Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nang_cao_chat_luong_hoat_dong_suu_tam_hien_vat_tai_bao_tang.pdf
Nội dung text: Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
- HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0073 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 87-98 This paper is available online at NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG SƯU TẦM HIỆN VẬT TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM Trần Thị Lệ Khoa Di sản Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Tóm tắt. Bài báo tập trung phân tích vai trò quan trọng của công tác sưu tầm hiện vật đối với hoạt động của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập, Bảo tàng đã đẩy mạnh hoạt động sưu tầm nhằm thu thập hiện vật và tư liệu để xây dựng kho cơ sở và phục vụ trưng bày thường xuyên. Từ thực trạng tổ chức hoạt động sưu tầm hiện vật ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tác giả rút ra một số ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, bước đầu tác giả đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam trong những năm tới. Từ khóa: Hoạt động sưu tầm, hiện vật bảo tàng, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. 1. Mở đầu Sau nhiều năm chuẩn bị và triển khai xây dựng, năm 1995 Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (Bảo tàng DTHVN) chính thức được thành lập và mở cửa phục vụ công chúng vào năm 1997. Sưu tầm hiện vật bảo tàng là khâu công tác nghiệp vụ cơ bản, có vai trò đặc biệt quan trọng, nó liên quan mật thiết với các khâu công tác nghiệp vụ khác như nghiên cứu, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, trình diễn, giáo dục. Đối với Bảo tàng DTHVN, việc tích lũy hiện vật và tư liệu là một nhu cầu cấp thiết và có ý nghĩa sống còn để phục vụ cho các trưng bày thường xuyên, trưng bày chuyên đề, các hoạt động trình diễn, các chương trình giáo dục nhằm khẳng định vị thế của mình đối với xã hội. Đã có một số công trình của Bảo tàng DTHVN nghiên cứu về hoạt động sưu tầm như: Điều tra cơ bản, nghiên cứu, sưu tầm hiện vật dân tộc học của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (2002), Đổi mới tiếp cận dân tộc học trong các bảo tàng (2002), Dự án điều tra, nghiên cứu, sưu tầm hiện vật dân tộc học các dân tộc Đông Nam Á giai đoạn 2006-2010 (2006), Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tập 7 (2011), Để có một bảo tàng sống động: Quan niệm và phương thức hoạt động ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (2017) ; hay một số bài viết có liên quan đến hoạt động sưu tầm hiện vật trong Tạp chí Bảo tàng & Nhân học (Lê Anh Hòa [5], Chu Thái Sơn [6], Võ Quang Trọng [9], ). Qua nghiên cứu các công trình trên, các tác giả đã chuyển tải những bài học kinh nghiệm, những vấn đề có tính lí thuyết hay những kết quả đúc kết từ thực tiễn của hoạt động sưu tầm hiện vật. Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về hoạt động sưu tầm hiện vật của Bảo tàng DTHVN từ khi thành lập đến nay. Bài viết này tập trung phân tích ưu điểm, hạn chế của hoạt động sưu tầm, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác sưu tầm tầm hiện vật ở Bảo tàng DTHVN những năm tiếp theo. Ngày nhận bài: 19/7/2018. Ngày sửa bài: 19/8/2018. Ngày nhận đăng: 5/10/2018. Tác giả liên hệ: Trần Thị Lệ. Địa chỉ e-mail: lett@huc.edu.vn 87
- Trần Thị Lệ 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thực trạng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Qua nghiên cứu tài liệu thứ cấp kết hợp với khảo sát trực tiếp ở Bảo tàng DTHVN nhằm đánh giá thực trạng hoạt động sưu tầm hiện vật, tác giả rút ra một số ưu điểm, hạn chế sau: 2.1.1. Ưu điểm Thứ nhất, Bảo tàng đã tìm ra phương pháp tiếp cận đúng không chỉ riêng trong hoạt động nghiên cứu-sưu tầm mà áp dụng trong tất cả các hoạt động của Bảo tàng. Do Bảo tàng DTHVN ra đời muộn nên việc sưu tầm hiện vật về văn hóa và lối sống của các dân tộc đa số cũng như thiểu số đều trở nên rất khó khăn. Trước tình thế đó, muốn có hiện vật Bảo tàng DTHVN phải tìm ra cho mình một cách thức, một phương pháp tiếp cận riêng phù hợp với bối cảnh hiện tại. Phương châm của Bảo tàng trong công tác nghiên cứu-sưu tầm cũng như trong các hoạt động là bắt đầu từ hiện tại. Phương châm này thể hiện rõ trong quan điểm của PGS.TS Nguyễn Văn Huy, nguyên là Giám đốc Bảo tàng:“Phải dứt khoát đoạn tuyệt với quan điểm bảo tàng chỉ là quá khứ. Bảo tàng còn là đương đại, là tương lai. Bảo tàng phải tham gia vào câu chuyện giúp cho cộng đồng nhận thức được văn hóa của mình và giúp cho họ phát triển” [4; 83]. Vì vậy, đa số hiện vật của Bảo tàng không có giá trị lớn về vật chất hay kinh tế nhưng nó lại hàm chứa giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể để giới thiệu về văn hóa và cuộc sống cộng đồng dân cư. Với chủ trương đúng đắn như vậy, Bảo tàng đã sưu tầm được số lượng hiện vật đáng kể, đáp ứng các hoạt động đa dạng . Thứ hai, Bảo tàng đã chuẩn bị rất kĩ lưỡng trước khi đi sưu tầm, đặc biệt là công việc nghiên cứu. Đối tượng sưu tầm của Bảo tàng là hiện vật dân tộc học phản ánh văn hóa và lối sống của các tộc người từ xưa đến nay [4; 83]. Vì vậy, trước khi sưu tầm đòi hỏi phải nghiên cứu rất cụ thể về văn hóa các dân tộc và cuộc sống của họ. Thông qua nghiên cứu, cán bộ sưu tầm hiểu được những đặc điểm dân tộc học của từng tộc người cụ thể, từ nguồn gốc lịch sử, kinh tế đến văn hóa vật chất và tinh thần mặt khác có thể xem như đây là một cuộc kiểm kê các khía cạnh văn hóa vật thể và phi vật thể của tộc người đó để nắm được thực trạng văn hóa của họ từ đó có cơ sở để xây dựng kế hoạch sưu tầm và bảo tồn. Về việc sưu tầm hiện vật tại các nước Đông Nam Á, Bảo tàng đã làm rất tốt công việc nghiên cứu trước khi triển khai sưu tầm. Theo đó, trước khi đi sưu tầm ngoài việc chuẩn bị đề cương và danh mục hiện vật cần sưu tầm, cán bộ Bảo tàng còn thu thập tư liệu và ảnh các quốc gia Đông Nam Á qua các nguồn khác nhau như sách, catalogue, tạp chí, các trang web điện tử về lịch sử, văn hóa mỗi quốc gia. Những tư liệu này được tập hợp và sử dụng như là tài liệu tham khảo khi đi sưu tầm nhằm tiết kiệm thời gian và nhân lực cho chuyến công tác [10; 488]. Trong phạm vi không gian có hạn, khoảng 2 ha đất dành cho phần trưng bày ngoài trời nên chọn trưng bày cái gì, bao nhiêu công trình để tiêu biểu cho 54 dân tộc cư trú trên 3 miền đất nước là vô cùng nan giải đối với Bảo tàng DTHVN lúc bấy giờ [10; 559]. Qua nhiều nghiên cứu, thảo luận khoa học với các chuyên gia dân tộc học và bảo tàng học trong và ngoài nước, cuối cùng Bảo tàng DTHVN chốt lại sẽ phục dựng 8 ngôi nhà/khuôn viên truyền thống của 8 dân tộc (Việt, Chăm, Hmông, Dao, Tày, Hà Nhì, Êđê và Bana), 2 nhà mồ (Giarai và Cơtu) và một số công trình phụ khác. Từ kết quả nghiên cứu đó, Bảo tàng cử đoàn cán bộ gồm các nhà nghiên cứu dân tộc học, các chuyên gia đến tận các bản làng, dân tộc ở địa phương thuộc nhiều vùng khác nhau để khảo sát và lựa chọn ngôi nhà. 88
- Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Có thể nói, những kết quả nghiên cứu của Bảo tàng không chỉ tạo cơ sở cho việc sưu tầm hiện vật và tư liệu nghe nhìn, làm phim dân tộc học mà còn được thể hiện trong các hoạt động đa dạng khác như trưng bày, trình diễn, giáo dục phản ánh tính chuyên nghiệp và cách làm rất riêng của Bảo tàng. Thứ ba, Trong quá trình triển khai nghiên cứu, sưu tầm tại thực địa, Bảo tàng đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cơ quan văn hóa, chính quyền địa phương trong và ngoài nước. Khi tổ chức sưu tầm tại làng, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa Bảo tàng thường gặp một số khó khăn nhất định về giao thông, ngôn ngữ, vận chuyển Trong trường hợp này, Bảo tàng đã nhận được sự tư vấn nhiệt tình của cơ quan văn hóa các cấp hay lãnh đạo thôn, bản. Khi sưu tầm hiện vật ở các nước Đông Nam Á, Bảo tàng cũng nhận được sự hợp tác, hỗ trợ nhiệt tình của bảo tàng nước sở tại, từ việc cử chuyên gia giúp đỡ, xác định địa điểm sưu tầm đến việc lựa chọn, sưu tầm những hiện vật quý hiếm và mang đặc trưng văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi tộc người. Nhờ đó Bảo tàng đã giảm được thời lượng đáng kể dành cho việc nghiên cứu, sưu tầm, tiết kiệm chi phí đi lại và có điều kiện tập trung thời gian vào hoàn thiện các thông tin về hiện vật. Ngoài ra, các cơ quan văn hóa, Cục Bảo tồn bảo tàng cùng với giám đốc bảo tàng nước bạn cũng đã hỗ trợ thủ tục pháp lí như giám định chất lượng hiện vật, các thủ tục để vận chuyển hiện vật về Việt Nam. Vì vậy, các chuyến sưu tầm hiện ở các nước Đông Nam Á, Bảo tàng không gặp trở ngại nào về thủ tục pháp lí, đảm bảo tuân thủ luật pháp nước bạn về mua bán, vận chuyển hiện vật văn hóa [10; 488]. Thứ tư, Qua sưu tầm, Bảo tàng đã tích lũy được số lượng hiện vật và tư liệu đa dạng phục vụ cho trưng bày chuyên đề gắn với hoạt động trình diễn, các chương trình giáo dục. Một trong những đặc điểm hoạt động phục vụ công chúng của Bảo tàng DTHVN là tổ chức rất nhiều trưng bày chuyên đề gắn với các cuộc trình diễn, khía cạnh không thể thực hiện được trong các trưng bày thường xuyên. Thực tế cho thấy dù phần trưng bày thường xuyên có được chăm sóc, đổi mới thì số lượng khách tham quan quay lại cũng không nhiều. Nhu cầu của công chúng quay lại Bảo tàng là được xem cái mới. Nhằm đáp ứng nhu cầu này, khoảng từ năm 2000 trở lại đây, dựa trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của Bảo tàng là nguồn hiện vật và tư liệu đã sưu tầm, Bảo tàng đã tổ chức hàng trăm trưng bày chuyên đề gây ấn tượng mạnh đối với công chúng. Năm 2000, Bảo tàng tổ chức chương trình giáo dục dành cho trẻ em với tiêu đề “Em học làm đồ chơi đất sét, giấy bồi và in tranh Đông Hồ”. Năm 2001, Bảo tàng tổ chức trưng bày chuyên đề gắn với trình diễn “Kĩ thuật dệt và tạo hoa văn batik của người Hmông” Các trưng bày này đều có sự tham gia của người dân/chủ thể văn hóa, đây là cách làm mới - cách “đưa” chủ thể văn hóa đến với công chúng đã trở thành “kim chỉ nam” cho hoạt động của Bảo tàng. 2.1.2 Hạn chế và nguyên nhân Một là, thời kì đầu do chú trọng sưu tầm về số lượng hiện vật nên chất lượng chưa cao, thể hiện: Số lượng hiện vật và tư liệu không đều giữa các dân tộc. Ở các dân tộc có số lượng đông như Việt, Mường, Chăm, Thái, Hmông, Dao đã sưu tầm được hàng trăm, thậm chí hàng nghìn hiện vật. Trong khi đó, những dân tộc ít người như Ơđu, Sila, Cống, Cờ Lao, Pu Péo số lượng hiện vật sưu tầm được rất ít [4; 95]. Với ảnh cũng vậy, cho nên tuy Bảo tàng hiện có lượng ảnh tư liệu rất lớn nhưng nhiều khi vẫn thiếu ảnh cho một cuộc trưng bày hay để in catalogue. Không những thế, thành phần hiện vật cũng có vấn đề “thường chỉ tập trung vào một số lĩnh vực văn hóa vật chất, còn lĩnh vực văn hóa xã hội, tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng còn rất khiêm tốn” [4; 95]. Đặc 89
- Trần Thị Lệ biệt là ở thời kì đầu, do tri thức bảo tàng học còn hạn chế, khi sưu tầm chưa chú trọng nhiều đến chất lượng hiện vật, một số hiện vật cũ nát hay quá mới chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quản và trưng bày hoặc giá trị sử dụng không cao; thêm vào đó, nhiều hiện vật độc bản, không có hiện vật để thay thế. Thiếu thông tin về hiện vật cũng là một vấn đề tồn tại đã lâu và không dễ khắc phục ở Bảo tàng DTHVN. Trong giai đoạn đầu đa số các hiện vật sưu tầm mới chỉ đáp ứng được những thông tin cơ bản, thông tin về hiện vật chưa được khai thác sâu, còn thiếu những câu chuyện hấp dẫn liên quan đến hiện vật. Một vấn đề nổi cộm nữa liên quan đến ảnh chụp, nhiều ảnh không có lí lịch (phiếu ảnh). Những bất cập này chủ yếu là do hậu quả của tình trạng sưu tầm nhanh, vội trước đây, chưa kết hợp tốt giữa nghiên cứu và sưu tầm, do hạn chế của việc sử dụng đông đảo sinh viên tham gia sưu tầm theo đợt, mặc dù Bảo tàng đã tập huấn [4; 96]. Một nguyên nhân nữa là khi Bảo tàng tiếp nhận hiện vật biếu tặng chưa quan tâm nhiều đến khả năng đáp ứng và nhu cầu sử dụng của Bảo tàng. Hầu hết hiện vật mà Bảo tàng đang sở hữu là hiện vật đơn lẻ, chưa xây dựng được các bộ sưu tập như mong muốn. Hiện nay, ở Bảo tàng cũng đã hình thành một số bộ sưu tập để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, bảo quản, trưng bày và giáo dục. Đó là sưu tập công cụ săn bắn thú với 256 hiện vật, sưu tập gùi của các cư dân bản địa vùng Trường Sơn- Tây Nguyên với 209 hiện vật, sưu tập ché của các dân tộc tại chỗ vùng Trường Sơn-Tây Nguyên nhưng đó mới chỉ là bước đầu [4; 97]. Ngoài việc tổ chức sưu tập theo từng dân tộc, Bảo tàng hướng tới xây dựng sưu tập theo chuyên đề khác nhau như nhạc cụ, nông cụ, ngư cụ, đồ chơi nhưng đến nay Bảo tàng chưa làm tốt công việc này. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do kinh phí eo hẹp nên đến nay chủ trương này vẫn chưa thực hiện được là bao. Hai là, Chưa chú trọng nghiên cứu, sưu tầm hiện vật về đời sống đô thị, về biển. Mặc dù công tác nghiên cứu-sưu tầm đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng nếu xem phần trưng bày thường xuyên của Bảo tàng, chúng ta có cảm nhận văn hóa Việt Nam vẫn chỉ là cuộc sống của những người nông dân ở nông thôn, miền núi mà ít thấy cuộc sống đô thị và những vấn đề đặt ra với người dân đô thị. Lí do chính là do quan điểm và nhận thức của những người làm bảo tàng trong thời kì đầu, bị chi phối bởi cái nhìn của dân tộc học cổ điển, thường chú trọng về nông thôn, về các dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa [4; 46]. Trong những năm qua nhận thức của Bảo tàng đã dần thay đổi, ngày càng thấy rõ vai trò của Bảo tàng trong việc nghiên cứu và giới thiệu xã hội đương đại mà một trong những trọng tâm của nó là đời sống đô thị và đời sống công nghiệp. Do vậy, Bảo tàng đã tổ chức hàng loạt các hoạt động gắn với đời sống của người dân đô thị như các trưng bày chuyên đề “100 năm đám cưới Việt Nam” năm 2005, “Người dân phố cổ và di sản văn hóa phi vật thể” năm 2006. Đặc biệt là trưng bày “Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp 1975-1986” năm 2006 đã trở thành một sự kiện lịch sử của Hà Nội những năm đầu thế kỷ XXI, thu hút nhiều đối tượng công chúng đến tham quan, chiêm nghiệm và phản biện. Biển của đất nước ta bao la và mảng văn hóa biển cũng rộng lớn nhưng phần trưng bày và giới thiệu còn rất mờ nhạt do chưa sưu tầm được nhiều hiện vật. Trong tòa nhà Trống đồng có trưng bày bộ sưu tập các mẫu thuyền được thừa hưởng từ Bảo tàng Lịch sử quốc gia nhưng không đầy đủ. Với các dân tộc Kinh, Chăm, Khơme biển cũng chỉ được nhắc đến qua những câu chữ. Phần trưng bày ngoài trời đây đó có bóng dáng thuyền bè sông nước nhưng vẫn chưa tìm thấy 90
- Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam biển đích thực. Nguyên nhân là do Bảo tàng chưa nhận thức đầy đủ về biển và cũng chưa đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu biển. Trong ngành Dân tộc học và Văn hóa học, tài liệu nghiên cứu về biển cũng không có nhiều. Đã đến lúc Bảo tàng DTHVN cần đổi mới mình thông qua việc nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày về biển [10; 598]. Ba là, Chưa đào tạo được đội ngũ cán bộ nghiên cứu-sưu tầm mang tính chất khu vực học và dân tộc học, văn hóa tộc người. Hiện nay phòng Nghiên cứu-Sưu tầm được biên chế 8 người trong khi đó khối lượng công việc nhiều nên rất khó khăn trong vấn đề chuyên môn hóa công việc. Mặt khác, mặc dù đa số cán bộ đều được đào tạo từ chuyên ngành Dân tộc học nhưng cho tới nay Bảo tàng vẫn thiếu các chuyên gia chuyên sâu về từng khu vực cụ thể như khu vực các dân tộc miền núi phía Bắc, khu vực Trường Sơn-Tây Nguyên hoặc chuyên gia về các nước Đông Nam Á, chuyên gia về các dân tộc hay nhóm tộc người-ngôn ngữ. Nguyên nhân của hạn chế này là do cán bộ nghiên cứu-sưu tầm chưa được định hướng đào tạo theo chiều sâu. Điều này dẫn tới sự nghiên cứu chưa chuyên sâu, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan ngày nay bởi vì khách đến bảo tàng không chỉ quan tâm đến hiện vật trưng bày mà họ còn quan tâm đến chất lượng thông tin, những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học hàm chứa trong hiện vật. 2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sưu tầm hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 2.2.1. Tiếp tục đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác sưu tầm Ngày nay, nhu cầu xã hội đối với bảo tàng đang thay đổi rất nhanh chóng, nhiều nhu cầu mới liên tiếp xuất hiện. Các nhu cầu đó lại xuất phát từ công chúng - những người trực tiếp sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của bảo tàng. Trong thời đại kinh tế tri thức, yêu cầu của công chúng cũng ngày càng cao và khắt khe hơn. Như vậy, người sản xuất ra sản phẩm bảo tàng, người cung cấp dịch vụ bảo tàng muốn theo kịp trình độ dân trí và nhu cầu khách tham quan thì nhất thiết phải được đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho xứng đáng. Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, sưu tầm của Bảo tàng DTHVN đã trưởng thành nhanh chóng nhưng họ vẫn cần phải nâng cao trình độ một cách tích cực và hiệu quả từ tính chuyên nghiệp và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đến đạo đức bảo tàng [4; 98]. Bảo tàng cũng đang đối diện với nhiều thách thức, trong đó phải kể đến sự thiếu hụt một số chuyên gia giỏi về các dân tộc trong nước và chuyên gia các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, sưu tầm hiện nay đang đặt ra đối với Bảo tàng, cán bộ nghiên cứu-sưu tầm cần được đào tạo và tự đào tạo về từng mặt chuyên sâu về các khu vực trong nước, các mảng nghiên cứu về văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và sâu hơn nữa, chuyên nghiên cứu, sưu tầm về từng lĩnh vực: nhà cửa, trang phục, đồ gốm, đồ dệt, đồ gỗ, Ngoài ra, cán bộ sưu tầm cũng phải được đào tạo và liên tục cập nhật những quan niệm và phương pháp mới trong bảo tàng học cũng như trong dân tộc học/nhân học của các nước phát triển như Mỹ, Pháp để hình thành được đội ngũ chuyên gia có năng lực làm việc quốc tế. Trong tác nghiệp, họ vừa phải nghiên cứu tốt để tạo ra những sản phẩm khoa học chất lượng cao hướng tới đạt tiêu chuẩn quốc tế, vừa kết hợp tốt giữa sưu tầm hiện vật và các tư liệu cần thiết một cách chuẩn xác để tránh rơi vào tình trạng có những bất cập nêu trên [4; 99]. Để các chuyến sưu tầm ở nước ngoài đạt hiệu quả cao và tiết kiệm thời gian, chi phí, Bảo tàng cần gửi cán bộ trẻ có năng lực đi đào tạo ngôn ngữ ở các nước Đông Nam Á và đạo tạo nâng cao trình độ chuyên môn sâu về văn hóa các nước này. 91
- Trần Thị Lệ 2.2.2. Xây dựng Dự án nghiên cứu- sưu tầm trong nước và các nước Đông Nam Á Chủ trương của Bảo tàng là sưu tầm các hiện vật đương đại, tuy nhiên Bảo tàng vẫn chú trọng sưu tầm những hiện vật mang đậm giá trị văn hóa truyền thống, phản ánh đặc trưng văn hóa và cuộc sống của các tộc người. Những năm gần đây, hiện vật giàu tính truyền thống rất khó tìm trong đời sống cộng đồng dân cư, kể cả ở vùng sâu vùng xa [5; 134]. Bối cảnh đó đòi hỏi Bảo tàng DTHVN phải khẩn trương xây dựng dự án nghiên cứu-sưu tầm về văn hóa của 54 dân tộc trong nước để sưu tầm đủ hiện vật phục vụ cho việc đổi mới, tổ chức lại trưng bày thường xuyên trong tòa nhà “Trống đồng”. Về lâu dài, việc nghiên cứu, sưu tầm phải được thực hiện đối với tất cả các nhóm, các địa phương bởi lẽ mỗi dân tộc thường gồm nhiều nhóm tộc người và cư trú ở nhiều địa phương khác nhau [4; 106]. Chẳng hạn, dân tộc Hmông bao gồm các nhóm Hmông Trắng, Hmông Đen và Hmông Hoa. Giữa các nhóm trong một dân tộc cũng tồn tại một số khác biệt nhỏ, thường thấy trong ngôn ngữ, tập tục, trang phục nữ Điều này càng làm tăng thêm tính phong phú của bức tranh văn hóa dân tộc. Vì vậy, ngoài nghiên cứu, sưu tầm hiện vật phục vụ cho lưu trữ và trưng bày, Bảo tàng cần làm phim, chụp ảnh để làm phong phú thêm nguồn tư liệu phi vật thể. Cũng giống như trưng bày về Các dân tộc Việt Nam, để xây dựng trưng bày về Văn hóa Đông Nam Á, Bảo tàng DTHVN bắt buộc phải có hiện vật. Tuy nhiên vào thời điểm đó, Bảo tàng hầu như chưa có hiện vật nào, đồng thời hiểu biết của Bảo tàng về các nước trong khu vực còn hạn chế, cán bộ triển khai công việc còn mỏng. Trước khó khăn đó, năm 2001 Bảo tàng đã xây dựng Dự án “Điều tra, nghiên cứu, sưu tầm hiện vật dân tộc học các nước Đông Nam Á” được triển khai thực hiện từ năm 2006 đến năm 2010 [8; 12]. Trong điều kiện nhân lực và khả năng tài chính còn eo hẹp, việc nghiên cứu và sưu tầm hiện vật về các nước Đông Nam Á sẽ phải thực hiện trong khoảng thời gian hàng chục năm và được chia thành nhiều giai đoạn nhằm mở rộng và phát triển dần. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010 được Ban Giám đốc Bảo tàng xác định “Đây mới chỉ là giai đoạn đầu, thực hiện một bước việc nghiên cứu, sưu tầm hiện vật nên cần tập trung sưu tầm các chủng loại hiện vật về các dân tộc tại 10 quốc gia Đông Nam Á, chủ yếu nhằm phục vụ cho khai trương trưng bày đầu tiên về Đông Nam Á” [6; 481]. Như vậy nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là sưu tầm đủ số lượng hiện vật để phục vụ cho khai trương trưng bày, chú trọng những hiện vật đẹp, mang tính đặc trưng văn hóa của các dân tộc chủ thể ở mỗi nước. Do đó Bảo tàng cần sớm xây dựng và triển khai Dự án nghiên cứu, sưu tầm hiện vật Đông Nam Á giai đoạn 2, mở rộng diện sưu tầm ra nhiều tộc người và chú trọng hình thành các sưu tập hiện vật, bao gồm cả hiện vật quý hiếm và hiện vật đời thường. 2.2.3. Sưu tầm hiện vật và tư liệu để tiến tới trưng bày Văn hóa biển đảo Trong các yếu tố cấu thành nên nền văn hóa Việt, yếu tố biển tuy không phải là yếu tố hàng đầu hình thành nên nền văn hóa bản địa nhưng vai trò và vị trí của mảng văn hóa này lại chiếm phần quan trọng và không thể thiếu khi đề cập tới nền văn hóa Việt Nam. Nước ta có hơn ba ngàn kilômét bờ biển với hàng ngàn hòn đảo lớn, nhỏ thuộc nhiều tỉnh thành suốt từ Bắc đến Nam. Biển nước ta không chỉ có nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá với trữ lượng hải sản lớn, nơi giao thương vận tải, mà còn chiếm vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng. Tổ tiên ta bao đời nay gắn bó với biển tạo nên nền văn hóa biển rất đặc sắc cần phải được nghiên cứu kĩ và chuyển tải ra bằng ngôn ngữ bảo tàng để trưng bày và giới thiệu. Đó là những nền văn hóa khảo cổ, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, ẩm thực, ngành nghề truyền thống, kho tàng văn học dân gian, nghệ thuật diễn xướng, tri thức dân gian liên quan đến biển. 92
- Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Hiện nay, ở nước ta có một số bảo tàng chuyên nghiên cứu và trưng bày về biển đảo. Thứ nhất là Bảo tàng Hải dương học ở Nha Trang thuộc Viện Hải dương học, được thành lập vào năm 1922. Cùng với thăng trầm của lịch sử, Bảo tàng Hải dương học liên tục phát triển và trở thành trung tâm lưu giữ các hiện vật thu được từ biển. Thứ hai là bảo tàng tư nhân Đồng Đình của nghệ sĩ Đoàn Huy Giao nằm trên tuyến du lịch sinh thái bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng. Không gian trưng bày ở đây bao gồm 4 khu chính: Khu trưng bày cổ vật, khu trưng bày các tác phẩm mỹ thuật, nhà trưng bày dân tộc học và nhà ký ức làng chài (trưng bày về đời sống và văn hóa của ngư dân). Với kiến trúc độc đáo và trưng bày hấp dẫn bảo tàng đã trở thành một địa chỉ văn hóa hấp dẫn du khách. Ngoài ra, các bảo tàng địa phương ở khu vực ven biển như Bảo tàng Quảng Ninh, Bảo tàng Bình Định, Bảo tàng Khánh Hòa , phần trưng bày về lịch sử có giới thiệu hiện vật khảo cổ ở địa phương liên quan đến biển, phần trưng bày đời sống hiện đại cũng đề cập đến một số công cụ đánh bắt cá. Có thể nói, ở nước ta hiện nay chưa có cơ quan nào trưng bày về văn hóa biển đảo có quy mô. Đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, sưu tầm về văn hóa biển đảo trong điều kiện thuận lợi là Bảo tàng DTHVN đã có kinh nghiệm hoạt động sưu tầm trong hơn 20 năm, có nhiều quan hệ hợp tác với các bảo tàng trong và ngoài nước. Nhưng đây là một vấn đề rộng, với nguồn nhân lực và vật lực hạn chế, Bảo tàng cần tiếp cận và triển khai từng bước một [10; 608]. Ngoài ra, Bảo tàng cũng cần mở rộng hợp tác trong và ngoài nước cùng nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày về văn hóa biển. Qua đó, Bảo tàng sẽ tích lũy dần cả về kiến thức lẫn bộ sưu tập về biển, làm cơ sở cho việc giới thiệu văn hóa biển ở Bảo tàng DTHVN một cách khoa học và hấp dẫn. Các dân tộc đã và đang sống trực tiếp với biển hình thành một nét văn hóa riêng, là một bộ phận hợp thành nền văn hóa Việt Nam. Cần đẩy mạnh hơn việc nghiên cứu, sưu tầm tiến tới tổ chức trưng bày về văn hóa biển đảo nhằm giới thiệu với công chúng một cái nhìn tổng quát về đời sống ngư dân, quá trình ngư dân bám biển để sinh tồn và thích ứng với thiên nhiên cũng như các dạng thức văn hóa vật thể và phi vật thể vùng biển đảo Việt Nam. Trưng bày không chỉ quảng bá các giá trị văn hóa biển đảo mà còn góp phần làm cho mỗi người Việt Nam thêm hiểu biết về biển nhằm nâng cao lòng tự hào, ý thức chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tổ quốc. 2.2.4. Quan tâm sưu tầm hiện vật về cư dân đô thị và hiện vật đương đại Văn hóa đô thị là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học, nhà quản lí quan tâm và tranh luận. Nó không chỉ là mối quan tâm riêng của một cá nhân hay tổ chức đơn lẻ mà đã trở thành vấn đề của toàn xã hội. Đô thị là nơi tập trung các cộng đồng cư dân khác nhau, mỗi cộng đồng cư dân lại có bản sắc văn hóa riêng của mình tạo nên đời sống văn hóa đô thị rất đa dạng, phong phú. Đặc trưng nổi bật của văn hóa đô thị là tính phức hợp và tính biến đổi cao, bị tác động và ảnh hưởng của nền kinh tế-xã hội đô thị. Từ sự thay đổi kinh tế, đời sống văn hóa và các sản phẩm văn hóa cũng thay đổi theo. Vì vậy, cần nghiên cứu, tìm hiểu và sưu tầm hiện vật qua đó trưng bày về đời sống đô thị nhằm làm phong phú thêm nội dung trưng bày đã có. Trong bối cảnh xã hội đang biến động mạnh, những người làm bảo tàng nói riêng và toàn xã hội nói chung đang lo ngại quá trình đô thị hóa cùng với biến đổi văn hóa đang đồng hành cùng với quá trình mất đi nhiều di sản văn hóa của các dân tộc. Bảo tàng không chỉ quan tâm đến vấn đề bản sắc truyền thống của 54 dân tộc mà còn chú ý đến sự chuyển biến và những thay đổi đang diễn ra trong văn hóa, đời sống, sự thích ứng của họ trong điều kiện sống hiện nay. Với quan điểm tiếp cận cả những vấn đề đương đại như 93
- Trần Thị Lệ vậy, Bảo tàng DTHVN mới tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn công chúng đến xem vì nó thiết thực đối với họ. 2.2.5. Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm Trong những năm Bảo tàng mới đi vào hoạt động, do thời gian sưu tầm có hạn, lực lượng, kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn của cán bộ sưu tầm về lĩnh vực bảo tàng còn non yếu nên công tác sưu tầm đã tồn tại một số bất cập, khó khắc phục và chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian. Thông tin về hiện vật là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hiện vật. Trong các phiếu hiện vật sau mỗi lần đi sưu tầm về trước đây, hầu như chỉ mới quan tâm đến những mục ghi chép thông thường, chưa chú trọng nhiều đến các câu hỏi liên quan đến ý nghĩa tôn giáo, màu sắc, hình dáng, cách chế tác, sử dụng cũng như các giá trị kinh tế, văn hóa, nghệ thuật của hiện vật vốn là những vấn đề quan trọng phục vụ cho vấn đề nghiên cứu. Bảo tàng phải cố gắng tìm kiếm thêm thông tin bằng cách khai thác từ sách, tài liệu, trên các trang báo điện tử để bổ sung thông tin cho hiện vật. Đó phải là một quá trình lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi cán bộ nghiên cứu, sưu tầm cũng như cán bộ bảo quản của Bảo tàng cần chú trọng một cách kiên trì. Đối với hiện vật về các quốc gia Đông Nam Á, để khắc phục tình trạng hiện vật thiếu thông tin đã sưu tầm giai đoạn 2006-2010, trong giai đoạn tiếp theo cần đề xuất các chuyến đi nghiên cứu, khảo sát trước khi tổ chức đi sưu tầm hiện vật. Bảo tàng cũng cần tăng thời gian cho mỗi chuyến công tác căn cứ vào khoảng cách địa lí gần hay xa, thuận lợi hay khó khăn, mỗi chuyến đi nên kéo dài khoảng 30 ngày [10; 490]. Cán bộ sưu tầm phải cân nhắc, tính toán hợp lí giữa thời gian dành cho nghiên cứu, sưu tầm hiện vật với thời gian di chuyển địa bàn điền dã. Ngoài ra, Bảo tàng cũng cần rút kinh nghiệm khi tiếp nhận các sưu tập hiện vật được biếu tặng từ các nhà sưu tập tư nhân. Trước khi tiếp nhận, cần nghiên cứu kĩ chất lượng và giá trị của hiện vật, thông tin mà chủ nhân sưu tập đưa ra có đáp ứng yêu cầu điền vào phiếu lí lịch hiện vật hay không, các nội dung cam kết mà chủ nhân sưu tập đặt ra so với khả năng đáp ứng của Bảo tàng phải được tính toán và thảo luận kĩ lưỡng. Là một Bảo tàng chuyên ngành nên tầm quan trọng cũng như yêu cầu đối với Bảo tàng DTHVN là phải hướng tới việc xây dựng các bộ sưu tập hiện vật. Hiện vật mà Bảo tàng đang sở hữu chủ yếu là hiện vật đơn lẻ, không phản ánh được đặc trưng tộc người. Vì vậy trong thời gian tới, Bảo tàng cần nghiên cứu, sưu tầm để hình thành các bộ sưu tập hiện vật dân tộc học về các dân tộc Việt Nam và các dân tộc Đông Nam Á nhằm phục vụ cho các trưng bày chuyên đề, về lâu dài tiến tới đổi mới, tổ chức lại các trưng bày thường xuyên hiện nay. Ngoài ra, Bảo tàng cũng cần hướng tới việc xây dựng các bộ sưu tập theo từng chủ đề cụ thể, có chất lượng thông tin tốt để phục vụ cho nghiên cứu khoa học, xây dựng catalogue để giới thiệu quảng bá các di sản văn hóa [4; 96]. Chẳng hạn với nghề nông đã có thể xây dựng thành các bộ sưu tập về công cụ làm đất và gieo trồng: cày, bừa, cuốc, vồ ; công cụ thu hoạch: liềm, hái, nhíp, các loại đòn gánh Để có những bộ sưu tập tốt phải nghiên cứu rất công phu, chuyên tâm và đương nhiên cũng mất nhiều thời gian và kinh phí. Điều này đòi hỏi Bảo tàng cũng phải mở rộng hợp tác giữa Bảo tàng DTHVN với các bảo tàng khác ở trung ương và các địa phương chặt chẽ hơn nữa, nhất là mảng nghiên cứu, sưu tầm hiện vật dân tộc học. Hằng năm, Bảo tàng DTHVN có thể tổ chức các hội thảo với sự tham gia của các bảo tàng địa phương cùng trao đổi kinh nghiệm, đánh giá về kết quả sưu tầm hiện vật, các sưu tập hiện vật dân tộc học để có kế hoạch bổ sung. 94
- Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Để trưng bày về văn hóa 54 dân tộc Việt Nam một cách toàn diện, đầy đủ và bình đẳng, Bảo tàng cần sớm sưu tầm hiện vật của tất cả các dân tộc không phân biệt dân tộc có dân số đông hay ít, có lịch sử cư trú sớm hay muộn ở Việt Nam, các dân tộc ở các vùng miền khác nhau. Các dân tộc phân bố suốt từ Bắc vào Nam, từ miền núi tới trung du, đồng bằng, biển và hải đảo. Ở mỗi nơi bằng truyền thống lao động cần cù và sáng tạo của mình, họ đã thích nghi và cải tạo vùng đất ấy để sinh sống. Rồi dần dần cùng với những điều kiện lịch sử cụ thể và sự giao lưu với các dân tộc khác mà đồng bào đã tạo nên những sắc thái văn hóa riêng giữa các vùng, miền cảnh quan địa lí khác nhau như: Vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, vùng đồng bằng Nam Bộ, vùng trung du và miền núi. Rồi ngay cả trong những vùng rộng lớn ấy lại có những xứ sở mang màu sắc văn hóa đậm đặc, rất riêng như xứ Đông, xứ Đoài, xứ Thanh, xứ Nghệ Khai thác tính đa dạng, phong phú của mỗi nền văn hóa dân tộc không chỉ khắc phục được tình trạng lặp đi lặp lại, đơn điệu, nhàm chán mà còn chứng minh được sự sáng tạo vô cùng phong phú của đồng bào các dân tộc, giúp công chúng có cái nhìn tổng quát nhất hoặc được bổ sung kiến thức về lịch sử và văn hóa của các dân tộc tại Bảo tàng DTHVN. Do vậy, khi sưu tầm phải khoanh vùng ra nghiên cứu cho kĩ, sưu tầm cho hết, có thể kết hợp với các bảo tàng địa phương hỗ trợ nhau cùng nghiên cứu, sưu tầm để đạt hiệu quả cao. 2.2.6. Tiếp tục hợp tác với các Đại sứ quán, các cơ quan văn hóa và chuyên gia nước ngoài Trong những năm qua, Bảo tàng DTHVN từng bước mở rộng quan hệ hợp tác với các nước để học hỏi, tiếp thu, tìm tòi, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và thành tựu của các nước có ngành Bảo tàng phát triển mạnh vào hoạt động của mình. Nhờ đó, Bảo tàng đã gặt hái được những thành công nhất định và từng bước khẳng định vị thế của mình với nhiều đóng góp có ý nghĩa thiết thực đối với xã hội nói chung, ngành Bảo tàng nói riêng. Việc triển khai nghiên cứu, sưu tầm hiện vật và tư liệu về các nước Đông Nam Á giai đoạn 2 trong bối cảnh khó khăn hơn do hiện vật gốc, quý hiếm ngày càng khó tìm trong khi các hiện vật “làm lại” ngày càng nhiều và khó nhận diện nên muốn sưu tầm và xây dựng bộ sưu tập hiện vật chất lượng, Bảo tàng cần thiết phải củng cố và tiếp tục đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác với các bảo tàng, các cơ quan văn hóa của các nước trong khu vực nhằm phát triển mối quan hệ theo chiều sâu, nâng cao chất lượng hợp tác. Ngoài ra, Bảo tàng cũng cần tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ tối đa của họ về chuyên môn, thủ tục tài chính, pháp luật, kể cả cơ sở vật chất như nơi làm việc, kho tàng tập kết hiện vật. Việc tranh thủ sự tư vấn, giúp đỡ của các chuyên gia, nhà khoa học để xác định địa điểm sưu tầm, giám định chất lượng hiện vật cũng hết sức quan trọng trong mỗi chuyến sưu tầm, giúp Bảo tàng giảm được các chi phí cần thiết [10; 491]. Muốn vậy, trước mắt Bảo tàng cần tăng cường quan hệ với các Đại sứ quán, các tùy viên văn hóa các nước Đông Nam Á tại Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của họ trong nghiên cứu, sưu tầm cũng như phát triển quan hệ hợp tác với các bảo tàng nước họ tiến tới tổ chức trưng bày, giới thiệu văn hóa mỗi nước trên cơ sở hợp tác song phương. 2.2.7. Quan tâm hơn đến việc sưu tầm hiện vật của các nhà sưu tập tư nhân Bảo tàng DTHVN cần tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu-sưu tầm hiện vật ở các dân tộc Việt Nam và các nước Đông Nam Á theo kế hoạch gắn với chiến lược phát triển của Bảo tàng. Về phương diện này, Bảo tàng cũng đang đối mặt với một số khó khăn nhất định. Trước hết là do sự biến đổi mạnh mẽ của đời sống xã hội dẫn đến sự mai một các yếu tố văn hóa và phong tục tập quán truyền thống khắp mọi nơi khiến cho khả năng tiếp cận hiện vật cần sưu tầm ngày càng hẹp 95
- Trần Thị Lệ hơn, tốn nhiều thời gian, công sức và tiền của hơn. Thêm nữa, Bảo tàng còn phải cạnh tranh với các nhà sưu tập tư nhân trong và ngoài nước bởi họ có một số lợi thế nhất định về thời gian, cơ chế và kinh tế, nếu chậm chân Bảo tàng sẽ mất cơ hội sưu tầm những hiện vật quý hiếm. Đối với mảng nghiên cứu-sưu tầm hiện vật các nước Đông Nam Á, Bảo tàng cũng gặp không ít khó khăn và trở ngại. Trước hết là nguồn kinh phí eo hẹp, trong khi hiện vật đẹp và quý hiếm lại thường rất đắt, kinh phí đi lại, vận chuyển hiện vật cũng thường cao hơn so với dự toán. Thời gian dành cho mỗi chuyến công tác chỉ có ba tuần, ngoài việc phỏng vấn, ghi chép, chụp ảnh, quay phim tại thực địa; số ngày thực sự dành cho việc sưu tầm rất ít [4; 119]. Hơn nữa, việc tiếp cận hiện vật không dễ bởi yếu tố văn hóa cổ truyền nước bạn cũng đang mai một dần nên không có nhiều hiện vật để lựa chọn và sưu tầm theo mong muốn. Vì vậy, đã đến lúc Bảo tàng nên tiến hành song song các phương thức sưu tầm, vừa tổ chức sưu tầm tại thực địa vừa tiến hành sưu tầm hiện vật của các nhà sưu tập tư nhân. Các nhà sưu tập tư nhân đã dành nhiều thời gian, tâm huyết và tiền bạc để tạo dựng những bộ sưu tập có giá trị, quý hiếm và hấp dẫn. Nếu những bộ sưu tập này được trưng bày tại Bảo tàng sẽ nâng cao giá trị bộ sưu tập, tạo nên điểm nhấn thu hút khách tham quan. Bảo tàng DTHVN cần tạo ra một cơ chế, chính sách thích hợp để thu hút mối quan tâm của các nhà sưu tập tư nhân để họ có thể bán hoặc hiến tặng các bộ sưu tập hiện vật cho bảo tàng. 2.2.8. Tăng cường đầu tư kinh phí, trang thiết bị hiện đại cho công tác sưu tầm Bảo tàng DTHVN là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Viện Hàn lâm KHXHVN, ngoài chức năng nghiên cứu khoa học, Bảo tàng còn có chức năng sưu tầm, trưng bày, giới thiệu và quảng bá các giá trị văn hóa của các dân tộc trong và ngoài nước. Trong 20 năm qua, Bảo tàng đã làm tốt chức năng này, được giới bảo tàng trong nước và quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên không dừng lại ở đó, để phục vụ công chúng ngày một tốt hơn, Bảo tàng luôn trăn trở và tìm cho mình một hướng đi riêng đáp ứng nhu cầu càng cao của công chúng. Mục tiêu trước mắt là tổ chức trưng bày lại văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam một cách đầy đủ và toàn diện. Muốn vậy, Bảo tàng phải bổ sung thêm hiện vật, phải định ra một chiến lược nghiên cứu, sưu tầm xác đáng dựa trên nhận thức đúng đắn và quan niệm khoa học. Để làm được điều này, ngoài vấn đề con người, nguồn kinh phí là một trong những yếu tố then chốt mang tính chất quyết định. Những việc cực kì quan trọng này không chỉ phụ thuộc vào chính Bảo tàng mà còn phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan quản lí cấp trên. Về phương diện này, vẫn chưa có nhận thức rằng nghiên cứu, sưu tầm phải là công việc thường xuyên, lâu dài của Bảo tàng, cùng với đó là yêu cầu đầu tư kinh phí liên tiếp và hàng năm cho Bảo tàng, mà đó phải là mức kinh phí hợp lí, có sự khác biệt so với các Viện nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm KHXHVN. Mặt khác, để nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm, từng bước khắc phục những bất cập nêu trên, vấn đề đảm bảo nguồn kinh phí cho Bảo tàng nói chung và cho hoạt động sưu tầm nói riêng phải được Nhà nước quan tâm thỏa đáng hơn. Bảo tàng DTHVN là một trong những đơn vị rất năng động trong việc triển khai mối quan hệ hợp tác với các bảo tàng, các chuyên gia quốc tế để học hỏi chuyên môn và vận dụng những quan niệm mới về bảo tàng trên thế giới vào sự phát triển của mình. Ngoài ra, Bảo tàng cũng tranh thủ sự giúp đỡ từ các Đại sứ quán, các tổ chức quốc tế qua đó tìm kiếm các nguồn tài trợ để triển khai các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày Đặc biệt khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng được xây dựng trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước còn gặp nhiều khó khăn nên Bảo tàng phải tự tìm nguồn kinh phí thông qua việc xây dựng các dự án. Qua đó, Bảo tàng đã nhận được sự trợ 96
- Nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam giúp tích cực và hiệu quả từ các chuyên gia nước ngoài và các tổ chức quốc tế tại Hà Nội về tư vấn chuyên môn và nguồn tài chính ở hầu hết các công trình kiến trúc. Cơ quan liên chính phủ Pháp ngữ và Bộ Ngoại giao Pháp đã trợ giúp xây dựng 4 ngôi nhà gồm: nhà người Hmông ở Mù Cang Chải, Yên Bái; nhà người Dao ở Bảo Thắng, Lào Cai; nhà người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên và nhà dài người Êđê ở thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk [10; 302] Trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo, kinh phí dành cho việc tổ chức các đoàn đi nghiên cứu, sưu tầm tại thực địa còn hạn chế. Vì thế đây là những sự trợ giúp vô cùng quan trọng và quý giá, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của việc trưng bày các công trình dân gian mang đậm tính dân tộc học của Bảo tàng DTHVN. Trong những năm tới, Bảo tàng cần tận dụng những mối quan hệ đã tạo lập để mở rộng và tăng cường hợp tác nhằm tìm kiếm các nguồn tài trợ ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp. Các trang thiết bị như máy ghi âm, ghi hình, máy quay phim, chụp ảnh là những công cụ luôn đồng hành cùng cán bộ sưu tầm. Song song với việc sưu tầm hiện vật, Bảo tàng rất quan tâm đến việc sưu tầm tư liệu nghe nhìn, làm phim dân tộc học. Các tư liệu này thể hiện cuộc sống sinh hoạt của người dân gắn liền với môi trường văn hóa-xã hội cũng như môi trường sinh thái của họ giúp khách tham quan dễ hiểu, dễ hình dung hơn và có cái nhìn chân thực về văn hóa và cuộc sống của người dân địa phương. Nhận thức rõ tầm quan trọng của các trang thiết bị nghe nhìn, trong những năm qua, Bảo tàng luôn chú trọng đầu tư các trang thiết bị này nhằm đáp ứng tối đa yêu cầu của công việc. Tuy nhiên ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, nhiều sản phẩm khoa học tiên tiến mang tính đột phá đang len lỏi vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Flycam (máy quay trên không) là thiết bị bay điều khiển từ xa dùng để chụp ảnh và quay phim từ trên không đang là xu hướng mới hiện nay và trong thời gian tới. Nhiều người làm phim chuyên nghiệp và các nhiếp ảnh gia thường chọn và sử dụng sản phẩm công nghệ này bởi nó có nhiều tính năng nổi trội như chụp hình, quay phim từ trên cao với chỉ vài thao tác rất cơ bản, mang lại những bức ảnh và thước phim vô cùng sắc nét và sống động. Đối với cán bộ sưu tầm khi đi thực địa, nếu được trang bị thêm thiết bị hiện đại này để chụp hình hoặc quay video ở bất kì vị trí nào trên cao và bao quát được cảnh vật thì công việc của họ sẽ thuận tiện, dễ dàng và hiệu quả hơn, tạo ra được nhiều sản phẩm ấn tượng. 3. Kết luận Trong tương lai, công tác sưu tầm có nhiều cơ hội và thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Nếu muốn tiếp tục phát triển nhằm đáp ứng tối đa các mục tiêu, định hướng mà Bảo tàng đã đặt ra, Bảo tàng DTHVN trong đó có đội ngũ cán bộ sưu tầm phải tiếp tục nỗ lực, năng động, có tinh thần học hỏi và không ngừng đổi mới để hoàn thiện mình và tiếp tục vươn lên. Hy vọng Bảo tàng DTHVN nếu nghiên cứu và thực hiện đồng bộ những giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động sưu tầm hiện vật trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2002. Đổi mới tiếp cận dân tộc học trong các bảo tàng. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. [2] Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2006. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 10 năm xây dựng và phát triển (1995-2005). Nxb Thế giới, Hà Nội. 97
- Trần Thị Lệ [3] Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2006. Dự án điều tra, nghiên cứu, sưu tầm hiện vật dân tộc học các dân tộc Đông Nam Á (2006-2010). [4] Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2011. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Tập VII. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [5] Lê Anh Hòa, 2015. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam với biến đổi văn hóa tộc người. Tạp chí Bảo tàng & Nhân học, số 3&4, tr.129-137 [6] Chu Thái Sơn, 2015. Tản mạn về việc sưu tầm hiện vật ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Tạp chí Bảo tàng & Nhân học, số 3&4, tr.95-99 [7] Tài liệu tham khảo để tập huấn, 2002. Điều tra cơ bản, nghiên cứu, sưu tầm hiện vật dân tộc học của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. [8] Nguyễn Duy Thiệu, 2013. Trưng bày Văn hóa các dân tộc Đông Nam Á tại Việt Nam. Tạp chí Bảo tàng & Nhân học, số 3, tr.5-17 [9] Võ Quang Trọng, 2015. 20 năm Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam truyền thống tự hào, vững bước tương lai. Tạp chí Bảo tàng & Nhân học, số 3&4, tr.3-14 [10] Võ Quang Trọng, Nguyễn Duy Thiệu (Đồng chủ biên), 2017. Để có một bảo tàng sống động: Quan niệm và phương thức hoạt động ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Nxb Thế giới. ABSTRACT The quality improvement of collecting museum artifacts in the Vietnam Museum of Ethnology Tran Thi Le Faculty of Cultural Heritage, Hanoi University of Culture The article focuses on analyzing the important role of collecting artifacts for the operation of the Vietnam Museum of Ethnology. Since its foundation, the Museum has improved its collecting activities in order to collect artifacts and materials to build a storehouse of data and serve regular displays. From the status of collecting artifacts in the Vietnam Museum of Ethnology, the author points out some off its advantages, limitations and causes through which the author initially suggested some solutions to improve the quality of collecting artifacts in the Vietnam Museum of Ethnology in the coming years. Keywords: collective activity, museum artifacts, Vietnam Museum of Ethnology. 98