ trần năm 1759. Những sáng tác nổi tiếng của Handel - Messiah, Zadok the Priest, và Music for the Royal Fireworks – ra đời tại đây. Ngôi nhà trở thành Bảo tàng Nhà Handel, mở cửa cho công chúng vào những dịp trình diễn nhạc Baroque. Năm 1726, Handel cho ra mắt vở opera Scipio, năm sau ông trở thành thần dân nước Anh. Handel nhận làm giám đốc Nhạc viện Hoàng gia từ năm 1720-1728. Tháng 4 năm 1737, tay phải của Handel bị liệt nên ông phải tạm dừng các cuộc trình diễn. Sau khi sức khỏe được phục hồi, Handel tập trung soạn các bản oratoria (nhạc Kinh Thánh) thay vì viết nhạc opera. Handel chưa bao giờ kết hôn, và luôn giữ kín các chi tiết trong cuộc sống riêng tư. Không giống các nhà soạn nhạc khác, sau khi chết ông để lại một tài sản trị giá 20 000 20
  19. bảng Anh (một số tiền khổng lồ thời ấy), phần lớn được di chúc cho một cô cháu gái đang sống ở Đức, cùng các món quà cho những người thân, người giúp việc, bạn hữu và các tổ chức từ thiện. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Handel đưa vào sáng tác của ông các loại nhạc cụ ít được bết đến: viola d’amore và violetta marina (Orlando), đàn lute (Ode for St. Cecilia’s Day), ba loại kèn trombone (Saul), clarinet hoặc cornet (Tamerlano), đàn dây theorbo, kèn đồng French horn (Water Music), lyrichord, double bassoon, viola da gamba, bell chimes, positive organ, và harp (Giulio Cesare, Alexander’s Feast). 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. Handel soạn 42 vở opera; 29 oratorio; hơn 120 cantatas, trio và duet; nhiều aria; nhạc thính phòng; một khối lượng lớn nhạc tôn giáo; ode và serenata; và 16 concerto đàn organ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Messiah với bài hợp xướng “Halleluja”, là một trong những bài hợp xướng được yêu thích nhất, trở thành một tuyệt tác trong các mùa Giáng sinh. Cũng được yêu thích là Opus 3 và 6 Concerti Grossi, cũng như “The Cuckoo and the Nightingale”, và 16 tổ khúc keyboard, nhất là The Harmonious Blacksmith. Sau khi mất, các vở opera Ý của Handel bị rơi vào quên lãng, ngoại trừ những hợp tuyển aria như Serse, “Ombra mai fu”. Danh tiếng của Handel xuyên suốt thế kỷ 19 và thượng bán thế kỷ 20, nhất là ở các quốc gia nói tiếng Anh, được vun đắp bởi các oratio tiếng Anh, thường được trình diễn trong các dịp lễ lớn bởi các ca đoàn lớn quy tụ những ca sĩ nghiệp dư. Cũng được hồi sinh trong những năm gần đây là các bản cantata thế tục, và những vở oratiorio thế tục. Handel chọn các câu truyện thần thoại làm chủ đề cho các vở oratorio thế tục của mình. Cho đến nay, Handel là một tên tuổi lớn được các nghệ sĩ sáng tác nể trọng. Bach từng thổ lộ, “Handel là người duy nhất tôi mong ước được gặp mặt trước khi chết, và là người duy nhất tôi muốn trở thành, nếu tôi không là Bach.” Mozart đưa ra nhận xét, “Handel thấu hiểu hiệu quả âm nhạc hơn bất kỳ ai trong chúng ta. Một khi đã chọn lựa, ông khiến chúng tác động mạnh mẽ như sấm rền, còn đối với Beethoven, Handel là “thầy của tất cả chúng ta nhà sáng tác vĩ đại nhất từng sống trên đất. Tôi sẽ ngả mũ và quỳ trước phần mộ ông. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà nội – Hà nội 1983). 21
  20. Bài 2: Nhà soạn nhạc Giohan Xebaxchien Bắc Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: Giohan Xebaxchien Bắc Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Tiểu sử. J. S. Bắc sinh ngày 31-3-1685 là một nhà soạn nhạc vĩ đại nghệ sĩ biểu diễn Organ lỗi lạc người Đức, sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Nếu tính từ cụ tổ của Bắc cho tới cháu nội của Bắc thì có tới bảy đời với 200 năm cung cấp các nhạc sĩ cho các thành phố ở Đức và nhiều nước Tây âu. Bắc mồ côi cha mẹ từ nhỏ và suốt đời ông gắn liền với nước Đức, vì vậy ông đã ghi chép được những suy tư của người Đức bằng những tác phẩm âm nhạc. 15 tuổi được nuôi ăn để hát trong một dàn hợp xướng ở Luynebuoc, nhiều lần ông đi bộ khoảng 60km tới Hăm buốc để nghe các nhạc sĩ đàn Organ nổi tiếng biểu diễn và hàng 100km tới Xele để tìm hiểu các tác phẩm của Luli do dàn nhạc sở tại trình diễn. 18 tuổi bắt đầu nhận lương bằng vệc ngồi ghế đàn Violino trong dàn nhạc của một công tước ở Vâyma nhưng chỉ vài tháng sau ông bỏ tơí Acnơtát làm nhạc sĩ đàn Organ, sau đó ông lại bỏ đến Muyngauden và ở đây ông đã cưới Maria Bacbara cô em họ 3 đời làm vợ. Tới đây coi như chấm dứt đời thanh niên vật lộn với học hỏi và kiếm sống của Bắc. 23 tuổi vì cuộc sống gia đình Bắc trở lại thành phố Vây ma làm đàn Organ và các loại nhạc khí khác trong cung đình. Thời kỳ này ông không chỉ viết nhạc giáo hội mà còn viết nhạc thế tục, nhất là nhạc cho đàn Organ (tập nhạc Organ, 2 tocata và phuga d-moll, C-dur ). Sau đó vì phản kháng với sự bất công của nhà chức trách nên ông đã phải nghỉ việc và cả gia đình lại phải lui về một tỉnh lẻ để sống, nơi mà chỉ có một không khí âm nhạc bình thản. Trên một phần tư cuộc đời mình Bắc gắn liền cuộc sống với Laixich và ở đây ông đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp, vì Laixich lúc này là một trung tâm âm nhạc lớn có ý nghĩa với cả nước Đức. Nhưng cũng chính tại đây ông được chứng kiến nhiều mặt trái của xã hội và bộc lộ sự phản kháng của mình, gia đình Bắc bắt buộc lại phải rời khỏi Laixich và bị bao vây bởi cảnh nghèo đói với bầy con đông đúc. Tài nghệ của ông hiếm khi được thể hiện, ông mất ngày 28-06-1750 và thi hài của ông bị chôn cất trong quên lãng. Có tài liệu cho rằng tài liệu của Bắc được chôn cất ngay trong một nhà thờ thánh Phoma ở laixich mà ông đã gắn bó rất lâu. Cuộc đời của Bắc chỉ được nói đến trong hai bài báo và được khắc in có 7 tác phẩm. 2. Ngôn ngữ và thủ pháp âm nhạc. Âm nhạc của Bắc khó đồng cảm với người cùng thời, phải đợi đến đầu thế kỷ XIX khi chủ nghĩa âm nhạc lãng mạn ra đời và khi thân phận của con người là trung tâm miêu 22
  21. tả, thì nhạc của Bắc mới được hồi sinh. Âm nhạc của Bắc dẫu viết cho giọng hát hay bất cứ loại đàn nào cũng đề mang âm hưởng của Organ (vì ông là người chơi đàn Organ lỗi lạc). Mỗi thời đại đều tạo ra những vinh quang mới, như Henden chủ yếu là người của thời đại mình, còn Bắc thì vĩnh cửu với mọi thời đại. Bắc ngày nay được nhắc tới trong mọi lĩnh vực của âm nhạc, là tác giả của tác phẩm đầu tiên trong chương trình thi cử từ lớp nhạc của trẻ em tới những phòng thi quốc tế của các nhạc sĩ biểu diễn tài ba khắp toàn cầu là sư tổ của các trường phái âm nhạc có giọng điệu và phi giọng điệu, ấn tượng và hiện thực. Bên cạnh âm hưởng Organ, thì nhạc hát hợp xướng lại là một mặt khác nữa của âm hưởng nhạc Bắc. Nhưng đây là dàn hợp xướng mà các bè có vai trò quan trọng như nhau, từ đó mà sinh ra nhạc phức điệu đạt tới đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của Bắc. Hình thức âm nhạc; Dài lớn. Giai điệu; là loại giai điệu bắt đầu ngay bằng một chủ đề mang cá tính rõ rệt vừa nổi bật lên lại vừa cần tới đường chuyển động hầu như không ngừng. Chủ đề ấy giống như phần lĩnh xướng, sau đó lại hoà vào dàn hợp xướng. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Không có một lĩnh vực âm nhạc nào mà Bắc lại không có cống hiến, và bất cứ ở đâu ông cũng vĩ đại như nhau. Cantat; ông viết khoảng 200 bản, 24 cantat thế tục. trong những cantat này ông đã thể hiện đầy đủ kỹ thuật, kết hợp nhạc hát với nhạc đàn. Motê (6 bản); là loại nhạc hát thuần tuý có quy mô đồ sộ, viết cho dàn hợp xướng lớn có âm hưởng hùng vĩ. Bên cạnh cantat, Mote Bắc còn viết 3 Orato, 4 paxion, 1 Macniphicat, khoảng 10 Mexa lướn nhỏ khác nhau nhưng nổi bật hơn cả là Mexa h-moll. Phức điệu; Bắc đã hoàn chỉnh lối nhạc phức điệu lên đến tột cùng mà điển hình là phuga. Trong khi hoàn chỉnh phức điệu Bắc đồng thời đưa một số loại nhạc chủ điệu lên đỉnh cao như; Preluyt; Đây là một khúc nhạc ngắn, thống nhất về âm hình, thường chỉ diễn tả một khía cạnh nào đó của tình cảm. Theo đúng nghĩa preluyt là để mở đầu cho một bản nhạc nào đó lớn hơn như phuga tuy nhiên Bắc viết rất nhiều preluyt là những tác phẩm độc lập như tập “Những preluyt nhỏ”. Mặt khác nhiều bản có khi phá bỏ cả quy luật thống nhất âm hình để đạt tới một nội dung kịch tính như “Preluyt c-moll trong Bình quân tập I”. Thậm chí có những tác phẩm có mức phát triển gần như Uvectuya. Toccata; Là một tác phẩm viết theo lối phóng tác tự do, có nhịp độ nhanh, thường nặng về phần luyện ngón và trưng bày kĩ thuật. Bắc đã hoàn thiện lối nhạc này qua những bản nhạc viết cho Organ. Mặt khác ông còn sử dụng nó như một Preluyt cho một Phuga lớn hơn như trong bản “toccata và Phuga, d-moll”. 23
  22. Phantadi; Là một loại nhạc phóng tác tự do (nhiều khi rất tự do) và có tính chất phát triển hoàn toàn không giống với bất cứ loại nhạc nào khác.Tác phẩm tiêu biểu như bản; “Phantadi và Phuga, g-moll” nổi tiếng viết cho Organ. “Phantadi âm hoá và Phuga, d-moll” cho Clavoxanh Gắn liền với sáng tác và sư phạm Bắc còn là nhà lý luận âm nhạc, nhà lý luận thực tiễn. Thời bấy giờ các loại đàn phím xây dựng theo hệ thống âm thanh tuyệt đối, chia một cung bằng 9 coma, từ C -> C# = 5coma, từ D ->Db = 5coma như vậy C# cao hơn Db vậy nên rất khó để sáng tác và biểu diễn những tác phâm có từ hai dấu hoá trở lên, muốn biểu diễn được những tác phẩm như vậy thì phải có một loại đàn có hai hàng phím đen; một hàng chuyên dấu # và một hàng chuyên dấu giáng. Bắc là người bãi bỏ hệ thống trên và thay vào đó hệ thống bình quân, chia một cung ra làm hai phần bằng nhau do đó C# và Db bằng nhau. Với hệ thống này thì đàn phím có thể biểu diễn được tất cả các giọng điệu khác nhau và hệ thống Bình quân của Bắc được ứng dụng cho tới ngày nay. Để chứng minh cho hệ thống này Bắc đã viết hai tập “bình quân” mỗi tập gồm 12 cặp Preluyt và Phuga vào tất cả 24 giọng điệu khác nhau. (Bình Quân tập 1 Phuga c-moll). Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – tập I (Nhạc viện Hà Nội 1983). 24
  23. CHƯƠNG IV: TRƯỜNG PHÁI ÂM NHẠC CỔ ĐIỂN VIÊN Bài 1: Khái quát trường phái Âm nhạc Cổ điển Viên Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Sự hình thành và phát triển. Thế kỷ XVIII được gọi là thế kỷ ánh sáng: Chế độ phong kiến suy thoái, xuất hiện nhiều tư tưởng tiến bộ, nền công nghiệp phát triển. Nhiều cuộc cách tư sản nổ ra đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789. Nối tiếp thành tựu của phong cách âm nhạc Barocque. Hình thành tại Viên - Áo (một trong những quốc gia hùng mạnh và phát triển). Đáp ứng nhu cầu thỏa mãn của nhân dân thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Người mở đầu là Nhạc sỹ Gluck, người sáng lập là nhạc sỹ haydn, đỉnh cao là Mozart, Beethoven. 2. Những thành tựu cơ bản. Đạt được thành thành tựu rực rỡ. Đặt nền móng cho nhiều vấn đề cơ bản của âm nhạc (hình thức, thể loại, thủ pháp ) Nội dung tư tưởng: Phản ánh không khí sinh hoạt của nhân dân. Hầu hết có tính lạc quan, tin vào chân lý, phê phán xã hội, ca ngượi chính nghĩa, tình yêu chung thủy. Hòa âm: chủ yếu sử dụng hòa âm chủ điệu. Giai điệu giữ vai trò quan trọng trong TP. Hình thức: liên khúc Sonate, giao hưởng được hoàn thiện. Nhạc kịch 2 lần được cải cách. TP thường có tính cân phương vuông vắn, hài hòa cân đối. Chủ đề âm nhạc gần gũi có tính khái quát cao. Nhiều thể loại khác xuất hiện. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên. Bài 2: Nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck (1714 - 1787) Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 25
  24. C.w.gluck là một nhà cải cách nhạc kịch lớn nhất trong lịch sử của nghệ thuật nhạc kịch. ông đã hoàn thiện "cuộc cách mạng" trong nhạc kịch, giải phóng nhạc kịch khỏi thế lực thẩm mỹ cung đình và làm cho nghệ thuật nhạc kịch thể hiện được các quan điểm của "thế kỷ ánh sáng". cuộc cải cách của nhạc kịch của gluck là sự biểu hiện tính hiện thực của các thẩm mỹ tư tưởng sâu sắc của nhóm "bách khoa". nhạc kịch của gluck là những mẫu mực của chủ nghĩa hiện thực ánh sáng. Gluck là nhạc sĩ người áo, người đại diện cho trường phái cổ điển vienne; đồng thời nghệ thuật của ông còn liên quan đến nền văn hóa tiệp, nơi ông đã sống những năm trong thời thơ ấu và thời thanh niên; còn đối với paris ông là nhà sáng tác nhạc kịch vĩ đại, đã hoàn thành cuộc cải cách của mình. 1. Cược đời và sự nghiệp Những năm tháng ở tiệp, ý, anh và vienne là thời kỳ hình thành cải cách đầu tiên. Gluck sinh ở vùng giáp giới với tiệp, thuộc nước đức, thời nhỏ, ông sống trong vùng rừng núi bohème tươi đẹp. từ năm 1726, gluck đến một thành phố của tiệp để tiếp thu nền học vấn âm nhạc tại đây; đồng thời còn hát trong hợp xướng nhà thờ. đến năm 1732, gluck tới praha để nâng cao trình độ âm nhạc và đã học với một nhà phức điệu nổi tiếng nhất của tiệp. đến 22 tuổi, ông được công nhận là nhạc sĩ dưới ảnh hưởng của nền văn hóa phong phú của thủ đô tiệp. với tài chơi đàn organ và còn là nhà sư phạm âm nhạc, giỏi về hòa thanh, đối vị, nên được người đời mệnh danh là "bach của tiệp". Sau một năm dừng lại ở vienne, gluck đã chuyển đến ý để có thể tìm hiểu, học tập các nhạc sĩ viết opera nổi tiếng, mặc dầu ông đã biết đến opera ý trong thời gian ở vienne. 4 năm sống ở milan, dưới sự dẫn dắt của nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn organ, nhà chỉ huy g.b.sammartini- một trong những nhà giao hưởng ý đầu tiên, gluck đã hoàn thiện nghệ thuật và kỹ thuật sáng tác nói chung và cho nhạc kịch nói riêng. những vở nhạc kịch đầu, gluck viết trên kịch bản của metastasio, trở thành nhà sáng tác nhạc kịch nổi tiếng ở milan và nhiều thành phố khác của ý. tuy nhiên, những vở viết trong thời gian này theo phong cách sérva truyền thống. Năm 1746, gluck sang anh và vẫn tiếp tục viết nhạc kịch truyền thống với những vở nổi tiếng như artamena và sự thất bại của những người khổng lồ. Sau anh, đến 1754, gluck đi thăm dresden, praha, napoli, hambourg, copenhagen, vừa chỉ huy, sáng tác, dàn dựng các vở nhạc kịch mới của mình; ông đã viết hơn 50 vở. Sau chuyến chu du nhiều nước, gluck trở về vienne và vẫn sáng tác nhạc kịch theo phong cách série, đồng thời ông đã hướng tới những khuynh hướng sáng tạo mới, đến nhạc kịch hài hước và vũ kịch pháp. chính việc sáng tác thể loại nhạc kịch mới đã giải phóng những công thức truyền thống trước đây và giúp gluck tìm đến phương pháp hiện thực. vũ kịch giữ vai trò quan trọng trong con đường cải cách nhạc kịch của gluck. thời kỳ này những vở vũ kịch nổi tiếng của ông như don juan, hoàng tử trung hoa, alexandre. 26
  25. Thời kỳ cải cách được thể hiện qua ba vở đầu tiên là orféo và euridice dựng năm 1762, alceste dựng năm 1767 và paride ed elena dựng năm 1770. ba vở cải cách này biểu diễn ở vienne, đã thể hiện rõ tài năng của gluck cũng như quan điểm thẩm mỹ của ông. Con đường cải cách nhạc kịch tiếp theo của gluck diễn ra ở paris. xã hội pháp tiến bộ đã đánh giá chính xác sự nghiệp cải cách nhạc kịch của gluck. Những vở nhạc kịch cải cách ở paris đã biểu hiện đầy đủ nhất sự tìm tòi sáng tạo của gluck. nhạc kịch của ông đã cổ vũ trực tiếp cho paris đang sục sôi tinh thần cách mạng. gluck đòi hỏi sự chân thật của nghệ thuật trong biểu diễn và cả trong kịch bản. ông còn sửa chữa lại các vở như orféo, alceste để phù hợp với sân khấu paris, biểu diễn bằng tiếng pháp bè của orféo cho giọng ténor (còn khi ở viennne cho castra - alto) và có mở rộng thêm các màn múa. Ở paris, nhạc sĩ đã viết những nhạc kịch cải cách cuối cùng của mình là armide (1777), iphigénie en tauride (1779); và cũng trong cùng năm là vở tiếng vọng và cây thùy tiên, nhưng lại xa với những vở cải cách và không thành công. những năm cuối đời, gluck trở lại vienne nhưng lại chuyên tâm sáng tác ca khúc, gluck tạo ra trường phái nhạc kịch mới có ảnh hưởng tới nhiều nhạc sĩ cùng thời và các nhạc sĩ ở nhiều nước trong thế kỷ xix với số lượng gần 100 nhạc kịch các loại. 2. cuộc cải cách nhạc kịch của gluck Gluck chiếm vị trí có ý nghĩa nhất trong lịch sử sân khấu nhạc kịch. quan điểm thẩm mỹ và công cuộc cải cách nhạc kịch của ông đã mở ra một thời kỳ mới của nghệ thuật nhạc kịch. Những nguyên tắc dẫn dắt trong quan điểm thẩm mỹ và cải cách nhạc kịch của gluck là sự đơn giản và tính chân thật. vì vậy, ông đã loại trừ tất cả những gì cản trở cho sự thực hiện các nguyên tắc ấy. sự tổng hợp giữa âm nhạc và kịch là nền tảng trong cải cách của gluck. âm nhạc và ngôn ngữ văn học phải quyện lại với nhau, âm nhạc và lời ca phải kết hợp chặt chẽ. âm nhạc phải góp phần cho kịch phù hợp với tình tiết của kịch, là phương tiện để miêu tả các khía cạnh nội tâm của các nhân vật. Những tư duy này được phát triển trong thẩm mĩ mới, phản ánh các quan điểm ánh sáng và một số các nguyên tắc thẩm mĩ của chủ nghĩa cổ điển. mối liên quan của quan điểm thẩm mĩ của gluck với chủ nghĩa cổ điển được thể hiện trong việc sử dụng các chủ đề cổ đại và việc lý giải các nhân vật trong nhạc kịch. những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mĩ mới này, đòi hỏi sự thay đổi trohng kịch bản, trong các hình thức thanh nhạc, hợp xướng và dàn nhạc của nhạc kịch. Gluck tuyên bố chống lại nghệ thuật kịch của nhạc kịch nghiêm chỉnh cũ, trong đó aria tiếp nhận ý nghĩa chính chứa đựng sự phát triển của hành động. gluck đã đạt được sự phát triển một chủ đề trong nhạc kịch, khắc phục sự luân phiên máy móc của các tiết mục riêng biệt. ông đã liên kết hát nói, aria, hợp xướng và múa trong các cảnh kịch lớn và có dàn ý sáng tạo toàn diện đồ sộ. một trong những cảnh rõ nhất biểu hiện việc cải cách nhạc kịch của gluck là: cảnh 1, màn 2, nhạc kịch orfeo; trong đó, hợp xướng các aria của orfeo và ballet được hợp nhất trong một hành động; cũng như hàng loạt các cảnh của alceste và những vở nhạc kịch khác của nhạc sĩ. 27
  26. Hát nói và aria phụ thuộc vào các nguyên tắc cơ bản của kịch. gluck đã đơn giản hóa giai điệu hát, hướng tới tính hồn nhiên trong thể hiện. âm điệu nói thường đưa vào các phần hát nói, tăng cường cách thể hiện bằng âm sắc trong cách nói. aria trong nhạc kịch của gluck là đơn giản, cách hát, màu sắc đạt đỉnh cao; khẳng định các tâm trạng của nhân vật và tình huống kịch. nguồn gốc phong cách giai điệu của gluck là từ nghệ thuật ca hát dân gian áo - đức, kết hợp với lối hát bel canto của ý. hàng loạt các aria là những bài hát trữ tình đơn giản với tính dân tộc được nhấn mạnh như aria với tiếng vọng của orfeo trong màn 1 của nhạc kịch orfeo và euridice. Gluck. nhạc kịch orfeo và euridice Màn 1. aria của orfeo tôi đã mất euridice là một trong những ví dụ điển hình nhất của sự đau khổ, được thể hiện trong một giai điệu bài hát đơn giản: Gluck. nhạc kịch orfeo và euridice. màn 3. aria của orfeo. Trong vở iphigenie ở tauride, khi người anh hùng chuẩn bị hy sinh cho dân tộc mình, gluck sử dụng aria như bài hát: Gluck. nhạc kịch iphigénie ở tauride - aria số 40 Hợp xướng trong nhạc kịch của gluck có ý nghĩa và giữ vai trò tích cực trong nội dung kịch. hợp xướng trong nhạc kịch của ông, đã hiện thực hóa các sự kiện bi thương. hợp xướng với âm hình hợp âm đơn giản và nhiều hợp xướng lớn với đặc điểm anh hùng; đôi khi, gần đến các chính ca cách mạng của quần chúng của thời đại cách mạng tư sản pháp. Một trong những hợp xướng anh hùng, dũng cảm với đặc điểm hành khúc là hợp xướng kết trong nhạc kịch iphigénie ở tauride. Gluck. nhạc kịch iphigénie ở tauride. hợp xướng số 55 Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên. 28
  27. Bài 3: Nhà soạn nhạc Josepn Haydn Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: J. Haydn. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Nhà soạn nhạc J. Haydn sinh năm 1732 trong một gia đình nghèo tại một làng nhỏ miền nam nước Áo. Ông là một nhà soạn nhạc vĩ đại, cha đẻ của thể loại giao hưởng và tứ tấu, sáng tác ở đủ các thể loại như; giao hưởng, nhạc thính phòng, nhạc kịch, thanh xướng kịch và ông còn là người mở đường cho sự phát triển và hoàn thiện những thể loại này. Ngay khi còn ít tuổi Haydn đã tỏ ra là một cậu bé có năng khiếu đặc biệt và âm nhạc. Mới đầu ông tham gia vào đội hợp xướng, tập Violino, đàn phím tại một nhà thờ ở thành phố Hainobua khoảng ba năm. Sau đó đến Viên cũng làm diễn viên hợp xướng nhà thờ khoảng 10 năm. Năm 13 tuổi đã trở thành diễn viên đơn ca và không lâu sau khi vỡ giọng, ông đã trở thành thất nghiệp. Nhạc sĩ phải thuê nhà, đi dạy thêm để lấy tiền kiếm sống, lúc này ông đã tự học Clavoxanh, violino, lý luận âm nhạc và nghiên cứu các tác phẩm nổi tiếng. 19 tuổi sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên “Con quỷ thọt mới”, 23 tuổi tham gia một nhóm nhạc sĩ do một ông hoàng bảo trợ nghệ thuật, 27 tuổi phụ trách một dàn nhạc có hơn 10 người của một ông hoàng khác, ở đây ông sáng tác nhiều bản hoà tấu giải trí vui vẻ và cũng từ đây bản giao hưởng đầu tiên của ông ra đời. Năm 29 tuổi lại đến với một bá tước khác người Hunggari ở đây thì dàn nhạc có 14 người Cuộc đời nhạc sĩ hầu cận của Haydn kéo dài khoảng 30 năm, ông hết sức đau khổ vì vất vả và ông đã viết trong hồi ký sau này tự hỏi mình “Ta là nhạc sĩ hay người đầy tớ”, ông đã gửi gắm những suy tư này trong những bản giao hưởng; “vĩnh biệt” và “tang lễ”. Năm 59 tuổi Haydn đoạn tuyệt với cảnh làm thuê và vững bước trên con đường của một nhà soạn nhạc. Năm 1791 theo lời mời Salomong chủ một gánh hát ông đã sang Luân đôn, ở đây ông đã sáng tác hàng loạt những tác phẩm có gía trị, đặc biệt là 6 bản giao hưởng. Năm 1792 nhạc sĩ lại rời Luân đôn về Viên, đi qua Bôn thăm bạn và Betthoven đã gặp ông và đã quyết định học ông. Năm 1794 theo lời mời của nhiều người hâm mộ Haydn lại sang Anh lần thứ hai và được trường Đại học Ocphoc tặng học vị tiến sĩ Âm nhạc. Ở đây ông viết thêm nhiều tác phẩm nữa tiêu biểu là 2 vở thanh xướng kịch “Đấng sáng tạo muôn loài” và “Bốn mùa”. Đó là những tác phẩm cuối đời đã đưa ông tới vinh quang tột bậc. Nhà vua Anh đã rất mong muốn mời ông ở lại hẳn Anh nhưng vì nhớ quê hương ông vẫn trở về Viên và 30
  28. ông đã từ trần ngày 31/5/1809 trong một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Viên, khi mà quân đội Áo đang bại trần trước quân đội Napoleong. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Cuộc đời và tác phẩm âm nhạc của Haydn, như những bức tranh sinh động của xã hội Áo nửa sau thế kỷ XVIII. Tác phẩm âm nhạc của ông sáng ngời niềm tin yêu lạc quan, nghị lực. Âm nhạc của ông toát lên một tâm hồn lành mạnh, vui vẻ, hồn nhiên. Hình tượng âm nhạc giản dị, duyên dáng, có sức cảm hoá mãnh liệt. Giai điệu: Tươi sáng nhuần nhuyễn dân ca, dân vũ Đức, Áo, Hung, Tiệp, Anh Hoà âm: Sử dụng những hợp âm hài hoà trong những hình thức cân đối, tính nhân dân tính phổ cập, đó là đặc trưng trong âm nhạc của Haydn. Hình thức: Cân phương vuông vắn. 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. Giao hưởng: Nhạc sĩ sáng tác 104 bản giao hưởng, trong đó tiêu biêủ hơn cả là 12 bản cuối đời, gọi tên là “giao hưởng Luân đôn”. Ông đã sử dụng liên khúc sonata một cách sáng tạo, ngoài chương Menuet ông còn sử dụng các chương biến tấu, rondo ông đã sử dụng sự tương phản về tốc độ cũng như tính chất âm nhạc để nhấn mạnh nội dung âm nhạc. Dân ca, dân vũ là linh hồn trong những bản giao hưởng của ông. Có thể chia những tác phẩm giao hưởng của Haydn làm 4 giai đoạn. Gđ1: Gồm những tác phẩm vết trước năm 1772 nhìn chung mang tính chất giải trí. Gđ2: Những tác phẩm viết sau năm 72, lúc ông đang là nhạc sĩ hầu cận, âm nhạc có tính đau thương, suy nghĩ, lo lắng. Gđ3: Những tác phẩm viết vào những năm 80 của thế kỷ, khi nhạc sĩ đã thoát khỏi những cơn khủng hoảng. Gđ4: Giai đoạn cuối cùng là những bản giảo hưởng Luân đôn, đó là những tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ. Đặc biệt là bản giao hưởng No103 “Trống Rung”. Nhạc thính phòng: Ngoài 104 bản giao hưởng, các thể loại khác cũng là một di sản quan trọng của Haydn. Tứ tấu; Ông viết 83 bản, trong đó tiêu biểu là bản số 63 “chim sơn ca”. Nói chung tứ tấu của ông đều mang phong cách của thể loại nhạc sinh động, tính chất vui vẻ, sáng sủa lạc quan. Tam tấu; 92 bản cũng có giá trị cao trong di sản của ông. Đàn phím; Haydn viết 52 bản sonate cho Piano, nhiều biến tấu, rondo trong đó tiêu biểu là bản Sonate – D/dur. Thanh nhạc: Nhạc sĩ viết 24 vở nhạc kịch, 14 lễ ca (messa), nhiều hợp xướng. Đặc biệt lúc cuối đời xuất hiện hai tác phẩm thanh xướng kịch “Đấng sáng tạo muôn loài” và “Bốn mùa”. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên. 31
  29. Bài 4: Nhà soạn nhạc W. A. Mozart Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: W. A. Mozart. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Mozart sinh ngày 27-1-1756 trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, bố ông Lêôpôn Moda là một nhà sư phạm âm nhạc, nghệ sĩ biểu diễn Violino, mẹ là người phụ nữ đôn hậu hết lòng vì con cái. Moda có bảy anh chị em nhưng năm người đã qua đời sớm, chỉ còn lại Moda và người chị Maria Ana, sau này người chị cũng là một nhà sư phạm có tiếng. Mozart là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn Piano thiên tài người Áo thuộc trường phái âm nhạc Cổ điển Viên, sự xuất hiện của ông đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao cho thể loại Oopera và giao hưởng. Thông thường mỗi nhạc sĩ chỉ thành công ở một vài thể loại âm nhạc như; Bắc có Preluyt và Phuga, Henden – thanh xướng kịch, Haydn cha đẻ của thể loại giao hưởng và tứ tấu nhưng đối với Moda ông sáng tác ở hầu hết các thể loại và ở thể loại nào ông cũng đạt đến đỉnh cao, với số lượng tác phẩm đồ sộ vì vâỵ ông được mệnh danh là vua của tất cả các thể loại âm nhạc. Tác phẩm âm nhạc của Môda thể hiện những nét sinh động của cuộc sống, niềm lạc quan tin tưởng vào chân lý cái thiện chiến thắng cái ác, đề cao lòng nhân đạo cao cả, tình yêu chung thuỷ. Qua tác phẩm của mình Moda đã vạch trần được bộ mặt đểu cáng của bọn quan lại phong kiến bóc lột nhân dân, chính vì vậy nên tác phẩm của ông có tính hiện thực rất cao. Tuy nhiên bên cạnh tính chất vui tươi yêu đời, tác phẩm của ông còn vang lên không ít những khúc nhạc bi thương trầm tư, tràn đầy tính kịch thể hiện tâm trạng lo âu sáo động của người nhạc sĩ hầu cận mất tự do. 2. Ngôn ngữ âm nhạc. Âm nhạc của Moda chứa đựng những nội dung sâu sắc mang tính nhân dân song nó cũng rất gần gũi với tầng lớp quý tộc, nhân vật trong tác phẩm có tính cách đa dạng và phong phú. Giai điệu; Giai điệu trong tác phẩm của ông tươi sáng giản dị, giàu hình tượng, mang hơi thở của nền âm nhạc dân gian Đức, Áo và những bài hát du dương ý rất tinh tế và có chiều sâu nội tâm phong phú. Trong tác phẩm của ông thường được cấu tạo những nét giai điệu Cromatic, những nét hoa mĩ tinh tế và được xác định theo điệu trưởng thứ dất rõ ràng. Ông kết hợp tinh tế giữa những làn điệu thơ ca dân gian Đức, Áo cùng với những chất liệu âm nhạc dân gian của các nước châu âu, đặc biệt là ý để tạo nên những nét nổi bật trong sáng tác của mình. Hoà thanh; 33
  30. Moda đã vận dụng một cách sáng tạo công năng T-S-D với sự kết hợp liên tiếp những hợp âm chính và phụ, cùng với những thủ pháp chuyển điệu mạnh bạo, chuyển điệu sa, âm hình tiết tấu phong phú đã tạo nên ngôn ngữ âm nhạc hết sức xinh động. Phức điệu; Moda đã tiếp thu kinh nghiệm từ J.S. Bach và kết hợp theo phong cách chủ điệu của chủ nghĩa cổ điển viên. Nhưng cái mới trong âm nhạc phức điệu của Moda đó là các chủ đề của ông dất giàu hình tượng, có cá tính, có sức sống và gần gũi với mọi người. Phối khí; Moda đã kế tục xuất sắc phong cách phối khí cổ của Haydn và ông là người đã có công đưa Clarinet vào biến chế của dàn nhạc giao hưởng, bổ xung cho bộ gỗ. Cuộc đời Moda tuy ngắn ngủi nhưng ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng âm nhạc vô cùng đồ sộ, ở nhiều thể loại và trình độ khác hau. Từ những tiểu phẩm cho đàn phím, nhạc thính phòng đến những bản Cantat, Concerto, giao hưởng, nhạc kịch ở thể loại nào ông cũng có những tác phẩm xuất sắc, xong thành công nhất so với ông là hai lĩnh vực nhạc kịch và giao hưởng. 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. Thể loại nhạc kịch: Moda là người đầu tiên đưa Trompet vào nhạc kịch. Nét nổi bật trong nhạc kịch của Moda là sự phát triển liên tục nội dung của mỗi nhân vật, mỗi nhân vật đều có hình tượng rõ ràng và được kết cấu theo cấu trúc số mục. Những bản Aria trong nhạc kịch của Moda thường chịu ảnh hưởng bởi tính trữ tình, tính kịch của thể loại giao hưởng, do đó nhiều bản được viết ở hình thức Sonate không có phần phát triển. Moda sáng tác hơn 20 vở nhạc kịch ở 4 thể loại. Nhạc kịch nghiêm chỉnh: tiêu biểu như vở Idomenay, Lòng nhân từ của típ. Nhạc kịch hài hước; Tiêu biểu như vở Đám cưới Phicaro. Nhạc kịch Đức-Áo; Tiêu biểu như vở Cuộc đột nhập vào hoàng cung, cây sáo thần. Bi hài kịch; Moda là người sáng tạo ra thể loại bi hài kịch, đó là sự kết hợp giữa nhạc kịch nghiêm chỉnh và nhạc kịch hài hước. Tác phẩm tiêu biểu là vở Đông gioăng. Giao hưởng: Giao hưởng chiếm một vị trí hàng đầu trong lĩnh vực khí nhạc của Moda, ông là người đã sử dụng thành công liên khúc sonate trong giao hưởng. Moda sáng tác 41 bản giao hưởng trong đó đa phần mang tính chất giải trí xinh động và bộ dây đóng vai trò chủ chốt. Thành công nhất của Moda trong lĩnh vực này là 3 bản cuối cùng; No39 – Es/dur, No40 – g/moll và No41 – C/dur. Trong ba bản này thì bản số 40 là phổ biến hơn cả. Tác phẩm mang tính chất trữ tình kịch tính mạnh mẽ. Chủ đề chính ẩn chứa những tình cảm bi thương trữ tình, người ta còn gọi bản giao hưởng này là bản gh “Bi thương trữ tình” và được nhiều nhạc sĩ phối khí, chuyển thể cho nhiều loại nhạc cụ khác nhau. 34
  31. Ngoài hai lĩnh vực tiêu biểu đặc sắc là nhạc kịch và giao hưởng, Moda còn có đóng góp dất lớn cho thể loại nhạc thính phòng, đó là những tiểu phẩm viết cho nhạc cụ độc tấu. Một trong số đó là những tác phẩm viết cho Piano mà tiêu biểu là 19 bản Sonate cho Piano, Những tác phẩm này đã phần nào phản ánh được sự sáng tạo nghệ thuật, cũng như quan niệm sống và cuộc đời của Moda. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên. 35
  32. Bài 5: Nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Chia làm 4 giai đoạn. 1.1 Những năm tuổi thơ ở quê hương. Sinh 16/12/1770 tại Born - Đức. Ông sớm bộc lộ năng khiếu và học nhạc từ nhỏ. 1787: ông tìm đến Mozart để học nhưng không thành vì ngay lúc đó phải về tang mẹ. 1789: ông bỏ học ngành triết và tập trung học sáng tác. Giai đoạn này là thời kỳ hình thành thế giới quan, tư duy thẩm mỹ và trau dồi kiến thức về sáng tác. Ông đã có một số sáng tác nhưng chưa khẳng định được nhiều. 1.2 Thời sớm ở Viên (1792-1802). 1792: ông đến hoạt động âm nhạc tại Viên. Sáng tác của ông còn ảnh hưởng của Haydn, Mozart. Tuy nhiên một số tác phẩm đã khẳng định được tài năng, cái riêng của ông. Nổi bật là Sonate No8 và No14. 1796: ông có triệu chứng bị điếc và không may mắn trong tình yêu nên dẫn tới khủng hoảng suy sụp. 1.3 Giai đoạn thành thục (1803- 1812). Vượt qua khủng hoảng ông hăng say sáng tác. Đây là thời kỳ ông có số lượng TP dồi dào. Các TP khẳng định tên tuổi của ông thông qua các đặc điểm sáng tác: TP có tính kịch cao. Xuyên suốt TP là chủ đề anh hùng, cách mạng và chiến thắng. Thủ pháp đa dạng, ưa sử dụng âm hình chủ đạo. Thường có phần coda kéo dài. Hầu hết TP có quy mô đồ sộ. TP nổi bật: Symphony No3, No5, No6, Sonate No21, No23 1803: ông bị điếc hoàn toàn. 1.4 Những năm cuối đời (1816 -1827). Là thời kỳ đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông. TP có quy mô đồ sộ, nội dung giàu tính triết lý, ngôn ngữ âm nhạc hiện đại. TP thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào chân lý, chiến thắng, tương lai tươi đẹp. 36
  33. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Xuyên suốt các sáng tác là tư tưởng nha hùng - đấu tranh- chiến thắng. Quy mô tác phẩm: Đồ sộ nhưng hài hòa, tính kịch cao nhưng tự nhiên. Có nhiều sáng tạo riêng như: Tạo ra sự không ngừng nghỉ giữa các chương (attaca), ưa dùng bộ đồng. Tách bè Cello và công tơ bat thành 2 bè độc lập, đặc biệt sử dụng hợp xướng trong TP giao hưởng. 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. GH: 9 bản. Sonate cho Piano: 32 Sonate cho Piano và Violon: 10 Sonate cho Cello và Piano: 5 3.1 Các tác phẩm Sonate cho Piano. Chứa đụng quy mô, ý nghĩa như một TP giao hưởng. Đề tài chính: anh hùng- cách mạng- chiến thắng, mở ra hướng mới cho chủ nghĩa ÂN lãng mạn say này. Sử dụng nhiều hình thức lạ, áp dụng những thể loại hết sức độc đáo. Những TP cuối đời có tính triết lý sâu sắc. Các TP nổi bật: No8 C dur- Bi hùng. No14 cis moll- ánh trăng. No 21: Rạng đông. No 23 Apaxionata. 3.2 Các tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng. Số lượng TP: 9 giao hưởng, 11 khúc mở màn, 40 vũ khúc, 5 concerto cho piano, 1 concerto cho violon Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên. 37
  34. CHƯƠNG IV. CHỦ NGHĨA ÂM NHẠC LÃNG MẠN Bài 1: Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về sự hình thành và những đặc điểm của chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Sự hình thành và phát triển. Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm (1789) thành công, ngay sau đó giai cấp đại tư sản quay lưng lại phản bội cách mạng và giành lấy chính quyền. Giai cấp thống trị thực hiện chế độ hà khắc, tiêu diệt các trí thức có tư tưởng tiến bộ, khôi phục địa vị của tư tưởng phong kiến và vị thế nhà thờ. Các quốc gia đều dấy lên các cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dân tộc. Tinh thần cách mạng và chủ nghĩa dân tộc được đề cao, đặc biệt có sự khai sáng của chủ nghĩa khoa học không tưởng. Trong hoàn cảnh như vậy nghệ thuật hình thành dòng mới đó là chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn, với các nhà soạn nhạc tiêu biểu như; F. Schubert, F. Chopin, Vê be, Mendenxon đã xây dựng lên cho thế giới một kho tàng Âm nhạc vô cùng qúy báu. 2. Những thành tựu cơ bản. Sáng tác của chủ nghĩa âm nhạc lãng mạn. Nội dung: chủ đề tình yêu xuyên suốt các sáng tác. Bên cạnh đó là tính dân tộc, hiện thực cũng được đề cập đến rất nhiều. Tính chất ÂN gần với thơ ca, hội họa. Ca xướng hóa thể loại khí nhạc. PC sáng tác: đề cao nguyên tắc đơn chủ đề, và tính tiêu đề. Đại diện đầu tiên là nhạc sỹ Frank Schubert có các sáng tác mẫu mực của chủ nghĩa ÂN lãng mạn. Thể loại ca khúc được đưa lên đỉnh cao. Nhiều thể loại âm nhạc mới được sáng tạo như; Giao hưởng thơ một chương, Ballad Phong cách chỉ huy dàn nhạc được cải cách. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đầu thế kỷ XIX. 39
  35. Bài 2: Nhà soạn nhạc F. Schubert Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc F. Schubert. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. F. Schuber là một nhà soạn nhạc người Áo, người mở đầu cho trường phái Âm nhạc Lãng mạn Tây âu. Ông thành công ở mọi lĩnh vực sáng tác như; nhạc thính phòng, giao hưởng, thanh nhạc song thành công hơn cả trong nghệ thuật của Schubert là lĩnh vực viết cho thanh nhạc. Ông là người đã có công đưa thể loại ca khúc, vốn là một thể loại hạng thứ lên đỉnh cao để sánh ngang với các thể loại Âm nhạc chuyên nghiệp khác. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Âm nhạc của Schubert chứa đựng những chủ đề thơ mộng, tình cảm đau khổ và những ước mơ hoài bão của những người nông dân bình dị. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện những vấn đề chung của xã hội mà còn đi sâu vào thể hiện cái tôi của người nghệ sĩ. Bên cạnh những hy vọng đẹp đẽ, tác phẩm của ông còn vang lên cả những hình tượng đen tối bi thảm. Ông đã thể hiện thế giới quan dân chủ nhân đạo và những bất công trong chế độ phản động đương thời một cách rõ nét và sâu sắc. Giai điệu trong tác phẩm của Sube rất sâu sắc mang tính ca xướng, du dương uyển chuyển và có tính chất ngâm vịnh. Giai điệu rất gần gũi với nguồn gốc Âm nhạc dân gian nên hết sức chân thật giản dị và dễ hiểu. Hòa thanh; Đề cao sự tương phản giữa màu sắc và điệu tính, sử dụng nhiều phương pháp chuyển điệu đột ngột, dung nhiều biến âm và vai trò công năng phụ được đề cao. Phối khí; Chú trọng đến khả năng diễn tả của bộ gỗ. Cấu trúc tác phẩm có nhiều đổi mới tự do hơn, sử dụng nhiều âm hình chủ đạo, đề cao nguyên tắc đơn chủ đề và tính tiêu đề. Hình thức thường đơn giản, có cấu trúc hai hoặc ba phần. 3. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu. Sube đã để lại cho nhân loại một kho tàng Âm nhạc vô cùng đồ sộ với khoảng 1500 tác phẩm, ở nhiều thể loại và trình độ khác nhau. Nhưng đặc điểm Lãng mạn trong nghệ thuật của Sube được thể hiện rõ nhất và hoàn thiện nhất là trong các tác phẩm viết cho thanh nhạc. Sube có khoảng 100 tác phẩm lớn như Metxa As-dur, Es-dur, Đại hợp xướng “khúc hát chiến thắng của Miriam” Một trong những tác phẩm có ý nghĩa nhất đối với ông đó là phần nhạc cho vở “Dodamuda”. Phần lớn các tác phẩm viết cho thanh nhạc của ông là ca khúc, ông có khoảng 600 ca khúc, trong đó có nhiều chủ đề như; Trữ tình thơ mộng; có tác phẩm “nàng meludia xinh đẹp”, Ba lát chúa rừng. Tự chuyện; Kẻ lưu lạc, chốn nương tựa, người cô độc 41
  36. Triết lý chữ tình; Thần chết và cô gái, những danh giới của loài người Nghệ thuật: Gửi đến Âm nhạc và nhiều ca khúc về chủ đề thiên nhiên. Ngoài ra Sube còn sáng tác hai tập liên ca khúc “cô thợ xay xinh đẹp” và “con đường mùa đông”. Trong đó tập cô thợ xay xinh đẹp gồm 20 bài, chủ đề nói về tình yêu và cao trào là bài “Người yêu của tôi D-dur”. Tập con đường mùa đông gồm 24 bài, chủ đề mang tính triết lý sâu sắc, đó là những tình cảm bi thương đầy tính kịch. Có thể chia tập này thành hai giai đoạn; 1 – từ số 1 đến 12, gđ2 – từ số 13 đến 24. Sube đã đưa những bài ca phong tục Đức, Áo đạt tới trình độ nghệ thuật cao, tạo ra thể loại mới có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. Ca khúc của Sube rất đơn giản về hình thức nhưng lại rất đa dạng và phong phú về giai điệu, những giai điệu này có liên quan chặt chẽ đến nguồn gốc Âm nhạc dân gian với tiết tấu điển hình của các điệu nhảy. Nhiều ca khúc của Sube được phổ thơ của các nhà thơ như; Hai nơ, Hê ghen, Gớt, Muyly mặc dầu vậy nhưng ca khúc của ông không phải phụ thuộc hoàn toàn vào sự chi phối của thơ, mà ông đã nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hình tượng trong thơ để làm tăng thêm tính nghệ thuật của lời ca và luôn là những tác phẩm độc lập đạt tới trình độ cao. Đặc biệt bè Piano trong ca khúc của Sube, không đơn giản là một bè đệm mà nó còn có tầm quan trọng sánh ngang với bè của lời ca. Nhiều ca khúc có thể tách bè đệm Piano ra thành một tác phẩm độc lập cho Piano độc tấu. Sáng tác cho giao hưởng: Sube viết 9 bản giao hưởng và một số Uvectuya, 7 bản giao hưởng đầu còn chiụ ảnh hưởng của trường phái Âm nhạc cổ điển Viên. Bản giao hưởng số 8 – hmoll (bỏ dở) ra đời, đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử cho nền giao hưởng thế giới, bản giao hưởng này đã bắt đầu cho sự hình thành nền giao hưởng lãng mạn trữ tình, kịch tính, là mẫu mực về nội dung và cấu trúc. Ông đã ca khúc hóa các bản giao hưởng, điều này thể hiện qua các chủ đề mang đậm chất hát, chủ đề 1 và 2 không có nhiều sự tương phản. Bản giao hưởng này được ông xây dựng trên những cảm xúc trữ tình, là chân dung của con người thời bấy giờ, đó là tư tưởng dằn vặt, nỗi đau khổ, những ước mơ không tưởng về một thế giới tươi đẹp. Bản giao hưởng này gồm hai chương. Chương I; được viết ở hình thức Sonata Allegro với ba chủ đề. Chương II; Viết ở hình thức Sonata không có phần phát triển, hai chủ đề không có sự tương phản về tính chất. Ngoài hai lĩnh vực trên Sube còn sáng tác nhiều thể loại khác như; Sonata, hòa tấu thính phòng, tứ tấu dây, Fantadi, thánh ca trong đó những bản hòa tấu thính phòng cũng có mối liên hệ mật thiết với ca khúc. Trong cuộc đời ngắn ngủi của một nhà soạn nhạc chưa bước qua tuổi 32 nhưng ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng âm nhạc vô cùng quý báu ở nhiều thể loại khác nhau, trong đó có những tác phẩm đã trở thành mẫu mực mà chính ông cũng chưa một lần được nghe. 42
  37. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 43
  38. Bài 3: Nhà soạn nhạc C. M. Vêbe (Carl Marie Weber) Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc C. M. Vêbe. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Những năm đầu của thế kỷ XIX nói chung là xã hội Đức còn lạc hậu và trì trệ, vì vậy nó cũng có ảnh hưởng nhất định đến nền nhạc kịch Đức, hai nữa nhạc kịch Đức còn chịu sự ảnh hưởng lâu đời của nền nhạc kịch Ý, Pháp. Sự ảnh hưởng đó cũng là một cản trở nặng nhất cho sự hình thành phong cách nhạc kịch dân tộc Đức. Trong khi nền nhạc kịch Đức đang bế tắc như vậy, thì đã xuất hiện một nhà soạn nhạc “Vê be” ông đã quyết định những vấn đề lịch sử của nền nhạc kịch dân tộc lãng mạn của Đức. Vê be là một nhà soạn nhạc, nhà chỉ huy, nhà biểu diễn Piano và nhà hoạt động xã hội. Ông là người sáng lập ra sự nghiệp sân khấu của Đức và còn là người viết văn. Hoạt động của ông đã nói lên được những tình cảm dân chủ yêu nước của nhân dân Đức. Vê be sinh ngày 18 – 11 – 1786 trong một gia đình Âm nhạc, ngay từ khi còn bé ông đã cùng gia đình đi khắp nơi trong nước Đức, chìm đắm trong thế giới nhạc kịch và đó là sự tích lũy, giúp cho những hoạt động tương lai của Vê be về sân khấu. Khả năng nghệ thuật của Vê be còn thể hiện trong cả hội họa, chính vì vậy ông đã đưa vào nhạc kịch những yếu tố mới của hội họa. Do điều kiện gia đình nên Vê be không được học hành có hệ thống cả về văn hóa lẫn học nhạc. Năm 17 tuổi Vê be mới hình thành về tư duy sáng tác nhờ nhà lý luận Âm nhạc “Phông le” và là người có ảnh hưởng rất nhiều đến nghệ thuật của Vê be. 2. Sự nghiệp sáng tác. Vê be đã để lại hơn 90 bài đơn ca và một số hợp ca viết theo phong cách nhạc dân gian. Ngoài ca khúc những tác phẩm sân khấu đầu tiên của Vê be đã xuất hiện trong năm 12 tuổi như “Sức mạnh của tình yêu và tội lỗi”, “Cô gái câm trong rừng” ngoài ra còn có một số điệu Van. Năm 1804 Vê be đi nhiều nước khác nhau với tư cách là một nhà chỉ huy và với ý thức của một công dân yêu nước, ông đã bắt đầu sự nghiệp tổ chức lại sân khấu Đức và dương cao ngọn cờ dân tộc trong nền âm nhạc của Đức. Để củng cố cho những tư tưởng của mình, ông đã tổ chức nhiều sự kiện âm nhạc, đổi mới chương trình biểu diễn, sửa đổi phần phối âm, phối dàn nhạc và đòi hỏi nâng cao nghệ thuật biểu diễn. 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. Vê be là người đã sáng tạo ra nền nhạc kịch dân tộc của Đức. Tác phẩm tiêu biểu là vở “Mũi tên thần” và với vở này thì ông đã được công nhận là nhà soạn nhạc dân tộc Đức. Vở nhạc kịch viết theo phong cách chính thống đậm đà tính dân tộc và tính lãng mạn. Chủ đề của vở nhạc kịch liên quan đến truyền thuyết trong cuộc đời người đi săn, 44
  39. nổi tiếng trong văn học dân gian Đức, Tiệp, theo truyện ngắn của nhà văn lãng mạn “Apen”. Tất cả những cảnh thật trong đời sống nhân dân đều được đưa vào sân khấu nhạc kịch, chính vì vậy nó rất gần gũi với nhân dân, đồng thời nó cổ vũ và thức tỉnh lòng tự hào dân tộc của họ. Vở nhạc kịch hoàn thành đầu năm 1820 và cuối năm được biểu diễn lần đầu tiên ở Beclin, lần biểu diễn này nó đã biến thành cuộc biểu tình yêu nước, khán giả đã tiếp nhận với cảm xúc hân hoan vui mừng vì nó mang tính dân tộc, thoát khỏi sự ảnh hưởng thống trị lâu đời của nền nhạc kịch Ý, Pháp. Âm nhạc của vở này được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, với vở “Mũi tên thần” Vê be đã tìm thấy con đường mới cho sự phát triển của nhạc kịch. Bên cạnh nhạc kịch Vê be còn sáng tác nhiều tác phẩm cho nhạc đàn như; Sonata cho Piano, Côngxecto với những thành tựu trong sự nghiệp sáng của mình, Vê be sứng đáng là một nhà soạn nhạc lãng mạn đặc sắc. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 45
  40. Bài 4: Nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon Batođi Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon Batođi. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Mendenxon sinh ngày 3-2-1809 ở Hămbuốc Đức, trong một gia đình chủ nhà băng lớn có nền học vấn cao và rất quan tâm hiểu biết về nghệ thuật. Ngay từ khi còn nhỏ ông đã có thể gần gũi với tất cả những người làm công tác khoa học, triết học, văn học nghệ thuật nổi tiếng như; Hêgen, Hainơ, Gớt, Vêbe Mendenxon là một nhà soạn nhạc, chỉ huy, biểu diễn Piano, phê bình, sư phạm âm nhạc, hoạt động xã hội ông được công nhận là một trong những nhà hoạt động nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc của nửa đầu thế kỷ XIX. Bằng những cống hiến của mình ông đã đem lại sự đổi mới cho nền âm nhạc Đức và làm phong phú cho nền âm nhạc Lãng mạn. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Chủ đề, hình tượng và các thể loại âm nhạc của ông có sự liên quan chặt chẽ đến nền văn hóa đương thời ở Đức. Nghệ thuật của Mendenxon là rõ ràng ấm áp và dễ hiểu. Giai điệu đẹp có tính ca xướng, liên quan chặt chẽ đến những yếu tố trong âm nhạc dân gian. Ngôn ngữ hòa âm và dàn nhạc được nâng cao và đặc biệt quan tâm đến sự pha trộn về màu sắc. Hoạt động xã hội của Menddenxxon. Từ năm 1829-1832 ông đi thăm nhiều nước như; Thụy sĩ, Áo, Ý, Pháp, Anh trở về Đức năm 1833, ông rất ngạc nhiên là khắp nơi người ta còn chưa quan tâm đến các sáng tác của các nhà cổ điển, chính vì vậy sau đó ông đã thực hiện những cuộc tuyên chuyền âm nhạc cho các nhạc sĩ như; Bắc, ông là người đầu tiên tuyên truyền cho nhạc Bắc với tác phẩm “Matêpaxion” nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Bắc. Năm 1838 bản giao hưởng C-dur của Schubert đã tìm thấy và biểu diễn lần đầu tiên. Sau đó dưới sự lãnh đạo của ông hàng loạt những tác phẩm của các nhạc sĩ khác như; Haydn, Mzart, Henden, Laxo được đến với công chúng. Đặc biệt ông còn là người có công cải cách phong cách chỉ huy dàn nhạc. Từ năm 1833-1835 ông là nhà lãnh đạo âm nhạc ở Đuyxem, ở đây ông bắt đầu hoạt động trong lĩnh vực sư phạm, biểu diễn đồng thời tìm tòi và nghiên cứu các tác phẩm của các nhà cổ điển. Năm 1835 ông tích cự tham gia vào các hoạt động âm nhạc và giáo dục ở Lai xích, đến năm 1843 nhạc viện Laixich được thành lập và đó là sự nghiệp hoạt động xã hội lớn nhất của Menđenxon. Ông đã soạn chương trình cho nhạc viện để đào tạo ra những người làm công tác âm nhạc chuyên nghiệp cần thiết cho nền âm nhạc Đức. 46
  41. 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. Menđenxon sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau, những tác phẩm thời kỳ đầy còn chịu ảnh hưởng của các nhạc sĩ cổ điển, từ những năm 30 là thời kỳ hoàn thiện trong sáng tác cũng như phong cách âm nhạc của Menđenxon. Những thể loại hoàn thiện nhất mang đặc điểm lãng mạn của ông là; Uvectuya, giao hưởng, Concerto và tuyển tập “bài ca không lời” cho piano. Giao hưởng: Những tác phẩm giao hưởng ông viết đa số là để đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện lịch sử quan trọng nào đó trong xã hội như; Bản số 2 “Cải cách” là nhân kỷ niện 300 năm ngày cải cách tôn giáo ở Đức ông sáng tác tất cả năm bản giao hưởng song tiêu biểu hơn cả là hai bản; số 3 “Ý đại lợi” và số 4 “Xcotlen”. Uvectuya: Ông là người đầu tiên tách các khúc Uvectuya ra thành những tác phẩm độc lập, ông rất thành công với các tác phẩm “Động phi gan”, “Biển lặng và những chuyến bơi kỳ thú”, “Nàng Meludia xinh đẹp” và đặc biệt nổi bật là tác phẩm “Giấc mộng đêm hè”, nó mang phong cách của ông và điển hình của trường phái âm nhạc lạng mạn. Chủ đề thể hiện tính tinh tế của hình tượng, tính huyền ảo và cái đẹp của tự nhiên, thiên nhiên. Concerto: Cả cuộc đời của nhạc sĩ chỉ viết có một bản Concerto cho Violino và dàn nhạc giọng e-moll, nhưng đó lại là tác phẩm điển hình xuất sắc của thời kỳ âm nhạc lãng mạn, được coi là bản Concerto hay nhất thế kỷ XIX. Tác phẩm gồm 3 chương; Chương I; Viết ở hình thức Sonate Allegro chỉ có một lần trình bày với sự hiện diện của cây đàn Violino. Chương II; Mang tính chất chữ tình như một khúc hát du dương huyền ảo. Chương III; Mang đặc tính “Xkecro” với sắc thái ảo tưởng. Với bản Concerto này nó đã làm thay đổi tư tưởng của nhiều nhà sáng tác và cả người nghe. Piano; Điển hình cho phong cách của Menđenxon là tập “Bài ca không lời” ông đã thơ hóa các khúc nhạc làm cho nó gần gũi với các tác phẩm thanh nhạc, tạo ra tính giai điệu trữ tình ca xướng của nó. Tập này gồm 48 tác phẩm, mỗi một tác phẩm đều có một hình tượng rõ ràng, như; số 2”Đi săn”, số 12 “Pacaron chèo thuyền”, số 27 “Hành khúc tang lễ” tất cả tập này là những mẫu mực hoàn thiện nhất của tính trữ tình Menđenxon. Ngoài ra ông còn viết khoảng 80 ca khúc, 60 tác phẩm hợp ca thanh nhạc. Menđenxon qua đời ngày 4-11-1847 khi chưa đầy 39 tuổi đời, nhưng ông đã đạt được những vinh quang của một người sáng tạo. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 47
  42. Bài 5: Nhà soạn nhạc Robert Schuman Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Robert Schuman. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Suman là một nhà soạn nhạc, nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng người Đức, sinh ra trong một gia đình trung lưu khá giả. Suman còn là một nhà tư tưởng với những quan điểm chính trị tiến bộ và là người tuyên truyền nhiệt tình cho vai trò đạo đức trong xã hội. Suman là một người hết sức mâu thuẫn, luôn muốn làm nhiều việc cho xã hội nhưng lại cảm thấy mình không có chỗ đứng, vì vậy âm nhạc của ông chứa đựng những tình cảm luôn thay đổi khó hiểu, chính vì vậy ông được coi là đi vào lịch sử âm nhạc Lãng mạn như một nhà cách tân táo bạo. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Hình thức: Rất tự do. Nội dung: mỗi tác phẩm đều có tính cách riêng, khi thì hài hước đau khổ lúc thì trữ tình nổi loạn. Giai điệu: Thường có những quãng nhảy xa và hay có giai điệu ẩn. Hòa âm: Hay sử dụng phương pháp chuyển điệu đột ngột mà không cần chuẩn bị. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Sáng tác cho đàn phím; Trong tất cả các thể loại Suman đã viết thì lĩnh vực sáng tác cho đàn phím thể hiện đầy đủ nhất sự đổi mới của ông. Những tác phẩm này có tính chân dung cá tính độc đáo, nhiều khi phát triển thành một câu truyện âm nhạc, vì vậy người ta gọi Suman là nhà viết truyện ngắn bằng âm nhạc. Tác phẩm tiêu biểu ở thể loại này là Carnaval Op9, ông viết trên cơ sở biến tấu một chủ đề. Suman gọi tác phẩm này là “Các cảnh trên bốn nốt nhạc” A E C H. Thể loại ca khúc; Ca khúc chiếm một vị trí thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Suman. Ông là người kế tục Sube về ca khúc và nâng lên ở một trình độ mới, tinh tế và sau sắc hơn. Trong lĩnh vực này Suman chủ yếu phổ thơ của các nhà thơ như; Sile, Haino, Gớt tác phẩm tiêu biểu là tập liên khúc “Mối tình của nhà thơ” gồm 16 bài rút ra từ tập thơ trữ tình của Hainơ. Những bài tiêu biểu như số 1 “Trong ánh hào quang của ngày tháng năm ấm áp” số 13 “Trong giấc mơ tôi khóc nức nở” số 16 “Bài ca độc địa”. Tiêu biểu nhất trong tập này là bài số 7 “Tôi không giận” là tác phẩm điển hình nhất về ca khúc của Suman. 49
  43. Ngoài hai lĩnh vực trên Suman còn viết nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau như; Concerto, sonata, giao hưởng Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 50
  44. Bài 6: Nhà soạn nhạc Giochino Rossini Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Giochino Rossini. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Gioacchino Rossini sinh ngày 29 tháng 2 năm 1792 tại thành phố Pesaro Ý, trong một gia đình cả cha và mẹ đều là nhạc sĩ. Cha của nhạc sĩ là một nghệ sĩ kèn cor. Mẹ là con gái một chủ lò bánh mì. Bà đã từng là một ca sĩ có giọng hát rất đẹp. Rossini đã bắt đầu cuộc đời lao động của mình trong công việc phụ việc của một người thợ rèn. Ngay từ khi còn trẻ, Rossini đã cùng gia đình tới thành phố Bologna. Đây là một trong những trung tâm âm nhạc lớn nhất của nước Italia thời bấy giờ. Ở đây Rossini bắt đầu được học âm nhạc một cách có hệ thống và nhanh chóng chiếm được sự chú ý của mọi người trên cương vị một ca sĩ và nghệ sĩ biểu diễn đàn Clavecin. Năm 14 tuổi, G. Rossini đã được bầu chọn làm thành viên của Viện hàn lâm Bologna và cũng chính năm này cậu được vào học tại Trường âm nhạc. Nhưng ấn tượng mạnh nhất đến với cậu lại xuất hiện sau khi ông tự nghiên cứu tác phẩm của Haydn và Mozart Trong suốt thời gian này chàng nhạc sĩ trẻ tuổi Rossini chủ yếu hướng tới nghệ thuật biểu diễn thanh nhạc. Nắm vững kỹ thuật viết cho thanh nhạc là đặc điểm nổi bật của cậu. Năm 1810, Rossini đã sáng tác vở Opera đầu tiên có tiêu đề “Vecxen cưới vợ”. Cũng từ đó hàng loạt các vở opera của Rossini lần lượt ra đời và đạt được những thành công rực rỡ. Cho đến năm 30 tuổi, tên của ông đã được nổi tiếng khắp thế giới. Âm nhạc của ông vang lên không chỉ ở Italia, mà còn ở Áo, Đức, Pháp, Nga, Anh Âm nhạc của Rossini là một phần không thể thiếu của văn hoá âm nhạc phương Tây những năm 20 – 30 thế kỷ XIX. Từ năm 1855 Rossini chuyển đến sống tại Paris. Và ông đã từ trần ở nơi đây vào ngày 13 tháng 11 năm 1868. Năm 1887 tro của ông đã được đưa về Tổ quốc và an táng tại Điện Panteon Santa – Kroch ở Florensia cùng với Mikenlanghelo và Galile. 2. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu. Nhạc kịch; Trên con đường sáng tạo của mình Rossini không phá vỡ truyền thống sân khấu âm nhạc mà ông đã biết cách tân nó rất nhiều. Ông kiên trì đi theo hai khuynh hướng sáng tạo của sân khấu âm nhạc Italia là: hài hước-sinh hoạt và anh hùng ca. Không phá vỡ những gì đã được xác định của thể loại này, ông đã khẳng định một khuynh hướng mới tiến bộ của mỹ học opera Italia: nghệ thuật bel canto tuyệt vời. 51
  45. Những đặc điểm này đã được kết hợp hoàn mỹ cùng sự biểu hiện kinh điển trong “Người thợ cạo thành Xê vin” nổi tiếng (1816). Mười năm cuối đời (1857 – 1868) Rossini dành sức lực cho âm nhạc piano và soạn các tiểu phẩm hài hước. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 52
  46. Bài 7: Nhà soạn nhạc Hector Berlioz Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Hector Berlioz. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Beclio (1803-1869) là một nhà soạn nhạc, nhà chỉ huy và phê bình âm nhạc người Pháp, ông còn là nhà giao hưởng đầu tiên của Pháp có ý nghĩa đối với toàn châu âu. Ngoài ra ông còn xây dựng nền tảng cho nghệ thuật chỉ huy. Thời niên thiếu ông sống ở quê hương, đến năm 18 tuổi đến Pari học ngành Y (theo yêu cầu của bố mẹ) nhưng ông hoàn toàn không có hứng thú mà âm nhạc mới là điều ông mơ ước đầu tiên. Cuối cùng ông đã quyết định con đường sự nghiệp của mình là âm nhạc, do vậy đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với gia đình, cuộc sống của ông trở nên vô cùng khó khăn vì thiếu trợ cấp. Beclio sống độc thân trong thế giới âm nhạc và sân khấu. Ông chịu đựng như vậy trong 10 năm học hành với nhạc sĩ pháp nổi tiếng là Liôxuio, và cũng chỉ mười năm sau ông trở thành người sáng lập ra trường phái giao hưởng của Pháp. 2. Ngôn ngữ âm nhạc. Giai điệu: Rất độc đáo được xây dựng trên nền tảng ca xướng, giai điệu và tiết tấu có cơ sở dân tộc, mang tính ngâm ngợi kiểu Pháp. Hình thức: Khác với cổ điển, có thể là 3, 4, 5 chương. Mở rộng thành phần dàn nhạc của cổ điển, làm phong phú cho bộ hơi và bộ gõ. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Beclio sáng tác nhiều thể loại khác nhau nhưng mang rõ sự đổi mới của ông là lĩnh vực viết cho giao hưởng. Ông là nhạc sĩ đầu tiên viết giao hưởng có tiêu đề, tạo bước ngoặt mới cho loại hình này cũng như tìm được cách giải quyết mới, độc đáo cho nguyên tắc tiêu đề. Tác phẩm tiêu biểu ở thể loại này là bản giao hưởng “Tưởng tượng”. Tác phẩm có liên quan đến cuộc đời riêng của nhạc sĩ, đó là tình yêu đơn phương với kịch sĩ Xmít- xon. Tác phẩm gồn 5 chương. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 53
  47. Bài 8: Nhà soạn nhạc Federic Chopin Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Federic Chopin. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Chopin (1810-1849) là một nhà soạn nhạc vĩ đại, nghệ sĩ biểu diễn Piano thiên tài. Người sáng tạo ra trường phái âm nhạc dân tộc Balan. Ông viết một số lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại và trình độ khác nhau nên được mệnh danh là “nhà thơ của cây đàn Piano”. Chopin là một người có nhiều thay đổi về hình thức cũng như thể loại âm nhạc, ông đã đưa vào nhạc đàn những tư tưởng đấu tranh lớn lao của dân tộc, sự giải phóng dân tộc mà trước đây nó chỉ được thể hiện trong các vở nhạc kịch. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Chủ đề âm nhạc của Chopin đã thể hiện nỗi xúc động của thời đại, tình cảm yêu nước. Giai điệu: Sử dụng nhiều trang sức, Cronaticque và không ổn định giọng. Hình thức: Là người đầu tiên viết Prelute, Skerzo, Valse, thành tác phẩm độc lập. Sử dụng Polone, Mazurka, thành những tác phẩm độc lập cho Piano mang tính chất bác học. Hòa thanh: Rất phức tạp, chuyển giọng đột ngột, đôi khi không ổn định giọng. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Cả cuộc đời Chopin gắn liền với cây đàn Piano. Ông viết 58 Mazurka, và được công nhận là thể loại âm nhạc chuyên nghiệp của Balan từ thế kỷ XIX. Thể loại này viết ở nhịp 3 nhưng trọng âm lại rơi vào phách thứ 2 hoặc thứ 3 hoặc thay đổi tùy từng nhịp. 16 Polonedo thể hiện tình cảm bất tử của tổ quốc. 24 Prelute được sắp xếp theo vòng hòa âm giống như tổ khúc. 4 bản Ballad, Chopin là người đầu tiên viết Ballad cho nhạc cụ độc tấu, hình thức chỉ có một chương với tính chất anh hùng sử thi. Tiêu biểu là bản g - moll. 3 bản Sonata, tiêu biểu là bản sonata b - moll. Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm ở các thể loại khác như 17 Valse, 19 Nocturne, 27 Etude và 2 bản Concerto cho Piano và dàn nhạc, cùng một số tác phẩm khác cho Piano. Chopin đã sống và sáng tác trong tình cảm yêu nước tha thiết, trong nỗi đau vì tự do của tổ quốc. Ông mất ngày 17-10-1849 với nhiều suy tư về tổ quốc còn chưa được thực hiện. Lời mong muốn cuối cùng của ông trước khi mất là trái tim của ông được đưa về tổ quốc Balan thân yêu. 54
  48. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 55
  49. Bài 9: Nhà soạn nhạc Mikhail Glinka Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Mikhail Glinka. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Glinka (1804-1857) là ngà soạn nhạc Nga đầu tiên có ý nghĩa thế giới, ông không chỉ nổi bật là người hoàn thiện một giai đoạn âm nhạc, mà còn mở ra một con đường mới cho sự phát triển của nền âm nhạc Nga. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Âm nhạc của Glinka không chỉ mang đậm bản sắc dân tộc mà ông còn biết kế thừa những thành tựu tốt đẹp của nền nghệ thuật thế giới. Phản ánh toàn bộ đời sống của nhân dân và vai trò của họ trong lịch sử. Giai điệu: điển hình hóa tính ca xướng, có tính mềm mại, sử dụng rộng rãi giai điệu dân ca. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Glinka sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau nhưng thành công hơn cả là thể loại nhạc kịch và giao hưởng. Nhạc kịch: có một vị trí quan trọng trong toàn bộ sáng tác của ông và nó đã khẳng định sự phát triển của thể loại này ở Nga. Nhạc kịch của ông thể hiện tính anh hùng, tình yêu tổ quốc, tin tưởng vào ánh sáng tươi đẹp. Tác phẩm tiêu biểu: “Ivanxuxanhin” và “Ruxlan và Lutmila” Từ hai tác phẩm này đã xinh ra hai dòng nhạc kịch cổ điển Nga, đó là nhạc kịch sử thi và nhạc kịch thần thoại sử thi. Glinka đã thực hiện nguyên tắc giao hưởng trong nhạc kịch, cùng với nhạc kịch “Ivanxuxanhin” giao hưởng Nga bắt đầu đi vào con đường phát triển. Giao hưởng: Glinka là người sáng lập ra nền giao hưởng thuộc truyền thống sinh hoạt, cảnh trí, mặc dù ông sáng tác giao hưởng không nhiều nhưng nó được coi là đặt nền móng cho nền giao hưởng cổ điển ở Nga. Tác phẩm tiêu biểu: Phăngtadi “Kamarinxkaia” được viết theo cấu trúc biến tấu trên hai chủ đề dân gian. Bên cạnh những thể loại trên, Glinka còn viết nhiều tác phẩm ở các thể loại khác như Rômance, ca khúc, nhạc thính phòng, nhiều tiểu phẩm cho Piano Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX. 56
  50. Bài 10: Nhà soạn nhạc Frank Liszt Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Frank Liszt. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp. Sinh ngày 22/10/1810 tại Extecgadi, Hungari. Ông là nhà sư phạm, chỉ huy, nghệ sỹ Piano tài ba và là nhà soạn nhạc lỗi lạc. Sớm tham gia biểu diễn (9 tuổi) Ông học nhạc bởi người thầy là học trò của Beethoven. Ông từng gặp gỡ với nhiều nhà văn hóa, nghệ sỹ nổi tiếng cùng thời như Beethoven, Victo Huygo, Chopin, Paganini Ông là đại diện của “Trường phái Vâyma”. Ông mất ngày 31/7/1886. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Nội dung: thể hiện cuộc đấu tranh, niềm say mê, những suy tư, hy vọng, hoài nghi, thất vọng; đan xen giữa tư tưởng tiến bộ và hiện thực phức tạp. Giai điệu giàu tính ngâm vịnh, giao hưởng hóa TP cho Piano, đề cao âm nhạc có tiêu đề. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Giao hưởng: Ông là người đầu tiên sáng tạo ra thể loại giao hưởng thơ một chương, với tác phẩm tiêu biểu là “Những khúc dạo đầu”. Rapsodi Hungari: 19 bản, tiêu biểu như số 2,6,12,14. TP cho piano: 3 tập “Những năm chu du” Nhiều Etude cao cấp. Các tp chuyển thể cho đàn Piano: GH No 5,6,7 của Beethoven, GH Ảo tưởng, Haron ở Ý của Berlio, Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa cuối thế kỷ XIX. 58
  51. Bài 12: Nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp Sinh ngày 7/5/1833 tại Hamburg. Trong gia đình bình dân, cha ông là Nhạc công. 1853 ông có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhạc sỹ lớn như Schumann, Liszt. Điều đó có nhiều ảnh hưởng lớn đến phong cách sáng tác của ông. Ông tham gia vào diễn đàn của trường phái “Lepzich’. 1862 ông di cư và định cư tại Viên. Ông mất ngày 3/4/1897. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc Ông là nhạc sỹ thuộc trường phái cổ điển của TK XIX, thuộc trường phái “Lepzich” (đối lập với Vâyma). Âm nhạc của ông đề cao tính mẫu mực của ÂN cổ điển Viên. Đề tài: thể hiện thế giới quan xa vời với tư tưởng tiến bộ của thời đại. Giai điệu: Khai thác âm nhạc dân gian Áo, Đức, Hungari, Tiệp TP giao hưởng: đậm chất sử thi, tương phản rõ nét hình tượng chữ tình và kịch tính. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Ông thành công chủ yếu ở thể loại khí nhạc. Các sáng tác cho Piano và thính phòng. Các sáng tác nổi bật cho Piano; Rapsodi Bungari: No5, Intermezzo OP 117, Nhiều capricio. Sáng tác thính phòng: có 24 TP lớn trong đó có 16 TP cho Piano, ngoài ra có các tp thuộc thể loại tứ tấu, tam tấu. Sáng tác cho dàn nhạc giao hưởng; 2 Serenard (Bi kịch và Ngày hội), 2 Uvecture, Các biến tấu trên chủ đề Haynd, Concector: 2 cho Piano, 1 cho Vilon, 1 cho Violn và Cello. GH: có 4 bản No1 c moll (anh hùng, đồ sộ), No2 D dur (vũ khúc, dan gian), No3 F dur (trữ tình kịch tính), No4 e moll (bi kịch) Sáng tác cho thanh nhạc; Tổng 300 ca khúc, trong đó 200 đơn ca có phần đệm piano, 20 song ca, 60 tứ ca, đồng ca không có phần đệm. Nhiều tuyển tập dân ca và dân ca cải biên. 01 Rekiem Đức OP 45 ( theo thể loại Cantat). 59
  52. Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa cuối thế kỷ XIX. 60
  53. Bài 13: Nhà soạn nhạc Josph Verdi Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Josph Verdi. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. 1. Thân thế sự nghiệp Sinh 10/10/1813 trong gia đình bình dân tại Ý. Ông ít có điều kiện theo học âm nhạc bài bản. Sau này ông được người dân quyên góp và theo học tại Milan. Ông sinh ra trong giai đoạn đất nước Ý có nhiều biến động lịch sử với hai thách thức lớn: quân xâm lược Áo - Phổ và sự thống trị của thánh đường Vatican. Ông là người nói lên tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân thông qua các tác phẩm. Ông mất ngày 27/1/1901. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc Nội dung: phản ánh hiện thực XH đương thời, đề cao tình yêu chung thủy, sự thanh cao phẩm chất của người nghèo. Giai điệu bóng bẩy, khai thác chất liệu âm nhạc dân gian Ý. ÂN nhạc phản ánh rõ nét phong trào giải phóng dân tộc Ý. Ông là nhạc sỹ cổ điển vĩ đại của nền âm nhạc, nhạc kịch Ý. Ông được coi là “Ca sỹ cách mạng” của Ý. Âm nhạc của ông phản ánh hiện thực sâu sắc, đưa nhạc kịch Ý bắt nhịp hơi thở thời đại và nâng lên tầm cao mới. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Ông thành công chủ yếu ở thể loại nhạc kịch. Sự nghiệp sáng tác của ông chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn 1; Thời niên thiếu và những năm 40: các sáng tác còn mang chất lãng mạn. Các TP nổi bật: Obecko, Nabecko, Ecnani Giai đoạn 2: Đỉnh cao thứ nhất của chủ nghĩa hiện thực. Các TP mang tính hiện thực sâu sắc. Các TP nổi bật: Rigoletto, T’rubadua, T’raviatta Giai đoạn 3: Đỉnh cao thứ 2 chủ nghĩa hiện thực những năm 50 - 60 và những năm cuối đời. Các TP nổi bật: Buổi chiều Xixtin, Vũ hội giả trang, Động các- lốt, Sức mạnh số phận. Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa cuối thế kỷ XIX. 61
  54. Bài 14: Nhà soạn nhạc George Bizet (G. bi-dê: 1838 - 1875) Mục tiêu Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc George Bizet. Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc. Nghệ thuật nhạc kịch pháp đạt tới một trong những đỉnh cao nhất trong sự phát triển của mình ở thế kỷ xix với vở carmen của bizet. Bizet là một trong những nhà soạn nhạc thiên tài của pháp. những tác phẩm của ông đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp và những quan điểm tiến bộ của nền văn hoá pháp, đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực trong nền âm nhạc pháp thế kỷ xix. Mặc dầu số lượng nhạc kịch là không nhiều nhưng sáng tác của bizet đã thể hiện những nội dung sâu sắc, nghiêm túc; đạt tới khuôn khổ rộng lớn với ý nghĩa lịch sử nhất định trong con đường phát triển của nghệ thuật nhạc kịch pháp. tác phẩm của bizet đã biểu hiện mối liên quan chặt chẽ giữa nội dung và hình thức. đề tài trong tác phẩm hình thành trong cuộc sống thường nhật, gần gũi với quần chúng và được thể hiện bằng ngôn ngữ âm nhạc mới mẻ, táo bạo, chân thực để thể hiện ý chí vươn lên của con người. Sáng tác của bizet gắn liền với sân khấu, và đó cũng là truyền thống dân tộc của nền âm nhạc pháp. tuy ông còn viết những tác phẩm khí nhạc nhưng không để lại những ấn tượng mạnh mẽ như nhạc kịch. 1. cuộc đời và sự nghiệp Bizet sinh ngày 25 tháng 10 năm 1838 ở paris trong một gia đình âm nhạc. bố là thày dạy về âm nhạc, còn mẹ là người chơi đàn piano có tài. truyền thống âm nhạc của gia đình đã ảnh hưởng tới sự nghiệp của bizet sau này. những bài học piano đầu tiên của bizet là với mẹ của mình; đến 10 tuổi bizet đã thi vào nhạc viện paris và học suốt trong 9 năm cả về piano và sáng tác. thày dạy của bizet ở nhạc viện là những giáo sư có tên tuổi zimmermann, marmontel, benoist và halévy nhưng người có ảnh hưởng mạnh mẽ tới con đường sáng tác của bizet là gounod. những năm tháng học ở nhạc viện bizet đã sáng tác nhiều tác phẩm như giao hưởng c dur, cantate, tiểu phẩm piano, romance, tác phẩm hợp xướng và nhạc kịch hài hước: ngôi nhà của bác sĩ tuy nhiên, lúc này khả năng của bizet về piano trội bật hơn. những năm tháng này bizet quen biết một nghệ sĩ violon tây ban nha nổi tiếng là pablo sarasate, người đã cho ông nghe nhiều làn điệu dân ca độc đáo của tây ban nha, của những người digan và để lại những ấn tượng mạnh đối với bizet. Tác phẩm tốt nghiệp nhạc viện của bizet, bản cantate clovic và clotida viết năm 1857 đã nhân được giải thưởng rome. cùng lúc với tác phẩm này là operette bác sĩ mirak, mà bizet đã chia giải thưởng với lecocq trong concour offenbach. Bizet là nhạc sĩ đa tài. ông có khả năng đọc tổng phổ dàn nhạc nhẹ nhàng trên đàn piano với trí nhớ âm nhạc tuyệt vời. bizet không chỉ có tài năng xuất chúng về âm nhạc mà còn quan tâm và hiểu biết sâu về nhiều lĩnh vực như triết học, văn học, nghệ thuật tạo hình và sân khấu. 63
  55. Với giải thưởng rome, bizet được tới ý để học tập và nghiên cứu âm nhạc. tại đây, bizet bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của các tượng đài cổ đại, đi thăm các bảo tàng; nghiên cứu và đi nghe hoà nhạc. Ở ý, bizet đã gần gũi với e. guiraud nghệ sĩ piano, nhà soạn nhạc người pháp và sau này là giáo sư nổi tiếng của nhạc viện paris. quan điểm nghệ thuật chung của họ đã làm cho họ liên kết với nhau trong toàn bộ cuộc đời. thời gian này, bizet làm việc rất căng thẳng; nghiên cứu văn học và lịch sử nghệ thuật, nhiều suy tư cho tác phẩm xuất hiện trong thời gian này như hài nhạc kịch don prokopio và giao hưởng vasco de gama. Năm 1860, bizet trở về tổ quốc nhưng lúc này là những năm bắt đầu của cuộc đấu tranh. số phận của ông cực nhọc, nhưng lao động không ngưng nghỉ. bizet đã phải dạy đàn piano, đệm đàn và sáng tác nhạc giải trí để có ăn và để sáng tạo tiếp tục. Năm 1863, vở nhạc kịch những người mò ngọc trai được công diễn. để khắc phục tính quy tắc và hiệu quả trang trí của nhạc kịch lớn, bizet đã thể hiện những tình cảm mạnh mẽ và tình yêu trong âm nhạc có giai điệu rõ ràng. song, chất lượng của vở nhạc kịch này còn yếu nên nhanh chóng không còn xuất hiện trên sân khấu. Năm 1867, bizet hoàn thành nhạc kịch cô gái đẹp thành perth. trong đề tài thời trung cổ, bizet được cổ vũ bởi hình tượng của quần chúng nhân dân. các cảnh nhân dân và những yếu tố kịch đã tạo nên những đặc điểm tâm lý được phát triển trong nhạc kịch. bản giao hưởng suy nghĩ ở rome được hoàn thành là fantaisie giao hưởng hồi tưởng về rome (1868), bizet còn viết những tác phẩm cho piano, cải biên nhạc hát cho piano dưới tiêu đề nghệ sĩ piano - ca sĩ. trong đó, đặt ra vấn đề quan trong để đạt tới tính ca xướng của nhạc đàn. Sáng tác trong những năm 70 của bizet đã thể hiện sự già dặn và điêu luyện trong nghệ thuật của mình. Năm 1873, ông đã viết ouverture “tổ quốc” bằng tất cả tình cảm yêu nước nồng cháy của mình; tiếp đến là vở nhạc kịch dở dang don rogrigo hoàn thành cùng năm 1873, mà nhân vật chính là người giải phóng nhân dân. trong thẩm mĩ của bizet hình thành phản đề điển hình: hạnh phúc và chủ nghĩa lạc quan - nỗi đau khổ sâu sắc và tính bi thảm. mục đích nghệ thuật của ông là phải nêu lên được tính hiện thực sâu sắc trong cuộc sống. trong cao trào văn hoá dân tộc, khi nhiệm vụ của văn hoá pháp trong một số lĩnh vực đã hiện thực hoá rõ ràng, thì bizet đã đưa nhạc kịch pháp đến với quan điểm của văn học. sáng tác cuối của bizet, nhạc kịch carmen đã gần với chủ nghĩa hiện thực. năm 1871 còn xuất hiện nhạc kịch một màn djamiled, trong đó đã thể hiện chính xác số phận của con người và những cảm xúc trữ tình. Năm 1872, bizet viết nhạc cho vở kịch nói của a. dode “l’ arlésienne” trong đó miêu tả cuộc đời người nông dân phía nam nước pháp, trong tình yêu bi thảm, trong thế giới nội tâm phức tạp, phong phú của nhân vật chính và sự xung đột của tình cảm rộng lớn. đó là chủ đề lớn về cuộc sống của quần chúng, mà ông lý giải một cách lạc quan. mặc cho nỗi đau khổ của con người và số phận bi thảm của con người; cuộc sống vẫn còn đầy sức mạnh với niềm vui và sự sáng sủa. bizet đã thể hiện nội dung của vở kịch trội bật trong âm nhạc. ông tạo ra cảnh rộng lớn của cuộc sống và âm nhạc thấm đượm những bài 64
  56. ca, điệu nhẩy dân gian. âm nhạc cho vở kịch nói này như thể hiện những thành tựu có tính hiện thực của tác giả. sau này, bizet đã soạn lại và sắp xếp âm nhạc của l’ arlesienne thành hai tổ khúc, trong đó tổ khúc thứ hai do guiraud hoàn thành tiếp sau khi bizet qua đời. sau này l’arlesienne được công chúng có khuynh hướng dân chủ đánh giá cao. thời gian này bizet đã viết 12 tiểu phẩm cho piano 4 tay trên chủ đề của thế giới trẻ thơ, một số trong đó được soạn cho dàn nhạc trong tổ khúc giao hưởng nhỏ “trò chơi trẻ em”. từ thành công trong âm nhạc l’ arlesienne, bizet bắt đầu sáng tạo carmen với quan điểm rõ ràng về những vấn đề thẩm mĩ - nhạc kịch. 2. Ngôn ngữ Âm nhạc. Nội dung: Có tính hiện thực cao, phản ánh chân thực số phận con người, nói lên ý trí vươn lên khát vọng tự do. TP Carmen có tính bi kịch nhưng có tính lạc quan. Ông có nhiều đổi mới trong nhạc kịch: Dùng thủ pháp cấu trấu theo số mục. Sử dụng Âm nhạc để dẫn dắt câu truyện và kết nối các tiết mục: các khúc mở màn TP, các màn, nối các tiết mục các khúc aria, hát nói để liên kết các mục Dùng nhạc để báo trước tình huống kịch, sử dụng phong phú nhuần nhuyễn thể hành khúc và các khúc Valse. Hợp xướng trẻ em và cảnh đông người giữu vai trò quan trọng trong thủ pháp sáng tác. 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. Sáng tác cho Piano và dàn nhạc; 12 tiểu phẩm 4 tay cho trẻ em. Giao hưởng Cantat: Vaxco Der Gama. Sáng tác cho kịch. Nhạc kịch carmen, bizet bắt đầu viết từ năm 1873 và hoàn thành năm 1874. đề tài của carmen dựa trên truyện ngắn cùng tên của nhà văn pháp prosper mérimée. hai nhân vật chính khi chuyển sang kịch bản nhạc kịch đã bổ sung những đường nét mới. trong tác phẩm của mérimée hoze là một tên cướp khét tiếng, thô lỗ, cục cằn; còn carmen là cô gái tinh ranh, láu cá hay ăn cắp. khi chuyển sang nhạc kịch hoze là người lương thiện, tử tế biết trọng danh dự nhưng nhu nhược nên bị mua chuộc và dẫn tới tấn bi kịch; còn nhân vật carmen là cô gái sôi nổi, có tình yêu phóng khoáng nên số phận của cô là bi kịch. nhân vật carmen là nhân vật của mẫu hình mới chưa gặp trong nhạc kịch. cô ta có tình yêu tự do, có ý chí và độc lập trong tình cảm, sinh động và luôn thay đổi tâm trạng nhưng mạnh mẽ trong cách sống tự hào và dũng cảm. bizet đã tạo cho hình ảnh của carmen không chỉ là cuộc sống cá nhân mà còn nhấn mạnh những đường nét có tính nhân dân của cô. trong kịch bản bổ xung sự khắc hoạ rõ nét, tính chất thơ mộng hình ảnh anh chàng đấu bò escamilo và cô thôn nữ micael, nhân vật tương phản với hình tượng của nhân vật chính và được khắc hoạ với tính chất đơn giản và tính trữ tình. tính độc đáo cho sân khấu nhạc kịch không chỉ là hình ảnh của carmen, mà còn có mặt của những tập thể - công nhân, những người lính, những người bán hàng. những tầng lớp thấp này chưa bao giờ được tiếp nhận là các nhân vật trong nhạc kịch của luân lý tư sản thành thị. 65