Một số đặc điểm môi trường sống và phân bố của ngao móng tay chúa liên hệ đến hướng phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm

pdf 13 trang Gia Huy 20/05/2022 4010
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm môi trường sống và phân bố của ngao móng tay chúa liên hệ đến hướng phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_moi_truong_song_va_phan_bo_cua_ngao_mong_tay.pdf

Nội dung text: Một số đặc điểm môi trường sống và phân bố của ngao móng tay chúa liên hệ đến hướng phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm

  1. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM MƠI TRƯỜNG SỐNG VÀ PHÂN BỐ CỦA NGAO MĨNG TAY CHÚA LIÊN HỆ ĐẾN HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUƠI THƯƠNG PHẨM Trần Ngọc Hiểu1, Đinh Kim Diệu1, Ngơ Minh Lý1, Nguyễn Thanh Hà1, Nguyễn Quốc Thể1, Vũ Anh Tuấn1* TĨM TẮT Ngao mĩng tay chúa (NMTC) là đối tượng thủy sản cĩ giá trị kinh tế cao và cũng được xem là lồi nuơi tương đối mới và tiềm năng. Nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá thực trạng khai thác, một số đặc điểm mơi trường sống và phân bố NMTC tại Cà Mau và Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) và đề xuất giải pháp kỹ thuật cần quan tâm khi phát triển sản xuất giống và nuơi thương phẩm đối tượng này. Áp dụng phương pháp điều tra nơng hộ khai thác để thu thập thơng tin và số liệu nghiên cứu. Từ tháng 3 đến tháng 5/2019 đã tiến hành điều tra phỏng vấn hộ khai thác NMTC bằng phiếu điều tra soạn sẵn. Tổng số đã lựa chọn được 38 hộ khai thác NMTC để phỏng vấn, trong đĩ 26 hộ tại Cà Mau và 12 hộ tại Tp. HCM. Sử dụng phương pháp thống kê mơ tả để phân tích số liệu, trình bày và diễn giải số liệu khảo sát. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy NMTC được khai thác quanh năm nhưng tập trung cao vào thời gian tháng 4-6 tại vùng nghiên cứu, và được khai thác ở vùng phân bố gần bờ nhất là 2,54 km và xa bờ nhất là 18,04 km, vùng cĩ độ sâu mức nước cạn nhất là 1,15 m và sâu nhất là 10 m. NMTC được khai thác và bắt gặp sống trong hang đất với độ sâu hang từ 31,67 - 94,23 cm. NMTC phân bố theo bề mặt đáy bằng phẳng là chính. NMTC khai thác kích thước nhỏ sống ở nền đáy cĩ cơ cấu tỷ lệ bùn nhiều hơn hoặc bằng tỷ lệ cát; trong khi, NMTC khai thác kích thước lớn và trung bình thì tỷ lệ giữa cát và bùn phụ thuộc vào điều kiện khu vực khai thác. NMTC được khai thác ở Cà Mau cĩ kích cỡ khai thác trung bình là 22 con/kg, khối lượng ghe bắt trung bình mỗi ngày là 3,65 ± 2,07 kg/ghe/ngày; trong khi, ở Tp. HCM cỡ NMTC khai thác trung bình 13 con/kg, khối lượng mỗi ghe khai thác theo ngày là 2,50 ± 1,22 kg/ghe/ngày. Qua nghiên cứu đã cho thấy, thời điểm khai thác NMTC tập trung cao chính là thời điểm thích hợp cần tiến hành thu thập nguồn NMTC bố mẹ để thuần dưỡng và nuơi vỗ để phục vụ cho việc sản xuất giống. Bên cạnh đĩ, khi phát triển đưa NMTC vào nuơi thương phẩm thì việc thiết kế điều kiện sống cho NMTC là rất quan trọng, trong đĩ việc thiết kế hang đất, nền đáy ao nuơi NMTC cần được chú trọng thực hiện để đảm bảo điều kiện tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển. Từ khĩa: Ngao mĩng tay chúa, phân bố, khai thác, Cà Mau, HCM I. ĐẶT VẤN ĐỀ trùng được quan tâm nhiều nhất (Nguyễn Xuân Động vật thân mềm đang được xem là một Thu, 2005; Nguyễn Quang Hùng và Hồng Đình trong những đối tượng nuơi ưu thế trong chiến Chiều, 2009). Động vật thân mềm như nhuyễn lược phát triển nuơi biển của nước ta, do đĩ thể được nuơi phổ biến ở Việt Nam trong những cĩ nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về động năm gần đây là nghêu Bến Tre, nghêu dầu, vẹm vật thân mềm, trong đĩ nghiên cứu về sản xuất xanh, sị huyết, hàu Thái Bình Dương, , trong giống nhân tạo và phương pháp ương nuơi ấu đĩ, Ngao mĩng tay chúa (NMTC) được coi là 1 Viện Nghiên cứu Nuơi trồng Thủy sản II * Email: vuanhtuan2002@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 3
  2. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II lồi nuơi tương đối mới (Nguyễn Đức Minh, trong tự nhiên đang cĩ xu hướng giảm nhanh 2015). Ngao mĩng tay chúa (Cultellus maximus chĩng và sản lượng khai thác NMTC cũng đã Gmelin, 1791) là đối tượng cĩ giá trị kinh tế giảm theo thời gian (Nguyễn Đức Minh, 2021). cao, hiện được chào bán giá 450.000 đồng/kg Theo khảo sát ngư dân ở Cà Mau thì cách đây với cỡ 8-12 con/kg và chủ yếu được tiêu thụ 7 - 8 năm, mỗi ngày người dân bắt được 6 - 8 trong hệ thống nhà hàng ăn uống. Tuy nhiên, kg, nhưng hiện nay chỉ khai thác được 2 - 3 kg/ nguồn NMTC tiêu thụ hiện nay chủ yếu đến ngày (Nguyễn Quốc Thể, 2016). NMTC là đối từ việc đánh bắt tự nhiên và vẫn chưa đáp ứng tượng thủy sản cĩ giá trị kinh tế cao và cũng được nhu cầu tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy, được coi là lồi nuơi tương đối mới, do vậy việc việc phát triển nghề nuơi NMTC khơng chỉ giải phát triển sản xuất giống và nuơi thương phẩm quyết được vấn đề này mà cịn gĩp phần cân là hết sức cần thiết. Nghiên cứu sản xuất giống bằng hệ sinh thái và ổn định mơi trường ven NMTC đã bước đầu thành cơng bởi Nguyễn biển. Nuơi thương phẩm NMTC hiện chưa cĩ Quốc Thể (2016) và Nguyễn Đức Minh (2015; ở Việt Nam, tuy nhiên, một số đối tượng cĩ 2021); trong khi, Nguyễn Đức Minh (2021) đã đặc tính tương tự đã được đưa vào nuơi và đã lần đầu tiên đưa NMTC vào thử nghiệm nuơi thành cơng như nghề nuơi tu hài, nuơi mĩng tay thương phẩm trên bãi triều tại Cần Giờ và ghi dài cũng phát triển trong những năm gần đây ở nhận với mật độ thả 10 con/m2 thì sau 10 tháng vùng ven biển nước ta (Trần Thế Mưu và Vũ đạt tỷ lệ sống 22% và cỡ NMTC thu hoạch đạt Văn Sáng, 2013; Trần Trung Thành, 2016). Trên 20 con/kg. Tuy nhiên, các nghiên cứu kể trên thế giới, nuơi mĩng tay (Ensis arcuatus) ở Tây cịn cĩ những hạn chế trong việc xác định mùa Ban Nha cho thấy mĩng tay phát triển tốt vào vụ để thu thập đàn NMTC bố mẹ trong tự nhiên, mùa xuân và mùa hè, nhưng khơng phát triển thiết kế điều kiện sống của NMTC bố mẹ trong vào mùa thu và bị chết khi mưa nhiều (Costa điều kiện nhân tạo nuơi nhốt và điều kiện sống và ctv., 2011). Trong khi đĩ thì nuơi trùng trục của NMTC trong giai đoạn ương giống và nuơi (Sinonovacula constricta) và các lồi mĩng tay thương phẩm. Để cĩ thơng tin đầy đủ về tình dày (Solen grandis) ở Trung Quốc cĩ kết qủa hình khác thác NMTC, nghiên cứu này áp dụng khá tốt (Nguyễn Đức Minh, 2015). phương pháp điều tra phỏng vấn hộ khai thác Theo Nguyễn Quang Hùng và Hồng Đức NMTC được tiến hành để đánh giá tình hình Triều (2009) thì NMTC phân bố tự nhiên dọc khai thác, một số đặc điểm phân bố và tập tính theo các vùng bãi triều nơng, chủ yếu ở vùng sống NMTC tại Cà Mau và Tp. HCM và qua đĩ trung triều và hạ triều, nơi cĩ địa hình bằng bước đầu đề xuất giải pháp kỹ thuật cần quan phẳng, độ sâu mực nước từ 2 - 6 m, cĩ nền đáy là tâm khi phát triển sản xuất giống và nuơi thương bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất hữu cơ, độ mặn phẩm đối tượng này ở nước ta. từ 18 - 30‰, nơi ít bị ảnh hưởng bởi sĩng giĩ, II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP rừng ngập mặn nơi cĩ nguồn nước ngọt chảy NGHIÊN CỨU vào từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Cà Mau. Kết quả 2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm điều tra qua khảo sát vùng ven biển Cà Mau nghiên cứu của Nguyễn Quốc Thể (2016) cho thấy NMTC Đối tượng nghiên cứu là các hộ khai thác xuất hiện tại các điểm Gị Cơng, Rạch Tàu và ngao mĩng tay chúa (NMTC) thuộc hai địa điểm Ơng Trang nơi cĩ chất đáy là bùn mịn và bùn Cà Mau và Tp. HCM đây là hai địa phương cĩ cát. Mực nước nơi NMTC phân bố cĩ độ sâu từ số lượng khai thác NMTC tập trung nhiều ở khu 4 - 10 m cách bờ từ 2 - 10 km. Số lượng NMTC vực phía Nam. Từ tháng 3 đến tháng 5/2019 đã 4 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021
  3. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II tiến hành điều tra phỏng vấn hộ khai thác bằng 2.3. Phương pháp phân tích và xử lý phiếu điều tra soạn sẵn. số liệu 2.2. Phương pháp thu thập số liệu Số liệu thu thập được kiểm tra và nhập liệu, Thu thập thơng tin thứ cấp: Thơng tin thứ phân tích số liệu bằng phương pháp thống kê cấp được thu thập từ các báo cáo kết quả của các mơ tả và được trình bày dưới dạng giá trị trung đề tài nghiên cứu liên quan trước đây thực hiện bình ± độ lệch chuẩn (TB ± STD), giá trị nhỏ tại khu vực nghiên cứu bởi Nguyễn Quốc Thể nhất và lớn nhất (Min - Max), tần suất xuất hiện (2016) và Nguyễn Đức Minh (2015; 2021); và bằng phần mềm SPSS 22.0. Các chỉ tiêu đánh các báo cáo của Chi cục thủy sản tỉnh Cà Mau giá sản lượng khai thác NMTC được tính tốn và Tp. HCM. Bên cạnh đĩ, để cĩ thơng tin cụ bằng cơng thức (1) và (2): thể hơn đối với đối tượng NMTC thì thực hiện Cơng thức 1: Ước tính khối lượng khai phỏng vấn thêm 7 cán bộ quản lý của Chi cục thác, YW =M*D*X Thủy sản của hai địa phương (Cà Mau: 5 cán bộ Trong đĩ: YW: Khối lượng khai thác NMTC và Tp. HCM: 2 cán bộ). (kg/năm); M: Khối lượng mỗi ghe khai thác 1 Thu thập thơng tin sơ cấp: Phối hợp và ngày (kg/ngày/ghe); D: Số ngày khai thác trong thống nhất với cán bộ quản lý Chi cục thủy sản 1 năm (ngày/năm/ghe); X: Số ghe khai thác (ghe) tỉnh Cà Mau và Tp. HCM để lựa chọn vùng Cơng thức 2: Ước lượng số lượng khai thác, nghiên cứu là nơi tập trung số lượng nhiều hộ YN=YW/S tham gia khai thác NMTC. Tại mỗi địa điểm Trong đĩ: YN: Số lượng khai thác (con/ khảo sát tiến hành làm việc với đại diện của năm); S: Kích cỡ khai thác (con/kg) UBND xã để lập danh sách các hộ khai thác III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN NMTC, tiếp đến là phân nhĩm hộ khai thác rải 3.1. Thực trạng khai thác ngao mĩng tay đều trên địa bàn xã, và sau cùng là lựa chọn chúa ngẫu nhiên các hộ để điều tra phịng vấn. Tổng 3.1.1. Số ghe, số người và ngư cụ tham gia số đã lựa chọn được 38 hộ khai thác NMTC để khai thác phỏng vấn, trong đĩ 26 hộ tại Cà Mau (15 hộ Số ghe và số người tham gia khai thác tại xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân; và NMTC: Kết quả thu thập số liệu từ cơ quan quản 11 hộ tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển) và lý địa phương đã ghi nhận tại huyện Phú Tân 12 hộ tại Tp. HCM (6 hộ tại xã Thạnh An và 6 và huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) cĩ khoảng 456 hộ tại xã Long Hịa, huyện Cần Giờ). Sử dụng người làm nghề khai thác NMTC với số lượng phương pháp điều tra phỏng vấn hộ khai thác ghe tham gia khai thác là 143 chiếc, và Tp. HCM NMTC bằng phiếu điều tra đã soạn sẵn (đã cĩ cĩ khoảng 79 ngư dân khai thác NMTC tại huyện bước điều tra thử và hồn thiện phiếu) để thu Cần Giờ. Những ngư dân khai thác ở xã Long thập thơng tin phỏng vấn. Các nội dung khảo Hịa đã dùng kỹ thuật lặn (như ở Cà Mau) để bắt sát bao gồm: các thơng tin chung về nơng hộ, NMTC, trong khi ở xã Thạnh An bắt trên bãi cạn. đặc điểm nghề khai thác NMTC, ngư cụ khai Tuy nhiên, kết quả kiểm tra thực tế cùng với ngư thác, mùa vụ khai thác, khu vực khai thác, kích dân ở xã Thạnh An ngày 6 tháng 6 năm 2019 cỡ và sản lượng khai thác và tiêu thụ NMTC. cho thấy khơng bắt được NMTC trên bãi triều. Các thơng tin được thu thập về hoạt động khai Điều này cho thấy, những người phỏng vấn đã thác cho năm gần nhất (năm 2018), các thơng dựa vào kết quả những năm trước đây (cĩ thể 3 tin được rà sốt và kiểm tra đầy đủ thơng tin hay 5 năm về trước), cịn hiện tại thì khơng cĩ trong cùng ngày phỏng vấn. hoặc cĩ rất ít NMTC (Bảng 1). TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 5
  4. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 1. Thơng tin về số ngư dân, số ghe tham gia khai thác ngao mĩng tay chúa. Địa điểm Số lượng ghe khai thác Số lượng người khai thác (chiếc) (người) 143 138,46 ± 91,10 Cà Mau (35 – 250) (105 – 750) 5 8,33 ± 0,82 Tp. HCM (Long Hịa – Cần Giờ) (4 – 5) (8 – 10) 70 71 Tp. HCM (Thạnh An – Cần Giờ) (50 – 100) (50 – 100) Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, số trong dấu ngoặc là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất; Nguồn từ: số liệu thứ cấp và phỏng vấn cán bộ quản lý từ Chi cục Thủy sản Cà Mau và Tp. HCM. Ngư cụ tham gia khai thác NMTC: Ngư tháng 6 và khai thác ít vào tháng 6 đến tháng 12 dân ở Cà Mau và Tp. HCM đều sử dụng ngư (Hình 1). Cĩ nhiều ngư dân khai thác NMTC cụ giống như nhau gồm: vỏ/ghe composite, kết được nhiều vào tháng 1 đến tháng 6, nhiều nhất hợp bình chứa ơxy và dây dẫn ơxy, kính lặn, cào là tháng 4 với 24 ngư dân khai thác được nhiều sắt, túi lưới. Người khai thác phải lặn và đi dưới và rất ít ngư dân khai thác được nhiều từ tháng đáy biển để kéo cào, phát hiện hang NMTC và 7 đến tháng 12. Ở Tp. HCM, thời điểm khai thác dùng tay để bắt. nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 6 và từ tháng 3.1.2. Đặc điểm mùa vụ và địa điểm khai 10 đến tháng 11 hàng năm. Thời điểm thấp nhất thác ngao mĩng tay chúa từ 1 đến tháng 3 và từ tháng 7 đến tháng 9. Một Mùa vụ khai thác NMTC: Kết quả điều tra điểm ghi nhận chung của hai vùng nghiên cứu ngư dân khai thác NMTC ở Cà Mau cho thấy đĩ là thời điểm khai thác được nhiều sẽ tập trung NMTC cĩ thể khai thác quanh năm. Tuy nhiên, từ tháng 4 đến tháng 6. thời gian cĩ nhiều NMTC nhất từ tháng 1 đến Hình 1. Diễn biến số ngư dân khai thác NMTC theo tháng hoạt động ở Cà Mau. (Tháng khai thác được ít/nhiều: theo tự đánh giá của hộ điều tra, so sánh theo sản lượng khai thác NMTC của họ qua các tháng trong năm). 6 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021
  5. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II Địa điểm, khu vực khai thác NMTC: Kết này về cơ bản tương tự với kết quả nghiên cứu quả điều tra cho thấy ở tỉnh Cà Mau NMTC của Nguyễn Quốc Thể (2016) về khu vực khai được khai thác nhiều ở Hịn Khoai, Rạch Tàu, thác NMTC tại Cà Mau trước đây. Ở Tp. HCM, Gị Cơng và Đất Mũi; trong khi, các địa điểm ngư dân khai thác cho biết cĩ sự phân bố của cịn lại như Rạch Gốc, Hố Rùi, Hàng Ngang, NMTC ở biển Cần Giờ, bãi bồi quanh xã Thạnh Hàng Đáy, Tam Giang, Ơng Trang, Sào Lưới An, bãi Hàng Cồn, biển Cần Giờ, bãi Gị Chĩ, thì khai thác ít hơn (Hình 2). Kết quả điều tra bãi Tàu Chìm, bãi Ơng Biện. Hình 2. Số ngư dân khai thác phân theo địa điểm khai thác NMTC ở Cà Mau. 3.1.3. Phân bố NMTC theo chiều rộng, ± 4,55 m. Kết quả này gần tương tự như kết quả chiều dọc và độ sâu hang khảo sát của Chi cục Thủy sản Cà Mau (2016), Phân bố NMTC theo chiều rộng: Ở Cà NMTC phân bố cách bờ 2 – 10 hải lý và độ sâu Mau, NMTC được đánh bắt và phân bố khu vực mực nước 4 – 18 m. Ở Tp. HCM, độ sâu mực gần bờ nhất là 0 – 7 km, khu vực cách xa bờ nước cạn nhất 1 – 6 m, sâu nhất là 9 – 14 m; và nhất là 7 – 30 km tính từ bờ (đất liền); NMTC khu vực cĩ độ sâu mực nước cạn nhất 4,33 ± phân bố khu vực gần bờ nhất đạt là 2,54 ± 3,42 2,25 m và sâu nhất là 10,00 ± 2,00 m. km và khu vực xa nhất là 18,04 ± 5,48 km. Ở Phân bố NMTC theo độ sâu hang: Ở Cà Tp. HCM, NMTC cĩ thể được khai thác khu Mau, kết quả khảo sát cho thấy 100% số hộ vực phân bố gần nhất là cách bờ 4 – 6 km, vị khảo sát cho biết NMTC đánh bắt được sống trí xa nhất là cách bờ 7 – 12 km; NMTC phân trong hang đất. Độ sâu hang cạn nhất là 15 – 80 bố khu vực gần bờ nhất đạt trung bình là 5,00 ± cm và hang sâu nhất từ 80 – 150 cm. Vị trí cĩ 0,63 km và khu vực xa nhất là 9,83 ± 1,60 km. thể bắt được NMTC kích thước nhỏ (kích cỡ Phân bố NMTC theo chiều dọc: Ở Cà Mau, con giống, khơng bán để ăn) là ở hang với độ NMTC đã được khai thác ở độ sâu mực nước sâu 5 – 80 cm, và NMTC kích thước lớn (kích cạn nhất là 0 – 5 m, sâu nhất là 5 – 20 m; và cỡ thương phẩm, bán để ăn) là ở hang cĩ độ sâu khu vực cĩ độ sâu mực nước cạn nhất đạt giá trị 40 – 100 cm. Tương tự ở Cà Mau, NMTC ở Tp. trung bình là 1,15 ± 1,19 m và sâu nhất là 10,23 HCM cũng hầu hết sống ở trong hang (100% số TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 7
  6. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II hộ khảo sát); hang sâu nhất là 70 – 100 cm và 53,8% số hộ khảo sát); trong khi, ở Tp. HCM thì cạn nhất 20 – 80 cm. Vị trí bắt được NMTC kích NMTC sống ở nền đáy “mặt đáy bằng phẳng” thước nhỏ trong hang ở độ sâu 10 – 30 cm và cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (66,7%) (Bảng 2). kích thước lớn là 20 – 70 cm. Kết quả nghiên cứu cho thấy loại “mặt đáy bằng 3.1.4. Phân bố NMTC theo bề mặt và phẳng” chiếm ưu thế cho sự phân bố của NMTC, thành phần nền đáy tiếp đến là “mặt đáy bằng phẳng kết hợp với Phân bố NMTC theo bề mặt nền đáy: Ở Cà dốc” cũng được nhiều ngư dân khai thác cho là Mau, NMTC được đánh bắt thường sống ở “mặt cĩ sự phân bố của NMTC. đáy bằng phẳng” chiếm tỷ lệ lớn nhất (chiếm Bảng 2. Loại mặt đáy khai thác được NMTC ở Cà Mau và Tp. HCM. Loại mặt đáy Bằng phẳng Dốc Bằng phẳng + dốc Bằng phẳng + mấp mơ Cà Mau 53,8% 3,8% 34,6% 7,7% Tp. HCM 66,7% 0% 16,7% 16,7% Phân bố theo thành phần nền đáy: Thành kích cỡ trung bình (nhĩm kích thước 10 - 50-100 g/con) thì phân bố chủ kích cỡ NMTC khai thác khác nhau ở Cà Mau yếu ở nền đáy cĩ cát nhiều hơn. Tương tự như được trình bày trong Hình 3. Theo kinh nghiệm vậy, NMTC đánh bắt với kích cỡ lớn (nhĩm của người khai thác thì NMTC đánh bắt với kích thước 100 g/con) và cỡ kích cỡ nhỏ (nhĩm kích thước 20 - 30 con/kg; trung bình xuất hiện nhiều ở mơi trường với nền hoặc 33-50 g/con) phân bố chủ yếu ở nền đáy đáy bùn và cát bằng nhau. “bùn nhiều hơn cát”. Cịn NMTC đánh bắt với Hình 3. Thơng tin về nền đáy nơi khai thác NMTC ở Cà Mau. Cĩ sự khác biệt về thành phần nền đáy nơi và cát bằng nhau” nhưng NMTC kích cỡ lớn và khai thác được NMTC ở Tp. HCM so với ở Cà trung bình bắt được ở nơi nền đáy cĩ tỷ lệ bùn Mau, ngư dân ở Tp. HCM cho biết NMTC cĩ nhiều hơn cát (Hình 4). kích cỡ nhỏ thì bắt được ở nơi cĩ nền đáy “bùn 8 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021
  7. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 4. Thơng tin về nền đáy nơi khai thác NMTC ở Tp. HCM. 3.1.5. Kích cỡ, số lượng, khối lượng và thác trung bình 16.940 con NMTC/năm và tổng tiêu thụ NMTC số con tất cả các ghe khai thác được 2.422.420 Kích cỡ và số lượng khai thác NMTC: Kích con/năm. Tương tự như vậy, Tp. HCM cĩ kích cỡ NMTC lớn nhất đánh bắt được ở Cà Mau là cỡ NMTC lớn nhất khai thác được là 3 – 9 con/ 4 con/kg, nhỏ nhất 40 con/kg, trung bình là 22 kg, nhỏ nhất 18 – 22 con/kg, trung bình là 13 con/kg (Bảng 3). Kết quả tương tự đã được ghi con/kg, ước lượng mỗi ghe khai thác trung bình nhận trong nghiên cứu của Nguyễn Quốc Thể 3.003 con/năm và tổng số con tất cả các ghe (2016), kích cỡ khai thác loại lớn nhất từ 7 con/ khai thác được 15.015 con/năm. kg, loại nhỏ cĩ kích cỡ 40 con/kg. Mỗi ghe khai Bảng 3. Kích cỡ và số lượng NMTC đã khai thác năm 2018. Địa điểm Kích cỡ khai Số lượng mỗi ghe khai thác Tổng số lượng khai thác theo thác (con/kg) theo năm (con/ghe/năm) năm (con/năm) 22 16.940 2.422.420 Cà Mau (4 – 40) (3.388 – 30.492) (484.484 – 4.360.356) 13 3.003 15.015 Tp. HCM (3 – 22) (1.716 – 4.290) (8.580 – 21.450) Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị trung bình, số trong dấu ngoặc là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất. Sản lượng khai thác NMTC: Ở Cà Mau, năm). Ở Tp. HCM, mỗi ghe khai thác được 2,50 mỗi ghe khai thác được trung bình 3,65 ± 2,07 ± 1,22 kg/ghe/ngày (2 – 5 kg/ghe/ngày). Ước kg/ghe/ngày (1 – 9 kg/ghe/ngày) (Bảng 4). Ước tính khối lượng trung bình mỗi ghe khai thác tính khối lượng trung bình 1 năm mỗi ghe khai 231 kg/ghe/năm (132-330 kg/ghe/năm) và tổng thác 770 kg/ghe/năm (154-1.386 kg/ghe/năm) số khối lượng tất cả các ghe khai thác ở Long và tổng số khối lượng tất cả các ghe khai thác Hịa 1.155 kg/năm. ở Cà Mau 110.110 kg/năm (22.022-198.198 kg/ TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 9
  8. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 4. Ước lượng khối lượng NMTC đã được bắt năm 2018. Địa điểm Khối lượng mỗi ghe khai Khối lượng mỗi ghe bắt Tổng khối lượng khai thác thác theo ngày (kg/ghe/ngày) theo năm (kg/ghe) theo năm (kg/năm) 3,65 ± 2,07 770 110.110 Cà Mau (1 – 9) (154 – 1.386) (22.022 – 198.198) 2,50 ± 1,22 231 1.155 Tp. HCM (2 – 5) (132 – 330) (660 – 1.650) Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, số trong dấu ngoặc là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất. Nơi tiêu thụ và giá bán NMTC: Ở Cà Mau, về đối tượng này của Nguyễn Đức Minh (2015; cơ sở/đại lý thu mua NMTC và tiêu thụ chủ yếu 2021), Nguyễn Quốc Thể (2016) Theo Nguyễn ở Tp. HCM, Vũng Tàu, Tp. Cà Mau, Đà Nẵng, Quang Hùng và Hồng Đức Triều (2009), qua Phú Quốc, với giá bán NMTC loại nhất (8 – 12 kết quả điều tra về khu hệ động vật đáy ven biển con/kg): 480.000 – 500.000 đồng/kg, loại nhì nước ta đã ghi nhận NMTC phân bố tự nhiên (12 – 20 con/kg): 300.000 đồng/kg. Trong khi, dọc theo các vùng bãi triều nơng cĩ độ sâu 2-6 ngư dân khai thác thì bán cho cơ sở/đại lý thu m, cĩ nền đáy là bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất mua với giá loại lớn (8 – 12 con/kg) là 400.000 hữu cơ, độ mặn từ 18-30‰, nơi ít bị ảnh hưởng - 450.000 đồng/kg và loại nhỏ (12 – 20 con/kg) bởi sĩng giĩ, rừng ngập mặn nơi cĩ nguồn nước là 190.000 - 300.000 đồng/kg. Ở Tp. HCM, sản ngọt chảy vào từ Bà Rịa-Vũng Tàu, Cần Giờ lượng NMTC khai thác được đều bán thơng qua đến Cà Mau. NMTC sống trong tầng đáy bùn cơ sở/đại lý thu mua với mức giá loại lớn (8 – cát ở nơi cĩ thủy triều lên xuống và cũng được 12 con/kg): 400.000 đồng/kg, loại nhỏ (12 – 20 tìm thấy trong vùng nước nơng. NMTC thường kg): 200.000 đồng/kg. phân bố phổ biến ở những vùng cĩ khí hậu nhiệt 3.2. Thảo luận đới như Ấn Độ-Tây Thái Bình Dương, Trung 3.2.1. Liên hệ mùa vụ khai thác, tập tính Quốc, Indonesia và Việt Nam (Hylleberg và sống và phân bố NMTC đến giải pháp kỹ thuật Kilburn, 2003). cần quan tâm khi phát triển sản xuất giống Mùa vụ khai thác được nhiều NMTC tập Mùa vụ khai thác và kích cỡ NMTC: Kết trung vào tháng 4-6 hiện nay khơng rơi vào mùa quả điều tra đã ghi nhận ở Cà Mau NMTC phân vụ sinh sản chính của NMTC ngồi tự nhiên, bố ở vùng gần bờ nhất là 2,54 km và vùng xa đây cĩ thể xem là thời điểm cần tiến hành thu nhất là 18,04 km; phân bố tại vùng cĩ độ sâu thập nguồn NMTC bố mẹ để thuần dưỡng và mức nước cạn nhất là 1,15 m và sâu nhất là sâu nuơi vỗ thành thục để phục vụ cho việc sản xuất nhất là 10,23 m. Mùa vụ khai thác NMTC nhiều giống. Theo Nguyễn Chính (1996) thì mùa sinh nhất từ tháng 1 đến tháng 6 và ít vào tháng 6 sản của NMTC ngồi tự nhiên kéo dài từ cuối đến tháng 12. Trong khi đĩ, ở Tp. HCM khai tháng 9 đến tháng 1 năm sau với thời kỳ đỉnh thác nhiều nhất từ tháng 4-6, 10-11 và ít nhất điểm diễn ra từ giữa tháng 10 và giữa tháng 11. từ tháng 1-3 và 7-9; phân bố vùng gần bờ nhất Động vật thân mềm hai mảnh vỏ thường sinh là 5,00 km và vùng xa nhất là 9,83 km, phân sản và thụ tinh ngồi mơi trường nước nên quần bố tại vùng cĩ độ sâu mức nước cạn nhất 4,33 thể mới phụ thuộc rất lớn vào điều kiện mơi m và sâu nhất là 10,00 m. Kết quả nghiên cứu trường. Mùa vụ sinh sản NMTC cũng như động cũng tương tự với những nghiên cứu gần đây vật thân mềm nĩi chung phụ thuộc rất nhiều 10 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021
  9. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II vào lồi và điều kiện mơi trường sống (Nguyễn lớn hơn cát ở Tp. HCM cũng cho thấy đây là Chính, 1996). Bên cạnh việc xác định mùa vụ, những điều kiện cần được quan tâm khi thu thập việc lựa chọn để thu thập NMTC bố mẹ cũng NMTC bố mẹ và tiến hành nuơi thuần dưỡng và cần được chú ý trong thời điểm khai thác tập nuơi vỗ. Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy trung cao trong tháng 4-6, vì kết quả nghiên cứu chất nền đáy là một yếu tố ảnh hưởng đến sự cho thấy kích cỡ khai thác biến động lớn giữa thành cơng của quá trình nuơi vỗ nhất là đối với hai điểm nghiên cứu (kích cỡ khai thác trung những lồi cĩ tập tính đào hang như ngao mĩng bình đạt 22 con/kg ở Cà Mau và 13 con/kg ở Tp. tay với kích thước chân đào chiếm đến 1/3 thể HCM); trong khi theo nghiên cứu gần đây thì tích cơ thể. Chẳng hạn, Garcia và ctv. (2008) NMTC thành thục sinh dục và cĩ khả năng tham đã thực hiện nuơi vỗ ngao mĩng tay Ensis gia sinh sản ở kích cỡ trên 100 g, chẳng hạn macha được thực hiện trong bể composite hình Nguyễn Quốc Thể (2016) đã ghi nhận NMTC chữ nhật cĩ lớp cát dày 30-40 cm, được cung cĩ kích thước sinh sản lần đầu từ 12 cm trở lên cấp thức ăn liên tục với hỗn hợp tảo Isocrhysis (trọng lượng cơ thể từ 120g trở lên, chiều cao galbana và Chaetoceros muelleri (300,000 tb/ 4-4,5 cm chiều dầy 1,7-2,2cm). Kết quả nghiên mL). Hệ thống nuơi này cũng tương tự trong cứu của Nguyễn Đức Minh (2021) cũng cho nuơi vỗ ngao mĩng tay Ensis siliqua (Costa và biết NMTC thành thục sinh dục và cĩ khả năng ctv., 2011). Trong hệ thống này, mật độ nuơi vỗ cho tham gia sinh sản với chiều dài từ 13-15 được giữ từ 140-160 cá thể/m2, ở mật độ cao cm, chiều rộng khoảng 4-4,5 cm với độ dày của hơn cĩ thể sẽ cản trở việc đào hang của vật nuơi. thân 1,7-2,2 cm và khối lượng khoảng 100-150 Ngao mĩng tay vùi mình trong chất nền trong tự g/con. Theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Minh nhiên, chúng ăn hiệu quả hơn nếu chúng được (2015), trong điều kiện được kích thích sinh giữ trong một chất nền phù hợp. Vùi mình trong sản, sức sinh sản thực tế của các nhĩm NMTC chất nền thì việc tách vỏ được hạn chế nên tăng dao động từ 1,6-1,8 triệu trứng/con/lần sinh tỷ lệ sống. Tỷ lệ sống của ngao mĩng tay bố mẹ sản. Sức sinh sản sẽ bị tác động bởi chất lượng nuơi trong hệ thống này thường trên 90%, cho thành thục của con bố mẹ và hiệu ứng do kích thấy đây là một hệ thống nuơi phù hợp với lồi thích sinh sản cũng như khối lượng bố mẹ. Tuy này (Garcia và ctv., 2008). nhiên, cần lưu ý rằng một số lồi cĩ tuyến sinh 3.2.2. Liên hệ tập tính sống, phân bố dục thành thục quanh năm và do đĩ cĩ thể tham NMTC đến giải pháp kỹ thuật cho phát triển gia sinh sản quanh năm, nhưng cĩ những lồi cĩ nuơi thương phẩm tuyến sinh dục thành thục trong những mùa nhất Tập tính sống trong hang đất: Người dân định. Quá trình sinh sản của động vật thân mềm khai thác NMTC cho biết NMTC hầu hết sống hai mảnh vỏ trong tự nhiên phụ thuộc vào lồi trong hang đất (100% số hộ khảo sát xác nhận, và vùng phân bố. Sinh sản cĩ thể bị kích thích với độ sâu hang cạn nhất từ 31,67 cm và hang bởi nhiều yếu tố mơi trường như: nhiệt độ, hố sâu nhất 94,23 cm). Kết quả này cho thấy khi chất, tác nhân kích thích tự nhiên, tình trạng của đưa đối tượng NMTC vào nuơi thương phẩm nguồn nước hoặc sự kết hợp một số yếu tố khác thì việc thiết kế điều kiện sống là rất quan trọng, (Nguyễn Chính, 1996). trong đĩ việc thiết kế hang để thả giống giai đoạn Tập tính sống và đặc điểm phân bố NMTC: đầu vụ nuơi cần được quan tâm thực hiện, đồng Bên cạnh tính mùa vụ thì tập tính sống trong thời cũng tránh rủi ro do địch hại gây ra đối với hang, sống trên nền đáy bằng phẳng và nền đáy NMTC trong vụ nuơi. Theo Nguyễn Đức Minh cĩ tỷ lệ cát cao hơn bùn ở Cà Mau và tỷ lệ bùn (2021) thì NMTC cĩ kích cỡ khá lớn và khơng TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 11
  10. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II thuận tiện cho quá trình di chuyển tìm nơi định ở Tp. HCM lại ghi nhận NMTC nhỏ sống ở nơi cư mới, và việc di chuyển sẽ khiến NMTC dễ cĩ đáy bùn và cát bằng nhau nhưng con lớn và gặp nguy hiểm trước những động vật ăn thịt trung bình bắt được ở nơi đáy cĩ bùn nhiều hơn hơn nên chúng chọn cách sống suốt cuộc đời cát. Như vậy, khi phát triển nuơi NMTC thì việc trong cái hang của mình, chỉ trừ khi cĩ thiên tai thiết kế nền đáy ao, đầm và bãi nuơi NMTC cần hay yếu tố nào khác của mơi trường ảnh hưởng được chú trọng thực hiện để đảm bảo điều kiện phá hủy mất hang, khiến chúng di chuyển thụ tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển. Kết động đến khu vực khác (Yan, 1991). Theo Yang quả các thí nghiệm nuơi thương phẩm NMTC (1991) thì NMTC cĩ tập tính sống trong hang trên bãi triều tại Cần Giờ gần đây (Nguyễn Đức và di chuyển theo chiều dọc trong lớp bề mặt Minh, 2021) cho thấy nuơi NMTC thương phẩm cát nằm phía trên nhờ vào sự co rút của cơ chân. với mật độ 10 con/m2 là cĩ tiềm năng, nhưng Khi di chuyển, chân đào bùn cát, sau phình to cũng cần lưu ý rằng các địa điểm khác nhau mĩc vào đất rồi kéo phần cịn lại của cơ thể. cĩ thể cĩ tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ sống khác Chỉ cần một vài lần co cơ là chúng vùi cơ thể nhau của NMTC ở giai đoạn nuơi thương phẩm. sâu xuống bùn cát. Khi thuỷ triều lên NMTC Nghiên cứu về chất nền đáy của quá trình ương di chuyển lên trên hang để tìm kiếm thức ăn, giống NMTC của Nguyễn Quốc Thể (2016) đã hai ống hút và thốt nước thị ra ngồi để lọc cho thấy nền đáy phù hợp cho ấu trùng NMTC thức ăn từ nước biển xung quanh. Khi thuỷ triều (giai đoạn sống đáy) phát triển là 100% là cát xuống thấp chúng lui sâu xuống hang để ẩn nấp mịn cho tỷ lệ sống cao nhất 30% từ giai đoạn lẩn tránh kẻ thù. Độ sâu và đường kính của hang ấu trùng spat lên giống. Trong khi, Nguyễn Đức phụ thuộc vào kích cỡ của NMTC, chất nền và Minh (2021) đã tiến hành thực hiện nhiều đợt mùa vụ (Nguyễn Đức Minh, 2015; Nguyễn sản xuất giống nhân tạo NMTC, từ giai đoạn ấu Quốc Thể, 2016; Nguyễn Đức Minh, 2021). trùng đến giai đoạn giống 3 cm. Kết quả các đợt Độ sâu của hang thường gấp 5-8 lần chiều dài thí nghiệm cho thấy tỷ lệ sống ở giai đoạn con của vỏ, từ 30-50 cm (Yang, 1991; Nguyễn Đức giống phụ thuộc vào chất liệu nền đáy, tỉ lệ sống Minh, 2021). con giống NMTC đạt tỷ lệ sống ở nghiệm thức Đặc điểm phân bố nơi sinh sống: Kết quả 2 (sử dụng nền đáy: 100% cát) cho kết quả cao điều tra cho thấy NMTC phân bố theo bề mặt nhất, tỷ lệ đạt 3,16%, so với nghiệm thức 1 (chất đáy bằng phẳng là chính, điều này cũng khá phù liệu nền đáy là 70% cát + 30% bùn), tỉ lệ sống hợp với đề xuất về chọn địa điểm nuơi thương con giống đạt thấp hơn, chỉ 0,53%. Tác giả cũng phẩm NMTC của Nguyễn Đức Minh (2021). đưa ra nhận định tỉ lệ sống rất thấp ở chất liệu Các bãi nuơi thích hợp thường nằm gần các cửa nền đáy là cát và bùn (nghiệm thúc 1) do mơi biển nhỏ lưu lượng nước vừa phải, nội đồng ít trường nước dễ bị ơ nhiễm. Do bùn chứa nhiều cĩ các hoạt động nơng nghiệp, cơng nghiệp. yếu tố mầm bệnh cũng như các tác nhân hĩa lý Hình thức nuơi được khuyến cáo là nuơi đặt bãi, nhưng rất khĩ xử lý để đảm bảo phần bùn khơng đây là kiểu nuơi phù hợp với các bãi biển chịu ảnh hưởng xấu đến nước ương giống. Ngồi ra, nhiều tác động của thời tiết, sĩng giĩ; tuy nhiên do đặc tính ăn lọc, khi ương giống trong chất bãi nuơi phải bằng phẳng. Kết quả nghiên cứu liệu nền đáy cĩ bùn, giống NMTC sẽ bị cản trở này đánh giá về phân bố NMTC theo nền đáy đã hấp thu dinh dưỡng (tảo), khi quan sát, kiểm tra ghi nhận ở Cà Mau NMC kích thước nhỏ sơng đường tiêu hĩa của giống, thấy xuất hiện nhiều ở đáy cĩ bùn nhiều hơn cát, NMTC kích thước hạt bùn lẫn với tảo. Điều này dẫn đến con giống lớn và trung bình ở đáy cát nhiều hơn; trong khi, bị thiếu dinh dưỡng và chết từ từ. Nền đáy là 12 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021
  11. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II điều kiện khá quan trọng đến sinh trưởng phát hơn cát. NMTC được khai thác ở Cà Mau cĩ triển của động vật hai mảnh vỏ nĩi chung và kích cỡ trung bình là 22 con/kg, khối lượng ghe NMTC nĩi riêng. Nghiên cứu trên đối tượng bắt trung bình mỗi ngày là 3,65 ± 2,07 kg/ghe/ nghêu, tác giả Lê Thị Thanh (2014) đã cho thấy ngày. Ở Tp. HCM cỡ trung bình là 13 con/kg, nền đáy cĩ ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ khối lượng mỗi ghe khai thác theo ngày là 2,50 sống của nghêu ở giai đoạn giống cấp 1 đến ± 1,22 kg/ghe/ngày. Kết quả nghiên cứu cho cấp 2. Sử dụng nền đáy cát - bùn (70% cát và thấy, từ tháng 4-6 là thời điểm thích hợp cần 30% bùn) để ương nghêu giống cấp 1 lên giống tiến hành thu thập nguồn NMTC bố mẹ để thuần cấp 2 cho hiệu quả tốt nhất. Tương tự Chu Chí dưỡng và nuơi vỗ để phục vụ cho việc sản xuất Thiết và Kumar M.S. (2008), nền đáy cát - bùn giống. Bên cạnh đĩ, khi đưa NMTC vào nuơi là mơi trường phù hợp cho ấu trùng nghêu biến thương phẩm thì việc thiết kế điều kiện sống thái thành con giống. Bên cạnh đĩ, Zhuang và cho NMTC là rất quan trọng, trong đĩ việc thiết ctv. (2004), ngao M. meretrix ương nuơi ở bể kế hang, nền đáy ao/đầm/bãi nuơi NMTC cần cĩ nền đáy cát, tốc độ lọc, tốc độ tiêu hĩa thức được chú trọng thực hiện để đảm bảo điều kiện ăn cao hơn 2-3 lần so với chúng nuơi ở nơi đáy tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển. trơ (đáy bể). The da-Costa và ctv. (2015) cho LỜI CẢM ƠN: Nghiên cứu này được rằng ngao mĩng tay E. arcuatus ương nuơi từ thực hiện thuộc nội dung đề tài “Nghiên cứu kích cỡ con giống 4 mm trên nền đáy khơng hồn thiện quy trình sinh sản nhân tạo và thử bùn cĩ tỷ lệ sống 50%, trong khi đĩ nếu ương nghiệm nuơi thương phẩm Ngao mĩng tay nuơi trên nền đáy cát cĩ tỷ lệ sống dao động từ chúa Cultellus maximus (Gmelin, 1791), mã số: 80 – 90%. Trong nghiên cứu của Costa và ctv. KHCN-TNB.ĐT/14-19/C33” trong khuân khổ (2011), ngao mĩng tay S. Marginatus ương nuơi Chương trình khoa học và cơng nghệ phục vụ trên nền đáy khơng bùn khơng cát cho tỷ lệ sống phát triển vùng Tây Nam Bộ, với nguồn kinh 81,9% so với 36,1% ở nền đáy cát mịn và 53,3% phí được cấp từ Bộ Khoa học và Cơng nghệ. ở nền đáy cát thơ. Kết quả tương tự đạt được với TÀI LIỆU THAM KHẢO lồi ngao mĩng tay E. siliqua, con giống nuơi Tài liệu tiếng Việt thương phẩm cĩ tỷ lệ sống cao hơn ở nền đáy Chi cục thủy sản Cà Mau, 2016. Báo cáo về việc khảo sát tình hình khai thác Ngao mĩng tay khơng bùn khơng cát (70%) so với khi nuơi trên chúa khu vực bãi bồi. Số 33/BC-KT&BVNL, nền đáy cát (33%) (da -Costa và ctv., 2015). 04.02.2016. IV. KẾT LUẬN Nguyễn Chính, 1996. Nghiên cứu xây dựng quy NMTC được khai thác quanh năm, trình sản xuất giống nhân tạo và nuơi thương phẩm Điệp (Chlamys nobilis Reeve, 1852), Hải nhưng tập trung cao vào thời gian tháng 4-6, và sâm (Actynopyga echinites Jaeger, 1883). Báo được khai thác ở vùng phân bố gần bờ nhất là cáo khoa học đề tài KN04 - 08, 135. 2,54 km và xa bờ là 18,04 km, vùng cĩ độ sâu Nguyễn Quang Hùng, Hồng Đình Chiều, 2009. mức nước cạn nhất là 1,15m và sâu nhất là 10 Nguồn lợi động vật thân mềm hai mảnh vỏ Bivalvia tại một số vùng rừng ngập mặn điển m. NMTC được khai thác trong hang đất với hình ven biển Việt Nam. Viện nghiên cứu Hải độ sâu hang từ 31,67 - 94,23 cm. NMTC phân sản, Hải Phịng, Bản tin số 14 – tháng 10/2009. bố theo bề mặt đáy bằng phẳng là chính, tuy Nguyễn Đức Minh, 2015. Nghiên cứu đặc điểm sinh nhiên NMTC kích thước nhỏ sống ở nền đáy học sinh sản và thăm dị khả năng sinh sản trên cĩ cơ cấu tỷ lệ bùn nhiều hơn hoặc bằng tỷ lệ Ngao mĩng tay chúa (Sinonovacula sp.). Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Sở khoa học cát; trong khi, NMTC kích thước lớn và trung và cơng nghệ Tp. Hồ Chí Minh. bình thì tỷ lệ cát nhiều hơn bùn hoặc bùn nhiều TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 13
  12. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II Nguyễn Đức Minh, 2021. Nghiên cứu xây dựng quy Tài liệu tiếng Anh trình sản xuất giống và thử nghiệm nuơi thương Costa, F., Nĩvoa, S., Ojea, J. and Martínez-Patiđo, D., phẩm mĩng tay chúa tại Cần Giờ. Báo cáo khoa 2011. Razor clam culture in Galicia (NW Spain). học, Viện nghiên cứu Nuơi trồng thủy sản II, Tp. In: A. Guerra, C. Lodeiros, M.B. Gaspar, F. da Hồ Chí Minh. Costa (Eds.), Razorclams: Biology, aquaculture Trần Thế Mưu và Vũ Văn Sáng, 2013. Ảnh hưởng and fisheries. pp. 181-285 của thức ăn đến tỷ lệ thành thục của tu hài mẹ và Da Costa, F., Barreiro, B., Ojea, J., Nĩvoa, S. and tỷ lệ sống của ấu trùng (Lutraria philippinarum). Martínez-Patiđo, D., 2015. Effects of stocking Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số density on intermediate culture of the razor clam 1: 24-29. Ensis arcuatus (Pharidae: Bivalvia). Aquac Res, Lê Thị Thanh, 2014. Ảnh hưởng của độ mặn, mật 46: 1858–1865 độ và nền đáy đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của Garcia, M. I. L., Duran, F. E.V., Obregon, D. A. nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) A., 2008. Razor clam (Ensis macha) culture in từ giai đoạn giống cấp 1 lên giống cấp 2 trong Chile. In Razor clams: Biology, Aquaculture điều kiện sản xuất. Luận văn Thạc sĩ nơng nghiệp. and Fisheries. Edited by Alejandro Guerra Diaz, Trần Trung Thành, 2017. Kết quả khoa học cơng César Lodeiros Seijo, Miguel Baptista Gaspar nghệ “Xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất and Fiz da Costa González giống nhân tạo và thử nghiệm nuơi thương phẩm Hylleberg, J., Kilburn, R.N., 2003. Marine molluscs mĩng tay dài Solen vagina Linnaeus, 1758 tại of Vietnam - Polyplacophora, Gastropoda, Khánh Hịa”, Nha Trang: 48-53. Cephalopoda, Bivalvia, Scaphopoda. Phuket Nguyễn Quốc Thể, 2016. Nghiên cứu đặc điểm sinh Marine Biological Center Special Publication. học và thử nghiệm cho sinh sản giống ngao mĩng 300p: p.196 tay chúa (Cultellus maximus) tại tỉnh Cà Mau. Yan, H. W., 1991. Studies on Reproductive Báo cáo khoa học Đề tài cấp tỉnh, Sở khoa học Physiology of Sinonovacula constricta and và cơng nghệ tỉnh Cà Mau, Cà Mau. Cyclina sinensis. Training manual on breeding Chu Chí Thiết, Kumar M. S., 2008. Tài liệu về kỹ and culture of scallop and sea cucumber in thuật sản xuất giống ngao Bến Tre Meretrix China. Yellow Sea Fisheries Research Institute lyrata (Sowerby, 1851). Phân viện nghiên cứu in Qingdao. nuơi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ (ARSINC): Zhuang, S.H., Wang, Z.Q., 2004. Influence of size, 36 trang habitat and food concentration on the feeding Nguyễn Thị Xuân Thu, 2005. Kỹ thuật sản xuất ecology of the Bivalve Meretrix meretrix giống và nuơi động vật thân mềm. Giáo trình cao Linnaeus, Aquaculture 241: 689 – 699. học, 193 trang. 14 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021
  13. VIỆN NGHIÊN CỨU NUƠI TRỒNG THỦY SẢN II SOME LIVING ENVIRONMENTAL CHARACTERISTICS AND DISTRIBUTION OF RAZOR CLAM RELATE TO DIRECTIONS FOR REPRODUCTION AND GROW-OUT FARMING DEVELOPMENT Tran Ngoc Hieu11, Dinh Kim Dieu1, Ngo Minh Ly1, Nguyen Thanh Ha1, Nguyen Quoc The1, Vu Anh Tuan1* ABSTRACT Razor clam is an aquatic species with high economic value and is also considered a relatively new and potential aquaculture species. This study aims to assess the current status of fishing practices, some living environmental characteristics and distribution of the razor clam in Ca Mau province and Ho Chi Minh city, and propose technical solutions for developing seed production and grow-out farming of this species. Applying the fishing household’s survey method is to collect information and research data. From March to May 2019, the household survey was conducted by using a structured-questionnaires. A total of 38 fishing households were selected for the interview, of which 26 were in Ca Mau province and 12 were in Ho Chi Minh City. Descriptive statistics were used to analyze data, present and interpret survey data. Results shown that the razor clams are captured all year round, but highly concentrated fishing season in the period from April to June in the study area, and they were exploited in the area near the shore with distance of 2.54 km and offshore with distance of 18.04 km, the shallowest water depth was 1.15 m and the deepest was 10 m. The razor clams were exploited and found living in earth caves with a cave depth of 31.67 - 94.23 cm. The razor clams are mainly lived on the flat bottom surface. Small size razor clams have lived on the bottom that has a structure with more mud than or equal to sand; while for the large and medium sized razor clams, the ratio between sand and mud depends on the conditions of the fishing habitats. The razor clams caught in Ca Mau was an average size of 22 individuals/kg, the average catch of fishing boat per day was 3.65 ± 2.07 kg/boat/day; while, in Ho Chi Minh city the average size of the razor clams was 13 individuals/kg, the catch of each fishing boat per day was 2.50 ± 1.22 kg/ boat/day. Results also showed that the highly concentrated fishing season that is the suitable time necessarily to collect the razor clam bloodstocks for domesticating and rearing for seed production. In addition, when develop grow-out farming of the razor clam, it is very important to design living conditions for this species, in which the design of earth caves, pond bottoms should be focused on to ensure good conditions for growing and developing of the razor clams. Keywords: Razor clam, distribution, fishing, Ca Mau, HCMC. Người phản biện: PGS. TS. Thái Thanh Bình Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước Ngày nhận bài: 15/6/2021 Ngày nhận bài: 15/6/2021 Ngày thơng qua phản biện: 28/6/2021 Ngày thơng qua phản biện: 28/6/2021 Ngày duyệt đăng: 29/6/2021 Ngày duyệt đăng: 29/6/2021 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: vuanhtuan2002@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021 15