Hiệp định thương mại tự do EVFTA và tác động đối với các doanh nghiệp Việt Nam

pdf 12 trang Gia Huy 18/05/2022 2470
Bạn đang xem tài liệu "Hiệp định thương mại tự do EVFTA và tác động đối với các doanh nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfhiep_dinh_thuong_mai_tu_do_evfta_va_tac_dong_doi_voi_cac_doa.pdf

Nội dung text: Hiệp định thương mại tự do EVFTA và tác động đối với các doanh nghiệp Việt Nam

  1. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO EVFTA VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Thúy Hồng1 – Nguyễn Thị Trang2 – Võ Lê Huyền Trân3 Tóm tắt: Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức có hiệu lực vào ngày 1/8/2020. Việc phân tích, đánh giá các tác động của hiệp định thương mại tự do EVFTA có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp Việt. Bài viết tập trung phân tích tình hình kinh tế Việt Nam trước khi hiệp định có hiệu lực, mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp trước hiệp định EVFTA cũng như đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của hiệp định đến doanh nghiệp Việt. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp cho Nhà nước và doanh nghiệp để khai thác những lợi thế của Hiệp định nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu, phát triển kinh tế. Từ khóa: EVFTA, doanh nghiệp. 1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO EVFTA Kể từ giai đoạn mở cửa thị trường năm 1986, Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều trong việc giữ vững và thực hiện chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, lấy hội nhập kinh tế quốc tế làm trọng tâm. Để hiện thực hóa những chủ trương đó, Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác song phương với hơn 170 quốc gia trên thế giới cùng với đó là quan hệ thương mại, xuất nhập khẩu hàng hóa (MOFA, 2020). Việt Nam đã khẳng định vị thế của mình, dần trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã và đang ký kết 16 hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement (FTA), trong đó có 13 FTAs đã có hiệu lực và 3 FTAs vẫn đang đàm phán. (VCCI Center, 2020). Khi đi sâu vào những tác động của các hiệp định, có thể nhận thấy khả năng tận dụng ưu đãi từ các FTAs của các doanh nghiệp Việt Nam ngày được cải thiện. Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các FTA của Việt Nam đạt khoảng 39% vào năm 2018–2019. Con số trên vẫn có phần khiêm tốn bởi phần lớn những doanh nghiệp Việt Nam còn gặp phải thách thức trong việc đáp ứng những quy tắc xuất xứ, đảm bảo yêu cầu về chất lượng và số lượng đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào các ngành phụ trợ từ nước ngoài. Trên phương diện khác, các doanh nghiệp vừa có cơ hội được tiếp xúc, cọ xát vừa thâm nhập những thị trường mới, đóng góp một phần vào chuỗi giá trị hay chuỗi cung ứng toàn cầu. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã thành công ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. So với các FTA thế hệ cũ, FTA thế hệ mới có cam kết sâu rộng và toàn diện hơn, cắt giảm thuế gần như về 0%, bao gồm nhiều lĩnh vực phi truyền thống như lao động, môi trường, Do đó, các hiệp định FTA thế hệ mới được dự báo sẽ đem lại nhiều ưu đãi tạo cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam song cũng đặt ra nhiều thách thức, buộc doanh nghiệp phải thay đổi, cải tiến đề thích nghi. 1 Khoa Kinh doanh quốc tế – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 2 Khoa Kinh doanh quốc tế – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Email: trangnguyen28122k@gmail.com 3 Khoa Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Email: haohuyen295@gmail.com 199
  2. Trong đó, hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh châu Âu EVFTA, có hiệu vào ngày 1 tháng 8 năm 2020, được cho là sẽ đem lại nhiều tác động tích cực cho kinh tế Việt Nam. Bởi, EU là đối tác lớn thứ ba của Việt Nam, chỉ sau Mỹ và Trung Quốc. Về phía EU, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 17 trên thế giới và thứ 8 trong khu vực châu Á và lớn thứ hai trong ASEAN. Do đó, hiệp định EVFTA kỳ vọng thúc đẩy xuất nhập khẩu, đặc biệt tạo cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước xuất khẩu sản phẩm sang thị trường đầy tiềm năng như EU; cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiệp định EVFTA là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tức các hàng hóa từ EU nhập về Việt Nam cũng được ưu đãi thuế về gần 0%, điều đó có nghĩa hàng hóa Việt Nam có nguy cơ sẽ bị thua cuộc trên chính sân nhà. Do đó, Nhà nước cùng các doanh nghiệp phải đưa ra chiến lược rõ ràng để thay đổi và thích nghi, hạn chế những khó khăn và tận dụng tốt những cơ hội mà hiệp định thương mại EVFTA mang lại. Vào tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và chủ tịch EU đã ký kết khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA. Sau gần 10 năm, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU EVFTA và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA) đã chính thức có hiệu lực vào ngày 1/8/2020. EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo với các nội dung chính là: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và Phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp lý – thể chế. * Thương mại hàng hóa Đối với xuất khẩu của Việt Nam, ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Đối với hàng xuất khẩu của EU, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế (chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu). Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế (chiếm 99,8% kim ngạch nhập khẩu). Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, Việt Nam áp dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết WTO. Các nội dung khác liên quan tới thương mại hàng hóa: Việt Nam và EU cũng thống nhất các nội dung liên quan tới thủ tục hải quan, SPS, TBT, phòng vệ thương mại, tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên hợp tác, tạo thuận lợi cho xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp. * Sở hữu trí tuệ Cam kết về sở hữu trí tuệ gồm cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý, Về cơ bản, các cam kết về sở hữu trí tuệ của Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Một số nét chính trong các cam kết sở hữu trí tuệ như sau: 200
  3. – Về chỉ dẫn địa lý, khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của EU (bao gồm 28 thành viên) và EU sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên quan tới nông sản, thực phẩm, tạo điều kiện cho một số chủng loại nông sản của Việt Nam xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình tại thị trường EU. – Về nhãn hiệu: Hai bên cam kết áp dụng thủ tục đăng ký thuận lợi, minh bạch, bao gồm việc phải có cơ sở dữ liệu điện tử về đơn nhãn hiệu đã được công bố và nhãn hiệu đã được đăng ký để công chúng tiếp cận, đồng thời cho phép chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu đã đăng ký nhưng không sử dụng một cách thực sự trong vòng 5 năm. – Về thực thi: Hiệp định có quy định về biện pháp kiểm soát tại biên giới đối với hàng xuất khẩu nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. – Cam kết về đối xử tối huệ quốc (MFN): Cam kết về nguyên tắc tối huệ quốc trong Hiệp định này đảm bảo dành cho các tổ chức, cá nhân của EU được hưởng những lợi ích về tiêu chuẩn bảo hộ cao không chỉ với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định của WTO về Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) mà còn cả các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ trong các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia (như Hiệp định CPTPP). * Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Quy định về DNNN trong Hiệp định EVFTA nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Cam kết cũng tính đến vai trò quan trọng của các DNNN trong việc thực hiện các mục tiêu chính sách công, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an ninh – quốc phòng. Bởi vậy, Hiệp định EVFTA chỉ điều chỉnh hoạt động thương mại của các doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát và doanh nghiệp độc quyền có quy mô hoạt động thương mại đủ lớn đến mức có ý nghĩa trong cạnh tranh. Các nghĩa vụ chính của Chương DNNN là: (i) hoạt động theo cơ chế thị trường, nghĩa là doanh nghiệp có quyền tự quyết định trong hoạt động kinh doanh và không có sự can thiệp hành chính của Nhà nước, ngoại trừ trường hợp thực hiện mục tiêu chính sách công; (ii) không có sự phân biệt đối xử trong mua bán hàng hóa, dịch vụ đối với những ngành, lĩnh vực đã mở cửa; (iii) minh bạch hóa các thông tin cơ bản của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật về doanh nghiệp. * Thương mại điện tử Để phát triển thương mại điện tử giữa Việt Nam và EU, hai bên cam kết không đánh thuế nhập khẩu đối với giao dịch điện tử. Hai bên cũng cam kết hợp tác thông qua việc duy trì đối thoại về các vấn đề quản lý được đặt ra trong thương mại điện tử, bao gồm: – Trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian trong việc truyền dẫn hay lưu trữ thông tin; – Ứng xử với các hình thức liên lạc điện tử trong thương mại không được sự cho phép của người nhận (như thư điện tử chào hàng, quảng cáo ); – Bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch điện tử. Hai bên cũng sẽ hợp tác trao đổi thông tin về quy định pháp luật trong nước và các vấn đề thực thi liên quan. * Minh bạch hóa Xuất phát từ thực tiễn môi trường pháp lý trong nước có ảnh hưởng lớn đến thương mại, Hiệp định EVFTA dành một chương riêng về minh bạch hóa với các yêu cầu chung nhất để đảm bảo một môi trường pháp lý hiệu quả và có thể dự đoán được cho các chủ thể kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. 201
  4. * Thương mại và phát triển bền vững Hai bên khẳng định cam kết theo đuổi phát triển bền vững, bao gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Về vấn đề lao động, với tư cách là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hai bên cam kết tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện Tuyên bố 1998 của ILO về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, bao gồm việc thúc đẩy phê chuẩn và thực thi có hiệu quả các Công ước cơ bản của ILO. Ngoài ra, hai bên cũng nhất trí tăng cường hợp tác thông qua cơ chế chia sẻ thông tin và kinh nghiệm về thúc đẩy việc phê chuẩn và thực thi các công ước về lao động và môi trường trong một số lĩnh vực như biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sản * Các nội dung khác của Hiệp định EVFTA Hiệp định EVFTA cũng bao gồm các Chương liên quan tới hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý – thể chế, chính sách cạnh tranh và trợ cấp. Các nội dung này phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam, tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên tăng cường hợp tác, thúc đẩy sự phát triển của thương mại và đầu tư giữa hai Bên. 2. TÁC ĐỘNG CỦA EVFTA ĐẾN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2.1. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam với thị trường EU trước khi ký kết EVFTA Hình 1: Trị giá xuất nhập khẩu Việt Nam – EU giai đoạn 2000–2016 Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2020 Trong giai đoạn 2000 – 2016, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa với những quốc gia thuộc EU. Cụ thể năm 2000, tổng giá trị xuất khẩu chỉ dừng ở mức 2.845,1 triệu USD, tuy nhiên con số này đã lên tới 34.007,1 triệu USD vào năm 2016 (TCTK, 2020) gấp gần 12 lần sau 16 năm. Cùng với đó, khoảng 1.317,4 triệu USD giá trị hàng hóa và dịch vụ được nhập khẩu từ EU vào thị trường Việt Nam năm 2000 và con số này đã gia tăng gấp 8 lần tức 11.063,5 triệu USD vào năm 2016. Mức độ gia tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU là 12 lần (2000 –2016) lớn hơn đáng kể so với mức độ gia tăng tổng kim ngạch nhập khẩu là 8 lần trong cùng giai đoạn, đồng thời, Việt Nam luôn đóng vai trò là nước xuất siêu sang thị trường tiềm năng này. Một nguyên nhân lý giải vì sao EU nổi lên là đối tác đầy triển vọng của Việt Nam hiện nay 202
  5. có thể bởi cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa 2 bên ít cạnh tranh, có tính bổ sung cao và quy mô của thị trường lớn. Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU giai đoạn 2016–2019 Đơn vị tính: triệu USD Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất nhập khẩu Trị giá So với năm Trị giá So với năm Trị giá So với năm (triệu USD) trước (%) (triệu USD) trước (%) (triệu USD) trước (%) 2016 34.007,1 9.91 11.063,5 6.03 45.070,7 8,93 2017 38.336,9 12.73 12.097,6 8.57 50.434,5 11,72 2018 41.885,5 9.26 13.892,3 13.95 55.777,8 10,59 2019 41.546,6 –0.81% 14.906,3 7.3 56.452,9 1,21 Nguồn: Tổng cục Thống kê Cùng với những bước tiến đó, không thể phủ nhận được rằng, thực tế trong những năm gần đây tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có mức gia tăng trung bình khá cao và ổn định vào khoảng 10,41%/ năm trong giai đoạn 2016 – 2018. Tuy nhiên, năm 2019 đã chứng kiến một sự sụt giảm đột ngột với mức tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu là –0.81% so với năm 2018. Nguyên nhân có thể kể đến kịch bản Brexit cứng được dự báo có thể sẽ gây thiệt hại cho cả đôi bên và thực tế chuỗi thời gian bất định kéo dài trong suốt 11 tháng đầu năm 2019 làm suy yếu nền kinh tế của EU. Do đó, Việt Nam cũng gặp khó khăn trong hoạt động xuất và nhập khẩu của mình. Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU (28 nước) trong 2 quý đầu năm 2020 Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất nhập khẩu Trị giá So với năm 2019 Trị giá So với năm 2019 Trị giá So với năm 2019 (%) (%) (%) Q1/2020 9.68 –5.1 3.62 6.7 13.3 –2.2 Q2/2020 8.93 –13.3 4 14.28 13.83 0.21 Nguồn: Tổng cục Hải quan Nhìn chung, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam vào EU hai quý đầu năm đều chứng kiến sự giảm sút so với năm 2019, cụ thể giảm 5,1% ở quý I và 13,3% ở quý II, nguyên nhân chính đến từ việc đóng cửa nền kinh tế của EU và quy định hạn chế đi lại do đại dịch Covid–19. Tuy nhiên, cơ hội xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU vẫn còn nhiều điều hứa hẹn khi đại dịch được kiểm soát. 2.2. Mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp Việt Nam trước EVFTA Ngay sau khi có hiệu lực, EVFTA sẽ xóa bỏ 85,6% số dòng thuế nhập khẩu, điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt sẽ có cơ hội mở rộng thị trường sang những quốc gia thuộc khối EU. 203
  6. Để tận dụng tốt cơ hội này, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng những đòi hỏi cụ thể đối với từng nhóm ngành nghề. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp Việt Nam trước hiệp định vẫn còn được đánh giá thấp. Mức độ hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về các hiệp định thương mại tự do nói chung và EVFTA nói riêng vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể, trung bình 66,3% các doanh nghiệp được hỏi có vốn hiểu biết ít về EVFTA, trong khi chỉ có 1,6% doanh nghiệp hiểu tương đối kỹ (VCCA, 2019). Những con số trên cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp không quan tâm đến hoặc rất ít quan tâm đến các hiệp định và cho rằng việc tận dụng các hiệp định còn quá xa vời. Song song cùng với đó, là việc doanh nghiệp thường chỉ biết về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan nhưng về những khía cạnh khác của hiệp định như quy tắc xuất xứ, SPS, TBT, quy tắc chống bán phá giá thì vẫn còn mơ hồ. Những nhân tố thường chưa được lưu tâm như phía trên đã và đang tạo nên rào cản thực tế của doanh nghiệp. Hình 2: Mức độ hiểu biết của doanh nghiệp Việt về một số hiệp định thương mại tự do của Việt Nam Nguồn: VCCA (2019), Kết quả điều tra PCI (2018) * Trình độ và kỹ năng của người lao động và đội ngũ quản lý lãnh đạo doanh nghiệp Theo báo cáo “Vốn con người” của WEF (2017) thứ hạng về năng lực lao động Việt Nam chỉ nằm trong nhóm trung bình thấp. Trong đó kỹ năng nghề bậc trung và bậc cao lần lượt xếp ở vị trí 128/130 và 99/130, điều này chứng tỏ rằng bộ phận lao động của Việt Nam có kỹ năng lao động thấp so với thế giới. Mặt khác, về trình độ đội ngũ quản lý Việt Nam, theo điều tra Năng lực quản lý toàn cầu (2017) trình độ quản lý của Việt Nam chỉ đạt mức 2.66/7, thấp hơn rất nhiều so với trung bình của thế giới. Những nhà quản lý được đánh giá có khả năng cao trong giám sát nhưng lại yếu trong việc hoạch định chiến lược và tầm nhìn trong dài hạn. Những con số trên phản ánh khả năng kết nối, hợp tác của các 204
  7. doanh nghiệp Việt với những doanh nghiệp nước ngoài. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã ý thức và từng bước nỗ lực để trở thành một mảnh ghép trong chuỗi cung ứng của khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, những điểm yếu trong nội bộ doanh nghiệp, tầm nhìn và chiến lược của ban lãnh đạo khiến cho vị trí cung ứng của doanh nghiệp vẫn còn khiêm tốn. Chỉ có 36% các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp (VCCA, 2019), con số này còn rất thấp khi so sánh với các nước trong cùng khu vực như Malaysia, Thái Lan khoảng 60%. 2.3. Tác động tích cực EVFTA có thể được coi là một trong những hiệp định thương mại tự do toàn diện và nhiều hứa hẹn nhất của Việt Nam. Hiệp định đã, đang và sẽ mở ra rất nhiều những cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hóa hay trên con đường trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu. Một số những tác động tích cực và cơ hội tiêu biểu được đề ra dưới đây: * Mở rộng thị trường, gia tăng xuất khẩu Việc xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu cho các hàng hóa nhập khẩu vào EU sau 7 năm là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Một số ngành chủ lực như nông thủy sản, dệt may, da giầy, được dự báo có mức tăng trưởng ấn tượng. Thực tế, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông lâm thủy sản vào EU trong tháng 8/2020 đã tăng hơn 17% so với tháng 7/2020 (Bộ Công Thương, 2020). Đây được coi là một tín hiệu khả quan khi so sánh với các hiệp định FTA trước đây, thường phải mất khoảng chục năm để đạt được mức tận dụng ưu đãi xấp xỉ 30%. Đối với riêng ngành Logistics – một ngành dịch vụ vẫn còn mới và non trẻ tại Việt Nam, EVFTA tác động tích cực đến triển vọng phát triển ngành trên góc độ quy mô, chất lượng và dịch vụ với cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam sang EU. Ngoài ra, những yêu cầu và đòi hỏi cao từ những đất nước được coi là khó tính nhất thế giới sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có chiếm lợi thế trong việc xuất khẩu hàng hóa sang những quốc gia khác ngoài EU. Về mặt dài hạn, tác động từ EVFTA không chỉ dừng lại ở việc tăng giá trị xuất khẩu, mà còn là gia tăng mức độ nội địa hóa cho các sản phẩm Việt. Tác động nhập khẩu cũng gần như tương đương với xuất khẩu, việc yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu thúc đẩy Việt Nam giảm mức độ phụ thuộc nhập khẩu vào một quốc gia như Trung Quốc hoặc một khu vực như ASEAN. Đồng thời tăng mức độ sử dụng nguyên liệu đầu vào từ các quốc gia EU, một mặt đáp ứng yêu cầu nhập khẩu, mặc khác giúp phát triển mối giao thương hai chiều bình đẳng. * Tiếp cận công nghệ, kỹ năng quản lý từ nước ngoài Năm 2019, EU đã có tổng cộng 2.375 dự án đầu tư vào Việt Nam (tăng 182 dự án so với năm 2018) từ 27 quốc gia thuộc EU) (Tổng cục thống kê, 2020). Một điều đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng đầu tư vào những ngành dịch vụ và công nghệ cao. Điều này sẽ giúp Việt Nam có thể tiếp cận với nguồn công nghệ hiện đại đồng thời kỹ năng quản lý đi kèm. Đơn cử như ngành may mặc Việt Nam, để phù hợp và đáp ứng những yêu cầu trong chất lượng vải sợi, nhuộm, các doanh nghiệp cũng đã chủ động trong việc kết nối và hợp tác với những công ty nước ngoài để phát triển công nghệ, đổi mới và cải tiến máy móc. Thực tế sau 2 tháng (từ 1/8/2020) khi hiệp định EVFTA đưa vào hiệu lực, đã có 15,000 bộ giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu EUR.1 trong đó tỷ lệ C/O theo ưu đãi EVFTA đạt 7,4%, đã 205
  8. được cấp trên những mặt hàng chủ yếu như giày dép, hàng dệt may, nông sản (Bộ Công Thương, 2020). Đó cũng được coi như là một dấu hiệu tích cực về triển vọng xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU. 2.4. Tác động tiêu cực Hiệp định thương mại EVFTA là một trong những dấu ấn thành công của Việt Nam trên con đường mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt đối với hiệp định EVFTA, Việt Nam không chỉ ký kết với 1 quốc gia mà là 27 quốc gia thành viên, có thể nói là hiệp định thương mại tự do 1 trong 27. Tuy nhiên, hiệp định EVFTA không chỉ đem lại cho các doanh nghiệp Việt nhưng thuận lợi, trái lại, nó cũng đặt ra rất nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức. * Rào cản kỹ thuật Mặc dù được hưởng thuế xuất nhập khẩu ở mức 0%, các mặt hàng Việt Nam khi đưa vào châu Âu gặp không ít thách thức về rào cản kỹ thuật. Hàng hóa Việt Nam muốn nhập vào châu Âu, phải qua các giai đoạn kiểm dịch nghiêm ngặt, phải tuân thủ các hàng rào kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, Và các yêu cầu bắt buộc về vệ sinh an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường của châu Âu rất khắt khe, không dễ đáp ứng. Trong khi đó, việc Việt Nam bị áp dụng thẻ vàng với khai thác thủy sản vào tháng 10/2017 đã, đang và sẽ là những yếu tố bất lợi cho tình hình xuất khẩu thủy sản. Và công tác “gỡ” thẻ vàng của Việt Nam khó thành công, khi các tàu cá không ngừng vi phạm vùng biển nước ngoài và không khắc phục được những tồn tại mà EU đã chỉ ra. Bên cạnh đó, hiệp định thương mại EVFTA quy định các yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm. Cụ thể, hàng hóa sẽ được coi là xuất xứ một bên (Việt Nam hoặc EU) nếu đáp ứng được một trong các yêu cầu mà hai bên đã thống nhất: “Có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của bên xuất khẩu. Không có xuất xứ thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của bên xuất khẩu nhưng đáp ứng được yêu cầu hàm lượng giá trị nội địa không dưới 40%”. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt, vì phần lớn các nguyên, nhiên vật liệu đầu vào đều được nhập từ Trung Quốc hoặc ASEAN. Hơn nữa, Việt Nam hiện cũng chưa có quy định về bộ tiêu chí, cũng như tỷ lệ nội địa hóa để đánh giá thế nào là hàng được ghi nhãn sản xuất tại Việt Nam. Do đó, nếu tiêu chí nguồn gốc xuất xứ không được đáp ứng, hàng hóa Việt Nam sẽ không được hưởng mức thuế ưu đãi 0%. * Sức ép cạnh tranh từ hàng hóa, dịch vụ Việt Nam là nền kinh tế có trình độ phát triển kém nhất trong các quốc gia mà EU ký FTA, do đó, vấn đề cạnh tranh là không thể tránh khỏi và là một trong những sức ép lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, các doanh nghiệp EU có lợi thế hơn hẳn so với các doanh nghiệp Việt về năng lực cạnh tranh, kinh nghiệm thị trường, lẫn khả năng tận dụng FTA. Trong khi đó, các cam kết cắt giảm thuế trong hiệp định EVFTA chỉ kéo dài từ 5 – 7 năm, nhiều điều khoản phải thực hiện sau khi hiệp định có hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2– 3 năm. Do đó, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể bắt kịp với các doanh nghiệp EU để có thể phát triển bền vững trên chính “sân nhà” của mình là vô cùng khó khăn khi tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chiếm đến 97% (Tổng cục Thống kê, 2019). Hơn nữa, hàng hóa Việt Nam vẫn chưa được thị trường EU biết đến nhiều, khả năng cạnh tranh của thương hiệu Việt so với các nước khác vẫn còn kém. Từ đó, sinh ra câu chuyện sản phẩm Việt “tàng hình” trên các kệ hàng thế giới. Thương hiệu sản phẩm Việt không được xếp hạng cao ở thị 206
  9. trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường châu Âu. Do đó, mặc dù được hưởng mức thuế xuất khẩu 0%, hàng Việt gặp khó khi tìm chỗ đứng trên thị trường Âu. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt chắc chắn sẽ chịu áp lực cạnh tranh khắc nghiệt so với các đối thủ cạnh tranh. * Nguy cơ về các biện pháp phòng vệ thương mại Khi tham gia vào các hiệp định thương mại, công cụ thuế quan không còn là công cụ để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước. Do đó, các thị trường nhập khẩu thường có xu hướng sử dụng nhiều các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Và EU là một trong những thị trường sử dụng các công cụ này nên doanh nghiệp Việt Nam có thể bị lúng túng. Các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam có thể phải đối mặt với nguy cơ bị điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Trong khi đó, các doanh nghiệp còn bị động, chưa nhận thức thực sự rõ ràng về nguy cơ xảy ra các vụ việc điều tra thương mại cũng như hệ quả bất lợi của các vụ việc này đối với việc sản xuất. Vào năm 2018, EU đã tiến hành nhiều cuộc rà soát biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu. Theo thống kê, trong 27 nhóm thép EU áp dụng biện pháp tự vệ, Việt Nam xuất khẩu 20/27 nhóm, và bị áp dụng biện pháp với 3/27 nhóm. Các biện pháp bảo hộ thương mại ngày càng gia tăng sẽ gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG NHỮNG TÁC ĐỘNG TÁC TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA EVFTA ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 3.1. Kiến nghị với Nhà nước * Hoàn thiện các thể chế, chính sách đầu tư, kinh doanh Nhà nước cần khẩn trương rào sát, hoàn thiện các thể chế, chính sách đầu tư, kinh doanh. Cụ thể, Nhà nước cần chủ động nghiên cứu luật, rà soát các sự cố trong quá khứ, học hỏi các bài học từ các quốc gia đã ký kết với EU như Singapore để từ đó có thể đề xuất cho Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các đạo luật quan trọng như Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Bảo vệ môi trường, đáp ứng với các nguyên tắc và cam kết mà hiệp định EVFTA đã đưa ra. * Hoàn thiện các bộ tiêu chí xác định nguồn gốc xuất xứ Hiện nay, Việt Nam chưa có bất cứ quy định nào về tiêu chí để hàng hóa được ghi nhãn sản xuất tại Việt Nam. Trong khi, quy tắc xuất xứ là một trong những quy tắc EU rất chú trọng. Do đó, Nhà nước cần khẩn trương xây dựng và hoàn thiện bộ tiêu chí xác định nguồn gốc, để hàng hóa Việt có thể thuận lợi xuất sang thị trường Âu. * Nhà nước chủ động thông tin cho các doanh nghiệp Nhà nước là cầu nối giúp cho các doanh nghiệp trong nước và thị trường nước ngoài. Nhà nước cần phải nhanh chóng, chủ động trong việc thông tin cho các doanh nghiệp những thay đổi về mặt pháp luật, quy định hay tình hình thị trường trong nước và thế giới để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp. Chẳng hạn, Nhà nước chủ động thông tin cho các doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng về các tiêu chí xét chọn sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia, để doanh nghiệp có thể nắm rõ và đặt mục tiêu thực hiện. * Cải thiện môi trường kinh doanh Thứ nhất, tăng cường sự vào cuộc mạnh mẽ, thực chất và đồng đều của các bộ, ban, ngành và các 207
  10. địa phương để cải thiện và giảm sự chênh lệch về môi trường kinh doanh giữa các địa phương, tạo ra sự công bằng trong chính sách. Thứ hai, Nhà nước cần đẩy nhanh các hạng mục đầu tư công, nhằm cải thiện chất lượng các tuyến đường giao thông, xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Thứ ba, Nhà nước giám sát chặt chẽ các hành vi sai trái, không minh bạch của một số cán bộ, nhất là các cán bộ hải quan, vệ sinh an toàn thực phẩm để ảnh hưởng đến uy tín hàng hóa Việt. 3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp * Nắm rõ về EVFTA Điều tiên quyết để có thể tận dụng tốt các ưu đãi hiệp định EVFTA mang lại là phải hiểu rõ, nắm chắc. Các doanh nghiệp cần phải chủ động tìm hiểu các thông tin về hiệp định EVFTA, để nắm rõ những cam kết giữa Việt Nam và EU, đặc biệt là các ưu đãi thuế đối với các mặt hàng có thế mạnh, có tiềm năng xuất khẩu lớn. Việc tìm hiểu về các cam kết sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức rõ về các thách thức, cơ hội của hiệp định EVFTA từ đó giúp doanh nghiệp định vị lại vị trí, vai trò của mình trong chuỗi cung ứng, từ đó xác định hướng đi mới cho doanh nghiệp. Hơn nữa, việc nắm rõ các thông tin, quy định sẽ giúp doanh nghiệp chủ động chuẩn bị và nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề mới so, phi truyền thống như lao động, môi trường, * Nâng cao chất lượng sản phẩm Để tận dụng tốt những lợi thế mà thị trường 500 triệu dân, chiếm đến 16% GDP toàn cầu của châu Âu, các sản phẩm Việt cần phải đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng là một trong những yếu tố mà thị trường EU rất chú trọng. Các doanh nghiệp cần giám sát, đảm bảo từ khâu cung cấp nguyên vật liệu đúng quy cách, đúng chủng loại, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ. Trong quá trình đó, khâu sản xuất và phân phối cũng phải giám sát chặt chẽ, đảm bảo quá trình vận chuyển và bảo quản an toàn. Do đó, các doanh nghiệp cần đưa ra các biện pháp và kỹ thuật kiểm tra đúng đắn đối với từng nguồn hàng, đảm bảo các mặt hàng sản xuất ra phải đáp ứng đầy đủ các thông số kỹ thuật đã đề ra. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần cơ cấu lại danh mục sản phẩm của mình, đưa ra các dòng sản phẩm phù hợp với thị trường EU, để đẩy mạnh xuất khẩu. Chẳng hạn, thị trường EU chủ yếu chỉ nhập khẩu thịt bò đã qua sơ chế, trong khi đó, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu động vật sống. Vì vậy, các doanh nghiệp cần thay đổi để phù hợp với nhu cầu của thị trường xuất khẩu. * Nâng tầm thương hiệu Việt Để có chỗ đứng trong thị trường Âu, các doanh nghiệp cần phát triển thương hiệu sản phẩm của mình. Nhà văn Stephen King cũng đã từng nói: “Một sản phẩm có thể lỗi thời nhanh chóng, nhưng một thương hiệu thành công sống mãi với thời gian”. Do đó, thương hiệu là một trong những yếu tố quan trọng bật nhất, giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh của mình. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, các doanh nghiệp Việt cần đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại. Doanh nghiệp cần có chiến lược dài hạn, kết nối thương hiệu sản phẩm với các yếu tố công nghệ. Ngoài ra, yếu tố bao bì sản phẩm còn là một trong những vấn đề quan trọng, bởi ấn tượng đầu tiên ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mua của khách hàng. Ngoài yếu tố thẩm mỹ, bao bì đòi hỏi phải gắn với bản sắc văn hóa người Việt, giúp khách hàng nước ngoài có thể phân biệt sản phẩm Việt so với các nước khác, cũng như in dấu trong tâm trí của khách hàng. 208
  11. * Một số giải pháp ứng phó tốt với phòng vệ thương mại Để chủ động ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu, nắm vững các cam kết, pháp luật và thực tiễn điều tra của các nước xuất khẩu. Việc nắm chắc các quy định về phòng vệ thương mại trong FTA sẽ giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong từng hiệp định và trong các hiệp định khác nhau để đảm bảo rằng trong các trường hợp khởi kiện khác nhau. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa thị trường, tránh tập trung vào một thị trường nhất định, thường xuyên tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa sản phẩm, tránh tăng trưởng nóng vào một thị trường, đặc biệt là các thị trường thường xuyên áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. * Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất Các doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các kế hoạch đầu tư và tiến hành chuyển đổi, nâng cấp cơ sở vật chất của cơ sở mình. Các hệ thống khu nhà sản xuất, nhà kho phải đạt chuẩn để đảm bảo chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất cũng như bảo quản. Bên cạnh đó, các máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất phải được đầu tư, nâng cấp để gia tăng năng suất lao động, nhằm giảm giá thành sản phẩm, giúp hàng hóa tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Về mặt quản lý, doanh nghiệp cần áp dụng các hệ thống, chương trình quản lý tiên tiến như ERP, MRP, để có thể quản lý, hoạch định tốt nguồn hàng. * Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việc có bắt kịp sự phát triển của các doanh nghiệp châu Âu phụ thuộc vào yếu tố con người – yếu tố then chốt. Hiện nay, tình trạng chung ở các doanh nghiệp Việt là thiếu các nhân viên cấp cao, do đó, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình ra quyết định, cũng như quản lý. Doanh nghiệp cần chủ động xây dựng các chương trình đào tạo định kỳ cho nhân viên, tăng cường giao lưu với các đối tác để tạo cơ hội cho nhân viên có thể chủ động tiếp xúc và học hỏi các phương pháp làm việc, quản lý ở công ty đối tác. Ngoài ra, doanh nghiệp cần đẩy mạnh hợp tác với các cơ sở đào tạo để đào tạo nhân viên từ lúc còn trên ghế nhà trường, nhằm tạo ra lực lượng lao động chất lượng đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Tác động của EVFTA đến xuất nhập khẩu, định hướng cho doanh nghiệp Việt Nam (2020), truy cập lần cuối từ ngày 28/10/2020, từ: –nghiep/Tac–dong–cua–EVFTA–den–xuat–nhap–khau–dinh– huong–cho–doanh–nghiep–Viet–Nam/401743.vgp. 2. Đỗ Hạnh Nguyên và Nguyễn Thị Nguyệt Nga (2020), Biện pháp phòng vệ thương mại trong các hiệp định thương mại tự do và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, truy cập lần cuối từ ngày 31/10/2020, từ: –cuu–trao–doi/bien–phap–phong–ve–thuong–mai–trong–cac–hiep– dinh–thuong–mai–tu–do–va–van–de–dat–ra–doi–voi–viet–nam–318282.html. 3. Lê Quang Thuận – Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam, truy cập lần cuối từ ngày 28/10/2020, từ: –cuu–trao–doi/cac–hiep–dinh–thuong–mai–tu–do–the–he–moi–va– tac–dong–doi–voi–kinh–te–viet–nam–309171.html. 209
  12. 4. Maryla Maliszewska, Maria Pereira, Israel Osorio – Rodarte, Olekseyuk, Zoryana (2019), Economic and distributional impacts of the EVFTA and CPTPP on Vietnam, last retrieved on October 31th 2020, from: 5. Như Quỳnh (2020), Xuất khẩu lạc quan sau vài tháng thực thi EVFTA, truy cập lần cuối từ ngày 1/11/2020, từ: –khau–lac–quan–sau–hai–thang–thuc–thi–evfta– 20201002160841737.htm. 6. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, truy cập lần cuối từ ngày 31/10/2020: – R_QiALfiIWeb2cieOKKEMtc–SO9?usp=sharing. 7. Tạp chí Tài chính (2019), 5 điểm nhấn trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, truy cập lần cuối từ ngày 29/10/2020, từ: –cuu–trao–doi/5–diem–nhan–trong–hoi–nhap– kinh–te–quoc–te–cua–viet–nam–313351.html. 8. Thanh Lâm (2020), Thực trạng kinh tế thế giới và dự báo năm 2020, truy cập lần cuối từ ngày 31/10/2020, từ: –trang–kinh–te–the–gioi–nam–2019–va–du–bao–nam– 2020/145720.html. 9. Thế Hải (2020), Doanh nghiệp Việt đã bắt nhịp với EVFTA, truy cập lần cuối từ ngày 2/11/2020, từ: –nghiep–viet–da–bat–nhip–voi–evfta–d131266.html. 10. Thống kê Hải quan, Tình hình xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 6 và 2 quý/2020, truy cập lần cuối từ ngày 31/10/2020, từ: 11. Tổng cục thống kê, Trị giá xuất (nhập) khẩu hàng hóa phân theo khối nước, phân theo nước và vùng lãnh thổ, truy cập lần cuối từ ngày 31/10/2020, từ: –mai–dich–vu/. 12. Trần Thị Hồng Minh (2020), Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam, truy cập lần cuối từ ngày 1/11/2020, từ: –bao– cao–cptpp_ver9_clean–da–chuyen–doi–(1)_201340982.pdf. 13. Trang chủ “Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh châu Âu”, truy cập lần cuối từ ngày 1/11/2020, từ: 14. Trung tâm WTO (2020), Phòng vệ thương mại trong EVFTA: Nắm vững cam kết để bảo vệ lợi ích chính đáng, truy cập lần cuối từ ngày 31/10/2020, từ: –de/15368– phong–ve–thuong–mai–trong–evfta–nam–vung–cam–ket–de–bao–ve–loi–ich–chinh–dang. 15. Tuấn Minh (2020), Tham gia EVFTA doanh nghiệp Việt cần chuẩn bị sẵn sàng về nguồn gốc xuất xứ, truy cập lần cuối ngày 2/11/2020, từ: –gia–evfta–doanh–nghiep–viet– can–chuan–bi–san–sang–ve–nguon–goc–xuat–xu–104791.html. 16. Vũ Xuân Trường (2020), Giải pháp chiến lược phát triển thương hiệu Việt, truy cập lần cuối từ ngày 1/11/2020, từ: –dinh/giai–phap–chien–luoc–phat–trien–thuong–hieu– viet–446122/ 210