Một số vấn đề lý luận về phát triển khu vực FDI trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững

pdf 11 trang Gia Huy 18/05/2022 1690
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề lý luận về phát triển khu vực FDI trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ly_luan_ve_phat_trien_khu_vuc_fdi_trong_thuc_h.pdf

Nội dung text: Một số vấn đề lý luận về phát triển khu vực FDI trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHU VỰC FDI TRONG THỰC HIỆN CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG PGS.TS Lê Quốc Hội Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Bài viết này hệ thống và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về phát triển khu vực FDI trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Thực tế, đã có nhiều nghiên cứu về tác động của FDI đến các khía cạnh của phát triển bền vững nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu về khu vực FDI với tư cách là một khu vực đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của nước tiếp nhận. Bài viết cho ra rằng để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững cần tiếp cận thông qua 2 cách: (i) Xác định mục tiêu phát triển bền vững từ động lực và lợi ích của khu vực FDI; (ii) Tăng cường tác động và đóng góp của FDI vào việc thực hiện phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Từ khóa: FDI, phát triển bền vững, 1.1. Khái niệm FDI Mặc dù FDI là một hoạt động phổ biến nhưng có nhiều quan niệm về FDI được đưa ra với các cách tiếp cận và diễn giải khác nhau. Tuy vậy các khái niệm về FDI có những sự tương đồng nhất định về chủ thể, mục đích, phương thức hoạt động. Theo IMF (1977), FDI nhằm thu lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác nước nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được quyền quản lý. Theo WTO (1996), FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước có một tài sản ở một nước khác cùng quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là căn cứ phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Tài sản quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Nhà đầu tư thường được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". UNCTAD (1999) cho rằng FDI là một khoản đầu tư dài hạn và phản ánh lợi ích lâu dài từ sự kiểm soát của nhà đầu tư hoặc công ty mẹ đối với các xí nghiệp, chi nhánh ở một nền kinh tế khác. Theo OECD (1999), FDI phản ánh việc đạt được mục tiêu về lợi ích lâu dài của một thực thể thường trú trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp- direct investor) và một cư dân chủ thể của một nền kinh tế khác hơn là của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp- enterprise direct investor)”. Lợi ích lâu dài là mối quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp, doanh nghiệp và tầm quan trọng của quản lý doanh nghiệp. FDI liên quan đến giao dịch đầu tiên giữa hai thực thể và sau đó là giao dịch về vốn giữa họ và giữa các doanh nghiệp hợp tác, liên kết hoặc không hợp tác. Trong đó, “nhà đầu tư trực tiếp” được hiểu là người nắm quyền kiểm soát từ 10% trở lên vốn của một công ty. 337
  2. INCOTERMS (2010) đưa ra khái niệm: FDI là một bộ phận của tài khoản quốc gia, là một khoản đầu tư của tài sản của nước ngoài không bao gồm khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán. Đối với nước tiếp nhận đầu tư, FDI được cho là có lợi hơn các khoản đầu tư vào cổ phiếu của một công ty bởi khoản đầu tư này có thể sẽ rời khỏi ngay lập tức khi có sự cố. Trong khi, FDI nhìn chung được coi là ổn định hơn cho dù mọi thứ có tốt lên hoặc xấu đi. Theo Luật đầu tư nước ngoài (2015), FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định. Như vậy có thể khái quát, FDI là một loại hình của đầu tư quốc tế, trong đó chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp tham gia điều hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn. Về thực chất FDI là sự đầu tư của các cá nhân, công ty (hầu hết là các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia) nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tham gia đóng góp một số vốn đủ lớn vào việc sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng đầu tư nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc triển khai sản xuât kinh doanh ở nước ngoài. 1.2. Động lực của FDI Một số lý thuyết đã được xây dựng để giải thích động lực của FDI. Lý thuyết lợi ích cận biên của Dougall- Kemp (1960) giải thích động lực FDI xuất phát từ sự khác nhau về năng suất biên của vốn, dẫn tới việc di chuyển vốn từ nơi có năng suất biên thấp sang nơi có năng suất biên cao. Mặc dù, lý thuyết này chưa giải thích được lý do vì sao một quốc gia vừa có dòng vốn di chuyển ra nhưng đồng thời có cả dòng vốn di chuyển vào, nhưng đây vẫn là một lý thuyết được trích dẫn khá phổ biến. Lý thuyết về quyền lực thị trường của Hymer (1960) khẳng định yếu tố cốt lõi cần phải có, thúc đẩy và làm nên thành công cho nhà đầu tư là khả năng chi phối thị trường thông qua bí quyết công nghệ, bí quyết thương mại hoặc kiến thức, kỹ năng đặc biệt, lợi thế vượt trội của nhà đầu tư này so với nhà đầu tư khác. Lý thuyết về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm của Vernon (1966) xem xét FDI là sự phản ứng của các nhà đầu tư thích ứng với thay đổi trạng thái sản phẩm. Để duy trì sự tồn tại và phát triển sản phẩm, các nhà đầu tư di chuyển vốn ra thị trường nước ngoài. Lý thuyết này chỉ giải thích lý do FDI dựa theo nguyên lý vòng đời quốc tế của sản phẩm mà không giải thích được vì sao các dạng FDI khác lại không hiệu quả hoặc kém hiệu quả hơn. Lý thuyết chiết trung của Dunning (1993) đưa ra ba yếu tố tác động tới quyết định đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư là lợi thế về sở hữu (Ownership); lợi thế về vị trí (Location) và lợi thế về gắn kết nội bộ (Internalizatinon) của doanh nghiệp để trả lời cho ba câu hỏi “tại sao nhà đầu tư muốn đầu tư ra nước ngoài, địa điểm nào được nhà đầu tư lựa chọn đầu tư và nhà đầu tư 338
  3. thực hiện đầu tư như thế nào?”. Tuy nhiên, lý thuyết chiết trung bị coi là quá cầu toàn khi luận giải nhà đầu tư chỉ thực hiện đầu tư khi hội đủ cả ba yếu tố. Bên cạnh đó các nhà nghiên cứu kinh tế còn chỉ ra một số động lực thúc đẩy đầu tư nước ngoài, được Dunning (2003) tổng kết thành bốn nhóm thúc đẩy đầu tư nước ngoài, đó là “sự tìm kiếm tài nguyên, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm nguồn lực và tìm kiếm tài sản chiến lược”. Lý giải về động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và bốn động lực tìm kiếm của họ xét cho cùng đều nhằm mở rộng thị trường, giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Tựu chung lại, FDI được giải thích bằng nhiều động lực khác nhau, trong đó có thể kể đến: - Do trình độ phát triển lực lượng sản xuất không đồng đều làm cho chi phí sản xuất hàng hoá giữa các nước có sự khác biệt. Ngoài ra còn có sự chênh lệch giá cả các yếu tố và điều kiện sản xuất giữa các nước không giống nhau. - Do sự gặp gỡ về lợi ích của các bên tham gia. Nhà đầu tư tìm nơi đầu tư có lợi, tránh hàng rào bảo hộ, tăng cường vị thế, mở rộng quy mô cũng như tránh sự kiểm soát hải quan. Nước sở tại được bổ sung nguồn vốn, tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng cường năng lực khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước phục vụ đầu tư phát triển. - Xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm dần và hiện tượng thừa “tương đối” vốn trong nước ở các nước phát triển tạo nên xu hướng đầu tư ra nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Do nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn so với khả năng tự đáp ứng của mỗi quốc gia dẫn tới gia tăng luân chuyển vốn đầu tư. - Xu thế hợp tác phân công lao động khu vực và quốc tế phát triển thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh mới. - Đầu tư ra nước ngoài nhằm bảo đảm nguồn cung cấp nguyên liệu chiến lược ổn định, lâu dài, với giá rẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. - Đầu tư ra nước ngoài nhằm bảo toàn vốn, phòng chống rủi ro khi có bất ổn, biến cố về kinh tế, chính trị trong nước. - FDI còn nhằm tạo dựng, củng cố những ảnh hưởng vị thế kinh tế, chính trị, hay giải quyết những nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng các công trình có quy mô vượt ngoài phạm vi một quốc gia. 2. Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững 2.1. Khái niệm phát triển bền vững Từ khi xuất hiện thuật ngữ "phát triển bền vững (PTBV)" đến nay đã có nhiều khái niệm về phát triển bền vững được đưa ra. Trong Báo cáo “Tương lai của chúng ta” (Our common future) năm 1987 của WCED, 339
  4. “phát triển bền vững” được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Định nghĩa của WCED được nhiều tổ chức và quốc gia trên thế giới thừa nhận và được sử dụng rộng rãi trong các ấn phẩm về PTBV vì nó mang tính khái quát hoá cao về mối quan hệ giữa các thế hệ về thoả mãn các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần, từ đó tạo ra PTBV, vì suy cho cùng, bản chất của PTBV tức là sự tồn tại bền vững của loài người trên trái đất không phân biệt quốc gia, dân tộc và trình độ kinh tế, xã hội, ở đây sự tồn tại của loài người luôn gắn với sự tồn tại của môi trường kinh tế, xã hội và tự nhiên mà con người cần phải có. Tuy nhiên, định nghĩa này thiên về đưa ra mục tiêu, yêu cầu cho sự PTBV, mà chưa nói đến bản chất các quan hệ nội tại của quá trình PTBV là thế nào. ADB đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, đó là: “phát triển bền vững là một loại hình phát triển mới, lồng ghép một quá trình sản xuất với bảo toàn tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. PTBV cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Định nghĩa này đề cập cụ thể hơn về mối quan hệ ràng buộc giữa sự đáp ứng nhu cầu hiện tại với khả năng đáp ứng nhu cầu tương lai, thông qua lồng ghép quá trình sản xuất với các biện pháp bảo toàn tài nguyên, nâng cao chất lượng môi trường. Tuy vậy, định nghĩa này vẫn chưa đề cập được tính bản chất của các quan hệ giữa các yếu tố của PTBV và chưa đề cập đến các nhóm nhân tố cụ thể mà quá trình PTBV phải đáp ứng (tuân thủ) cùng một lúc, đó là nhóm nhân tố tạo ra tăng trưởng kinh tế, nhóm nhân tố tác động thay đổi xã hội, bao gồm thay đổi cả văn hoá và nhóm nhân tố tác động làm thay đổi tài nguyên, môi trường tự nhiên. Nội hàm về phát triển bền vững được bổ sung, hoàn thiện tại Hội nghị Johannesburg năm 2002: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là, phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Hiện nay, ngoài ba mặt chủ yếu kể trên, nhiều khía cạnh của phát triển bền vững như văn hóa, chính trị, dân tộc, tôn giáo cũng được đặt ra và đưa vào các chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Tóm lại có thể khái quát và đưa ra khái niệm về PTBV như sau: PTBV là một phương thức phát triển kinh tế - xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường với mục tiêu đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của thế hệ hiện tại đồng thời không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Nói cách khác, PTBV là sự phát triển hài hoà cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người. 340
  5. 2.2. Mục tiêu phát triển bền vững Mục tiêu phát triển bền vững là cái đích bền vững cần đạt được đối với phát triển trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 5 năm, 10 năm, 15 năm, hoặc 20 năm, thậm chí dài hơn; là tập hợp các chỉ tiêu liên quan tới tương lai phát triển bền vững của một chủ thể kinh tế. Mục tiêu phát triển bền vững thường đi kèm với một chiến lược phát triển trong một giai đoạn nhất định và được hiện thực hóa, triển khai thông qua các chương trình, kế hoạch cụ thể, thiết thực. Mục tiêu phát triển bền vững được đưa ra phải cụ thể, rõ ràng và xác định được cả về mặt chỉ tiêu và thời gian triển khai thực hiện; phải trên cơ sở các nguồn lực sẵn có, điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại và dự báo các biến động trong tương lai; phải bảo đảm một sự phát triển nhanh, an toàn và chất lượng ở mức cao trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, hoàn thiện thể chế, tranh thủ ngoại lực, phát huy hiệu quả nội lực và kết hợp, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực phát triển. Mục tiêu phát triển bền vững phải đưa ra các đích ngắm bền vững, với lộ trình rõ ràng trên cơ sở điều kiện lịch sử, kinh tế cụ thể và học tập kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công của các quốc gia đi trước; phải có định hướng, kế hoạch triển khai cụ thể, có các tiêu chí kiểm định, đánh giá cụ thể và có các cơ chế bảo đảm thực hiện. 3. Phát triển khu vực FDI với thực hiện phát triển bền vững 3.1. Quan niệm về phát triển khu vực FDI với phát triển bền vững Mục tiêu phát triển bền vững được đưa ra, nhìn nhận theo các tiêu chí khác nhau, phụ thuộc vào nhận thức, mong muốn ở từng giai đoạn và tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước, khu vực và thế giới. Để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững trong từng giai đoạn, Chính phủ của mỗi quốc gia đều cố gắng huy động tối đa và sử dụng tối ưu các nguồn lực, trong đó FDI là một nguồn lực rất quan trọng và cần thiết, đặc biệt là với các quốc gia đang phát triển ở trình độ thấp và trung bình. Mối quan hệ giữa phát triển khu vực FDI với mục tiêu phát triển bền vững của nước tiếp nhận đầu tư là mối quan hệ tương quan giữa mục tiêu và nguồn lực tham gia vào thực hiện mục tiêu đó. Mối quan hệ này có thể theo chiều thuận, nghịch, với hệ số tác động lớn, nhỏ khác nhau. Phát triển khu vực FDI gắn với mục tiêu phát triển bền vững là việc nhà đầu tư nước ngoài triển khai và vận hành dự án đầu tư đáp ứng các đòi hỏi của mục tiêu phát triển bền vững của nước tiếp nhận một cách tự nguyện hoặc do yêu cầu của các công cụ chính sách của nước tiếp nhận. Tuy nhiên, theo lẽ tự nhiên, khu vực FDI không hẳn hướng vào thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của nước tiếp nhận đầu tư. Mục tiêu của FDI là lợi nhuận tối đa, thu hồi vốn nhanh nhất cho nhà đầu tư. Tâm lý chung của phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài là khai thác và tận dụng tối đa, triệt để các ưu đãi, lợi thế, nguồn lực của nước tiếp nhận đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận từ lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh và lợi thế độc quyền. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài đến từ 341
  6. các quốc gia khác cho nên thường có tâm lý không tự nguyện đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của nước sở tại. Trong khi đó, mục tiêu của nước tiếp nhận đầu tư là phát triển nhanh và bền vững, là sự tăng trưởng cao, liên tục, ổn định, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thế hệ hiện tại, không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau, dựa vào việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và tối ưu các nguồn lực. Như vậy, xét về bản chất, khu vực đầu tư nước ngoài và mục tiêu phát triển bền vững nước tiếp nhận đầu tư không có cùng mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường nếu không có sự gắn kết giữa chúng. 3.2. Nội dung phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững của mỗi quốc gia Việc phát triển khu vực FDI gắn với mục tiêu phát triển bền vững có thể tiếp cận thông qua 2 cách: (i) Xác định mục tiêu phát triển bền vững từ góc độ động lực và lợi ích của khu vực FDI; (ii) Đánh giá tác động và đóng góp của FDI vào việc thực hiện phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Ở phương diện xem xét mục tiêu phát triển kinh tế bền vững từ góc độ FDI, khu vực FDI cần phát triển theo theo các nội dung sau: - Bền vững về đối tác đầu tư: Nhà đầu tư phải được đánh giá, sàng lọc, lựa chọn bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững, phải là những nhà đầu tư có năng lực tài chính, tư cách pháp lý; mạng lưới điều hành, phân phối rộng, hiệu quả; uy tín cao, có thương hiệu trong ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm đăng ký đầu tư sản xuất, kinh doanh, cung ứng. Chú trọng các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến từ các quốc gia phát triển, có lợi thế trong ngành, lĩnh vực đầu tư. - Bền vững về công nghệ: Công nghệ chuyển giao phải bảo đảm tiên tiến, hiện đại của khu vực và thế giới, với phương thức sản xuất tối ưu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh, hạ giá thành sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái. - Bền vững về hình thức đầu tư: Dự án FDI được lựa chọn cấp phép phải bảo đảm phù hợp yêu cầu về hình thức đầu tư, hài hòa lợi ích giữa nhà đầu tư, nhà nước và xã hội. Chú trọng và khuyến khích hình thức liên doanh để bảo đảm khả năng tiếp cận, học tập kinh nghiệm, kỹ năng và làm chủ công nghệ của phía đối tác nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực công nghệ của nước tiếp nhận đầu tư, cũng như hạn chế những mánh khóe tiêu cực của nhà đầu tư gây tổn hại cho nền kinh tế. - Bền vững về lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm đầu tư: FDI phải bảo đảm phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững, hiệu quả; phát triển bền vững các sản phẩm, ngành nghề, lĩnh vực mà nước tiếp nhận đầu tư có lợi thế. FDI phải bảo đảm sự tham gia có hiệu quả vào chuỗi liên kết, chuỗi sản xuất, cung ứng sản phầm của nước tiếp nhận đầu tư và bảo đảm lợi ích lâu bền cho nền kinh tế. - Bền vững trong liên kết vùng, địa phương và sản phẩm: FDI phải bảo đảm không phá vỡ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển vùng, địa phương, ngành và sản phẩm, 342
  7. vừa phải góp phần tạo ra và tăng cường tính liên kết, tương hỗ liên vùng, trong vùng, địa phương và cơ cấu sản phẩm, bảo đảm tính lan tỏa và hỗ trợ giữa các vùng kinh tế. - Bền vững về chỉ tiêu: Tỷ trọng đóng góp của FDI trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, quy mô dự án, tốc độ giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn (ICOR); Tỷ trọng đóng góp của FDI vào GDP trong so sánh tương quan với các khu vực kinh tế khác; Chất lượng công nghệ được chuyển giao và hiệu quả hoạt động của FDI (TFP); Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo động lực phát triển các khu vực kinh tế khác; Vai trò của FDI trong tạo việc làm, tiền lương và cải thiện đời sống người lao động; Tỷ trọng đóng góp của FDI vào cơ cấu xuất - nhập khẩu Ở phương diện, đánh giá tác động, đóng góp của FDI vào việc thực hiện 3 khía cạnh của phát triển bền vững, phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững về kinh tế được thể hiện trên các khía cạnh sau: - Thu hút FDI đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định các cân đối lớn của nền kinh tế như vốn đầu tư, tăng trưởng GDP, xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán và ngân sách; bảo đảm duy trì, phát triển bền vững các yếu tố như vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên; - Gia tăng năng suất lao động, TFP và hiệu quả sử dụng các nguồn lực; - Hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu theo hướng hiệu quả; hình thành các ngành mới, sản phẩm mới và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp để thúc đẩy sự tham gia, thâm nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, các khâu có giá trị gia tăng cao; - Có tác động kích thích vốn đầu tư trong nước; tác động lan tỏa về năng suất, xuất khẩu và công nghệ đến các khu vực trong nước; tác động tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nước. Phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững về xã hội được thể hiện trên các khía cạnh sau: - Tạo việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực FDI; - Tạo cạnh tranh đào tạo, thu hút, đãi ngộ lao động và di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp, khu vực kinh tế FDI với các doanh nghiệp, khu vực kinh tế trong nước, tạo động lực nâng cao chất lượng nhân lực; - Thay đổi tiền công, tiền lương theo hướng tích cực, bền vững; thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FDI; - Tác động tích cực đến trong phân phối thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội. Phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững về môi trường được thể hiện trên các khía cạnh sau: 343
  8. - Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; sử dụng các công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường; - Tuân thủ và chấp hành các quy định, pháp luật về bảo vệ môi trường của nước tiếp nhận đầu tư; đảm bảo và cải thiện môi trường sinh thái như môi trường không khí (chất thải lỏng), nước (khí thải) và đất (khai thác tài nguyên, rác thải rắn); - Có hiệu ứng tích cực đến các doanh nghiệp trong nước về bảo vệ môi trường; góp phần tác động đến công tác quản lý môi trường của nước tiếp nhận đầu tư. Bên cạnh việc đánh giá tác động của FDI đến 3 trụ cột của phát triển bền vững cần quan tâm đến sự liên kết và ràng buộc của các tác động của FDI đến các trụ cột này với nhau. Nói cách khác cần làm rõ sự “kết hợp” hay “đi đôi” với nhau giữa các tác động này trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển bền vững. Trên thực tế bảo đảm đồng thời tác động của FDI đến 3 trụ cột của phát triển bền vững là khó khăn trong điều kiện các nền kinh tế đang phát triển, vì thế việc không có sự phân biệt mức độ kết hợp hoặc yêu cầu khác nhau (trong từng giai đoạn, nhấn mạnh yêu cầu của trụ cột nào hoặc thậm chí phải có sự “hy sinh” nhất định một số yêu cầu của một số trụ cột khác) sẽ gây khó khăn trong đánh giá cũng như thực hiện các mục tiêu của phát triển bền vững. 4. Các điều kiện và yếu tố ảnh hƣởng đến phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững Có nhiều điều kiện và yếu tố ảnh hưởng đến phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững. Tuy nhiên, tựu chung lại có thể chỉ ra hai loại điều kiện chủ yếu xuất phát từ yếu tố nội tại của hai chủ thể. Trước hết, FDI gắn với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của nước tiếp nhận khi mục tiêu phát triển kinh tế bền vững cũng chính là mục tiêu theo đuổi của nhà đầu tư nước ngoài nhằm bảo đảm duy trì hoặc xây dựng một thương hiệu tốt, hướng tới lợi ích dài hạn, và với một số rất ít nhà đầu tư xuất phát từ nhận thức nhân văn và trách nhiệm với cộng đồng. Hoặc khi, dù nhà đầu tư nước ngoài không tự nguyện nhưng nước tiếp nhận vẫn có thể thông qua các loại công cụ và chính sách để khuyến khích, định hướng và bảo đảm việc nhà đầu tư cam kết thực hiện đầu tư phát triển bền vững. Trong trường hợp thứ nhất, chiến lược kinh doanh và mục tiêu của các công ty đa quốc gia (Làn sóng M&A; Hoạt động R&D, Lợi nhuận, độc quyền; chi phối kinh tế, chính trị ), tiềm lực tài chính, công nghệ của khu vực FDI đóng vai trò quan trọng. Ở trường hợp thứ hai, xét về bản chất, nếu không có những cơ chế ràng buộc, trong các yếu tố bền vững vẫn tồn tại nhiều yếu tố không bền vững đối với nước tiếp nhận do những toan tính của nhà đầu tư nước ngoài. Nước tiếp nhận chỉ có thể xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện công cụ chính sách mới thực sự bảo đảm được FDI gắn với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, chính sách của nước tiếp nhận đầu tư không thể là sự áp đặt chủ quan, một chiều. Công cụ, chính sách của nước tiếp nhận đầu tư phải dựa trên cơ sở điều kiện hiện quan của tình hình chính 344
  9. trị, kinh tế, xã hội của thế giới, khu vực và tình hình trong nước; phù hợp với xu thế và nhận thức của mỗi thời kỳ; phải bảo đảm hài hòa được lợi ích của nhà đầu tư, nhà nước và xã hội. FDI có thực sự đóng góp vào mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của nước tiếp nhận hay không phần lớn phụ thuộc vào chính các yếu tố nội tại của nền kinh tế. Nếu nước tiếp nhận có đủ công cụ, chính sách hữu hiệu để vừa khuyến khích, không ngừng gia tăng thu hút FDI có chất lượng, vừa buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cam kết và bảo đảm thực hiện các ràng buộc về khai thác tài nguyên, môi trường và xã hội. Để gắn FDI với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, nước tiếp nhận, trước hết phải xây dựng được cơ chế định hướng và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển bền vững. Cụ thể: - Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, minh bạch và bảo đảm định hướng phát triển bền vững đối với FDI. Trong quản lý, điều hành hoạt động kinh tế nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu nhằm bảo đảm FDI gắn với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động FDI phát triển và làm lành mạnh hóa hoạt động đầu tư. Hệ thống pháp luật vừa là một cam kết bảo đảm trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương với nhà đầu tư và hoạt động đầu tư vừa là công cụ điều tiết, chọn lọc nhà đầu tư, dự án đầu tư bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế bền vững ở từng giai đoạn phát triển. - Công khai quy hoạch và bảo đảm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế bền vững phù hợp với đặc thù, lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, mỗi vùng, địa phương, ngành nghề và sản phẩm. Bản chất của FDI là do động lực lợi nhuận và việc nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận tối đa quyết định. Việc thiếu hoặc không công khai, thực hiện quy hoạch bảo đảm tính liên kết, bổ trợ, một tầm nhìn dài hạn, một cơ cấu hợp lý, hiệu quả nền kinh tế nói chung và đối với FDI nói riêng trên các mặt đối tác, ngành nghề, sản phẩm, địa phương, công nghệ sẽ dẫn tới việc vỡ quy hoạch, mất cân đối, cạnh tranh không lành mạnh, lãng phí nguồn lực và không bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế bền vững trong hoạt động đầu tư nói chung và FDI nói riêng. Việc công khai và thực hiện quy hoạch theo mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế bền vững sẽ bảo đảm sự phát triển một cách đồng bộ, hài hoà theo không gian lãnh thổ, ngành nghề, sản phẩm, khai thác hiệu quả các lợi thế, nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển toàn diện và bền vững kinh tế. - Ban hành và điều chỉnh các chính sách chính sách liên quan đến khu vực FDI cần có sự sự phối hợp và gắn kết giữa với chính sách phát triển bền vững. Các chính sách FDI cần gắn với lợi ích của các đối tượng/chủ thể (Nhà nước, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong nước khác và người dân) với đảm bảo lợi ích quốc gia trên quan điểm phát triển bền vững với những mục tiêu phát triển cụ thể cho từng thời kỳ. - Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, kết nối, đồng bộ, bảo đảm nhà đầu tư hoạt động hiệu quả khi chọn phương án đầu tư bền vững. Hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, kết nối, đồng bộ góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả đầu tư, tạo động lực thu hút các nhà đầu tư chiến lược đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Cơ sở hạ tầng thiếu chất lượng sẽ không chỉ làm hạn chế phát triển bền vững mà còn trở thành điểm nghẽn tăng 345
  10. trưởng. Ngược lại, cơ sở hạ tầng chất lượng cao sẽ bảo đảm hiệu quả kinh tế, tạo việc làm, xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ cũng như hiểu biết về phương thức cho nước tiếp nhận đầu tư. - Nâng cao hiệu quả và hiệu năng quản lý nhà nước, vừa bảo đảm hỗ trợ nhà đầu tư triển khai hiệu quả dự án vừa kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh, tạo niềm tin cũng như ý thức tự giác trong bảo đảm đầu tư bền vững. Quản lý, điều tiết nền kinh tế là vai trò tất yếu của Nhà nước nhằm kiểm soát, hạn chế các thất bại của thị trường, đồng thời hỗ trợ và điều tiết các hoạt động kinh tế bảo đảm mục tiêu phát triển trong mỗi giai đoạn. Xây dựng, thực thi các chính sách, qui định và thể chế (bao gồm cả bảo vệ quyền sở hữu tài sản) bảo đảm nhất quán, có khả năng giảm thiểu các rủi ro khi đầu tư và tạo sự tiếp cận bình đẳng với các cơ hội kinh tế. - Bảo đảm chất lượng cũng như sự sẵn sàng của các nguồn lực đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn lao động có trình độ năng lực phù hợp, có khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật cao, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu cả về số lượng và chất lượng tạo sức hút mạnh mẽ nhất đối với FDI chất lượng cao, là điều kiện quan trọng bảo đảm năng suất lao động và hiệu quả đầu tư bền vững. Hiểu, đánh giá đúng, chuẩn bị sẵn sàng và định hướng khai thác hợp lý, hiệu quả các nguồn lực sẽ tạo môi trường ổn định, hấp dẫn thu hút luồng FDI chất lượng cao. FDI chất lượng cao sẽ có tác động tích cực trở lại trong việc làm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện để khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. - Công tác xúc tiến đầu tư và hoạt động của các hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm FDI gắn với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Trong đó, xúc tiến đầu tư là công cụ quảng bá, marketing hữu hiệu trong tiếp cận, giới thiệu năng lực, nhu cầu và ưu đãi đầu tư tới các nhà đầu tư chiến lược. Trong khi, việc bảo đảm môi trường và sự phát triển lành mạnh của các hiệp hội, các dịch vụ hỗ trợ FDI là điều kiện bảo đảm sự minh bạch thông tin, tạo dựng lòng tin và thu hút hiệu quả FDI chất lượng cao phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. - Cơ chế quản lý, giám sát và chế tài bảo đảm việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư phát triển bền vững, cũng như ngăn chặn các hành vi không tuân thủ quy định nhà nước, tiếp tay cho nhà đầu tư triển khai các dự án không bảo đảm chất lượng của các địa phương. Ngoài các điều kiện và yếu tố bên trong của nước tiếp nhận đầu tư, các điều kiện và yếu bên ngoài cũng có ảnh hưởng đến phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững. Có thể kể đến như xu hướng vận động của dòng FDI thế giới và khu vực; chính sách của các nước lớn; môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư quốc tế (WTO, IMF, WB); cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4; các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới Bên cạnh việc nước tiếp nhận thực hiện các công cụ và chính sách để định hướng, khuyến khích và đảm bảo khu vực FDI phát triển bền vững thì đòi hỏi phát triển bền vững cũng phải là mục tiêu theo đuổi của khu vực FDI. Điều này có nghĩa mức độ nhận thức, tuân thủ và trách nhiệm theo đuổi phát triển bền vữ ng của khu vực FDI cũng là các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững của nước tiếp nhận 346
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Conference of Paris 21- COP 21 (2015), The Paris Agreement, The 2015 United Nations Climate Change Conference, 30/11-12/12/2015. 2. Dunning. John H (1993), Multinational enterprises and the Global economy, Addison Wesley Publishing company, 1993. 3. Dunning. John H (2003), Economic analysis and the multi national enterprise, London George Allen & Unwin Ltd, UK. 4. OECD Benchmark (1999), Definition of Foreign Direct Investment, từ 5. OECD (2002), Foreign direct investment for development, The OECD catalogue publication. 6. Nguyễn Tiến Dũng (2015), „FDI gắn với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững‟, Tạp chí Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội, số 119, tháng 11/2015. 7. Raymon Vernon (1966), „International Investment and Internnational Trade in the Product Cycle‟, The Quarterly Journal of Econimics, Vol. 80, No.2 (May, 1966), pp. 190-207. 8. UNCTAD (2017), The World Investment Report 2017, 9. WCED (1987), Report of World Commission on Evironment and Development: “Our common future, Nairobi-Kenya. 10. WTO (1996), „Trade and Foreign Direct Investment‟, WTO News, Press/57, 9 October 1996. 347