Nghiên cứu tỷ số giới tính khi sinh và các yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng tại huyện Vạn Ninh – tỉnh Khánh Hòa, năm 2016

pdf 11 trang Gia Huy 21/05/2022 3330
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tỷ số giới tính khi sinh và các yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng tại huyện Vạn Ninh – tỉnh Khánh Hòa, năm 2016", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ty_so_gioi_tinh_khi_sinh_va_cac_yeu_to_lien_quan.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu tỷ số giới tính khi sinh và các yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng tại huyện Vạn Ninh – tỉnh Khánh Hòa, năm 2016

  1. NGHIÊN CỨU TỶ SỐ GIỚI TÍNH KHI SINH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỞ THÍCH SINH CON TRAI Ở PHỤ NỮ CÓ CHỒNG TẠI HUYỆN VẠN NINH – TỈNH KHÁNH HÕA, NĂM 2016 BS.CKII. Tôn Thất Toàn Trung tâm Truyền thông GDSK tỉnh Khánh Hòa Tóm tắt nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên đối tượng phụ nữ có chồng từ 18-49 tuổi, có ý định sinh con hoặc chuẩn bị sinh con từ năm 2015 đến tháng 3/2016; đang cư trú trên địa bàn huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Kết quả cho thấy, nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là < 29 tuổi và 30-39 tuổi (46,9%); đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) có trình độ trung học cơ sở (THCS) (50%); trình độ từ trung cấp trở lên là 13,8%. Nghề nghiệp của ĐTNC là cán bộ công chức 11,5%, nghề nghiệp khác chiếm 89,5% (nội trợ, buôn bán, nghề nông, ). Có 85,4% ĐTNC có nghe nói về MCBGTKS; biết về hậu quả của MCBGT là 18,6%. ĐTNC biết về hậu quả mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) là mất cân đối tỷ lệ nam nữ (62,3%), nam khó có cơ hội lấy vợ (39,2%). Đa số ĐTNC cho rằng nên có biện pháp để làm giảm MCBGTKS (80%). Biện pháp để làm giảm MCBGTKS là thực hiện chính sách bình đẳng giới (60,8%), tuyên truyền (55,4%), hỗ trợ chính sách cho các cặp vợ chồng sinh con gái (46,9%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm ĐTNC là cán bộ công chức và nhóm ĐTNC có nghề nghiệp khác (p<0,001). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế giữa sở thích sinh con trai với trình độ học vấn của người chồng (p<0,001) và nghề nghiệp của người chồng (p<0,05). Khuyến nghị nghiên cứu là cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Chính quyền các cấp đối với công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tại huyện Vạn Ninh. Đặc biệt là đầu tư cho công tác tuyên truyền vận động, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân; lồng ghép thực hiện các quy định về Bình đẳng giới trong tất cả các hoạt động tại gia đình, cộng đồng. Từ khóa: Tỷ số giới tính khi sinh, sở thích sinh con trai. 112
  2. 1. Đặt vấn đề Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc, tỷ số giới tính khi sinh ở mức sinh học bình thường là từ 104 – 106 trẻ em trai/100 trẻ em gái. Hiện tượng MCBGTKS xảy ra khi có quá nhiều hoặc quá ít trẻ trai được sinh ra so với trẻ gái, hậu quả 20 năm tới được cảnh báo là sẽ có nhiều trẻ trai được sinh ra so với trẻ gái và tương lai nhiều người đàn ông không thể lấy được vợ, gia tăng nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái Việt Nam nằm trong những nước có tỷ lệ MCBGTKS cao nhất thế giới. Theo dự báo, nếu Việt Nam không kiểm soát được việc MCBGTKS sẽ có trên 4,3 triệu đàn ông không thể lấy được vợ. Ngày 03/11/2012, tại Hội thảo Quốc gia về MCBGTKS, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhận định tình trạng này ở nước ta đang trở thành vấn đề vô cùng cấp bách. Nguyên nhân cốt lõi dẫn đến tình trạng này chủ yếu bắt nguồn từ quan điểm tồn tại từ nhiều thế kỷ qua của đại đa số người dân là ưa thích con trai. Theo đánh giá, MCBGTKS ở Việt Nam diễn ra khá muộn so với nhiều nước khác trên thế giới nhưng lại xảy ra với tốc độ nhanh trong khoảng 6 năm trở lại đây với diễn biến phức tạp và ngày càng lan rộng. Theo số liệu thống kê năm 2015, tỷ lệ này đang ở mức 112,8 trẻ trai/100 trẻ gái. Tại tỉnh Khánh Hòa, vấn đề MCBGTKS xuất hiện rõ nét từ năm 2002 với 108,4 trẻ trai/100 trẻ gái và tiếp tục có xu hướng gia tăng, đến năm 2012 là 109,2 trẻ trai/100 trẻ gái (tăng 0,8 điểm % sau 10 năm); năm 2014 là 109,4 trẻ trai/100 trẻ gái; dự ước 2015 là 109,8 trẻ trai/100 trẻ gái. Tại huyện Vạn Ninh theo khảo sát thực trạng sự MCBGTKS có chiều hướng gia tăng. Năm 2009, Vạn Ninh bắt đầu có dấu hiệu MCBGTKS. Năm 2011, tỷ số giới tính khi sinh toàn huyện là 108 bé trai/100 bé gái; ở một số xã, tỷ số này khá cao, lên đến 135, thậm chí 147 bé trai/100 bé gái. Năm 2012, tỷ số này của toàn huyện tiếp tục tăng lên 121,4 bé trai/100 bé gái. Trước thực trạng này, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu tỷ số giới tính khi sinh và các yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa năm 2016”. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mô tả tỷ lệ sinh con trai ở phụ nữ có chồng sinh con trong năm 2016 tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. 2.2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng sinh con trong năm 2016 tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. 113
  3. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ có chồng từ 18-49 tuổi, có ý định sinh con hoặc chuẩn bị sinh con từ 1/ 2015 đến tháng 3/2016; đang cư trú trên địa bàn huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, tình nguyện tham gia nghiên cứu. 3.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3/2016 đến tháng 30/06/2016, tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. 3.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. 3.4. Cỡ mẫu nghiên cứu Xác định tỷ lệ thích con trai và một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai sử dụng tỷ lệ thích sinh con trai theo nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Lan tại thành phố Huế để tính cỡ mẫu theo công thức: p(1-p) 2 n= Z ( 1-α/2) d2 Trong đó: - n: Là cỡ mẫu cần thiết. - Z1- /2: Hệ số tin cậy (với độ tin cậy 95% thì giá trị Z1- /2 = 1,96). - α: Là mức ý nghĩa thống kê, lấy α = 0,05. - p: Tỷ lệ thích sinh con trai theo nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Lan: 0,77 - d: 0,08 (sai số mong muốn). Áp dụng vào công thức tính được n=106. Ước tính thêm 10% số trường hợp từ chối tham gia nghiên cứu, vì vậy cỡ mẫu nghiên cứu được làm tròn là 122. Căn cứ trên danh sách phụ nữ có chồng chuẩn bị sinh con từ tháng 1/2015 đến tháng 3/2016 trên địa bàn huyện Vạn Ninh, chọn ngẫu nhiên 122 đối tượng tham gia nghiên cứu, thực tế chúng tôi tiến hành phỏng vấn 130 đối tượng nghiên cứu. 3.5. Phương pháp thu thập số liệu Sổ sách báo báo thống kê lưu trữ tại Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện Vạn Ninh và Chi cục Dân số -KHHGĐ tỉnh Khánh Hòa năm 2015. Lấy danh sách số phụ nữ tuổi từ 18-49, chuẩn bị sinh con từ tháng 1/2015 đến tháng 3/2016 của tất cả các xã, thị trấn tại địa bàn huyện Vạn Ninh. Chọn ngẫu nhiên đối tượng dựa trên danh sách có được, điều tra viên tiến hành phỏng vấn trực tiếp 130 đối tượng theo bộ câu hỏi được thiết kế sẵn. 114
  4. 3.6. Xử lý số liệu Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích, tính toán bằng phần mềm SPSS 16.0. 3.7. Đạo đức trong nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu liên quan đến chính sách xã hội, liên quan tới quyền và lợi ích của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu chúng tôi phải giữ bí mật, bảo vệ những thông tin của đối tượng nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu đã được Hội đồng Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Khánh Hòa thông qua và sự đồng ý nhất trí của đối tượng nghiên cứu. 4. Kết quả và bàn luận 4.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Độ tuổi trung bình của ĐTNC là 30; tuổi thấp nhất là 18, cao nhất là 42. Hai nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là < 29 tuổi và 30-39 tuổi (46,9%). ĐTNC có trình độ THCS (50%), trình độ từ trung cấp trở lên chiếm 13,8%. Nghề nghiệp chính của ĐTNC là nội trợ chiếm tỷ lệ 37,7%; buôn bán, nghề nông chiếm tỷ lệ bằng nhau là 20%; có 11,5% có nghề nghiệp là cán bộ công chức. Đa số phụ nữ tham gia nghiên cứu không theo tôn giáo nào (76,9%). Hơn một nửa phụ nữ trong nghiên cứu có tổng thu nhập từ 2 triệu đến dưới 3,5 triệu/tháng (55,4%); 20,8% ĐTNC có thu nhập dưới 2 triệu. Trong nghiên cứu, tỷ lệ người vợ là người nắm giữ tài chính trong gia đình chiếm tỷ lệ cao (69,2%); cả hai vợ chồng cùng nắm giữ tài chính chiếm tỷ lệ 24,6%. Quyết định những công việc lớn trong gia đình, cả hai vợ chồng cùng bàn bạc (50,8%); người chồng quyết định công việc lớn chiếm tỷ lệ là 36,9%; có 10,8% là người vợ quyết định công việc lớn. 4.2. Đặc điểm sản khoa và kế hoạch hóa gia đình Độ tuổi lấy chồng của ĐTNC dưới 25 tuổi chiếm tỷ lệ cao 71,5%; tuổi sinh con đầu lòng dưới 25 tuổi chiếm tỷ lệ cao 63,8%. Hơn một nửa ĐTNC có 02 con (55,4%); có đến 12,3% ĐTNC có 03 con trở lên. Số lần khám thai và số lần siêu âm thai đa số là từ 3 lần trở lên (91,5% và 89%). 100% ĐTNC đều biết các biện pháp tránh thai (BPTT). BPTT các bà mẹ biết nhiều nhất là thuốc uống tránh thai (91,5%), bao cao su chiếm ( 86,9%) và dụng cụ tử cung chiếm (76,2%). Thông tin về các BPTT mà ĐTNC biết được chủ yếu là do cán bộ y tế cung cấp (91,5%), từ cán bộ đoàn thể (51,5%), có 46,9% ĐTNC biết các BPTT từ nguồn thông tin đại chúng. Biện pháp tránh thai sử dụng nhiều nhất là thuốc uống, chiếm tỷ lệ 40,8%; sử dụng bao cao su chiếm tỷ lệ 115
  5. 19,2% và dụng cụ tử cung chiếm tỷ lệ 16,2%; chỉ có 2,3% thực hiện biện pháp đình sản để tránh thai. Quyết định sử dụng biện pháp tránh thai chủ yếu là do người vợ chiếm tỷ lệ (57,7%). 4.3. Sở thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng sinh con trong năm 2016 tại huyện Vạn Ninh 4.3.1. Sở thích sinh con trai và nguyên nhân thích sinh con trai của ĐTNC Kết quả nghiên cứu cho thấy hơn một nửa bà mẹ trong nghiên cứu này thích sinh con trai (63,1%). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Lan (77,4%). Nguyên nhân thích sinh con trai chủ yếu là muốn có trai, có gái chiếm tỷ lệ cao 82,3%, nguyên nhân có con trai để nối dõi, thờ cúng ông bà chiếm tỷ lệ 21,5%; do áp lực gia đình chồng và có chỗ dựa khi về già chiếm tỷ lệ thấp (12,3% và 11,5%), chỉ có 3,1% muốn có con trai để phụ cha đi biển. Kết quả nghiên cứu này có khác so với kết quả nghiên cứu của Hoàng Thị Tâm và cộng sự, năm 2007-2008 tại Thừa Thiên Huế, tỷ lệ phụ nữ thích sinh con trai vì lý do có con trai để thờ cúng ông bà, tổ tiên chiếm tỷ lệ cao nhất 38%. 4.3.2. Các biện pháp để sinh con theo ý muốn ĐTNC cho rằng có chủ định muốn biết giới tính khi sinh chiếm tỷ lệ 53,8%; không biết giới tính khi sinh chiếm tỷ lệ 16,2%. Như vậy, với sự tiến bộ vượt bậc của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, các thai phụ dễ dàng biết được giới tính của con mình. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hầu hết các phụ nữ cho rằng việc sinh con trai hay con gái nên để tự nhiên (90,8%) và chỉ có 9,2% đối tượng nghiên cứu thực hiện các biện pháp để sinh con theo ý muốn. Có 9,2% người không có ý kiến về vấn đề này, có thể những người này e ngại nên không trả lời suy nghĩ thực của mình. Có 25,4% các bà mẹ biết biện pháp để sinh con theo ý muốn. Biện pháp sinh con theo ý muốn các bà mẹ biết nhiều nhất là theo dõi thời kỳ rụng trứng và theo lời khuyên của bác sĩ (17,7% và 14,6%); thực hiện chế độ ăn uống chiếm tỷ lệ 8,5% và thấp nhất là biện pháp uống thuốc nam/ bắc (0,8%). Trong nghiên cứu này có 9,2% phụ nữ áp dụng các biện pháp để sinh con theo ý muốn. Theo kết quả nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Lan thì tỷ lệ phụ nữ biết để sinh con theo ý muốn, thực hiện lời khuyên của thầy thuốc chiếm tỷ lệ cao hơn (39,8%), tiếp đến là chế độ ăn uống (22,6%) và tính thời điểm rụng trứng chiếm 19,5%. Đa số các bà mẹ đều biết trước giới tính thai nhi trong thời kỳ mang thai (83,8%). Phương pháp biết trước giới tính nhiều nhất là nhờ vào siêu âm (83,1%). Thời 116
  6. gian biết trước giới tính trong thời kỳ mang thai là tháng thứ 4 và tháng thứ 5 (42,3% và 33,8%). 4.3.3. Thái độ đối với sinh con theo ý muốn Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi biết giới tính thai nhi nếu không được như mong muốn, đa số các bà mẹ đều không có ý định hủy thai (81,5%); tỷ lệ các bà mẹ có ý định hủy thai chiếm tỷ lệ rất thấp (0,8%); tuy nhiên có 9,2% người không trả lời. Ở tỉnh Khánh Hòa nói chung và huyện Vạn Ninh nói riêng, tình trạng phá thai khi biết giới tính thai nhi không được như ý muốn chưa được khảo sát và ghi nhận. Tuy nhiên, cũng không thể chủ quan vì đây cũng là một nguyên nhân gây MCBGTKS. Có 17,7% ĐTNC cho rằng có bất bình đẳng giới trong gia đình. Biểu hiện nhiều nhất là con/cháu trai được yêu thương, chăm sóc nhiều hơn so với con/cháu gái (16,9%). Có 72,3% ĐTNC cho rằng trong cộng đồng vẫn có sự bất bình đẳng giới: nam giới thường quyết định công việc (56,2%) và hiện tượng bạo lực gia đình do nam giới gây ra (46,2%). Có 76,9% phụ nữ trong nghiên cứu này đều cho rằng vẫn có hiện tượng bất bình đẳng giới trong xã hội. Biểu hiện nhiều nhất là nam giới thường nắm giữ chức vụ quan trọng, chiếm tỷ lệ 56,9% và nam giới có nhiều cơ hội xin việc làm hơn (39,2%). Như vậy, trong gia đình, xã hội cũng như tại cộng đồng hiện nay vẫn còn bất bình đẳng giới. Chính nguyên nhân này đã tác động rất lớn đến MCBGTKS. 4.3.4. Hiểu biết về mất cân bằng giới tính Đa số ĐTNC cho rằng có nghe nói về Pháp lệnh Dân số (81,5%), vẫn còn 15,5% ĐTNC chưa nghe nói về Pháp lệnh Dân số. Nguồn thông tin giúp họ biết về Pháp lệnh Dân số nhiều nhất là từ thông tin đại chúng (63,8%); từ cán bộ y tế chiếm tỷ lệ 42,3%; từ tài liệu, tranh ảnh, tờ rơi chiếm tỷ lệ 28,5%. Tỷ lệ ĐTNC biết khi vi phạm chính sách Dân số- KHHGĐ sẽ bị xử lý là 44,6%, vẫn còn 31,5% ĐTNC cho rằng không biết có xử phạt nếu bị vi phạm chính sách; 17,7% ĐTNC cho biết tại địa phương mình, người dân nếu vi phạm chính sách Dân số- KHHGĐ sẽ bị xử phạt. Có đến 64,6% ĐTNC cho rằng không biết có bị phạt hay không. Hình thức xử phạt người dân khi vi phạm chủ yếu là không bình xét gia đình văn hóa, chiếm tỷ lệ 27,7%. 50,8% ĐTNC biết rằng các cơ sở y tế nếu thông báo giới tính thai nhi sẽ bị phạt. Hình thức phạt chủ yếu là tước giấy phép hành nghề (19,2%) hoặc phạt tiền (17,7%). 117
  7. Có 85,4% ĐTNC có nghe nói về mất cân bằng giới tính khi sinh và 18,6% biết về hậu quả của mất cân bằng giới tính trong đó chiếm tỷ lệ nhiều nhất là hậu quả mất cân đối tỷ lệ nam nữ (62,3%), nam khó có cơ hội lấy vợ chiếm tỷ lệ 39,2%. Đa số ĐTNC cho rằng nên có biện pháp để làm giảm sự mất cân bằng giới tính (80%). Hơn một nửa ĐTNC cho rằng biện pháp để làm giảm MCBGT đó là thực hiện chính sách bình đẳng giới (60,8%), tuyên truyền chiếm tỷ lệ 55,4% và có 46,9% ĐTNC cho rằng cần hỗ trợ chính sách cho các cặp vợ chồng sinh con gái. 4.4. Một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai 4.4.1. Đặc điểm dân số học của người vợ Bảng 1: Tỷ lệ thích con trai theo đặc điểm dân số học của ngƣời vợ Thích sinh Không quan OR Nội dung con trai trọng giới tính p [CI 95%] n % n % Nhóm tuổi 82 48 0,05 [0,49 – 2,07] >30 tuổi 39 62,9 23 37,1 Tôn giáo 82 48 Không tôn giáo 67 67,0 33 33,0 2,03 >0,05 [0,89 – 4,6] Các tôn giáo khác 15 50,0 15 50,0 Trình độ học vấn 82 48 <THPT 76 67,9 36 32,1 4,2 =0,05 [1,46 – 12,2] Trung cấp/CĐ/ĐH 06 33,3 12 66,7 Nghề nghiệp 82 48 Cán bộ công chức 03 20,0 12 80,0 0,1 <0,001 [0,03 – 0,43] Khác 79 68,7 36 31,3 ĐTNC có trình độ học vấn từ THPT trở xuống thích sinh con trai cao gấp 4 lần so với nhóm có trình độ học vấn từ trung cấp trở lên. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,05). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm ĐTNC có nghề nghiệp khác có sở thích sinh con trai cao hơn nhóm phụ nữ có nghề nghiệp là cán bộ công chức (p<0,001). 118
  8. 4.4.2. Đặc điểm dân số học của người chồng Bảng 2: Tỷ lệ thích con trai theo đặc điểm dân số học của ngƣời vợ Nội dung Thích con Không quan OR p trai trọng giới tính [CI 95%] n % n % Tôn giáo 82 48 Không tôn giáo 67 67,0 33 33,0 2,03 >0,05 Các tôn giáo khác 15 50,0 15 50,0 [0,89 – 4,6] Trình độ học vấn 82 48 0,05 Không có 06 85,7 01 14,3 [0,43 – 31,8] >1 76 61,8 47 38,2 Số cháu trai 82 48 của anh,em 06 >0,05 chồng [0,21 – 1,87] Không có 08 53,3 07 46,7 >1 74 64,3 41 35,7 119
  9. Bảng 3 cho thấy không có sự khác biệt giữa số anh, em trai, số cháu trai của anh, em chồng và sở thích sinh con trai của đối tượng nghiên cứu (p>0,05). 4.4.4. Tình trạng sống chung nhiều thế hệ và số con hiện có của ĐTNC Bảng 4: Mối liên quan giữa tình trạng sống chung nhiều thế hệ và số con hiện có của ĐTNC với việc thích con trai của ĐTNC Nội dung Thích con Không quan OR p trai trọng giới tính [CI 95%] n % n % Hoàn cảnh 82 48 sống 1,18 >0,05 Sống riêng 56 64,4 31 35,6 [0,56 – 2,51] Sống chung 26 60,5 17 39,5 Số con hiện có 82 48 1-2 con 69 60,5 45 39,5 0,35 >0,05 3 con trở lên 13 81,2 03 18,8 [0,95 – 1,3] Bảng trên cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê về sở thích sinh con trai giữa những phụ nữ sống chung với gia đình nội, ngoại và sống riêng (p>0,05). Không có sự mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số con hiện có của ĐTNC với sở thích sinh con trai (p>0,05). 5. Kết luận 5.1. Thích sinh con trai ở phụ nữ có chồng sinh con trong năm 2016 tại huyện Vạn Ninh Đa số ĐTNC thích sinh con trai (63,1%). Đa số các bà mẹ trong nghiên cứu này mong muốn có 01 đứa con trai (86,2%). Đa số các bà mẹ cho rằng việc sinh con trai nên để tự nhiên (90,8%), có 25,4% các bà mẹ biết biện pháp để sinh con theo ý muốn và có 9,2% phụ nữ áp dụng các biện pháp để sinh con theo ý muốn. ĐTNC cho rằng có chủ định biết giới tính khi sinh chiếm tỷ lệ 53,8%. Đa số các bà mẹ đều biết trước giới tính thai nhi trong thời kỳ mang thai (83,8%). Phương pháp biết trước giới tính nhiều nhất là nhờ vào siêu âm (83,1%). ĐTNC cho rằng có bất bình đẳng giới trong gia đình và cộng đồng như: nam giới thường quyết định công việc (56,2%) và hiện tượng bạo lực gia đình do nam giới gây ra (46,2%). Đa số ĐTNC có nghe nói về Pháp lệnh Dân số (81,5%). Nguồn thông tin giúp họ biết về Pháp lệnh Dân số nhiều nhất là từ thông tin đại chúng (63,8%); nghe từ cán bộ y tế chiếm 42,3%; từ tài liệu, tranh ảnh, tờ rơi chiếm 28,5%. 120
  10. Có 85,4% ĐTNC có nghe nói về MCBGTKS; có 18,6% cho rằng biết về hậu quả của MCBGTKS. Chiếm tỷ lệ nhiều nhất là hậu quả mất cân đối tỷ lệ nam nữ (62,3%), nam khó có cơ hội lấy vợ chiếm tỷ lệ 39,2%. Đa số ĐTNC cho rằng nên có biện pháp để làm giảm sự MCBGTKS (80%). Hơn một nửa ĐTNC cho rằng biện pháp để làm giảm MCBGTKS đó là thực hiện chính sách bình đẳng giới (60,8%), ĐTNC chọn phương pháp tuyên truyền chiếm tỷ lệ 55,4% và có 46,9% ĐTNC cho rằng cần hỗ trợ chính sách cho các cặp vợ chồng sinh con gái. 5.2. Một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm ĐTNC có nghề nghiệp khác có sở thích sinh con trai cao hơn nhóm phụ nữ có nghề nghiệp là cán bộ công chức (p 0,05). Không có sự khác biệt về sở thích sinh con trai giữa những phụ nữ sống chung với gia đình nội, ngoại và sống riêng (p>0,05). Không có sự khác biệt giữa số con hiện có của ĐTNC với sở thích sinh con trai (p>0,05). 6. Kiến nghị Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Chính quyền các cấp đối với công tác Dân số-KHHGĐ thông qua việc ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình hành động để triển khai thực hiện tốt mục tiêu về ổn định quy mô dân số, cơ cấu dân số. Cần tăng cường đầu tư nguồn lực cho Chương trình Dân số-KHHGĐ có hiệu quả, đặc biệt là đầu tư cho công tác tuyên truyền vận động, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân; lồng ghép thực hiện các quy định về bình đẳng giới trong tất cả các hoạt động tại gia đình, cộng đồng. Huyện Vạn Ninh tiếp tục huy động các lực lượng xã hội tham gia vào công tác tuyên truyền, vận động về dân số, gia đình và trẻ em bằng nhiều hình thức có hiệu quả như truyền thông đại chúng (đài, báo); truyền thông trực tiếp thông qua đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên, các chức sắc tôn giáo, già làng, người có uy tín trong cộng đồng, đội ngũ cán bộ dân số, y tế cơ sở Cần ban hành sớm Luật Dân số để được thuận lợi trong công tác dân số/sức khỏe sinh sản. 121
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chi cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Khánh Hòa (2015), Báo cáo số 110/BC-CCDS ngày 28/12/2015 về Tình hình thực hiện công tác Dân số- kế hoạch hóa gia đình năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016. 2. Hoàng Thị Phương Lan (2011), Nghiên cứu tỷ số giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan đến sở thích sinh con trai của phụ nữ có chồng tại thành phố Huế năm 2011, Luận văn Chuyên khoa cấp I, Trường Đại học Y Dược Huế. 3. Quốc hội Việt Nam (2012), Mất cân bằng giới tính khi sinh, thực trạng và thách thức với Việt Nam. 4. Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) (2010), Tỷ số giới tính khi sinh tại Châu Á và Việt Nam: Tổng quan tài liệu nhằm hướng dẫn nghiên cứu về chính sách, truy cập ngày 30/3/2016, tại trang web 5. Lê Văn Tài (2012), Nghiên cứu tỷ số giới tính khi sinh và lý do mất cân bằng giới tính khi sinh tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An năm 2012, Luận văn Chuyên khoa cấp I, Trường Đại học Y Dược Huế. 6. Hoàng Thị Tâm, Phan Đăng Tâm và cộng sự (2010), Khảo sát điều tra xác định giới tính khi sinh tỉnh Thừa Thiên Huế 2007-2008, Tạp chí Y học Thực hành, số 699 và 700, tr.329-335. 7. Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (2009), Mất cân bằng giới tính khi sinh: thực trạng và giải pháp. 8. Tổng cục Thống kê (2011), Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam 2009, Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam: các bằng chứng mới về thực trạng, xu hướng và những khác biệt, Hà Nội. 9. Trung tâm Dân số- Kế hoạch hóa Gia đình huyện Vạn Ninh (2015), Báo cáo số 95/BC-DSVN ngày 9/12/2015 về Tình hình thực hiện công tác Dân số- kế hoạch hóa gia đình năm 2015 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2016. 122