Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thôn La Hà (Quảng Bình)
Bạn đang xem tài liệu "Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thôn La Hà (Quảng Bình)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- ky_thuat_san_xuat_non_la_cua_lang_nghe_truyen_thong_thon_la.pdf
Nội dung text: Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thôn La Hà (Quảng Bình)
- 76 Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 4(47) (2021) 76-83 Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thôn La Hà (Quảng Bình) Production techniques of Vietnamese traditional hat (Non La) in La Ha village, Quang Binh province Hoàng Văn Tháia,b, Lê Thị Ngọc Cầma,b,* Hoang Van Thaia,b, Le Thi Ngoc Cama,b,* aInstitute of Languages, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam aViện Ngôn ngữ, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam bFaculty of Korean Language, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam bKhoa Tiếng Hàn, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam (Ngày nhận bài: 9/4/2021, ngày phản biện xong: 20/4/2021, ngày chấp nhận đăng: 25/5/2021) Tóm tắt Nghề làm nón lá là nghề thủ công có từ lâu đời của Việt Nam nhưng kỹ thuật và quy trình làm nón chưa được nghiên cứu sâu và hệ thống hóa trong các công trình nghiên cứu trước đây. Do đó, để bảo tồn và lưu trữ kỹ thuật làm nón, chúng tôi dùng phương pháp tiếp cận từ thực tiễn đến lý thuyết, cộng với phương pháp điều tra dân tộc học để đi sâu nghiên cứu tìm hiểu, hệ thống hóa và mô tả tất cả các công đoạn trong kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề sản xuất nón truyền thống La Hà (xã Quảng Văn, tỉnh Quảng Bình) như kỹ thuật sơ chế nguyên liệu, kỹ thuật làm khung, vành, kỹ thuật chằm nón Hiện nay, có nhiều làng làm nón lá truyền thống được nhiều người biết đến như làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội), làng Phù Cam (Huế), làng Phú Gia (Bình Định) mỗi nơi đều có cách chọn nguyên liệu và kỹ thuật làm nón khác nhau, tuy nhiên kỹ thuật sơ chế lá ở đây khác với những địa phương còn lại nên nón lá của La Hà có màu xanh sáng, mỏng nhẹ hơn so với một số nơi khác. Do đó, chúng tôi chọn làng nón lá La Hà làm đối tượng nghiên cứu. Từ khoá: Nón lá; kỹ thuật sản xuất; La Hà; Quảng Bình. Abstract The craft of making Vietnamese traditional hats is a long-standing handicraft in Vietnam, but the techniques and process of making these hats have not been studied in depth in previous studies. Therefore, in order to preserve and store the Vietnamese traditional hat making techniques, we use research methods in folklore studies to systematize and describe all steps of these hat production techniques of La Ha village such as raw material preliminary processing, rim-framing making technique, and hat-making technique. Keywords: Vietnamese traditional hat; production techniques; La Ha; Quang Binh. 1. Giới thiệu tà áo dài, hình ảnh của chiếc nón lá đã được Nón lá hiện nay được biết đến như một hình miêu tả rất nhiều trong thơ ca và hội họa. ảnh biểu trưng của văn hóa Việt Nam. Cùng với Khách du lịch người nước ngoài hầu như đều *Corresponding Author: Le Thi Ngoc Cam; Institute of Languages, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam; Faculty of Korean Language, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam. Email: letngoccam@dtu.edu.vn
- Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 77 mua nón lá làm vật lưu niệm khi du lịch Việt Nam Bộ trong quá trình xây dựng nông thôn Nam. Trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mới” [2]; “Phát triển làng nghề sản xuất mây mưa to nắng gắt như Việt Nam, với chức năng tre đan và làng nghề sản xuất nón lá trên địa che đậy vùng đầu, chiếc nón đã xuất hiện từ sớm bàn tỉnh Quảng Bình” [5]. Tuy nhiên, những với nhiều hình dạng và được làm từ nhiều loại nghiên cứu này đa số nêu lên thực trạng hoạt nguyên liệu khác nhau. Chỉ là một vật dụng dùng động sản xuất kinh doanh của các làng nghề để để che mưa che nắng thường ngày, nhưng do đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhiều tính năng ưu việt như nhẹ, che phủ rộng, sản xuất kinh doanh cho làng nghề chứ chưa đi rẻ mà chiếc nón lá hình chóp đã trở thành một sâu nghiên cứu về kỹ thuật chế tác nón lá hay hình ảnh mang đậm nét văn hóa Việt Nam. các loại hình nghề đan lát này. Hình ảnh nón lá được nhắc đến trong Đại Trước tình hình công nghiệp hóa, hiện đại Việt Sử Ký Toàn Thư khi mô tả về Nhân Huệ hóa ở nước ta như hiện nay thì các làng nghề Vương Trần Khánh Dư đội nón lá đến gặp vua làm nón truyền thống đang dần dần mai một và [1]. Sử liệu này còn đề cập đến nón Ma Lôi, tên có nguy cơ bị biến mất. Thu nhập từ nghề làm nón được lấy từ tên một địa phương chuyên đan nón không đảm bảo được đời sống kinh tế của cật tre làm nón [1]. Điều này giúp chúng ta suy người dân nên nhiều người làm nghề đã bỏ đoán được rằng nón lá đã xuất hiện muộn nhất nghề để mưu sinh bằng công việc khác. Đây là là từ thời nhà Trần, khoảng thế kỷ XV và thời một xu thế tất yếu của xã hội mà việc cố gắng kỳ này đã có làng chuyên làm nón lá. Hiện nay, duy trì những làng nghề này như những nghiên có nhiều làng làm nón lá truyền thống được cứu trên đề xuất cũng chỉ là một giải pháp tạm nhiều người biết đến như làng Chuông (Thanh thời, khó duy trì lâu dài vì liên quan đến đời Oai, Hà Nội), làng Phù Cam (Huế), làng Phú sống kinh tế của người dân. Do đó, nghiên cứu Gia (Bình Định), làng La Hà (Quảng Bình) này đi sâu tìm hiểu về kỹ thuật và kinh nghiệm Mỗi làng đều có cách chọn nguyên liệu và kỹ sản xuất nón lá của làng nghề La Hà để kịp thời thuật làm nón khác nhau. Nếu nón Phú Gia lưu trữ những phương thức sản xuất nón lá (Bình Định) làm bằng lá cọ và cây giang, nổi truyền thống trước khi các kỹ thuật này bị biến tiếng với những đường thêu long lân quy mất, đó là tính cấp thiết của đề tài. phụng, có bịt bạc, chạm trổ thì nón lá Huế được Trong phạm vi bài viết này, với cách tiếp làm bằng lá cây bồ quy diệp và tre, nổi tiếng cận từ thực tiễn đến lý thuyết, cộng với phương với những bài thơ được ép giữa hai lớp lá. Khác pháp điều tra dân tộc học, chúng tôi tiếp xúc với vẻ đẹp cầu kì của hai loại nón này, nón lá trực tiếp với người làm nghề để đi sâu nghiên La Hà (Quảng Bình) đẹp mộc mạc, thanh mảnh cứu tìm hiểu, hệ thống hoá và mô phỏng tất cả với nguyên liệu lá nón và tre. các công đoạn trong kỹ thuật sản xuất nón lá Có nhiều nghiên cứu trước đây liên quan đến của làng nghề sản xuất nón truyền thống La Hà các làng nghề làm nón, đan lát, dệt chiếu, mây như kỹ thuật sơ chế nguyên liệu, kỹ thuật làm tre lá như: “Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh khung - vành, kỹ thuật chằm nón Với cách doanh của các làng nghề ở tỉnh Bạc Liêu” [3]; tiếp cận về kỹ thuật làm nón một cách cụ thể, “Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống nghiên cứu này là nền tảng để chúng tôi tiếp tục kết hợp với du lịch tỉnh Hậu Giang” [4]; “Bảo tìm hiểu về kỹ thuật của các nghề truyền thống tồn và phát triển văn hóa - xã hội làng nghề ở của dân tộc Việt Nam.
- 78 Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 2. Tổng quan về thôn La Hà và hiện trạng hơn 800 hộ làm nghề nón lá nhưng chủ yếu đều của nghề sản xuất nón lá làm như một nghề phụ trong thời gian nông 2.1. Điều kiện sinh thái tự nhiên của thôn nhàn. Lao động chủ yếu làm nón là các bà, các La Hà cô lớn tuổi. Trung bình một ngày mỗi người làm được 3 đến 5 chiếc nón. Mỗi chiếc nón Tỉnh Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt được bán cho đại lý với giá từ 15.000 - 20.000 Nam, với diện tích tự nhiên 8.000 km². 85% đồng, trừ chi phí nguyên liệu thì người làm tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Quảng Bình công thu về khoảng 10.000 - 15.000 đồng trên nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác một chiếc nón. động bởi khí hậu của phía Bắc, phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt là mùa mưa và Để hoàn thành một cái nón, người thợ phải mùa khô. Quảng Bình nằm trong khu vực đa làm rất nhiều công đoạn và tốn nhiều thời gian. dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ Nhưng thu nhập của thợ làm nón lại thấp nên thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều hiện nay tại La Hà người làm nón dần dần nguồn gen quý hiếm [9]. chuyển qua làm mây đan hoặc may nón lá bằng máy với vành nón làm bằng nhựa. Nón được Xã Quảng Văn là một xã cồn bãi ven sông, may bằng máy với vành nhựa thì thời gian hoàn được bao bọc xung quanh bởi sông nước. Xã thành sản phẩm nhanh hơn nhưng không có nét Quảng Văn nằm ở phía nam của Thị xã Ba sắc sảo bằng nón may tay và giá thành bán ra thị Đồn, cách trung tâm của Thị xã khoảng 15km. trường thì đắc hơn gấp 3 lần so với nón lá may Phía đông tiếp giáp sông Gianh và xã Quảng tay. Do ảnh hưởng đến thu nhập nên người dân Thuận. Phía Tây tiếp giáp xã Quảng Hòa và xã ở đây có xu hướng thích mua máy để may nón Quảng Minh. Phía Nam tiếp giáp sông Son và nếu họ có đủ điều kiện để mua. Việc này dẫn huyện Bố Trạch. Phía Bắc tiếp giáp sông Gianh đến tình trạng nghề may nón lá thủ công truyền và phường Ba Đồn [11]. Xã Quảng Văn gồm có thống của thôn La Hà có nguy cơ bị mất dần. thôn La Hà và thôn Văn Phú. Do đặc điểm tập trung dân cư của hai thôn này mà tuy cùng 3. Kỹ thuật sơ chế nguyên liệu trong một xã nhưng sinh kế của người dân ở hai Nguyên liệu làm nón La Hà là lá nón, vành thôn hoàn toàn khác nhau. tre và dây cước. Công cụ gồm có kim may, kéo 2.2. Hiện trạng của nghề sản xuất nón lá của cắt lá, rựa vót vành tre, khung gỗ và nồi ủi lá. thôn La Hà 3.1. Nguyên liệu Cư dân thôn Văn Phú tập trung nhiều ở vùng Cây lá nón phân bố ở vùng rừng già, có tên sát mép sông, gần biển nên phát triển nghề đi khoa học là Livistona saribus (Lour.) Merr. ex biển đánh bắt cá, nuôi thủy hải sản. Khác với A. Chev. thường được gọi là cây lá nón, cọ bầu, Văn Phú, La Hà với vùng đồng bằng rộng hơn lá gồi, cây kè. Thân thường mang các gốc nên chủ yếu phát triển nghề trồng lúa và hoa cuống lá. Lá tập trung ở đỉnh, hình tròn, đường màu. Với đặc trưng của nghề nông, sau thời kính 1 - 2,5m, xẻ nhiều thuỳ. Cây thường sống điểm gieo trồng ban đầu thì người nông dân có ở phần đỉnh đồi, hiếm có ở vùng đồi trọc. Cây nhiều thời gian rỗi. Do đó, họ làm thêm những lá nón phân bố ở Lào, Campuchia, Malaysia, nghề khác để tăng thu nhập cho gia đình. Indonesia, Philippin và có nhiều ở vùng trung Thôn La Hà gồm La Hà Đông, La Hà Tây, du Việt Nam. Cây lúc non ưa bóng, cây càng La Hà Nam với gần 1.000 hộ dân, có hơn 800 lớn càng ưa sáng. Mọc tốt trên đất tơi, thoát hộ làm nghề nón lá [10]. Tuy thống kê được nước, có khả năng chịu hạn và gió. Thường
- Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 79 mọc hoang trên núi, trong các rừng thường nón. Sau đó, họ dùng rựa vót theo độ dày mỏng xanh ở dãy Trường Sơn [6]. Người dân chỉ khai của vành nón rồi đo chiều dài vòng tròn của thác phần cuống trên cùng, mỗi cây chỉ có một từng vành, cắt rồi dùng dây cước nối hai đầu. cuống. Khi cuống này bị cắt thì sau một thời 3.2. Công cụ gian sẽ mọc cuống khác. Trong một lần khai thác thu hoạch tầm 100 cuống. Giá 100 cuống Khung gỗ và nồi ủi lá là hai công cụ không từ 50.000 đến 60.000 đồng. Quảng Bình nằm thể thiếu trong nghề làm nón. Khung gỗ được trong khu Bắc Trường Sơn nên có nhiều cây lá bán ở chợ, được thiết kế chắc chắn để giữ các nón. Đây cũng là một trong những nguyên nhân vành tre. Mỗi khung gồm 12 thanh đứng chụm người dân La Hà chọn lá nón để làm nón lá lại 1 đầu và 1 vòng tròn ở đáy nối các chân của thay vì lá cọ hay lá dừa như một số nơi khác. 12 thanh đứng tạo thành hình nón. Trên mỗi thanh đứng gồm 16 khấc để giữ 16 vành nón, Nguyên liệu làm vành nón là tre. Người thợ khoảng cách giữa hai khấc từ 1,5-2 cm. nhận vành tre được vót sẵn từ đại lý thu mua Hình 1. Khung nón làm bằng gỗ chắc chắn gồm 16 khấc để giữ vành nón Nồi ủi là công cụ để ủi lá cho phẳng. Nồi ủi Hà có màu trắng xanh khác với màu hơi vàng được lấy từ phần ruột của nồi cơm điện, lật ngược đục của những vùng làm nón khác. Hơn nữa, dùng phần mặt phẳng dưới đáy được làm nóng quá trình luộc lá cũng giúp loại bớt một phần khi đóng điện. Người ủi lá đóng điện và ngắt điện chất kết dính trong gỗ (lignin) [8] để làm cho lá sao cho nhiệt độ phù hợp với lá để lá không bị mềm và dai hơn giúp quá trình thao tác được dễ cháy. Khi nồi đạt được nhiệt độ phù hợp, người ta dàng. Lá khô xong lại thải mù, tức là phơi dùng nùi vải quấn tròn chặt ép lá trên mặt nồi giữ sương cho lá nở ra rồi lấy chăn ủ lại cho lá có cố định rồi dùng tay kéo lá cho phẳng. độ ẩm. Rồi sau đó người ta bắt lá và ủi lá. 3.3. Kỹ thuật sơ chế lá Lá sau khi ủ sẽ mềm và dai hơn nhưng vẫn còn xoăn nên người ta mở lá ra gọi là bắt lá. Lá mua về và sơ chế trước khi làm nón gồm Người thợ mở lá ra theo chiều ngang từ trên 7 bước như sau: ngọn xuống dưới cuống một cách nhẹ nhàng rồi Luộc Sấy than Phơi khô Thải mù ủi lá. Ủ lá Bắt lá Ủi lá Trước đây người ta dùng lưỡi cày nung trên Khác với những vùng làm nón khác, tại La than để ủi lá, nhưng hiện nay dùng ruột nồi Hà người ta luộc lá sơ qua sau đó sấy trên than cơm điện phần dưới đáy để ủi lá. Người dân cho khô rồi treo lên phơi khô tự nhiên trong hai dùng vải thấm nước để ủi lá, dùng vải ép lá vào ngày. Lá được luộc trong nước sôi để loại bớt phần đáy nồi cơm điện rồi kéo lá cho phẳng rồi một phần sắc tố diệp lục chlorophyll để tránh xếp lá theo từng bó. Mỗi bó 24 đến 30 lá tuỳ quá trình phân hủy của lá [7]. Do đó, nón lá La theo độ rộng hẹp của lá.
- 80 Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 3.4. Kỹ thuật làm vành cước nối hai đầu để tạo ra 16 vành khác nhau. Khung gỗ được mua ở chợ, từ khung đó tạo Mối thắt dây cước dài 2 - 4cm. Khoảng cách 16 vành nón nhỏ dần từ thấp lên cao. Sau khi giữa hai vành là 2 - 3cm. chằm nón xong sẽ có thêm hai vành kẹp vào 4. Kỹ thuật làm nón vành cuối cùng để hoàn thành chiếc nón. Vành 4.1. Kỹ thuật xếp lá được làm từ vỏ tre và được các đại lý vót bằng máy. Các đại lý này giao tre đã vót để người Sau khi sơ chế lá và xếp tất cả các vành vào làm nón làm thành sản phẩm và bán cho đại lý. khung nón, người thợ phủ một lớp lá đầu tiên. Người vót vành dùng rựa để vót theo mức độ Lớp lá này có từ 24 đến 30 lá đã được xếp dày mỏng của từng vành nón rồi đo theo từng thành bó rồi dùng kim khâu cho các đỉnh lá nối vòng của khung để cắt và nối với nhau sao cho lại với nhau rồi dùng kéo cắt 45°. phù hợp với từng vành. Sau đó họ dùng dây Hình 2. Công đoạn xếp lá, khâu đỉnh lá và cắt lá một góc 45 Đầu tiên, người thợ dùng kim cố định lá ở đỉnh nón, phân bố lá xung quanh vòng nón sao cho nhìn thấy góc 135° ở phía ngoài để khi nhìn phía trong nón thấy lớp lá phẳng, đẹp. Hình 3. Công đoạn xếp lớp lá thứ nhất lên vành nón Sau đó người thợ dặm lá lớp thứ 2 để cho nón được cứng cáp và phủ kín. Lớp lá này không quan trọng phải đẹp, mà chủ yếu là lá đơn dặm vào vòng phụ.
- Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 81 Hình 4. Công đoạn dặm lá lớp thứ 2 Sau khi hoàn thành lớp thứ hai, người thợ rút kim ra khỏi đỉnh nón rồi phủ lớp lá thứ ba ngoài cùng sao cho phần góc 135° khuất ở phía trong và phần thẳng ở ngoài. Hình 5. Công đoạn phủ lớp lá ngoài cùng lên vành nón Sau đó, dùng vòng phụ thứ hai nhỏ hơn vòng thứ nhất dằn lên giữ cố định lá để bắt đầu chằm nón từ vòng nhỏ nhất. Hình 6. Công đoạn cố định vòng phụ cho lá phẳng để chuẩn bị chằm nón
- 82 Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 4.2. Kỹ thuật chằm nón 5. Cách thức hoàn thành sản phẩm Sau khi xếp xong ba lớp lá, người thợ rút Đại lý mua nón về rồi thuê thợ chuyên kẹp kim ở phần đỉnh nón rồi dùng kim và dây cước vành nón để làm khâu kẹp vành. Người thợ cố định nút thắt thứ nhất tại vành nhỏ nhất. dùng kéo cắt lá dư sát vào vành cuối cùng rồi dùng hai vành tre lớn kẹp vào vành cuối cùng để chiếc nón chắc chắn hơn. Lúc này cách chằm cũng tương tự như các vòng trên nhưng khoảng cách giữa các nút thắt dày hơn. Hình 7. Cách chằm nút thắt lần thứ nhất. Nút thắt này nằm trên vòng nhỏ nhất Sau đó, người thợ đâm kim xuống bên này vành rồi đưa lên bên kia vành, luồn kim vào giữa mối dây cước, thắt chặt rồi tiếp tục chằm Hình 1. Người thợ thực hiện khâu trang trí nón từ trái qua phải. Sau khi nón hoàn thành, người của đại lý trang trí thêm chóp trong và hai bên cột quai nón. Chóp trong được trang trí bằng cách dán một miếng giấy tròn nhỏ có in hình hoa văn với màu sắc nổi bật. Chỗ cột quai nón được đan bằng dây len nhiều màu sắc, hai bên đối xứng nhau, trên các vành. Đầu tiên, dây len được cố định một đầu rồi đan chéo qua phía đối diện. Chỗ cột quai nón gồm 6 đường trên một vành, Hình 8. Cách chằm các nút tiếp theo mỗi bên 12 đường trên 2 vành rồi dùng dây len Khoảng cách giữa hai nút chằm là 1-1,2cm thắt điểm trung tâm tạo thành hình nơ. Khi cho đến khi hết vòng rồi tiếp tục vành thứ hai. người sử dụng mua nón về sẽ mua thêm một Sau khi chằm hết vòng lớn cuối cùng, người tấm vải làm quai nón, thắt vào hai chỗ cột quai thợ đã hoàn thành phần việc của mình. Các đại nón. lý sẽ tới mua nón rồi chằm vòng cuối cùng và trang trí nón.
- Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 83 Hình 10. Hình thức trang trí chóp nón và chỗ cột quai nón Thợ làm nón ở La Hà không trực tiếp bán [2] Nguyễn Thị Hòa (2016), “Bảo tồn và phát triển văn nón cho người tiêu dùng mà bán thành phẩm hóa - xã hội làng nghề ở Nam Bộ trong quá trình xây dựng nông thôn mới”, Nghiên cứu Địa lý Nhân cho đại lý, đại lý thu gom rồi bán cho các công văn, Số 4, tr. 10-17. ty lớn. [3] Mai Văn Nam & Đinh Công Thành (2011), “Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng 6. Kết luận nghề ở tỉnh Bạc Liêu”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 18a, tr. 298-306. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại [4] Nguyễn Tri Nam Khang & các cộng sự (2013), “Giải hóa của đất nước ta hiện nay thì việc tìm hiểu pháp phát triển làng nghề truyền thống kết hợp với để bảo tồn kỹ thuật làm nón lá trước khi kỹ du lịch tỉnh Hậu Giang”, Tạp chí Khoa học Trường thuật này bị mất đi là một việc cấp thiết và có ý Đại học Cần Thơ, Số 28, tr. 17-25. nghĩa. Nghiên cứu đã tìm hiểu và mô tả kỹ [5] Đào Anh Tuấn (2012), “Phát triển làng nghề sản xuất mây tre đan và làng nghề sản xuất nón lá trên thuật làm nón từ khâu sơ chế nguyên liệu cho địa bàn tỉnh Quảng Bình” (Luận văn đại học Đại đến khâu hoàn thành sản phẩm. Bằng sự khéo học), Đại học Kinh tế Huế - Đại học Huế. léo của mình, người La Hà đã tạo nên những [6] Trung tâm Dữ liệu Thực vật Việt Nam: chiếc nón lá mỏng manh, thanh thoát, bền, nhẹ [7] Violeta Mitic & các cộng sự (2013), “Effect of Food với màu sắc sáng đẹp. Preparation Technique on Antioxidant Activity and Do thu nhập từ nghề làm nón không đảm Plant Pigment Content in Some Vegetables Species”, Journal of Food and Nutrition Research, bảo đời sống nên giới trẻ không tiếp nối làm Vol. 1, tr.121-127. nghề khiến nghề làm nón tại đây đang có nguy [8] Azuan Abudul Latif & các cộng sự (2018), cơ bị mất đi. Người làm nón tại La Hà hiện nay “Ammonia-based pretreatment for Lingo-cellulosic Biomass Conversion-An Overview”, Journal of hầu hết là những người phụ nữ lớn tuổi không Engineering Science and Technology, Vol. 13, Số 6, có nghề nghiệp ổn định, ngoài thời gian làm tr. 1595-1620. nông họ tranh thủ làm nón để có thêm thu nhập. [9] Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình: Để bảo tồn làng nghề La Hà nói riêng và những làng nghề truyền thống nói chung cần có sự [10] Trang thông tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình quan tâm và hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Tài liệu tham khảo [11] Trang thông tin điện tử UBND xã Quảng Văn [1] Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Hoàng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83 1