Kinh tế tư nhân - Yếu tố “nòng cốt” cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam?
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế tư nhân - Yếu tố “nòng cốt” cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam?", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- kinh_te_tu_nhan_yeu_to_nong_cot_cho_tang_truong_kinh_te_viet.pdf
Nội dung text: Kinh tế tư nhân - Yếu tố “nòng cốt” cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam?
- KINH TẾ TƯ NHÂN - YẾU TỐ “NÕNG CỐT” CHO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM? ThS. Ngô Thị Ngọc Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Với một nền kinh tế đa thành phần cùng tồn tại và phát triển, không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy, điều quan trọng là phải nắm vững bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa vào kinh tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh. Bài viết này tác giả chủ yếu phân tích vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của VN trong thời gian vừa qua. 1. Tăng trƣởng kinh tế 1.1. Khái niệm Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống và hoàn thiện hơn. Chúng ta cùng thừa nhận rằng, tăng trưởng không đồng nghĩa với phát triển, tuy nhiên tăng trưởng lại là điều kiện cần, điều kiện tiên quyết cho phát triển. Nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và ứng dụng có hiệu quả những kinh nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới là tăng trưởng và phát triển kinh tế, nó là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của từng quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển. Chính vì vậy vấn đề nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả những kinh nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng và cần thiết. Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các 181
- trường phái khác đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế). Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng. Hiện nay, người ta hiểu Tăng trƣởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100 (%), trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế nhiều hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa. 182
- 1.2. Yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Các nhân tố kinh tế Các nhân tố kinh tế tác động tăng trưởng kinh tế là những nhân tố có tác động trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của nền kinh tế, bao gồm vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên. Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được hiểu là vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền (giá trị). Nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế, bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế được các nhà kinh tế trường phái Keynes đánh giá rất cao. Các nhân tố phi kinh tế Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay còn gọi là các nhân tố phi kinh tế, có tác động gián tiếp và rất khó lượng hóa cụ thể mức độ tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế. Có thể kể ra một số nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trưởng như: vai trò của nhà nước, các yếu tố văn hóa – xã hội, thể chế, cơ cấu dân tộc tôn giáo và sự tham gia của cộng đồng. Nhà nước và khuôn khổ pháp lý không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là yếu tố của cả đầu ra trong quá trình sản xuất. Rõ ràng cơ chế chính sách có thể có sức mạnh kinh tế thực sự, bởi chính sách đúng có thể sinh ra vốn, tạo thêm nguồn lực cho tăng trưởng. Stiglitz (2000) cho rằng thị trường hiệu quả chỉ có được dưới các điều kiện nhất định. Thomas, Dailami và Dhareshwar (2004) cũng đã chỉ ra tác động tích cực của quản lý nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế về số lượng và chất lượng. Như vậy, có thể nhận thấy tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào năng lực của bộ máy Nhà nước. Trình độ văn hóa cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nhìn chung trình độ văn hóa của mỗi dân tộc là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển. Một thể chế không tốt sẽ làm cho chi phí thực thi các hợp đồng cao và như vậy sẽ không khuyến khích các giao dịch kinh tế. Hơn nữa, một cấu trúc thể chế tốt sẽ tạo ra sự khuyến khích nhất định, ảnh hưởng quyết định đến việc phân 183
- bổ nguồn lực con người theo hướng tốt hay xấu cho tăng trưởng kinh tế. Baumol (1990,1993) cho rằng nếu một thể chế không khuyến khích một tài năng kinh doanh sáng tạo mà chỉ khuyến khích tái phân phối, tìm kiếm đặc lợi thì tăng trưởng sẽ thấp đi. Theo các tác giả Knack và Keefer (1995), để đánh giá chất lượng của thể chế có thể sử dụng bốn tiêu chí để đo lường: (1) Tham nhũng, (2) Chất lượng bộ máy hành chính, (3) Tuân thủ pháp luật, và (4) Bảo vệ quyền tài sản. Về nhân tố dân tộc và tôn giáo: Nhìn chung một nước càng đa dạng về các thành phần tôn giáo và sắc tộc thì đất nước đó càng tiềm ẩn bất ổn về chính trị và xung đột trong nước. 1.3. Vai trò của tăng trưởng kinh tế Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. - Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trƣởng kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. - Tăng trƣởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá phát triển. - Tăng trƣởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okun (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%. - Tăng trƣởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. 184
- - Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển. Như vậy, tăng trƣởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các quốc gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai mặt. Ch ng hạn, tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế “quá nóng”, gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững. Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao, ổn định trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 – 30 năm) và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. 2. Khái niệm kinh tế tƣ nhân Thuật ngữ “kinh tế tư nhân” luôn gắn liền với vấn đề sở hữu. Vì vậy, muốn tìm hiểu về thuật ngữ này, trước hết cần tìm hiểu về sở hữu mà đặc biệt là sở hữu tư nhân. Sở hữu là một phạm trù kinh tế vừa có tính chất xuất phát điểm vừa có bản chất của kinh tế chính trị học. Nếu chiếm hữu là hoạt động có tính tự nhiên của con người nhằm khai phá và chinh phục thiên nhiên để tạo ra của cải, thì sở hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu. Có thể hiểu phạm trù sở hữu qua cách diễn đạt sau: Sở hữu là quan hệ giữa người và người trong việc chiếm hữu của cải, sự phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Nội dung của sở hữu luôn được xét trên hai mối quan hệ: quan hệ giữa chủ sở hữu và đối tượng sở hữu và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Về mối quan hệ thứ nhất, chủ thể sở hữu chủ yếu tồn tại trên hai loại hình: một cá nhân (tư hữu) hoặc nhiều người (công hữu); còn đối tượng sở hữu bao gồm những sản phẩm vật chất, phi vật chất, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng trong đó sở hữu tư liệu sản xuất là có ý nghĩa hơn cả. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua quyền lực của chủ thể đối với đối tượng sở hữu và được luật hóa thành quyền sở hữu. Ở đây chủ sở hữu thường phải có các quyền căn bản như: 185
- quyền sử dụng, quyền hưởng lợi, quyền định đoạt, quyền thừa kế những mối quan hệ này cũng chính là nội dung pháp lý của vấn đề sở hữu. Về mối quan hệ thứ hai, đó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội. Mối quan hệ này kh ng định đối tượng sở hữu, đặc biệt là tư liệu sản xuất, thuộc về ai, từ mối quan hệ đó quy định các hình thức phân phối và quản lý tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa họ, mối quan hệ này được biểu hiện thành nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu. Theo điều 211 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thì sở hữu tư nhân là sở hữu cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân. Theo khái niệm trên thì sở hữu tư nhân được hiểu là: sở hữu các tư liệu tiêu dùng cá nhân thường được coi là sở hữu cá nhân và sở hữu tư liệu sản xuất thường được hiểu là sở hữu tư nhân. Như vậy, sở hữu tư nhân là quan hệ sở hữu xác nhận quyền hợp pháp của tư nhân trong việc chiếm hữu, quyết định cách thức tổ chức sản xuất – kinh doanh, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của quá trình sản xuất – kinh doanh đó. Sở hữu tư nhân về quá trình sản xuất là cơ sở ra đời kinh tế tư nhân. Trên thực tế, tùy thuộc vào cách tiếp cận mà có những cách hiểu dẫn đến những khái niệm khác nhau về kinh tế tư nhân. Ở các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới hiện nay, mọi hoạt động không thuộc khu vực công đều được coi là khu vực kinh tế tư nhân. Ở một số nước khái niệm về khu vực kinh tế tư nhân cũng rất phức tạp. Như ở Trung Quốc, khu vực tư nhân cùng lúc được hiểu là: - Khu vực phi Nhà nước: bao gồm tất cả các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước, cả trong công nghiệp lẫn nông nghiệp. - Khu vực phi Nhà nước, phi nông nghiệp: gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ lĩnh vực nông nghiệp. - Khu vực tư nhân: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các doanh nghiệp tập thể. - Khu vực tư nhân trong nước: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Doanh nghiệp tư nhân: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các hộ kinh doanh cá thể (có ít hơn 8 công nhân). 186
- Trong những trường hợp cụ thể khi sử dụng những khái niệm trên, số liệu thống kê thường chênh lệch nhau rất lớn. Và cho tới ngày nay tại Trung Quốc vẫn có sự phân biệt hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân với ranh giới được ấn định là 8 công nhân. Ở Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân: - Theo nghĩa rộng, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực dân doanh bao gồm các doanh nghiệp của tư nhân trong nước, kể cả các hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp phi nông nghiệp và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn. Cách hiểu trên sẽ đánh giá tương đối chính xác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân, tuy nhiên thường gặp khó khăn trong thống kê, khi không phân biệt được phần vốn góp của Nhà nước trong các liên doanh cũng như các công ty cổ phần mà Nhà nước góp vốn. - Theo nghĩa hẹp, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng không bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (số liệu thông kê thường theo cách phân loại này khi phân chia nền kinh tế thành 3 khu vực: kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân là kinh tế ngoài quốc doanh nhưng không bao gồm kinh tế tập thể. Từ những cách hiểu trên ta có thể đi đến một nhận thức về kinh tế tư nhân như sau: kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dước hình thức hộ kinh doanh các thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Các loại hình kinh doanh của kinh tế tư nhân đều có điểm chung là dựa trên sở hữu tư nhân, nhưng có sự khác nhau về trình độ sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm hiện hành ở nước ta, kinh tế tư nhân có hai loại hình như sau: - Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cở sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, với quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp của tư nhân, chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình. - Hai là, kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất với quy mô lớn hơn cá thể, tiểu chủ, có thuê mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp như: 187
- doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Trên thực tế, việc phân định ranh giới giữa kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay là không đơn giản, bởi sự vận động biến đổi và phát triển không ngừng của chúng. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, các loại hình doanh nghiệp được quy định như sau: - Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. - Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. - Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cổ đông góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. - Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên hợp danh. Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty 3. Vai trò của kinh tế tƣ nhân với tăng trƣởng kinh tế Việt Nam 3.1. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Kinh tế - xã hội nước ta năm 2017 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu đạt mức tăng trưởng khả quan. Hoạt động đầu tư, thương mại toàn cầu có xu hướng cải thiện rõ rệt cùng với niềm tin của người tiêu dùng tăng lên là các yếu tố tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Tuy nhiên, xu hướng gia tăng của chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch cùng những thay đổi về địa chính trị, chính sách thương mại của một số nước lớn đang là những thách thức đối với kinh tế nước ta. Ở trong nước, bên cạnh các vấn đề tồn tại của nền kinh tế như chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp, sự sụt giảm của ngành khai khoáng, cùng với giá thịt lợn giảm mạnh, thiên tai, bão, lũ liên tiếp xảy ra tác động tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp và thách thức mục tiêu tăng trưởng năm 2017 của cả nước. 188
- Sau những khó khăn chạm đáy vào năm 2012, nền kinh tế quốc gia đang cho thấy sự tăng trƣởng khá ổn định khi luôn cao hơn mức tăng trƣởng trung bình trong giai đoạn 2011-2017. Tăng trưởng kinh tế tăng cao trong bối cảnh các biến số phản ánh ổn định kinh tế được cải thiện. Thứ nhất, về tỷ lệ lạm phát. Trong những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát có xu hướng giảm rõ rệt, năm 2017 là dưới 5% (thấp hơn tỷ lệ lạm phát trung bình giai đoạn 2011-2017 là 6,5%). Thứ hai, về tỷ lệ nợ công/GDP. Từ 63,6% năm 2016, tỷ lệ nợ công/GDP năm nay đã giảm xuống còn 62%. Tốc độ tăng nợ công cũng đang có xu hướng giảm dần; giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng nợ công trung bình đạt 18,4%, năm 2016 tăng 15% và năm 2017 là 9%. Cùng với đó, bội chi ngân sách đang giảm, tỷ lệ chi thường xuyên trong chi ngân sách đã giảm xuống còn 64,9% năm nay và dự kiến là 64% vào năm 2018. Thứ ba, cán cân thương mại cải thiện từ nhập siêu năm 2015 (3,2 tỷ USD), năm 2016 xuất siêu 2,68 tỷ USD và khả năng năm 2017 đạt thặng dư cán cân thương mại. Như vậy, tăng trưởng kinh tế đang tăng tốc trên nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn vào mức độ, tăng trưởng kinh tế còn thấp hơn so với những năm trước 2008, tỷ lệ nợ công cao, bội chi ngân sách còn lớn cho dù xu hướng đang dần cải thiện. Điều này phản ánh nhiều chính sách kinh tế vĩ mô đang đi đúng hướng nhưng tốc độ thẩm thấu các chính sách tốt vào cuộc sống còn chậm. Riêng với sự phát triển của các ngành, dịch vụ đang chiếm vai trò quan trọng trong tăng trưởng của nền kinh tế. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng sản lượng ngành dịch vụ ở mức cao, cao hơn so với tăng trưởng sản lượng ngành công nghiệp xây dựng và ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản. Ngoài ra, đóng góp cho tăng trưởng của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng cũng đạt mức cao nhất. Về vấn đề đầu tư, thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2017 đạt khá, đặc biệt là vốn tư nhân và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 594,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 676,3 nghìn tỷ đồng, 189
- chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 396,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,8% và tăng 12,8%. Bảng 1. Tốc độ phát triển vốn đầu tƣ phát triển toàn xã hội các năm 2015- 2017 so với năm trƣớc (Theo giá hiện hành) Đơn vị tính: % Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Tổng số 111,9 108,9 112,1 Khu vực Nhà nước 106,8 107,3 106,7 Khu vực ngoài Nhà nước 112,8 109,5 116,8 Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 119,9 110,4 112,8 Nguồn: Tổng cục Thống kê Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hoá. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Chính do đặc điểm có độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên Hệ số ICOR thường được dự tính cho các kế hoạch phát triển dài hạn, thường là 5 năm. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio). Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng). Hệ số ICOR cho biết muốn có một đồng tăng trưởng thì phải cần bao nhiều đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng đắt. Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn ở các nước đang phát triển. Năm 2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và nền tảng kinh tế vĩ mô dần được cải thiện sẽ là cơ sở để duy trì tốc độ tăng trưởng cho năm 2018. 190
- Bảng 2. Hệ số ICOR tính theo vốn của các khu vực kinh tế Bình Bình quân quân Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2006- 2011- 2010 2017 ICOR 7,02 6,42 5,72 5,96 5,62 5,09 4,68 5,15 4,93 5,31 Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục thống kê Hình 1. ICOR của nền kinh tế giai đoạn 2011-2017 Bên cạnh diễn biến tích cực của các chỉ số kinh tế như bội chi ngân sách, nợ công, cán cân thương mại, tỷ lệ lạm phát nền kinh tế đã có những cải thiện trong hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh. Chỉ số ICOR từ 2012 đổ về trước của Việt Nam cao nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm dẫn đến tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng các nguốn vốn, nhất là nguồn vốn nhà nước. Tuy nhiên, những vấn đề này đã được xem xét và cải thiện đáng kể. Hệ số ICOR năm 2017 đạt 4,93, thấp hơn so với năm 2016 là 5,15. Mặc dù có thể biến động lên xuống do nhiều yếu tố tác động, nhưng rõ ràng đường xu hướng ICOR giảm xuống. Điều này phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế đang dần được cải thiện. 3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Thực ra, trong những năm gần đây, vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế được đánh giá ngày càng rõ. Đảng đã có nghị quyết riêng về kinh tế tư nhân, có chủ trương xây dựng tập đoàn kinh tế tư nhân, đã nói đến kinh tế tư nhân là một động lực của nền kinh tế. 191
- Trong Văn kiện Trung ương Đảng lần thứ 5, khóa XII (tháng 6-2017), vai trò của kinh tế tư nhân được đánh giá đầy đủ và chính xác hơn. Ở nước ta, không chỉ vấn đề kinh tế tư nhân mà còn một số vấn đề khác, trước đây, chúng ta thường lấy ý chí chủ quan thay cho thực tế khách quan để đưa ra lời giải. Đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, lời giải phải xuất phát từ thực tế khách quan là nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Một trong những vấn đề đáng quan tâm hiện nay mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 đề cập là kinh tế tư nhân. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, kinh tế tư nhân đang chiếm tỷ trọng lớn về một số chỉ tiêu của nền kinh tế. Về GDP, tỷ trọng của kinh tế tư nhân chiếm khoảng 39-40% nền kinh tế, kinh tế nhà nước khoảng 30%, kinh tế tập thể 5%. Tương quan giữa các thành phần kinh tế về tỷ trọng GDP nhiều năm nay ít thay đổi. Khả năng trong tương lai, kinh tế tư nhân sẽ phát triển cao hơn hiện nay. Về việc làm, theo thống kê hằng năm khu vực tư nhân tạo ra khoảng 85% việc làm trong nền kinh tế. Trong khu vực nhà nước, việc làm hầu như không tăng. Còn khu vực tập thể tăng không đáng kể. Với chủ trương xã hội hóa đầu tư và chủ trương doanh nghiệp Nhà nước thoái vốn khỏi những nơi không phải là ngành chính, dư địa cho đầu tư của kinh tế tư nhân mở ra rộng lớn. Từ Bắc vào Nam, các tập đoàn và doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực như kết cấu hạ tầng giao thông, các phương tiện vận tải hàng không, đường bộ, đường thủy; xây dựng; sản xuất cơ khí; khu vui chơi giải trí Họ cũng đang từng bước vươn ra nước ngoài, một số trong họ đã có thương hiệu. Tính riêng năm 2017, cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.295,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh nghiệp và tăng 45,4% về số vốn đăng ký so với năm 2016; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 10,2 tỷ đồng, tăng 26,2%. Nếu tính cả 1.869,3 nghìn tỷ đồng của hơn 35,2 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2017 là 3.165,2 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 26.448 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,9% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm lên 153,3 nghìn doanh nghiệp. Những cơ sở sản xuất kinh doanh này đã tạo ra nguồn lực đầu tư mới, góp phần tăng trưởng GDP, tạo thêm công ăn việc làm. Tổng số lao động đăng ký của các 192
- doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2017 là 1.161,3 nghìn người, giảm 8,4% so với năm 2016. Tóm lại, trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX “về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, kinh tế tư nhân ở nước ta đã không ngừng phát triển, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thể hiện rõ ràng nhất ở những điểm sau: Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân góp phần khơi dậy một bộ phận quan trọng tiềm năng của đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất đã kéo theo sự biến đổi của quan hệ quản lý và phân phối, làm cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX vốn còn thấp và phát triển không đều giữa các vùng, các ngành trong cả nước. Nhờ vậy đã khơi dậy và phát huy tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc vào công cuộc CNH – HĐH; Khu vực kinh tế tư nhân góp phần quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi của xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương, đồng thời góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân đều đặn và xấp xỉ với tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Sự phát triển nhanh của kinh tế tư nhân đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của cả nước, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các vùng, miền. Thứ ba, kinh tế tư nhân phát triển góp phần thu hút một bộ phận lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động. Tính đến nay, cả nước có khoảng trên 500.000 DN tư nhân đang hoạt động và mỗi năm có thêm hàng vạn DN được thành lập mới; thu hút khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm, góp phần quan trọng vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho người dân Thứ tư, khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu đối với Việt Nam trong 193
- quá trình CNH - HĐH đất nước. Quá trình hội nhập có thể thực hiện bằng nhiều con đường như: nhà nước liên doanh với nước ngoài, nhà nước cho nhóm đầu tư nước ngoài thuê đất hay các tổ chức kinh tế và kinh tế tư nhân liên doanh, liên kết với nước ngoài. Trong những hình thức này, hiện nay nổi bật nhất vẫn là con đường thứ ba, sự liên kết thông qua khu vực kinh tế tư nhân. Từ đó, kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực và kinh nghiệm quản lý. Đồng thời nó góp phần thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển và hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới. 4. Kết luận Thực ra quan điểm coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được kh ng định từ Đại hội Đảng lần thứ XII. Điểm mới của Hội nghị Trung ương 5 nằm ở chỗ, kinh tế tư nhân không chỉ là động lực quan trọng, mà còn “cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm "nòng cốt" để bảo đảm xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”. Đây là lần đầu tiên Đảng kh ng định kinh tế tư nhân có vai trò “nòng cốt” – vốn là từ chỉ dùng cho kinh tế nhà nước và tập thể. Không những thế, vai trò của kinh tế tư nhân được đặt ngang hàng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Nếu như quan điểm rất đổi mới này được triển khai một cách có hệ thống và nhất quán trong thực tế thì sẽ có những chuyển biến hết sức tích cực trong nền kinh tế Việt Nam những năm sắp tới. 194
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổng cục thống kê 2. Đặng Minh Tiến, Vai trò và tác động của kinh tế tư nhân đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, 3. GS.TS. Hồ Văn Tĩnh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta, Tạp chí lý luận chính trị, 2007; 4. Phạm Chi Lan, Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế, 5. Nguyễn Đình Luận, Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Tạp chí phát triển và Hội nhập, 2015; 6. Phát triển kinh tế tư nhân, CIEM – Trung tâm thông tin - Tư liệu, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; 7. Một số nguồn khác trên tạp chí, sách báo và Internet. 195