Khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam

pdf 8 trang Gia Huy 22/05/2022 2150
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhao_sat_viec_cai_bien_tam_quoc_dien_nghia_thanh_tac_pham_sa.pdf

Nội dung text: Khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam

  1. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu Khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam Đặng Ngọc Ngận* TÓM TẮT Tìm hiểu quá trình cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm sân khấu cải lương ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa sang sân khấu cải lương là khá phù hợp Use your smartphone to scan this với thị hiếu của công chúng nghệ thuật, đặc biệt nó có sức hấp dẫn rất lớn đối với các soạn giả, QR code and download this article thôi thúc họ sáng tạo và cải biên thành sân khấu cải lương. Khi tìm hiểu về vấn đề này, bài viết xem xét chúng như là một sản phẩm văn hóa chịu sự chi phối, ảnh hưởng bởi rất nhiều những yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau như bối cảnh lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng và những giá trị nội tại của chính tác phẩm nguồn. Đồng thời, bài viết đã đưa ra danh sách một số vở cải lương cải biên dựa trên Tam Quốc diễn nghĩa tại Việt Nam từ những năm 1920 đến nay. Song song đó, người viết đã tiến hành phân tích sơ bộ về quá trình cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành sân khấu cải lương tại Việt Nam. Việc khảo sát vấn đề cải biên Tam Quốc diễn nghĩa trên sân khấu cải lương góp phần giúp cho người tiếp nhận có thể hình dung một cách khái quát về sự sáng tạo không ngừng của dân tộc trong bức tranh cải biên tác phẩm văn học thành sân khấu cải lương, các vở cải lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa một cách hệ thống cũng như sức sống mạnh mẽ của Tam Quốc diễn nghĩa tại Việt Nam. Từ khoá: cải biên, Tam Quốc diễn nghĩa, nghệ thuật cải lương, sân khấu cải lương MỞ ĐẦU 2.1.1 Điều kiện khách quan Xu hướng cải biên tác phẩm văn học thành tác phẩm 2.1.1.1 Bối cảnh lịch sử - xã hội sân khấu tại Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Đã có Sân khấu cải lương được hình thành trong giai đoạn nhiều tác phẩm văn học được cải biên thành tác phẩm Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, lúc này nền Trường THPT Phạm Phú Thứ, 425-435, kinh tế cùng với ý thức hệ phong kiến đang dần tan rã Gia Phú, Phường 3, Quận 6, TP.HCM, sân khấu và có sức sống lâu dài, đem lại cho khán giả Việt Nam những dư âm nhất định. Một trong những tác phẩm và những tư tưởng tiến bộ đã tác động mạnh mẽ vào văn học được cải biên trên sân khấu nói chung và sân đời sống của dân tộc. Nam bộ cũng là nơi đầu tiên Liên hệ xuất hiện báo chí, các cơ sở in ấn, xuất bản. Các lực khấu cải lương Việt Nam nói riêng đó là tác phẩm Tam Đặng Ngọc Ngận, Trường THPT Phạm Phú lượng xã hội mới lúc bấy giờ cũng rất đông đảo, nhu Thứ, 425-435, Gia Phú, Phường 3, Quận 6, Quốc diễn nghĩa. cầu tìm hiểu về văn hóa, văn học nghệ thuật mới vì thế TP.HCM, Việt Nam Cùng với những yếu tố khác, người viết cho rằng, tìm mà hình thành. Người ta mong muốn được thưởng Email: ngocngan121291@gmail.com hiểu, khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành thức một thể loại sân khấu mới, gần gũi với cuộc sống Lịch sử tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam là một vấn • đương đại của họ, nhất là nhu cầu “nghe ca”,“xem hát”. Ngày nhận: 15/4/2021 đề khá thú vị. Việc khảo sát vấn đề cải biên Tam Quốc • Ngày chấp nhận: 21/7/2021 Lúc này, chủ thể văn hóa của nước ta đã dần thay đổi. diễn nghĩa trên sân khấu cải lương, góp phần giúp cho • Ngày đăng: 16/8/2021 Đó là những yếu tố ban đầu để sân khấu cải lương người tiếp nhận có thể hình dung một cách khái quát được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức DOI : 10.32508/stdjssh.v5i3.642 về sự sáng tạo không ngừng của dân tộc trong bức nghệ thuật của công chúng. tranh cải biên tác phẩm văn học thành sân khấu cải Khi Pháp xâm lược Việt Nam, để thực hiện chính sách lương cũng như sức sống mạnh mẽ của Tam Quốc cai trị thuận lợi, chính quyền thực dân Pháp đã ban diễn nghĩa tại Việt Nam. hành nghị định “buộc người dân Việt Nam phải sử Bản quyền dụng chữ Quốc ngữ trong các văn bản hành chính” © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố NỘI DUNG 1 mở được phát hành theo các điều khoản của [ , tr.36]. Đồng thời, chính quyền thực dân Pháp ý the Creative Commons Attribution 4.0 Điều kiện cải biên Tam Quốc diễn nghĩa từ thức được một trong những con đường truyền bá chữ International license. tác phẩm văn học thành tác phẩm sân khấu Quốc ngữ hiệu quả nhất vào đời sống của người dân Việt Nam đó là dịch truyện Tàu. Philastre và Legrand cải lương de la Liraye đã cho rằng: “Người ta sẽ không chống lại Trích dẫn bài báo này: Ngận D N. Khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(3):1122-1129. 1122
  2. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 việc học chữ viết bằng mẫu tự La tinh, nếu tiếng An mối quan hệ trung với vua, nghĩa khí với mọi người, Nam được thay thế để dịch một vài tác phẩm Trung anh dũng trước kẻ thù, Quan Công được nhân dân Hoa cơ bản và cổ điển. Nếu sau đó, người ta cung cấp thời Tam Quốc kính trọng và hết lời ca ngợi. Thế nên cho các học sinh những sách viết bằng tiếng An Nam người đời sau đã dựng miếu, đắp tượng, phong thánh và chứa đựng nhiều ý tưởng mới mẻ đối với họ, họ sẽ để thờ phụng và tưởng nhớ đến ông. Tín ngưỡng tiếp tục học và chữ nho sẽ mất một phần ảnh hưởng và thờ Quan Công đã bắt đầu từ rất sớm (bắt đầu từ người An Nam sẽ bắt đầu viết chữ của họ” [ 2, tr.109]. đời nhà Tống, hoàn thiện vào đời nhà Minh) và tồn Mặc dù vậy, khi Tam Quốc diễn nghĩa được dịch tại tại một cách vững chãi ở Trung Quốc cũng như rất Việt Nam, các vở cải lương cải biên từ tác phẩm nguồn nhiều nước khác. Điều đó cho thấy hình tượng Quan ấy vừa đáp ứng nhu cầu thị hiếu của công chúng, Công đã ăn sâu vào đời sống tâm linh không chỉ của vừa mang sứ mệnh khích lệ tinh thần yêu nước và sự những người trên đất Hán mà hình tượng ấy cũng đã kháng cự với văn hoá Pháp. Và có lẽ, tinh thần trung, trở thành biểu tượng trân quý, đem đến sự may mắn, hiếu, tiết, nghĩa trong Tam Quốc diễn nghĩa cũng là bình an cho nhân dân ở nhiều nước láng giềng, trong một nguyên nhân khiến Tam Quốc diễn nghĩa được đó có Việt Nam. cải biên thành cải lương rất thành công trong bối cảnh Bất kỳ hình thức tín ngưỡng nào cũng sẽ sản sinh tích xã hội lúc bấy giờ. hợp và là môi trường độc đáo để bảo tồn nhiều sinh Cột mốc quan trọng nhất trong diễn trình phát triển hoạt văn hoá dân gian. Tín ngưỡng thờ Quan Công của các tác phẩm sân khấu cải biên từ tiểu thuyết cổ cũng vậy, ở Nam bộ, nhất là nhóm người Hoa Triều điển Trung Quốc nói chung, trong đó có Tam Quốc Châu đã chọn ngày vía Quan Công vào 24 tháng 6 Âm diễn nghĩa là vào năm 1889, tại Hội chợ triển lãm Thế lịch. Ngoài ra ngày rằm tháng giêng hàng năm người giới được tổ chức ở Paris. Thời điểm này, ban nhạc Hoa cũng tổ chức lễ cúng Ông rất lớn ( ). Ban đêm, tài tử Việt Nam đã xuất hiện và tạo được nhiều tiếng trước sân miếu có tổ chức các màn ca kịch hát Tiều, vang lớn. Theo Authur Pougin trong bài viết Nhà hát hát Quảng, nhắc lại sự tích và những chiến công của tại Hội chợ Thế giới năm 1889: Ghi chú và giải thích, Quan Công 5. Cũng vào những ngày vía này, các lịch sử và ký ức do Fischbacher ấn hành năm 1890, trích đoạn sân khấu cải lương, các bài ca vọng cổ được tại Pháp, kịch An Nam (tiền thân của sân khấu cải thể hiện rất phong phú và độc đáo tại các hội quán lương) là một trong các thu hút tò mò gây ngạc nhiên thờ các vị thánh trong Tam Quốc diễn nghĩa, đặc biệt nhất ở Hội chợ triển lãm thế giới cảnh trình diễn là Quan Công. Vì vậy, có thể thấy tín ngưỡng thờ mà họ đem lại cho chúng ta xem cũng vẫn đáng đem Quan Công cũng chính là một trong những điều kiện lại cảm hứng cho một sự chú ý rất chân thật và sống lý tưởng để các tác phẩm cải lương cải biên từ Tam động 3. Từ những nền tảng đầu tiên ấy, cho đến khi Quốc diễn nghĩa đến gần hơn với công chúng nghệ sân khấu cải lương được hình thành, các vở diễn đều thuật. được đón nhận rất nồng nhiệt tại Pháp, nhất là những Điểm qua một vài yếu tố cơ bản về bối cảnh lịch sử, tác phẩm cải biên từ văn học, trong đó có Tam Quốc văn hóa và tín ngưỡng trên, chúng ta có thể thấy Tam diễn nghĩa. Đặc biệt, trong Hội chợ đấu xảo thuộc địa Quốc diễn nghĩa đóng một vai trò mật thiết trong đời tại Vincenes (1931), nữ nghệ sĩ Năm Phỉ và vở diễn sống văn hóa cộng đồng. Vì vậy, việc cải biên Tam Phụng Nghi đình cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa đã Quốc diễn nghĩa sang sân khấu đã được các tác giả để lại dấu ấn rực rỡ trong lòng khán giả thế giới, khiến cải biên lúc bấy giờ hết sức quan tâm. Đó cũng là báo chí Pháp cũng đã có nhận định rằng: “Tôi thấy ở trường đấu xảo thuộc địa có một nữ nghệ sĩ Việt Nam một trong những điều kiện lý tưởng cho việc cải biên mà nghệ thuật không thua bất kì một nữ nghệ sĩ nào Tam Quốc diễn nghĩa thành các tác phẩm sân khấu cải của ta” [ 4, tr.24]. lương tại Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Quan Công Điều kiện chủ quan Cùng với những yếu tố trên, tín ngưỡng thờ Quan Bên cạnh các yếu tố như bối cảnh lịch sử, văn hóa và Công ở Nam bộ đã có đóng góp rất đặc biệt trong việc tín ngưỡng, ngay trong nội tại, Tam Quốc diễn nghĩa đưa Tam Quốc diễn nghĩa đến gần với công chúng. cũng mang những giá trị nhất định. Nó có sức hấp Việc lễ bái, tín ngưỡng Quan Công của người Hoa đã dẫn rất lớn đối với các soạn giả, thôi thúc họ sáng tạo trở thành một nét tín ngưỡng của cả người Việt. và cải biên thành sân khấu cải lương. Sát cánh cùng Lưu Bị và Trương Phi với câu chuyện Trước hết, có thể thấy cốt truyện và hình tượng các “Đào viên tam kết nghĩa”, theo thời gian, Quan Công nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa có một vai trò trở thành một biểu tượng đề cao đức tính trung nghĩa rất quan trọng cho việc ra đời các tác phẩm sân khấu trong các mối quan hệ xã hội. Được xây dựng trong cải lương cải biên từ nó. Tam Quốc diễn nghĩa có cốt 1123
  3. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 truyện hoành tráng, đầy kịch tính, ở đó câu chuyện sống chết với nhau. Nay dù mất thành trì vợ con nữa, lớn được xây dựng với cấu trúc độc đáo, lôi cuốn, sao nỡ để anh em nửa đường chết đi cho đành” [ 6, đặc biệt trong cốt truyện lớn ấy lại bao gồm hệ thống tập 1, tr. 311]. Những tình cảm chân thành trong mối những “truyện nhỏ”. Và từ những “truyện nhỏ” ấy, quan hệ ấy cũng được các tác giả cải biên xây dựng rất các tác giả cải biên hoàn toàn có thể xây dựng thành thành công trên sân khấu cải lương. một tác phẩm nghệ thuật cải lương trọn vẹn. Đồng Ngoài ra, câu chuyện về người con gái tài sắc vẹn toàn thời, hình tượng nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa là Điêu Thuyền trong mối tình “tay ba” cũng là đề tài được tác giả La Quán Trung xây dựng rất sâu sắc và khá hấp dẫn các tác giả cũng như đạo diễn sân khấu đậm nét. Chẳng hạn, Tào Tháo được xây dựng trong cải lương quan tâm, bởi vì nó vừa thể hiện về đề tài Tam Quốc diễn nghĩa là một con người có bộ mặt của tình yêu, vừa là cách để các tác giả cải biên thể hiện sự kẻ gian hùng, nham hiểm. Ở đó, Tào Tháo được khắc đồng cảm của mình trong sự nhìn nhận về giá trị con họa là một con người hội tụ rất nhiều tài năng nhưng người, đặc biệt là số phận người phụ nữ. bản chất gian trá, đa nghi và tàn bạo. Với quan niệm Từ những lý do trên, ta thấy Tam Quốc diễn nghĩa có trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, tất đủ những điều kiện để các tác giả, đạo diễn sân khấu nhiên Tào Tháo sẽ phải đón nhận một kết cục không xây dựng thành những tác phẩm cải biên độc đáo trên mấy tốt đẹp, vì thế, các tác phẩm sân khấu cải lương sân khấu cải lương. cải biên cũng nhấn mạnh điều đó. Bên cạnh những nhân vật phản diện, Tam Quốc diễn nghĩa đã được xây Diễn trình cải biên Tam Quốc diễn nghĩa dựng dựa trên một hệ thống nhân vật đại diện cho trí thành các tác phẩm sân khấu cải lương ở tuệ, nhân cách và đạo đức cao cả mà nhân loại vẫn Việt Nam luôn tôn kính. Nếu như Tào Tháo là một con người Tam Quốc diễn nghĩa xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam “thà ta phụ người chứ không để người phụ ta” thì Lưu từ những năm đầu của thế kỷ XX. Cũng trong giai Bị vẫn trước sau như một, “thà chết không làm điều đoạn 1930 – 1945, bên cạnh sự du nhập của các loại phi nghĩa”; Quan Công vì phẩm tiết của chị dâu mà hình văn hóa nghệ thuật mới vào Việt Nam thì tự đốt đuốc đứng canh ngoài cửa trại suốt đêm, khi thất trong đời sống của dân tộc ta cũng có những biến đổi thế dù có bao nhiêu công sức của họ Tào cũng không nhằm phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trong lay chuyển nổi tấm lòng trung nghĩa, đồng thời cũng sự giao lưu tiếp biến vốn đã tồn tại trước đó, lúc này là một người “có ơn tất báo” (thể hiện rõ trong Hoa mối quan hệ tiếp biến văn hóa giữa Việt Nam và Trung Dung đạo mà tác giả La Quán Trung đã dày công xây dựng). Bên cạnh đó, Tam Quốc diễn nghĩa còn có kiểu Hoa lại càng phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh sự xuất nhân vật oai phong, lẫm liệt đại diện cho con người hiện của chữ Quốc ngữ, hàng loạt tác phẩm văn học đầy dũng khí, tài giỏi và có tấm lòng trung nghĩa như Trung Quốc có điều kiện du nhập vào Việt Nam rất Triệu Tử Long, luôn xả thân để bảo vệ và cứu chúa. mạnh mẽ, trong đó có Tam Quốc diễn nghĩa “Khi Với hệ thống nhân vật độc đáo và hoành tráng, khiến văn học nghệ thuật trong nước chưa đáp ứng kịp với biết bao người say mê, Tam Quốc diễn nghĩa sẽ là sự thay đổi thị hiếu của công chúng, thì những tác mảnh đất màu mỡ cho những tác phẩm sân khấu, nhất phẩm văn học Trung Quốc đã được phần lớn độc giả 7 là sân khấu cải lương xuất hiện để đáp ứng nhu cầu nồng nhiệt đón nhận và say mê theo dõi” [ , tr.79]. thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của dịch thuật, các Thứ hai, ta có thể thấy mối quan hệ giữa Lưu Bị với tác phẩm truyện thơ Nôm đã có sự tiếp nhận nhất Khổng Minh, Quan Vân Trường, Trương Phi, Hoàng định từ văn học Trung Quốc. Từ truyện thơ Nôm, Trung, Triệu Tử Long không chỉ là quan hệ vua tôi sân khấu hát bội cũng đã cải biên chúng thành những mà ở đó còn là quan hệ anh em, bạn bè. La Quán tác phẩm nghệ thuật mới. Có thể thấy, vì sự gần gũi Trung luôn đề cao tinh thần trung nghĩa sống chết có của truyện thơ Nôm với lời ca cải lương nên việc cải nhau của ba anh em Lưu, Quan, Trương, “dẫu rằng biên truyện thơ Nôm cũng là một lựa chọn được các khác họ, song đã kết làm anh em thì cùng lòng hợp tác giả cải lương cải biên đặc biệt chú ý, nhất là trường sức, cứu khốn phò nguy, trên báo đền nợ nước, dưới hợp Tam Quốc diễn nghĩa. yên định nạn dân Hoàng thiên hậu thổ, soi xét lòng Việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa trước thế kỷ XX đã này” [ 6, tập 1, tr. 100], ấy chính là cái tình nghĩa anh được thể hiện khá nhiều trong kịch bản hát bội. Bàn em không có gì dời đổi được. Điều đó còn được thể về vấn đề này, Trần Ích Nguyên đã viết rằng “Người ta hiện rõ trong chuyện Trương Phi bỏ mất Từ Châu, bị thường cải biên những câu chuyện trong tiểu thuyết Quan Công mắng, sợ hãi không biết dường nào, rút cổ điển Trung Quốc thành các loại hý khúc Việt Nam, gươm toan tự sát, Lưu Bị đã ngăn lại mà nói rằng “Ba trong đó không loại trừ khả năng đã tham khảo hý anh em ta kết nghĩa với nhau ở vườn đào, đã thề cùng khúc cổ điển Trung Quốc. Có thể dẫn ra những ví dụ 1124
  4. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 nổi bật nhất như, đầu tiên Việt Nam có kịch về Truyện các sáng tác cải biên Tam Quốc diễn nghĩa từ giai đoạn Tam Quốc, sau mới có bản dịch của Tam Quốc diễn này ít xuất hiện. Vào những năm 1958, cải lương đã nghĩa”[ 8, tr.28]. được nhìn nhận lại theo một chiều hướng tích cực Cùng với những yếu tố khác, các vở cải lương cải biên hơn, gánh Khánh Hồng – Minh Tơ đã xây dựng các vở từ Tam Quốc diễn nghĩa còn có sự ảnh hưởng không cải lương cải biên từ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, nhỏ từ hát bội. Những “tuồng xưa tích cũ” mà hát bội nhất là Tam Quốc diễn nghĩa (diễn ở đình Cầu Quan, đã xây dựng dựa trên Tam Quốc diễn nghĩa cũng chính quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) nên các vở cải lương là nền tảng để các vở cải lương cải biên từ Tam Quốc cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa đã phát triển mạnh diễn nghĩa được hình thành và phát triển mạnh mẽ. mẽ trở lại. Có thể thấy, Tam Quốc diễn nghĩa là văn bản nguồn Những năm gần đây, để lưu giữ và phát huy loại hình mà có rất nhiều những tác giả cải biên lựa chọn làm nghệ thuật sân khấu đặc sắc của dân tộc, nhà văn hóa chất liệu để xây dựng thành các tác phẩm cải lương. Thanh niên đã xây dựng và thực hiện “Chương trình Vì thế, trước hết, chúng tôi xin cung cấp danh mục Sân khấu cải lương” định kỳ, với rất nhiều tác phẩm những tác phẩm sân khấu cải biên từ Tam Quốc diễn và đầy đặn hơn cả là những tác phẩm được cải biên nghĩa mà chúng tôi đã khảo sát được trong Bảng 1. từ các tác phẩm văn học, trong đó có Tam Quốc diễn Qua khảo sát, người viết xin đưa ra một vài nhận xét, nghĩa. phân tích sơ bộ như sau: Nhìn vào diễn trình phát triển của các tác phẩm sân 1. Việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa trên sân khấu khấu cải lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa, ta cải lương được hình thành từ 4 phương thức cơ bản: có thể thấy rằng hầu hết những tác phẩm sân khấu (1) Soạn giả cải lương tiếp nhận trực tiếp tác phẩm cải lương được cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa rất nguồn bằng chữ Hán và cải biên thành cải lương; được quan tâm. Điều đó thể hiện ở chỗ ngày càng (2) Soạn giả cải lương tiếp nhận tác phẩm nguồn bằng xuất hiện thêm những tác phẩm mới, trong đó có cải chữ Quốc ngữ và cải biên thành cải lương; lương truyền thanh, trích đoạn, bài bản vọng cổ, cải (3) Soạn giả cải lương tiếp nhận tác phẩm nguồn qua lương hài kịch, Bức tranh cải biên ấy cho thấy sức các tác phẩm truyện thơ Nôm và cải biên thành cải sống mạnh mẽ của Tam Quốc diễn nghĩa cũng như lương; sự sáng tạo không ngừng của dân tộc Việt Nam. Rõ (4) Soạn giả cải lương tiếp nhận tác phẩm nguồn qua ràng, trong đời sống nghệ thuật ở nước ta, việc cải các kịch bản hát bội và cải biên thành cải lương. biên Tam Quốc diễn nghĩa thành sân khấu cải lương là Trong những phương thức tiếp nhận Tam Quốc diễn khá phù hợp với thị hiếu của công chúng nghệ thuật, nghĩa trong sân khấu cải lương đã được nêu trên đây, đồng thời nó cũng đem đến những kỹ thuật mới mẻ chúng tôi nhận thấy, có hai phương thức được sử so với những hình thức biểu hiện của các loại hình dụng nhiều nhất, đó là: Soạn giả cải lương tiếp nhận nghệ thuật truyền thống trước đây. tác phẩm nguồn bằng chữ Quốc ngữ và tiếp nhận 3. Số lượng tác phẩm cải lương cải biên mà chúng tác phẩm nguồn qua các kịch bản hát bội để cải biên tôi bước đầu khảo sát cho thấy Tam Quốc diễn nghĩa thành sân khấu cải lương. chính là chất liệu dồi dào cho các tác giả cải biên trong 2. Từ năm 1920, ngoài soạn giả Trương Duy Toản, sáng tác nên các tác phẩm cải lương. Điều đó cũng có đã xuất hiện rất nhiều những soạn giả khác như Trần nghĩa rằng, các tác phẩm sân khấu cải lương được cải Phong Sắc, Đoàn Bá Chính, Ngọc Văn, với nhiều biên từ Tam Quốc diễn nghĩa cũng có những đóng góp vở cải lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa ra đời. nhất định vào đời sống nghệ thuật như một chất liệu Lúc bấy giờ, nghệ sĩ diễn các vai trong những vở cải cải biên. Ở đó, các tác giả thường chú trọng phát triển lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa đã để lại những đề tài về người anh hùng, với những tư tưởng trung, dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả phải kể đến đó hiếu, nhân, nghĩa nhằm thể hiện lý tưởng, ước mơ của là: NSND Năm Phỉ trong vai Điêu Thuyền; NSND con người trong thời đại lúc bấy giờ. Ngoài ra, các Phùng Há trong vai Lữ Bố; NSND Ba Du trong vai tác giả cải biên còn khai thác sự xung đột giữa trách Đổng Trác, nhiệm của người anh hùng và đạo lý làm người. Mối Có những lúc các tác phẩm sân khấu cải lương cải biên xung đột trong sâu thẳm của Quan Công giữa bổn Tam Quốc diễn nghĩa như bị khựng lại, đặc biệt là vào phận của một vị tướng đóng quân ở cửa ải Huê Dung, giai đoạn từ sau năm 1949. Bởi lẽ, vào năm 1950, tại với lòng biết ơn Tào Tháo. Kết quả của sự đấu tranh Hội nghị văn nghệ của Hội Văn hóa văn nghệ Trung xung đột ấy cùng với nghĩa khí anh hùng “không giết ương, đã có ý kiến cho rằng sân khấu cải lương là “sản kẻ dưới ngựa” mà Quan Công đã tha cho Tào Tháo phẩm văn hóa độc hại của giai cấp tư sản” [ 7, tr.56] cùng ba quân tướng sĩ của Tào tìm một cửa sinh. Hay cần “khai tử”. Vì vậy mà có một số vùng đã hoang trong vở cải lương Phụng Nghi đình, đó là sự tranh đấu mang và vội vã cấm cải lương, âu đó cũng là lí do mà của Vương Tư Đồ và Đổng Trác nhằm giữ chủ quyền 1125
  5. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 Bảng 1: Danh mục những tác phẩm sân khấu cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa STT Tác phẩm cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung) Tác giả/đạo diễn 1 Phụng Nghi Đình (1920-1930) Trần Phong Sắc 2 Lã Bố hí Điêu Thuyền (1936) Đoàn Bá Chính 3 Tam khí Chu Du (1937) Ngọc Văn 4 Tam Anh chiến Lã Bố (1941) Ngọc Văn 5 Tam khí Chu Du (1941) Sỹ Tiến 6 Huê Dung đạo (1949) Đoàn Quan Tấn 7 Phụng Nghi đình (1958) Minh Tơ - Đức Phú 8 Phụng Nghi đình (1970) Mộc Quán, Nguyễn Trọng Quyền 9 Tào Tháo dâng đao (1973) Trúc Viên (Trương Gia Kỳ Sanh) 10 Triệu Tử đoạt ấu chúa (1973) Viễn Châu 11 Huê Dung đạo (1973) Viễn Châu 12 Vọng cổ Tào Tháo cháy râu (1973) Trần Hà 13 Vọng cổ Tào Tháo bôn đào (1974) Viễn Châu 14 Quan Công phò nhị tẩu (1987) Loan Thảo 15 Về đất Kinh châu (1989) Phi Hùng - Nam Sơn 16 Liên Hườn kế Phụng Nghi đình (1990) Minh Tơ 17 Phụng Nghi đình (2002) Trọng Huyền 18 Phụng Nghi đình (2004) Minh Tơ - Thanh Tòng 19 Lữ Bố hí Điêu Thuyền (2008) Minh Tơ - Thanh Tòng 20 Triệu Tử Long đoạt ấu chúa (2009) Vũ Linh - Hoàng Dũ 21 Điêu Thuyền (2009) Ngọc Huyền, Trọng Nghĩa 22 Cải lương, hài Lữ Bố hí Điêu Thuyền (2010) Bạch Long 23 Phụng Nghi đình (2012) Ngọc Trinh 24 Tào Tháo tam ban Đổng quý phi (2012) Minh Tơ - Thanh Tòng, Công Minh 25 Phụng Nghi đình (2013) Mộc Quán - Trương Phụng Hảo 26 Nhị khí Chân Du (2013) Minh Tơ - Thanh Tòng 27 Lưu Bị cầu hôn Giang tả (2014) Minh Tơ - Thanh Tòng 28 Cải lương, hài Lữ Bố hí Điêu Thuyền (2014) Hồng Vân, Hoài Linh 29 Lữ Bố hí Điêu Thuyền (2014) Kim Tử Long, Bảo Quốc 30 Quan Công phò nhị tẩu (2014) Minh Tơ - Thanh Tòng 31 Lưu Bị quá giang Đông, Triệu Tử nhập cam lộ (2015) Minh Tơ - Thanh Tòng 32 Bạch môn lầu Lữ Bố quy vị (2015) Minh Tơ - Thanh Tòng 33 Cải lương, hài Đổng Trác cưới Điêu Thuyền (2015) Tâm Như 34 Lữ Bố hí Điêu Thuyền (2016) Thanh Tòng 35 Về đất Kinh Châu (2017) Phi Hùng, Bạch Mai 36 Châu Du tỏa thơ (2017) Thanh Sơn 37 Triệu Tử Long đoạt ấu chúa (2017) Bạch Long - Thanh Sơn 38 Quan Công đại chiến Bàng Đức (2017) Thanh Tòng -Thanh Sơn 39 Quan Công phò nhị tẩu (2018) Minh Tơ - Thanh Sơn 1126 40 Quan Công trảm lục tướng (2018) Minh Tơ - Thanh Sơn
  6. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 cho nhà Hán. Vương Tư Đồ đã dùng kế mỹ nhân, chia trở thành tác phẩm sân khấu cải lương càng trở nên rẽ thế lực của Đổng Trác và Lã Ôn Hầu, cũng chính độc đáo. Hoặc giả cho dù ở những tác phẩm sân khấu mỹ nhân Điêu Thuyền đã tạo nên xung đột giữa tình cải lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa được trình yêu và tình phụ tử của Đổng Trác và Lã Bố. diễn bởi những nghệ sĩ cũ thì những vai diễn của họ Cùng với những yếu tố ấy, ta thấy Tam Quốc diễn vẫn được xem là mới, bởi lẽ đó là một quá trình tái nghĩa có thơ ca, văn chương trau chuốt, trữ tình, khiến tạo, nhào nặn văn bản nguồn có trước. Việc thống các soạn giả dễ dàng xây dựng thành các tác phẩm cải kê một cách đầy đủ nhất các tác phẩm cải biên từ tác biên truyền tải những thông điệp khác nhau để đáp phẩm Tam Quốc diễn nghĩa trên sân khấu cải lương ứng nhu cầu thưởng thức những nội dung mà công Việt Nam chưa thể thực hiện được trong một thời gian chúng của Tam Quốc diễn nghĩa vốn đã quen thuộc ngắn, thậm chí đó là điều vượt ngoài khả năng của các bằng hình thức sân khấu hóa. Tùy theo phong cách nhà nghiên cứu. cá nhân, phông văn hóa và những ý thích khác nhau 5. Việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa sang sân khấu mà các tác giả cải biên có phương thức và cách ứng xử nói chung và sân khấu cải lương nói riêng là một quá phù hợp với “chất liệu” Tam Quốc diễn nghĩa. Chính trình dịch chuyển kí hiệu ngôn ngữ khá phức tạp, đó vì thế mà đời sống nghệ thuật đương đại của chúng ta là thao tác chuyển hóa văn bản văn học thành văn bản lại tiếp tục được đón nhận những tác phẩm cải biên sân khấu. Chẳng hạn, trong trích đoạn cải lương Lữ với nhiều nét khác biệt dù chúng đều được khai thác Bố hí Điêu Thuyền cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa từ chất liệu nguồn là Tam Quốc diễn nghĩa. khi Điêu Thuyền cùng dưỡng phụ là Tư Đồ trao đổi 4. Theo khảo sát của chúng tôi thì hiện nay có khoảng với nhau về vấn đề dụ dỗ Lữ Bố, tác giả Thanh Tòng hơn 40 kịch bản, tác phẩm cải biên từ Tam Quốc diễn đã dựa vào đặc trưng, tính chất của câu chuyện để sử nghĩa trên sân khấu cải lương (còn được lưu giữ) và dụng bài bản Kim Tiền Huế. Kim Tiền Huế có nguồn ở mỗi tác phẩm lại có sự lựa chọn khác nhau về mỗi gốc từ dòng nhạc miền Trung (Huế) phát triển thành, chương, hồi. Như đã nói trên, bằng cảm quan riêng khi hòa tấu vào sân khấu cải lương thường đi cùng của bản thân, mỗi tác giả cải biên đều có những màu với các bài Lưu Thủy Đoản và bài Bình Bán Vắn thành sắc khác nhau và sự lựa chọn các chương hồi trong bộ Lưu – Bình – Kim. Bài Kim Tiền Huế được bắt đầu tác phẩm khác nhau. Tác giả cải biên Tam Quốc diễn với âm khu cao nhưng mức độ dồn dập căng thẳng thì nghĩa trên sân khấu cải lương đã đưa ra rất nhiều có phần nhẹ nhàng, dùng trong trường hợp đối đáp, “bản kể” khác biệt so với cùng một cốt truyện ban cãi nhau, trấn áp, hăm dọa, quyết định một vấn đề nào đầu. Cùng là cải biên tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, đó. Chẳng hạn, với tính chất ấy, tác giả cải biên đã dựa nhưng tác giả Viễn Châu có cách kể không giống với trên bản nhạc Kim Tiền Huế và đặt lời ca như sau: tác giả Thanh Tòng; tác giả Phi Hùng, Bạch Mai cũng Bản nhạc có cách kể khác biệt với tác giả Nguyễn Sơn Chẳng 01. U xáng liu. Ú liu xề cồng liu hạn, với sở trường được mệnh danh là “ông vua vọng 02. U xáng u. Liu cộng liu xề cổ”, khi cải biên Tam Quốc diễn nghĩa trên sân khấu 03. Công líu công. Líu xừ xang xê cải lương, Viễn Châu thường sử dụng rất nhiều lời 04. Cống xê xàng cống xê ca vọng cổ cho tác phẩm của mình. Ngược lại, xuất Lời ca thân từ một gia đình có truyền thống hát bội nên trong Kế đã cao, bây giờ cha tính sao? các vở cải lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa của Cha tặng ngạch kim quang cho xứng chức Ôn Hầu Thanh Tòng các bài bản Hồ Quảng được sử dụng với Được của quý thế nào Lữ Bố cũng đến đây tần suất dày đặc. Với việc tái cấu trúc nội dung tác Thi lễ tạ ơn, ngộ nhất thời [ 9, tr.8] phẩm nguồn, các tác giả cải lương cải biên từ Tam Quả thực, từ ngôn ngữ văn chương đến ngôn ngữ “lời Quốc diễn nghĩa cho phép khán giả của cải lương có ca” là một sự thay đổi rất lớn trong cải biên Tam Quốc thể nghe, xem tác phẩm ấy theo ý đồ của cá nhân tác diễn nghĩa thành sân khấu cải lương Việt Nam. Bởi giả cải biên, đó là một sự thông diễn đầy sáng tạo văn lẽ, cải lương là kịch hát nên việc xây dựng lời ca cho bản nguồn. tác phẩm sân khấu cải lương khi cải biên từ Tam Quốc Xuyên suốt quá trình phát triển của sân khấu cải diễn nghĩa là vô cùng quan trọng. Nhờ các bài bản, làn lương (từ năm 1918 đến nay), Tam Quốc diễn nghĩa điệu cũng như nội dung mà tác giả cải biên muốn xây đã được cải biên rất nhiều lần. Có thể thấy ở mỗi vở dựng, lời ca giúp cho nhân vật thể hiện được cảm xúc, diễn, người xem, người nghe lại tiếp xúc với một văn tâm trạng của mình, lời ca - linh hồn của vở cải lương bản mới và bên cạnh những nội dung ban đầu như nó chính là một trong những yếu tố giúp người nghệ sĩ vốn có trong văn bản nguồn là Tam Quốc diễn nghĩa tạo ra sự đồng cảm với khán giả. Việc cải biên Tam thì còn có rất nhiều những yếu tố văn hóa mới xuất Quốc diễn nghĩa sang sân khấu cải lương, vì vậy, là một hiện. Điều đó, khiến cho Tam Quốc diễn nghĩa khi chặng dài chuyển dịch từ văn bản nghệ thuật ngôn từ 1127
  7. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(3):1122-1129 sang một hình thức mới là nghệ thuật trình diễn sân đơn thuần từ thể loại này sang thể loại khác, mà ngay khấu. Ban đầu, kịch bản cải lương được cải biên từ tác trong bản thân của các tác phẩm cải lương cải biên phẩm nguồn là Tam Quốc diễn nghĩa, sau khi kịch bản cũng có một hơi thở riêng, một tư tưởng mới để sóng cải lương được hình thành, đạo diễn lại tiếp tục cải đôi độc lập với văn bản nguồn và tiếp tục hành trình biên kịch bản cải lương ấy thành một tác phẩm nghệ của mình trong việc chinh phục trái tim của người mộ thuật với hình thức mới. Quá trình cải biên “kép” ấy điệu. cho thấy mỗi lần “thay đổi”,đều có những độc đáo và mới lạ trong nội tại của chúng về nhiều phương diện XUNG ĐỘT LỢI ÍCH như cấu trúc tác phẩm, nhân vật và ngôn ngữ (những Bản thảo này không có xung đột lợi ích. vấn đề này xin được trình bày rõ hơn ở một công trình khác). Có thể thấy nghệ thuật sân khấu chính là một ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ hình thức cải biên phù hợp và gần gũi với Tam Quốc Người viết đã tiến hành sưu tầm và khảo sát các kịch diễn nghĩa của La Quán Trung. Sân khấu cải lương bản cải lương được cải biên từ tiểu thuyết cổ điển như cách nói của tác giả Lê Quốc Hiếu thì đó “là dạng Trung Quốc, trong đó có Tam Quốc diễn nghĩa. Trên thức cải biên gần gũi nhất với tác phẩm văn học” [ 10, nền tảng đó, chúng tôi đã xây dựng và hoàn thiện bài tr.113]. Điều đó ít nhiều đã xác tín rằng các tác phẩm viết Khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa thành sân khấu cải lương cải biên từ Tam Quốc diễn nghĩa tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam. sẽ vẫn tồn tại và xuất hiện với tần suất nhất định để TÀI LIỆU THAM KHẢO đáp ứng nhu cầu thị hiếu của một bộ phận công chúng thưởng thức nghệ thuật tại Việt Nam. 1. Wang Jia. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Nam Bộ Việt Nam giai đoạn 1900-1930. Luận án tiến sĩ trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 2014;. KẾT LUẬN 2. Nguyễn Văn Trung. Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp Với những hạn chế nhất định, chúng tôi nhận thấy thuộc. Sài Gòn: Nam Sơn. 1974;. 3. Pougin A. Le théâtre à l’ Exposition universelle de 1889: notes bài viết khảo sát việc cải biên Tam Quốc diễn nghĩa et decription, histoire et souvenirs. Paris: Fischbacher. 1890;. thành tác phẩm sân khấu cải lương tại Việt Nam vẫn 4. Chương H. 100 năm Nghệ thuật cải lương Việt Nam. Hà Nội: còn nhiều khoảng trống. Song, người viết cũng hy Văn hóa thông tin. 2013;. 5. Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số TP.Hồ Chí Minh. vọng rằng, bài viết này có thể góp một phần nhỏ vào Văn hóa người Hoa Nam Bộ. Hồ Chí Minh: Văn hóa - Văn nghệ. việc tìm hiểu quá trình tiếp nhận Tam Quốc diễn nghĩa 2016;. 6. Trung LQ. Tam Quốc diễn nghĩa. Phan Kế Bính dịch. Hà Nội: tại Việt Nam. Nhìn chung, từ cốt truyện, nhân vật, Văn học. 2017;. sự kiện, ngôn ngữ, của tiểu thuyết Tam Quốc diễn 7. Trần Thị Minh Thu. Cải lương Bắc trong tiếp biến văn hóa. Hà nghĩa các soạn giả cải lương, cải biên sẽ tiến hành Nội: Sân khấu. 2016;. 8. Ích Nguyên T. Nghiên cứu tiểu thuyết Hán văn Trung - Việt. nghiên cứu, chiêm nghiệm và dựa vào đó để sáng tạo (Phạm Tú Châu & Phạm Ngọc Lan dịch). Hà Nội: Khoa học Xã lời ca, bài bản, vũ đạo, âm nhạc, bày trí cảnh vật, hội. 2009;. sao cho phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của công chúng 9. Tơ M, Tòng T. Phụng Nghi đình. Hồ Chí Minh: Cải lương tuồng cổ Minh Tơ. 2004;. nghệ thuật đương đại. Từ đó, chúng ta thấy các tác 10. Hiếu LQ. Khảo sát việc cải biên Truyện Kiều thành tác phẩm sân khấu được xây dựng từ chất liệu nguồn Tam phẩm sân khấu, điện ảnh. Tạp chí Nghiên cứu Văn học. Quốc diễn nghĩa không phải là một loại “chuyển thể” 2016;8(2016):105–116. 1128
  8. Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(3):1122-1129 Open Access Full Text Article Research Article Survey on the adaptation of The Three Kingdoms into Cai Luong — Vietnamese reformed theater style Dang Ngoc Ngan* ABSTRACT Studying the process of adapting the masterpiece The Three Kingdoms into Cai Luong – Vietnamese reformed theatre, we can see that this adaptation process of The Three Kingdoms fictions is quite Use your smartphone to scan this suitable for the tastes of the public in terms of art. In particular, it has a great attraction to the com- QR code and download this article posers, urging them to create and transform it into reformed theater style. When researching this issue, the article considers them as a cultural product that is influenced by many different objec- tive and subjective factors such as historical and cultural beliefs and intrinsic values of the original masterpiece itself. At the same time, the article provides a list of a number of reformed dramas from The Three Kingdoms fictions in Vietnam from the 1920s to the present. At the same time,the writer has conducted a preliminary analysis on the process of adapting The Three Kingdoms fictions into Cai Luong — a Vietnamese reformed theater style. This helps the receiver to generally visualize the nation's ceaseless creativity in the works that transform literature masterpieces into Vietnamese reformed theater style, including The Three Kingdoms in a systematic way. This transformation also shows the strong vitality of The Three Kingdoms in Vietnam. Key words: adaptation, The Three Kingdoms, the arts of Cai Luong, reformed theatre Pham Phu Thu High School, 425-435, Gia Phu Street, Ward 3, District 6, Ho Chi Minh City, Vietnam Correspondence Dang Ngoc Ngan, Pham Phu Thu High School, 425-435, Gia Phu Street, Ward 3, District 6, Ho Chi Minh City, Vietnam Email: ngocngan121291@gmail.com History • Received: 15/4/2021 • Accepted: 21/7/2021 • Published: 16/8/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v5i3.642 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Cite this article : Ngan D N. Survey on the adaptation of The Three Kingdoms into Cai Luong — Viet-namese reformed theater style. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(3):1122-1129. 1129