Một số vấn đề trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020

pdf 10 trang Gia Huy 19/05/2022 4260
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_trong_xay_dung_va_to_chuc_thuc_hien_chien_luoc.pdf

Nội dung text: Một số vấn đề trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020

  1. Một số vấn đề 3 Một số vấn đề trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 Trịnh Thị Ái Hoa(*) Tóm tắt: Việt Nam sắp kết thúc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và chuẩn bị xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá một số vấn đề trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược nói trên, rút ra một số bài học kinh nghiệm và đề xuất một số kiến nghị với mong muốn đóng góp vào việc chuẩn bị xây dựng và thực hiện Chiến lược mới. Từ khóa: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Xây dựng chiến lược, Thực hiện chiến lược, Chiến lược Abstract: Vietnam is about to fi nish implementing the Socio-Economic Development Strategy for the period 2011-2020 and prepare to build the Country Development Strategy for the next 10 years. The following article focuses on analyzing and evaluating a number of issues in building and organizing the implementation of the above-mentioned Strategy, drawing out some experience lessons and proposing some recommendations with the expectation of contributing to the preparation of and implementation of a new Strategy Keywords: Socio-Economic Development Strategy (2011-2022), Strategic Building, Strategy Implementation, Strategy I. Thực trạng xác định và thực hiện một trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa ra khỏi số định hướng phát triển, đột phá và mục khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, tiêu chiến lược trong Chiến lược phát triển bắt đầu phục hồi nhưng còn nhiều khó kinh tế - xã hội 2011-20201(*) khăn, bất ổn. Mô hình tăng trưởng kinh tế 1. Về thực trạng xác định một số định của Việt Nam thiên về chiều rộng đã đến tới hướng phát triển, đột phá và mục tiêu chiến hạn, không còn dư địa để phát triển, cơ cấu lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã kinh tế chuyển dịch chậm, các cân đối kinh hội 2011-2020 tế vĩ mô thiếu vững chắc, thiếu các yếu tố Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nội tại quyết định sự phát triển bền vững 2011-2020 (sau đây gọi tắt là Chiến lược) của quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã của Việt Nam được xây dựng và thực hiện dự báo đúng tình hình và đi tới quyết định chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và (*) PGS.TS., Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc tái cơ cấu nền kinh tế. Chỉ có như vậy mới gia Hồ Chí Minh; Email: aihoa1960@yahoo.com giúp cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng
  2. 4 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2019 cao hơn, với chất lượng tốt hơn. Đây là một được sử dụng hiệu quả và kinh tế tư nhân quyết định đúng đắn và sáng suốt của Đảng đảm bảo thực hiện được điều đó. trong xây dựng Chiến lược. Những quyết định đó được đưa ra trên Việc xác định ba đột phá chiến lược, cơ sở những đánh giá khách quan, dự báo các động lực tăng trưởng của nền kinh tế chính xác của Đảng về bối cảnh, tình hình cũng được coi là những quyết định chính kinh tế trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, xác trong Chiến lược. có một số quyết định trong Chiến lược Những đổi mới về cơ chế quản lý từ được cho là chưa phù hợp, chưa chính xác trước đó đã không còn đủ động lực bảo đảm nên đã không thực hiện được hoặc không cho một nền kinh tế đang chuyển đổi như có hiệu quả. Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao. Thể chế Một số mục tiêu cụ thể được cho là kinh tế thị trường (KTTT) chưa hoàn thiện, không phù hợp với thực trạng nền kinh thậm chí nhiều thể chế mới ra đời đã rơi vào tế. Chẳng hạn, giai đoạn 2008-2010, tăng tình trạng bị bóp méo do những khuyết tật trưởng kinh tế đạt thấp và có xu hướng chậm vốn có của thị trường và do cả những bất cập lại: 6,23% năm 2008; 5,32% năm 2009; năm trong thể chế của Nhà nước gây ra. Điều đó 2010 chỉ đạt 6,78% mặc dù có gói kích cầu khiến cho thị trường bị lệch lạc, méo mó, cơ tới 8 tỷ USD được giải ngân từ giữa năm cấu kinh tế mất cân đối, nền KTTT trở nên 2009. Trong khi đó, kinh tế vĩ mô vẫn còn kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh thấp, phát nhiều bất ổn, lạm phát vẫn ở mức cao và triển thiếu bền vững, không còn dư địa để chưa được khống chế. Chỉ trừ năm 2009 có tăng trưởng và phát triển trong dài hạn. tỷ lệ lạm phát là 6,52%, lạm phát các năm Mặt khác, việc xác định nguồn nhân lực đều ở mức hai chữ số: năm 2008 là 19,89%, chất lượng cao và khoa học - công nghệ là năm 2010 là 11,75%, năm 2011 là 18,13% hai trong ba đột phá có thể tạo sự tăng trưởng (Nhóm nghiên cứu kinh tế, 2013). Thâm mạnh mẽ và vững chắc cho nền kinh tế là hụt ngân sách nhà nước còn lớn; nợ công hoàn toàn đúng đắn, bởi tăng trưởng của nền tăng mạnh; khối doanh nghiệp nhà nước kinh tế Việt Nam nhờ vốn, tài nguyên thiên (DNNN), các tập đoàn kinh tế nhà nước nhiên và lao động giá rẻ đã đến tới hạn. Phát (TĐKTNN) đã bộc lộ nhiều yếu kém, thua triển nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực chất lỗ lớn; cơ cấu nền kinh tế còn nhiều bất hợp lượng cao, gắn với phát triển khoa học-công lý, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu nghệ chỉ có thể tạo ra sự đột phá cho nền quả Những điều đó khó có thể xử lý, sắp kinh tế bằng sự đổi mới căn bản, toàn diện xếp lại trong thời gian ngắn để có thể thực giáo dục - đào tạo quốc gia. hiện được mục tiêu tăng trưởng GDP bình Khoa học - công nghệ được coi là động quân 7%-8%/năm như đã đề ra. Trên thực lực của quá trình phát triển không phải là tế, trong giai đoạn 2011-2018, chỉ có năm quyết định khó khăn ở Việt Nam. Tuy nhiên, 2018 đạt mức tăng trưởng kinh tế cao nhất là phải rất khó khăn chúng ta mới xác định 7,08%, các năm còn lại đều dưới 7%, nhiều được phát triển kinh tế tư nhân trở thành một năm dưới 6%. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong những động lực của nền kinh tế, đây được đề ra cho năm 2019 cũng không thể được coi là một bước chuyển mạnh mẽ trong cao hơn và chỉ ở mức 6,6%-6,8%1. nhận thức, quan điểm của Đảng và đó là quyết định chính xác mặc dù có muộn. Một 1 Nghị quyết số 69/2018/QH14 ngày 08/11/2019 của nền kinh tế chỉ thành công khi các nguồn lực Quốc hội.
  3. Một số vấn đề 5 Mặt khác, việc thực hiện chủ trương phủ thực hiện khá mạnh mẽ, nhất là trong thành lập các TĐKTNN trong nhiệm kỳ ba năm gần đây. Môi trường kinh doanh có trước được cho là không thành công. Đến nhiều chuyển biến tích cực. Năng lực cạnh năm 2009, hàng loạt các TĐKTNN rơi vào trạnh toàn cầu của nền kinh tế có xu hướng tình trạng thua lỗ, làm thất thoát vốn, tài sản cải thiện rõ nét trong giai đoạn 2012-2019, nhà nước, nhưng chúng ta vẫn chủ trương từ hạng 75 năm 2012 lên hạng 55 năm 2017 “củng cố, phát triển một số TĐKTNN có (Nguyễn Chí Hiếu, 2017; LPB, 2017). quy mô lớn, có hiệu quả, có khả năng cạnh Năm 2018, theo cách tính chỉ số năng trạnh khu vực và quốc tế trong một số lực cạnh trạnh toàn cầu mới với thang điểm ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế” 100, Việt Nam đạt 58,1 điểm, tăng nhẹ so (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017: 67). với mức 57,9 điểm vào năm 2017, xếp thứ Có thể thấy, những quyết định này 77/140 quốc gia trong xếp hạng cạnh tranh được dựa trên những phân tích, đánh giá của WEF, tụt ba bậc so với vị trí 74/135 trong chưa thấu đáo, khách quan nên dự báo chưa xếp hạng năm 2017 (LPB, 2018; ĐT, 2018). chính xác. Tuy nhiên, năm 2019, Việt Nam đã vươn lên 2. Về thực trạng tổ chức thực hiện một vị trí thứ 67 trong số 141 nền kinh tế được số định hướng phát triển, đột phá chiến xếp hạng, tăng 10 bậc so với năm 2018. Cụ lược và mục tiêu chiến lược trong Chiến thể, Việt Nam đạt 61,5/100 điểm, tăng 3,5 lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 điểm so với năm 2018 (Xem bảng 1). 2.1. Những thành công Hệ thống thị trường từng bước hình Một là, đã đạt được một số thành công thành và phát triển với các yếu tố thị trường trong thực hiện ba đột phá chiến lược. ngày càng đầy đủ hơn. Thực hiện đổi mới phương thức quản lý Thực hiện đột phá về phát triển nguồn nhà nước về kinh tế với quyết định xây dựng nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, cao gắn với phát triển khoa học - công hành động phục vụ người dân. Hệ thống nghệ, giáo dục - đào tạo được coi trọng, luật pháp được xây dựng đã bao phủ hầu Nhà nước luôn dành 20% ngân sách nhà khắp các lĩnh vực, hoạt động kinh tế, nhiều nước cho giáo dục, ngay cả khi ngân sách chính sách hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế nhà nước gặp khó khăn. Nhà nước đã có đã được triển khai có kết quả. Chính phủ đã nhiều chính sách phát triển khoa học - công tích cực cải thiện môi trường kinh doanh. Từ nghệ, thúc đẩy khởi nghiệp (start-up), đổi năm 2014, liên tiếp có 4 nghị quyết về cải mới sáng tạo. Giáo dục - đào tạo và khoa thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng học - công nghệ đã đạt được những kết quả lực cạnh tranh quốc gia được ban hành1, theo nhất định. Hoạt động kinh tế diễn ra mạnh cách tiếp cận của Diễn đàn Kinh tế Thế giới mẽ hơn, nhiều hình thức kinh doanh mới ra (WEF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Cải đời nhờ ứng dụng khoa học và công nghệ, cách hành chính, cắt giảm các thủ tục, điều kỹ thuật số, đã góp phần thúc đẩy kinh tế kiện kinh doanh bất hợp lý đã được Chính phục hồi và phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng được hình thành, phát triển khá nhanh, góp phần kích 1 Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014, Nghị thích, tạo động lực cho các hoạt động kinh quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016, Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017, Nghị tế, tăng năng suất lao động xã hội nhờ rút quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ. ngắn thời gian vận chuyển, đi lại,
  4. 6 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2019 Bảng 1. Điểm số và xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam giai đoạn 2012-2019 Năm 2012- 2013- 2014 2015- 2016- 2017- 2018- 2019- 2013 2014 -2015 2016 2017 2018 2019 2020 Điểm số 4,1 4,2 4,2 4,3 4,3 4,4 58,1 61,5 57,9 Thứ hạng 75/44 70/148 68/144 56/140 60/138 55/137 77/140 67/141 74/135 Nguồn: Các giai đoạn từ 2012-2013 đến 2017-2018 lấy từ Báo cáo năng lực cạnh tranh 2017-2018 (Global Competitiveness Report 2017-2018) của WFF (Dẫn theo: Nguyễn Chí Hiếu, 2017; LPB, 2018). Các giai đoạn 2018-2019 và 2019-2020 dẫn theo: ĐT (2018), Phương Nhung (2019). Tất cả những nỗ lực đó đã hỗ trợ cho tài chính, kinh tế thế giới và sau thời kỳ nóng các hoạt động kinh tế và giúp cho nền kinh vội trong điều hành chính sách trước đó. tế đạt được nhiều mục tiêu đặt ra trong Chất lượng tăng trưởng có những tiến bộ so Chiến lược. với thời kỳ trước. Năm 2018, đóng góp của Hai là, thực hiện được mục tiêu bảo năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào đảm ổn định kinh tế vĩ mô. tăng trưởng GDP đạt 43,50%, bình quân 3 Sau nhiều nỗ lực kiềm chế lạm phát, năm 2016-2018 đạt 43,29%, cao hơn nhiều ổn định kinh tế vĩ mô từ những năm 2008- so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2010 nhưng không mấy thành công, năm 2011-2015. Năng suất lao động bình quân 2011, với Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày giai đoạn 2016-2018 tăng 5,75%/năm, cao 24/02/2011, Chính phủ đã kiên trì thực hiện hơn mức tăng 4,35%/năm của giai đoạn mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong nhiều 2011-2015. Chỉ số ICOR (hệ số sử dụng năm. Kết quả là năm 2012 lạm phát đã được vốn đầu tư) đang dần được cải thiện, từ mức khống chế về mức 6,81% từ mức 18,13% 6,42 năm 2016 giảm xuống còn 6,11 năm của năm 2011, lạm phát được duy trì ở mức 2017 và ước tính năm 2018 là 5,97, bình thấp trong các năm sau đó (Nhóm nghiên quân giai đoạn 2016-2018 chỉ số ICOR ở cứu kinh tế, 2013). Điều này đã hỗ trợ cho mức 6,17, thấp hơn mức 6,25 của giai đoạn tăng trưởng và phục hồi kinh tế trong giai 2011-2015 (Tổng cục Thống kê, 2018). đoạn từ 2012-2018. 2.2. Những hạn chế Ba là, đạt được một số tiến bộ trong Mục tiêu, định hướng phát triển, các thực hiện chủ trương “chuyển đổi mô hình đột phá chiến lược đã được xác định đúng tăng trưởng”, “phát triển nhanh gắn liền với nhưng chưa được tổ chức thực hiện tốt. phát triển bền vững”. (i) Thiếu cụ thể trong tổ chức thực hiện. Giai đoạn 2011-2018, trên thực tế, là Mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020 nước giai đoạn tổ chức, sắp xếp lại hệ thống kinh ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo tế, sắp xếp lại nền kinh tế, khắc phục sửa hướng hiện đại” đã được đặt ra trong Chiến chữa những sai sót của thời kỳ trước đó, lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đồng thời đưa nền kinh tế tiếp tục tiến lên và tiếp tục được đưa ra trong Chiến lược phía trước. 2011-2020. Tuy nhiên, cho tới nay, tiêu chí Mối quan hệ giữa tăng trưởng và ổn để nhận diện “nước công nghiệp”, “nước định kinh tế vĩ mô được xử lý tốt đã tạo điều công nghiệp theo hướng hiện đại” vẫn chưa kiện cho kinh tế phục hồi sau khủng hoảng được xác định cụ thể. Theo đó, khó có thể có
  5. Một số vấn đề 7 chính sách phù hợp để có thể thực hiện, đánh sự đồng bộ giữa mục tiêu đề ra với quá trình giá mức độ thành công hay thất bại của mục xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện. tiêu đó. Đến năm 2020, liệu chúng ta có thể Chúng ta còn thiếu các chính sách tổng đánh giá được mục tiêu này là thành công? thể thực hiện ba đột phá chiến lược. Các Nhà nước/Chính phủ kiến tạo phát triển chính sách hoàn thiện thể chế KTTT chưa cũng chưa được thống nhất xác định về nội tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về tăng hàm, về tiêu chí trong một văn bản pháp lý trưởng kinh tế. Thể chế KTTT còn nhiều hạn chính thức mà mới được Thủ tướng Chính chế. Hệ thống thị trường chưa đầy đủ, đồng phủ Nguyễn Xuân Phúc phân tích khi trả bộ, chất lượng hệ thống luật pháp, chính lời chất vấn trực tiếp trong phiên họp Quốc sách còn nhiều hạn chế, một số chính sách hội ngày 18/11/2017. không phù hợp, thậm chí gây ra những hệ (ii) Chậm triển khai tổ chức thực hiện. lụy không tốt cho nền kinh tế; bộ máy quản Tái cơ cấu nền kinh tế với ba trọng tâm lý cồng kềnh, kém hiệu quả, khả năng thực chậm được triển khai và triển khai rất chậm. thi kém, Do vậy, tính hiệu quả và sức cạnh Thời gian thực hiện Chiến lược chỉ có 10 tranh của nền kinh tế vẫn còn hạn chế. năm, nhưng phải đến quý I/2012, 1 năm sau Hệ thống hạ tầng của Việt Nam còn Đại hội lần thứ XII của Đảng, Đề án tái cơ nhiều bất cập: hệ thống sân bay, nhất là sân cấu nền kinh tế mới được Quốc hội thông bay nhỏ chưa hiệu quả; hệ thống giao thông qua. Nhà nước kiến tạo phát triển đã được và kết nối trong đó chưa đồng bộ, các dự án đề cập tới từ năm 2014 trong Thông điệp BOT gây ra nhiều hệ lụy phức tạp, Những đầu năm mới của Thủ tướng Chính phủ, vấn đề này đều bắt nguồn từ việc thực hiện nhưng mới chỉ được khởi động tổ chức thực khâu đột phá này. hiện bằng các biện pháp mạnh mẽ từ năm Trên thực tế, nhiều chính sách giáo 2016. Chính điều này đã khiến cho một số dục - đào tạo không giúp nâng cao chất chủ trương, định hướng lớn chưa đạt được lượng đào tạo mà còn “khuyến khích” hạ sự biến chuyển lớn như mong đợi. thấp chất lượng giáo dục - đào tạo, “khuyến (iii) Thiếu các chính sách, biện pháp cụ khích” không trung thực trong giáo dục - thể, phù hợp, hiệu quả và nhiều chính sách đào tạo, Chính sách mở rộng quá nhanh chưa được thực thi đồng bộ, thống nhất, quy mô đào tạo đại học, sau đại học, mở nhất quán. rộng quá lớn hệ đào tạo phi chính quy cùng - Về thực hiện ba đột phá chiến lược: quy định không phân biệt loại hình đào tạo Nếu nhìn nhận một cách khách quan, khi tuyển dụng công chức, viên chức, là những thành công đã đạt được chưa mang những chính sách khuyến khích các cơ sở lại những chuyển biến có tính “đột phá”, đào tạo cạnh tranh giảm chất lượng đào tạo. “bứt phá” cho nền kinh tế như nó lẽ ra phải Mục tiêu đưa nước ta trở thành nước tạo ra và có thể tạo ra (tương tự như ba công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm Chương trình kinh tế được đề ra trong Đại 2020 nhưng cơ cấu đào tạo lại thiên lệch hội Đảng lần thứ VI). theo hướng “thừa thầy, thiếu thợ”, thiên Lộ trình, kế hoạch và chính sách cụ thể lệch về ngành nghề đào tạo khi đầu tư đi kèm để thực hiện Chiến lược chưa phù nhiều nguồn lực hơn cho đào tạo các ngành hợp, chưa đồng bộ. Chẳng hạn, việc thực kinh tế, ngân hàng, tài chính, quản trị kinh hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp doanh, thương mại so với đào tạo các ngành theo hướng hiện đại vào năm 2020 chưa có kỹ thuật, công nghệ.
  6. 8 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2019 Nhiều nghiên cứu (năm 2018) đã cho Sau gần 10 năm thực hiện định hướng phát thấy, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công triển “Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu trường, phát triển kinh tế xanh”, tình trạng cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế ô nhiễm môi trường do tăng trưởng kinh chủ lực của Việt Nam (Việt Nam Resource tế nóng và những hạn chế trong quản lý Enterprise Business Partner, 2018). Nguồn môi trường chưa được khắc phục và ngăn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam còn chặn. Môi trường sinh thái bị suy giảm, yếu cả về khả năng sáng tạo, kém về năng tình trạng ô nhiễm môi trường, phá rừng lực thực hành và khả năng thích nghi trong trồng cà phê, hồ tiêu, chưa thấy có dấu môi trường cạnh tranh công nghiệp mặc dù hiệu được cải thiện mà dường như ngày hiểu biết lý thuyết khá, càng trầm trọng hơn. - Về thực hiện chủ trương phát triển Kinh tế vĩ mô đã ổn định nhưng chưa khoa học - công nghệ và kinh tế tư nhân trở vững chắc. Tỷ lệ lạm phát từ năm 2012 đến thành động lực tăng trưởng của nền kinh nay đã được kiểm soát và giảm về mức rất tế: còn thiếu những chính sách có hiệu quả, thấp nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn còn bảo đảm khai thác và sử dụng nguồn lực thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước đó. của Nhà nước, xã hội một cách hợp lý cho Nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc vào bên phát triển khoa học - công nghệ. Theo đó, ngoài. Cán cân thương mại thặng dư nhưng khoa học - công nghệ chưa thực sự trở thành là nhờ xuất khẩu của khu vực có vốn đầu động lực và nền tảng cho tăng trưởng, tái tư nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu của cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động khu vực kinh tế trong nước năm 2018 đã xã hội. Chính sách phát triển nguồn nhân tăng hơn năm 2017 nhưng cũng chỉ chiếm lực chất lượng cao chưa gắn kết chặt chẽ 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả với phát triển khoa học - công nghệ. nước. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu Chính sách khuyến khích phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài kinh tế tư nhân chưa được thực hiện có chiếm tới 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hiệu quả. Các doanh nghiệp tư nhân trong của cả nước (Tổng cục Thống kê, 2018). nước vẫn chịu nhiều thiệt thòi, chưa được Năng suất lao động tuy có được cải thiện bình đẳng với các DNNN và các doanh đáng kể trong giai đoạn này nhưng vẫn còn nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên nhiều rất thấp so với các nước trong khu vực. phương diện. Kinh tế tư nhân trong nước Đạo đức xã hội xuống cấp, tệ nạn xã chưa thực sự trở thành động lực của nền hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi và vẫn kinh tế, nội lực nền kinh tế chưa mạnh và đang diễn biến phức tạp. Công bằng về cơ nền kinh tế chưa hiệu quả. hội và trong phân phối nguồn lực, thu nhập Có thể thấy rằng, các động lực cho tăng chưa được xử lý tốt, mặc dù kinh tế đạt trưởng trong giai đoạn 2011-2018 vẫn chưa nhiều kết quả tích cực. Niềm tin của người có nhiều thay đổi. Kinh tế vẫn đang tăng dân, doanh nghiệp vào chính sách của Nhà trưởng dựa nhiều vào thâm dụng vốn và lao nước phần nào đã được cải thiện song vẫn động (chiếm khoảng 60%) (Minh Sơn, 2019). là yếu tố gây khó khăn cho việc triển khai - Về thực hiện quan điểm “Phát triển các chính sách thực hiện Chiến lược trong nhanh gắn liền với phát triển bền vững”: phần thời gian còn lại. Chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và Ngoài những hạn chế kể trên, còn nhiều chưa được cải thiện nhiều trên nhiều mặt. dẫn chứng khác cho thấy chúng ta đã thiếu
  7. Một số vấn đề 9 chính sách cụ thể, thiết thực, hiệu quả, đồng TĐKTNN (năm 2009), quy mô TĐKTNN thời các chính sách đã không được thực thi vẫn rất lớn. Các tập đoàn này đã không đảm đầy đủ, đúng đắn, nghiêm minh. trách được nhiều vai trò mà Nhà nước giao, (iv) Tổ chức thực hiện một số chủ không trở thành những TĐKT có sức cạnh trương, chính sách còn có tư tưởng nóng tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. vội, chủ quan, duy ý chí. Nhưng chúng ta vẫn chủ trương “củng cố, Trong suốt cả giai đoạn 2007-2018, chỉ phát triển một số TĐKTNN có quy mô lớn, trừ hai năm 2017 và 2018 chúng ta đạt và có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vượt cả 12/12 chỉ tiêu kế hoạch đề ra từ đầu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực năm, các năm còn lại nhiều chỉ tiêu kinh tế then chốt của nền kinh tế” (Đảng Cộng sản đặt ra đã không đạt được kể cả khi đã điều Việt Nam, 2017). chỉnh, hoặc chỉ đạt được khi có điều chỉnh. Có lẽ việc này sẽ khó đi đến hồi kết nếu Nguyên nhân là do chúng ta đã nóng vội, chúng ta không thay đổi vị trí, vai trò của đã ưu tiên mục tiêu tăng trưởng kinh tế và DNNN. nhiều mục tiêu khác nhưng không tính hết Mặc dù đã có nhiều cải tiến nhưng cơ các điều kiện cụ thể của nền kinh tế để có chế xây dựng đội ngũ cán bộ hiện hành thể thực hiện những mục tiêu ưu tiên đó. vẫn chưa bảo đảm ngăn chặn vấn nạn chạy Việc thành lập các TĐKTNN với mong chức, chạy quyền, chưa đảm bảo chọn đúng muốn các tập đoàn này sẽ trở thành các “quả người có đức có tài và kiểm soát được tham đấm thép”, có khả năng cạnh tranh trên thị nhũng, Chính sách thu hút vốn đầu tư trực trường quốc tế khi nền kinh tế hội nhập sâu tiếp nước ngoài (FDI) mặc dù góp phần vào rộng vào nền kinh tế thế giới có thể được tăng trưởng kinh tế trong hàng chục năm coi là nóng vội, thiếu thận trọng, thể hiện ở qua nhưng cũng đem đến nhiều hệ lụy về chỗ, các tập đoàn được thành lập một cách môi trường, công nghệ lạc hậu, về các hoạt ồ ạt trong một thời gian ngắn, trong khi còn động chuyển giá, gây thất thu ngân sách nhà thiếu khung pháp lý để quản lý. nước. Các doanh nghiệp FDI chưa phát huy (v) Chậm điều chỉnh, sửa sai các chủ vai trò gắn kết, lan tỏa tác động và lôi kéo trương, chính sách không phù hợp, không các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, kinh hiệu quả. tế đất nước phụ thuộc nhiều vào các doanh Tình trạng kém hiệu quả của DNNN ở nghiệp FDI, Nếu tính toán cụ thể, liệu Việt Nam cũng giống ở nhiều nước khác những lợi ích mà đất nước có được từ FDI trên thế giới, thậm chí còn trầm trọng hơn, có lớn hơn những thiệt hại, tổn thất do FDI do cơ chế quản lý các DNNN còn nhiều bất gây ra? Phải tới gần đây, Nghị quyết số 50- hợp lý và còn thiếu; cơ chế bổ nhiệm cán bộ NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về quản lý các DNNN chưa bảo đảm chọn lựa định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, khách quan, chính xác người có đủ đức, tài. nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu Tình trạng này đã tồn tại kéo dài từ hàng tư nước ngoài đến năm 2030 mới được ban mấy thập niên qua, nhưng chúng ta vẫn loay hành. Trong hàng chục năm qua, đầu tư cho hoay tìm cách nâng cao hiệu quả DNNN giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và tình hình vẫn chưa được cải thiện. Tập không phải là ít, nhưng chất lượng giáo dục đoàn Xăng dầu Việt Nam vẫn được thành - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, trình lập (năm 2011) sau sự thua lỗ, làm thất độ khoa học công nghệ của đất nước chậm thoát vốn, tài sản nhà nước của hàng loạt được nâng lên và còn rất thấp, nhưng chúng
  8. 10 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2019 ta chưa có những đổi mới có hiệu quả chính ra phải tập trung thống nhất và nhất quán, sách giáo dục - đào tạo và khoa học - công hướng tới mục tiêu. nghệ để thực hiện tốt đột phá chiến lược và Thứ năm, đặc biệt chú trọng kiểm tra, động lực tăng trưởng kinh tế. giám sát, đánh giá định kỳ thực hiện Chiến II. Một số bài học và khuyến nghị lược và có điều chỉnh kịp thời khi có những 1. Một số bài học từ quá trình xây dựng bất cập hoặc không hiệu quả; thực hiện dân và thực thi Chiến lược phát triển kinh tế - chủ thực sự, rộng rãi trong Đảng, trong xã xã hội 2011-2020 hội, đồng thời duy trì thực hiện kỷ cương, Thứ nhất, có bộ máy quản lý nhà nước kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trong Đảng, liêm chính, hiệu quả, hành động vì sự hài các cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội. hòa lợi ích của quốc gia, doanh nghiệp và Thứ sáu, tạo dựng được lòng tin, niềm người dân. tin, sự đồng thuận trong toàn xã hội đối với Nhà nước thực hiện chức năng định Đảng, Nhà nước. hướng phát triển, tạo lập môi trường cạnh Sự hồ hởi đón nhận và tích cực ủng hộ, tranh lành mạnh, minh bạch, bình đẳng; có hưởng ứng thực hiện chính sách nhà nước các chính sách hỗ trợ phát triển, kiểm tra, của người dân được coi là một chỉ dấu quan giám sát để phát hiện những mất cân đối, trọng về tính đúng đắn trong chính sách của sai phạm, vi phạm, để điều chỉnh, sửa Nhà nước. sai, xử lý nhằm bảo đảm ổn định vĩ mô, Thứ bảy, không để mắc lại những bài kỷ cương, kỷ luật chính sách, pháp luật. học không thành công trong quá khứ. Bộ máy đó phải mạnh, trong sạch, tham Trong những bài học nói trên, có nhiều nhũng được kiểm soát, hành động vì lợi ích bài học kinh nghiệm không thành công quốc gia, doanh nghiệp và người dân, được trong quá khứ, nhưng đáng tiếc là chúng ta người dân tin tưởng, đã để lặp lại chúng, dẫn đến những kết quả Thứ hai, đánh giá khách quan, dự báo không đáng có và lẽ ra có thể tránh được. chính xác tình hình trong nước và quốc tế 2. Một số khuyến nghị để có những chủ trương, định hướng phát Trên cơ sở những bài học từ việc xây triển, các đột phá chiến lược đúng đắn. dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược, chúng Mặt khác, cần tránh tư tưởng nóng vội, chủ tôi xin đưa ra một số đề xuất sau cho quá quan, duy ý chí để không đặt mục tiêu quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến cao, vượt quá khả năng của nền kinh tế và lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030: khả năng thực hiện của bộ máy. Một là, tiếp tục thực hiện chuyển đổi Thứ ba, lựa chọn tập trung thực hiện mô hình tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh hơn một số khâu ưu tiên, phù hợp với khả năng nữa và thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu kinh thực hiện của nền kinh tế và của bộ máy tế, phát triển bền vững. quản lý, không quá ham thực hiện nhiều Chỉ có như vậy mới giúp cho đất nước mục tiêu và mục tiêu quá lớn. phát triển bền vững. Tái cơ cấu cần thực Thứ tư, có kế hoạch, chính sách cụ thể, hiện mạnh mẽ, có chất lượng và thực chất rõ ràng, nỗ lực tập trung thực hiện các lựa hơn nữa. Yếu tố bền vững nên được ưu tiên, chọn chiến lược với quyết tâm cao nhất, không nên nóng vội, quá ham tăng trưởng phương châm là cẩn trọng, không nóng tốc độ cao. vội nhưng cũng không do dự, lừng chừng. Hai là, xác định đúng đắn và phù hợp Tất cả các giải pháp chính sách được đưa các đột phá chiến lược trong giai đoạn tới.
  9. Một số vấn đề 11 Trong giai đoạn tới nên tập trung vào lớn để hạn chế tình trạng độc quyền và kém (1) Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng xã linh hoạt trong điều kiện nền kinh tế chịu hội chủ nghĩa; (2) Phát triển nguồn nhân lực nhiều tác động khó lường. chất lượng cao gắn với phát triển khoa học Năm là, tiếp tục xây dựng một nền kinh - công nghệ; (3) Bảo vệ và khắc phục suy tế độc lập tự chủ. Trong đó, hệ thống các giảm môi trường sinh thái, chăm sóc, nâng doanh nghiệp tư nhân trong nước phải được cao sức khỏe người dân; (4) Xây dựng nền hỗ trợ tối đa, đảm bảo trở thành trụ cột và văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. là sức mạnh của nền kinh tế. Có giải pháp Ba là, tập trung xây dựng Nhà nước mạnh mẽ, giảm sự phụ thuộc vào các doanh kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, nghiệp FDI và kinh tế nước ngoài, nhất là phục vụ người dân. Trong đó, trọng tâm là kinh tế Trung Quốc. Bởi lẽ, Trung Quốc là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản nền kinh tế có thể có nhiều tiềm năng để lý và công chức liêm chính, có trình độ, hợp tác phát triển nhưng cũng chứa đựng năng lực. Đặc biệt, những người ở vị trí nhiều rủi ro, cạm bẫy nguy hiểm rất khó xây dựng chính sách ở cấp quốc gia phải lường, khó gỡ khi đã mắc phải và nhiều khi là những người xuất sắc,ưu tú trong xã hội. phải trả giá đắt  Đổi mới căn bản phương thức đánh giá, lựa chọn, bố trí, sử sụng cán bộ để chống chạy Tài liệu tham khảo chức, chạy quyền. Xây dựng cơ chế kiểm 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011a), Chiến soát quyền lực tự động trong bộ máy để hạn lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- chế, kiểm soát tham nhũng. 2020, trên trang: Nên thành lập bộ phận chuyên trách dangcongsan.vn ngày 24/9/2015. xây dựng chính sách, trực thuộc Chính phủ, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011b), được Thủ tướng trực tiếp giao trọng trách Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành xây dựng chính sách. Các bộ chỉ thực hiện Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội chức năng tổ chức và kiểm tra, giám sát việc đại biểu toàn quốc lần thứ XI của thực hiện chính sách để tránh tình trạng cục Đảng, trên trang: bộ, cài cắm lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. dangcongsan.vn ngày 24/7/2015. Người dân phải được tham gia thực sự và 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị có hiệu quả vào quá trình xây dựng và giám quyết số 12 Hội nghị Trung ương 5 khóa sát thực hiện chính sách, giám sát cán bộ. XIII, Văn phòng Trung ương Đảng. Xây dựng văn hóa công chức nhà nước 4. ĐT (2018), Việt Nam tăng điểm năng và cơ chế bảo đảm chính quyền các cấp lực cạnh tranh toàn cầu 2018, https:// phải thực hiện nói đi đôi với làm, giữ đúng baodautu.vn/infographic-viet-nam- lời hứa với người dân, lắng nghe ý kiến tang-diem-nang-luc-canh-tranh-toan- người dân và phục vụ người dân. cau-2018-d89920.html Tất cả những điều này phải được luật 5. Nguyễn Chí Hiếu (2017), Năng lực cạnh hóa và thực hiện theo pháp luật. tranh toàn cầu của Việt Nam: 10 năm Bốn là, xác định lại vai trò của khu nhìn lại, vực DNNN, thu hẹp khu vực này. DNNN vn/165486/Nang-luc-canh-tranh-toan- ở Việt Nam chỉ nên giữ vai trò là công cụ cau-cua-Viet-Nam-10-nam-nhin-lai.html để Nhà nước khắc phục các khuyết tật của 6. LPB (2017), Việt Nam đạt vị trí mới trên thị trường. Quy mô DNNN không nên quá bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn
  10. 12 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2019 cầu, trao-doi/tang-truong-kinh-te-va-lam- vn/viet-nam-dat-vi-tri-moi-tren-bang- phat-o-viet-nam-30021.html, truy cập xep-hang-nang-luc-canh-tranh-toan-cau ngày 20/10/2019. 7. LPB (2018), Phương pháp tính mới 10. Minh Sơn (2019), Động lực tăng và thay đổi thứ hạng trong cạnh tranh trưởng kinh tế kiểu cũ đã tới hạn, toàn cầu của Việt Nam, lienvietpostbank.com.vn/phuong-phap- luc-tang-truong-kinh-te-kieu-cu-da-toi- tinh-moi-va-thay-doi-thu-hang-trong- han-3897562.html canh-tranh-toan-cau-cua-viet-nam 11. Tổng cục Thống kê (2018), Tổng quan 8. Phương Nhung (2019), Năng lực cạnh kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2018, tranh Việt Nam cải thiện mạnh, https:// nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/nang-luc ?tabid=382&idmid=2&ItemID=19041 -canh-tranh-viet-nam-cai-thien-manh- 12. VNResource Enterprise Business Partner 20191009212600497.htm (2018), Thực trạng nguồn nhân lực của 9. Nhóm nghiên cứu kinh tế (2013), Tăng Việt Nam hiện nay, trưởng kinh tế và lạm phát ở Việt Nam, vn/hrmblog/thuc-trang-nguon-nhan-luc- cua-viet-nam-hien-nay/ (tiếp theo trang 59) Need Deeper Collaboration”, The Korea Times, Tài liệu tham khảo www/news/nation/2007/08/113_9071. 1. Boniface, Pascal (2014), Hiểu thế giới html, accessed on 04-8-2019. - Các mối quan hệ quốc tế, Ngô Hữu 7. Krieger, Joel (chủ biên, 2009), Toàn Long dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội. cảnh nền chính trị thế giới, Nxb. Lao 2. Nguyễn Hoàng Giáp (chủ biên, 2013), động, Hà Nội. Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông 8. Đỗ Trọng Quang (2012), Chính sách Nam Á giữa một số nước lớn hiện nay, đối ngoại của Nhật Bản tại châu Á, Viện Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghiên cứu Đông Bắc Á,n 3. Trần Bách Hiếu (2017), Cục diện chính inas.gov.vn/282-chinh-sach-doi-ngoai- trị Đông Á giai đoạn 1991-2016, Nxb. cua-nhat-ban-tai-chau-a.html, truy cập Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. ngày 02/9/2019. 4. Hoàng Thị Minh Hoa (chủ biên, 2010), 9. Rhee Yeong-Seop (chủ biên, 2016), Nhật Bản với sự phát triển kinh tế - xã Khái luận về kinh tế - chính trị Hàn hội của Việt Nam, Lào và Campuchia, Quốc, biên dịch: Khoa Đông phương Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. học, Trường Đại học Khoa học xã hội 5. Kim Dae Jung (1998), Inaugural và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Address by Kim Dae-jung the 15th-term Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. President of the Republic of Korea: 10. Phan Thị Anh Thư (2011), Vai trò của “Let Us Open a New Era: Overcoming các tập đoàn kinh doanh (Chaebol) National Crisis and Taking a New Leap trong quá trình phát triển kinh tế ở Hàn Forward”, Yonhap News Agency. Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt 6. Kim Se-jeong (2007), “ASEAN, Korea Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.