Nhạc nhẹ Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển
Bạn đang xem tài liệu "Nhạc nhẹ Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nhac_nhe_viet_nam_qua_trinh_hinh_thanh_va_phat_trien.pdf
Nội dung text: Nhạc nhẹ Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 73 (01/2021) No. 73 (01/2021) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: NHẠC NHẸ VIỆT NAM – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Vietnamese light music – The process of formation and development ThS. Nguyễn Thị Phương Hoa Nhạc viện TP.HCM TÓM TẮT Nhạc nhẹ Việt Nam đã trải qua rất nhiều thăng trầm, bị chi phối bởi lịch sử đấu tranh của dân tộc. Mỗi giai đoạn đều mang ý nghĩa quan trọng, đánh dấu sự hình thành, phát triển những dòng nhạc và ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn hoá âm nhạc của quần chúng. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhạc nhẹ đã có nhiều biến chuyển, không ngừng hoàn thiện và phát triển để trở thành một trong ba dòng nhạc chính của âm nhạc Việt Nam, đóng góp rất nhiều các tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, mở ra một giai đoạn âm nhạc mới tiếp cận và hoà nhập với nền âm nhạc của thế giới. Từ khoá: âm nhạc đại chúng, nhạc nhẹ, nhạc bán cổ điển ABSTRACT Vietnamese light music has experienced many difficulties and been dominated by the history of national struggle. Each stage affirmed its own important significance marking the formation and development of music genres and its influence on the cultural and musical life of the masses. Since the day the South was completely liberated, light music has had many changes, constantly improving and developing to become one of the three main music genres of Vietnamese music, contributing a lot of high artistic works, opening a new music phase to approach and integrate with the music of the world. Keywords: popular music, light music, semi-classical 1. Mở đầu dân tộc, nhạc chính thống và nhạc nhẹ là Cuối thế kỷ 19, giai đoạn Pháp thuộc, ba dòng nhạc được các trường đào tạo âm là thời kỳ âm nhạc Việt Nam được tiếp xúc nhạc chuyên nghiệp cũng như các trung nhiều với âm nhạc phương Tây. Từ đây tâm âm nhạc tập trung giảng dạy. Trong dòng nhạc bác học và dòng nhạc đại chúng khi nhạc cổ truyền và nhạc thính phòng cổ mà người ta thường gọi là “nhạc nhẹ” được điển có một bề dày hoạt động, với những công chúng biết đến. Thời kỳ kháng chiến bước đi vững chãi trong quá trình phát chống Mỹ là giai đoạn nhiều thể loại âm triển nền âm nhạc nước nhà thì dòng nhạc nhạc được du nhập vào miền Nam, tạo nên nhẹ mới thật sự được chú ý và đưa vào sự phong phú, đa dạng cho dòng nhạc nhẹ chương trình đào tạo chuyên nghiệp những trong giai đoạn này. Tất cả thể loại này là năm gần đây. Chính sự quan tâm của công nền tảng cho các sáng tác của những nhạc chúng và khuynh hướng phát triển ngày sĩ sau này. càng rộng mà việc tìm hiểu, nghiên cứu để Hiện nay ở Việt Nam, nhạc cổ truyền có một định hướng rõ ràng, một cách nhìn Email: phhoa.nguyen@gmail.com 64
- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN đúng đắn thẩm mỹ cho nhạc nhẹ là trách Đây là dòng nhạc khi mới xuất hiện đã có nhiệm của các nhà sáng tạo nghệ thuật sức hút đặc biệt đối với công chúng. Với cũng như những người quản lý nghệ thuật. mục đích để giải trí, nó dễ tiếp cận và có 2. Nội dung ảnh hưởng mạnh đối với người nghe. 2.1. Khái niệm về nhạc nhẹ trong xã 2.2. Định nghĩa “nhạc nhẹ” ở Việt Nam hội phương Tây Khái niệm nhạc nhẹ tại việt Nam cũng Theo từ điển The New Grove, thuật là vấn đề được rất nhiều nhà phê bình âm ngữ “popular music” với ý nghĩa là dòng nhạc, giới chuyên môn quan tâm, đóng góp nhạc được phổ biến ở Mỹ vào những năm nhiều quan điểm, ý kiến. Trong bài “Trao 1880 và đến đầu thế kỷ 20 thể loại này mới đổi thêm về nhạc nhẹ” của nhạc sĩ Nguyễn phát triển tại châu Âu. Thể loại âm nhạc Đức Toàn, ông cho rằng “nhạc nhẹ” là loại này phụ thuộc vào văn hoá của từng xã hội, nhạc dễ hiểu, dễ phổ cập, mang tính quần không có ranh giới rõ ràng, thường được chúng rộng rãi không giới hạn giữa các xem là loại nhạc đặc trưng của một xã hội quốc gia. Hình thức chủ yếu là những bài hiện đại. Đặc điểm của thể loại nhạc này hát hoặc giai điệu từ những bài hát hay trước hết có số lượng người nghe đông đảo được soạn lại cho nhạc cụ. Tiết tấu mang và không phân biệt tầng lớp xã hội, khác tính chất nhảy múa của các dân tộc. Theo hẳn với thể loại nhạc kinh viện. So với nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn: “Có loại âm dòng nhạc kinh viện thì “Popular music” nhạc rất dễ hấp dẫn, dễ đem đến khoái có cấu trúc hình thức, nội dung ít phức tạp, cảm thẩm mỹ vật chất cho người nghe đó có độ dài tác phẩm vừa phải, phần đệm hoà là nhạc nhẹ”, đã được ông khẳng định qua âm đơn giản, giai điệu nổi bật và được xem bài viết “Góp thêm về nhạc nhẹ”, ông cũng là loại nhạc “Light music” (tạm dịch là cùng quan điểm với nhạc sĩ Nguyễn Đức nhạc nhẹ). Trong các từ điển âm nhạc Toàn về hình thức của nhạc nhẹ, thêm vào chuyên ngành, thuật ngữ “Light music” đó, những bài nhạc cổ điển, lãng mạn hay được sử dụng rất nhiều trong các chú giải hiện đại với giai điệu trữ tình được phối lại về thể loại Popular music, thường dùng để theo phong cách nhạc nhẹ cùng với các kỹ nói về hình thức biểu diễn với phong cách thuật sản xuất nhạc cụ điện tử, kỹ thuật sản nhẹ nhàng của những dàn nhạc, không xuất băng đĩa đã tạo nên tính hấp dẫn cho mang tính chất kinh viện, nghiêm trang. nhạc nhẹ. Chính điều đó đã tạo chỗ đứng Bắt nguồn từ nước Anh, từ đầu thế kỷ 19 cho thể loại này trong lòng công chúng. dòng nhạc “Light music” đã hình thành và Bài báo “Bàn về nhạc nhẹ” của nhạc sĩ đến giữa thế kỷ 20 là thời kỳ hoàng kim Phạm Đình Sáu, nguyên chủ tịch Hội đồng của thể loại này. “Light music” là dòng âm nhạc Việt Nam đã có những phân tích nhạc với nhiều xúc cảm, được xếp vào loại khá chi tiết. Ông cho rằng nhạc nhẹ bao nhạc dễ nghe, dễ tiếp nhận đối với công gồm nhạc không lời và nhạc có lời, ngoài chúng. Đặc biệt vào thế kỷ 19, loại nhạc ra nhạc trong các sinh hoạt tập thể, những này đã trở thành phần chính trong các buổi bài hát hài hước, khúc nhạc trữ tình, ca hoà nhạc. “Light music” có thể được xem kịch (operette) cũng là thể loại nhạc nhẹ. là chiếc cầu nối giữa thể loại “Classical Đặc điểm phổ biến của nhạc nhẹ là nội music” và “Popular music” và thật sự chưa dung, ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, kết cấu có ranh giới rõ ràng giữa ba thể loại này. tác phẩm ngắn gọn, giai điệu đẹp, nhịp 65
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) điệu, tiết tấu sắc nét, lôi cuốn người nghe. diện khi nhắc đến đều có thể cảm thấy sự 2.3. Nhạc nhẹ trong xã hội phương hiện diện của âm nhạc bác học trong đó. Tây Đây chính là sự tiếp nối, pha trộn các dòng Ở phương Tây, nhạc nhẹ đã có từ xa nhạc từ kinh viện đến nhạc nhẹ. Không chỉ xưa, bắt nguồn từ các vũ khúc dân gian cổ đơn thuần là nhạc khiêu vũ, nhạc nhẹ còn truyền. Thời trung cổ, “nhạc nhẹ” chính là mở rộng các thể loại bao gồm nhạc Pop, những bài hát, điệu nhảy được trình diễn để Country, nhạc phim mà còn có những tác mua vui, phục vụ cho tầng lớp vua chúa, phẩm kinh viện được biên soạn lại với quý tộc. Sau năm 1945, nhạc nhẹ trở thành phong cách semi-classique (bán cổ điển). món ăn tinh thần khi nhu cầu khát khao 2.4. Quá trình du nhập âm nhạc Tây một thứ nghệ thuật mới của quần chúng Âu vào âm nhạc Việt Nam nhằm xoa dịu nỗi đau mất mát. Tại châu 2.4.1. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp Âu và châu Mỹ, nhạc nhẹ được trình diễn Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền với mục đích phục vụ cho lợi ích của các văn hoá phương Tây chính thức tràn vào giai cấp khác nhau, đối tượng khác nhau Việt Nam đem theo âm nhạc Tây Âu, trước trong xã hội. Đối với giai cấp thống trị, hết là âm nhạc Pháp với nhiều hình thức, nhạc nhẹ ngoài việc giải trí còn được sử nhiều nguồn khác nhau. dụng để kinh doanh làm lợi cho một số Đầu tiên, âm nhạc châu Âu du nhập người. Bên cạnh đó, nhạc nhẹ lại là món ăn vào Việt Nam với hình thức nhạc tôn giáo tinh thần của giới trí thức, văn nghệ sĩ, sinh qua các bài hát thánh ca. Thời gian đầu ảnh viên và người lao động. Với nội dung hưởng âm nhạc nhà thờ đối với quần chúng phong phú, đa dạng, kết hợp với công nghệ rất ít nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược sản xuất âm nhạc, việc kinh doanh âm nhạc nước ta, hầu hết các tỉnh lỵ đều có nhà thờ thuộc dòng nhạc nhẹ đã phát triển mạnh và các “phường nhạc Tây”, “phường kèn trên thế giới. Các nhóm nhạc nổi tiếng như Tây”, “phường bát âm Tây” được thành lập The Beatles, Rollin Stone với các tác phẩm để tấu nhạc trong các buổi lễ và chầu. bất hủ như Yesterday, I love her, Imagine Không chỉ riêng thể loại nhạc mang tính và nhiều tác phẩm nổi tiếng khác đã làm nghiêm trang phục vụ cho tôn giáo, các mưa làm gió trong những năm 60, trở loại nhạc mang tính chất nhảy múa cũng thành những hiện tượng âm nhạc mà đến được trình diễn trong các hoạt động xã hội ngày nay vẫn được nhắc đến. khác của tỉnh. Chính những hoạt động này Cuối những năm 60, trào lưu Baroque đã tạo điều kiện cho thứ âm nhạc mới này Rock hay Baroque Pop xuất hiện. Không được gặp gỡ, phát huy và ảnh hưởng sâu bằng lòng với những gì hiện có, thể loại rộng trong quần chúng. Rock đã thay đổi, làm mới mình bằng cách Trong giai đoạn này, các trường thầy tấn công vào bức tường thành của âm nhạc dòng được mở ra nhằm truyền thụ cho học bác học. Dẫn đầu là nhóm nhạc Procol sinh kiến thức âm nhạc phương Tây, đào Harum với tác phẩm nổi bật A Whiter tạo nhạc công để phục vụ nhà thờ. Khi sách Shade Of Pale mà giai điệu mang màu sắc vở và các phương tiện truyền thông còn trữ tình của âm nhạc kinh viện. Những thể khan hiếm, người giảng dạy, truyền đạt các loại Symphony Rock, Opera Rock với kiến thức âm nhạc chủ yếu là các cha cố, nhóm nhạc Ghenesich được xem là đại những người được xem là được đào tạo bài 66
- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN bản nhất thời bấy giờ. Trong chương trình cầu xã hội, các nhạc công Việt đã học hỏi, học tiểu học hệ Pháp, các học sinh cũng thực tập và rèn luyện trong môi trường đào được học môn xướng âm, phương pháp ký tạo không chính quy qua các buổi hoà nhạc âm, hát do các cố đạo Tây hướng dẫn. Các của các nhạc công nước ngoài. Bên cạnh buổi hoà nhạc nhà thờ ngày càng xuất hiện đó, phong trào “hát bài ta theo điệu Tây” nhiều nhạc công người Việt và họ đã dần rất được thịnh hành, trở thành một trào lưu, thay thế nhạc công Tây. Điều này cho thấy thành “mốt” mà ai không theo được xem là tôn giáo đã góp phần không nhỏ trong việc lạc hậu, không tân tiến, thậm chí các bài truyền bá âm nhạc Tây Âu, hình thành nền hát này được đưa vào lúc mở màn, đóng nhạc mới cho Việt Nam. màn của những buổi diễn Cải lương, hát Không chỉ truyền bá văn hoá Pháp qua Chèo. các hoạt động của nhà thờ, người Pháp đã Phong trào “Âm nhạc cải cách” với đưa âm nhạc phương Tây vào Việt Nam nhiều ca khúc do nhạc sĩ Việt Nam sáng qua các hình thức giải trí khác bằng các tác đã được ra đời vào những năm 30 thế phương tiện truyền thông như điện ảnh, đĩa kỷ XX, mở đầu cho nền Tân nhạc Việt hát, radio cũng như sự phát triển các phòng Nam. Trong giai đoạn này, âm nhạc Việt trà, tiệm nhảy phục vụ cho nhu cầu giải trí Nam đã tiếp biến một cách toàn diện với của người Pháp. Âm nhạc có mặt khắp nơi âm nhạc phương Tây. Mở đầu bằng những từ trường học cho đến các tựu điểm vui sáng tác cho thanh nhạc và khí nhạc với chơi giải trí. Loại hình “nhạc phường binh” những phong cách biểu diễn mới theo với tính chất nhộn nhịp, vui vẻ, hùng tráng “kiểu” nhạc nhẹ, phổ thông, dễ phổ biến. được trình diễn trong các dịp hội họp, Phong trào sử dụng nhạc cụ phương Tây những buổi lễ lớn và cả những buổi phát đệm hát phổ biến trên khắp cả nước và thưởng cho học sinh, trở thành loại nhạc trong hình thức đào tạo âm nhạc theo lối được yêu thích, phổ biến rộng rãi và quen mới (học qua các tài liệu được in ấn – du thuộc với mọi tầng lớp nhân dân. nhập từ Pháp). Nhạc nhẹ vẫn tiếp tục tồn Phòng trà, vũ trường là môi trường mà tại ở thành thị và các ca khúc với lối trình loại hình nhạc khiêu vũ phát triển mạnh, diễn nhẹ nhàng của các giọng ca Thái được ưa chuộng trong giai đoạn này. Để Thanh, Thái Hằng, đệm bằng đàn guitare, phục vụ cho nhu cầu giải trí của thực dân mandoline, kèn harmonica ở nhiều vùng, Pháp, các công chức, quan lại người Việt, cả trong các khu kháng chiến, cho thấy, các đoàn nhạc công nước ngoài như Nga, phải chăng, nhạc nhẹ đã gần gũi lắm với Pháp được đưa vào các đô thị Việt Nam. nền âm nhạc Việt Nam ngay từ khi hình Bắt đầu từ đây, các điệu nhảy Valse, thành nền Tân nhạc. Tango, Fox, Rumba được biết đến. Nhạc 2.4.2. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ không lời với tính chất nhẹ nhàng, lãng Sau thắng lợi kháng chiến chống Pháp, mạn của các nhạc sĩ cổ điển như Chopin, nước ta chia thành hai miền Nam Bắc. Schumann, Tocelli trở nên quen thuộc Trong khi âm nhạc miền Bắc đi theo phong trong giới thanh niên; những ca khúc trữ cách nghiêm túc, bác học của các nước xã tình, lãng mạn Pháp len lỏi vào từng nhà hội chủ nghĩa thì âm nhạc miền Nam tiếp qua giọng hát của Toni Rossi, Rina Ketly, nhận sự lan tràn của nhạc nhẹ Âu Mỹ. Lối Georges Milton, v.v. Để bắt kịp với nhu sống Mỹ được đưa vào ảnh hưởng không ít 67
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) đến đời sống văn hoá quần chúng. Để duy Nhạc nhẹ được chọn lọc và phát triển trì cuộc chiến tranh cũng như phục vụ nhu theo xu thế của xã hội khi việc tiếp xúc và cầu của sĩ quan, binh lính, Mỹ đã đầu tư, giao lưu văn hóa với nước ngoài trở nên dễ viện trợ kinh phí cho các hoạt động kinh tế, dàng và thường xuyên, người dân có thể văn hoá. Được mệnh danh là “hòn ngọc tiếp cận thông tin cũng như hiểu thêm Viễn Đông”, Sài Gòn đã trở thành trung nhạc nhẹ của các nước trên thế giới. Nhạc tâm văn hoá lớn lúc bấy giờ. Các loại hình hoà tấu, độc tấu mang phong cách sinh hoạt giải trí phát triển, phòng trà, vũ semiclassique rất được ưa chuộng trong trường hoạt động mạnh mẽ, các phương khoảng thập niên 80-90 với các tên tuổi tiện hiện đại như nhạc cụ điện tử góp phần như Goya, Paul Mauriat, Richard mở ra một lối cảm thụ âm nhạc mới. Các Clayderman; các ban nhạc chuyên trình ca khúc nước ngoài phổ biến rộng rãi, diễn các thể loại Pop, Rock, Jazz, Blue người nghe không mấy quan tâm đến lời được công chúng yêu nhạc Việt Nam biết ca, họ bị thu hút bởi tiết tấu, nhịp điệu của đến ngày càng nhiều. Sự nhập cảng ồ ạt các bài hát trình diễn bởi thể loại nhạc Pop, phương tiện nghe nhìn hiện đại, các phòng Rock, Jazz được gọi là “nhạc trẻ” lúc hát karaoke, kỹ thuật sản xuất băng đĩa bấy giờ. Nó trở thành loại nhạc thịnh hành, ngày càng tân tiên tiến đã đưa âm nhạc đại thu hút giới thanh niên, trí thức. Nhiều chúng lên ngôi. Những buổi lễ, tiệc long người Việt Nam yêu thích âm nhạc đã trọng, ban nhạc phục vụ không chỉ trình được ngấm dần hơi nhạc mới, họ tìm hiểu diễn các tác phẩm kinh điển, các tác phẩm lối kết cấu của một bài nhạc phương Tây nhạc nhẹ hay nhạc kinh viện được biên khác với bài nhạc truyền thống như thế nào soạn lại cũng được yêu cầu rất nhiều. Có để từ đó cho ra đời các ca khúc mang thể thấy, “nhạc nhẹ” đã mở một lối đi riêng, phong cách nhạc nhẹ được đông đảo quần trở thành dòng nhạc thịnh hành, được công chúng yêu thích. chúng yêu thích qua nhiều thập kỷ. 2.4.3. Giai đoạn từ 1975 2.5. Nhạc nhẹ trong môi trường đào Sau 1975, đất nước hoàn toàn giải tạo âm nhạc chuyên nghiệp phóng bắt đầu công cuộc xây dựng, khôi Nhạc viện Hà Nội và Nhạc viện Thành phục đất nước, loại hình giải trí như phim phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm đào tạo ảnh, khiêu vũ, các quán bar cũng bị hạn âm nhạc chuyên nghiệp lớn trong cả nước, chế hoạt động và tất nhiên các loại nhạc Nhạc viện Hà Nội đã mở khoa nhạc Jazz nhảy, nhạc nước ngoài trở thành “nhạc nhằm đào tạo các nghệ sĩ có khả năng trình cấm”. Tuy nhiên, tiết tấu, nhịp điệu mà âm diễn độc tấu, hoà tấu thể loại nhạc này. nhạc Tây Âu mang vào vẫn được sử dụng Miền Nam đã có một quá trình dài tiếp xúc trong các sáng tác của các nhạc sĩ trong với nhạc nhẹ của phương Tây do đó phong giai đoạn này nhưng được chọn lọc để phù trào nhạc nhẹ tại miền Nam phát triển hợp với nội dung tác phẩm. Năm 1986, đất mạnh hơn miền Bắc rất nhiều. Vào những nước bước vào giai đoạn “đổi mới”. Từ lúc năm 80-90, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí này, nhiều ca khúc “nhạc trẻ” ở Thành phố Minh (lúc này mang tên Trường Quốc gia Hồ Chí Minh được ra đời, làm thay đổi Âm nhạc) đã thành lập một dàn nhạc thính nhiều tư duy trong giới âm nhạc về “nhạc phòng trình diễn nhạc theo phong cách bán trẻ”, “nhạc nhẹ”. cổ điển với 25 biên chế dàn nhạc, đã nhận 68
- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN được sự ủng hộ nhiệt liệt từ công chúng. khi nước ta thực hiện chủ trương mở cửa, Các buổi trình diễn nhạc nhẹ được tổ chức giao lưu quốc tế rộng rãi, thì điều kiện để hàng tuần góp phần mở ra một loại hình tiếp cận với các loại hình âm nhạc thế giới giải trí lành mạnh, nâng cao trình độ dân trí ngày càng trở nên phổ biến hơn. Cũng trong công chúng yêu nhạc. Sau một thời không thể không thừa nhận rằng, đã có gian hoạt động, vì những điều kiện kinh tế, những thời điểm, công chúng ca nhạc chịu dàn nhạc phải tạm ngưng hoạt động. Các sự lôi cuốn ào ạt của nhiều đợt sóng ca nghệ sĩ yêu thích thể loại nhạc này đã tổ nhạc hải ngoại, nhạc nhẹ quốc tế, kể cả chức thành các nhóm nhỏ trình diễn trong những khuynh hướng nhạc nhẹ phương các buổi lễ, nhà hàng với hình thức Tây. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện thời, đời “Divertimento” (nhạc trò chuyện), trình sống ca nhạc của nhân dân đang cần thiết diễn các tác phẩm được biên soạn lại từ tác những “món ăn” hợp với trình độ thẩm mĩ phẩm kinh viện. Đến năm 2011, Nhạc viện đương thời. Tình trạng lan tràn của các loại Thành phố Hồ Chí Minh chính thức thành hình âm nhạc nước ngoài vào Việt Nam, lập khoa Nhạc nhẹ và Âm nhạc công nghệ trong một chừng mực nào đó, đã chứng tỏ với mục tiêu đào tạo giảng dạy các loại “thị trường âm nhạc” Việt Nam đang khan nhạc thịnh hành như Pop, Rock, Jazz và hiếm “sản phẩm âm nhạc” hợp với nhu cầu. nghiên cứu âm nhạc công nghệ, một ngành Nhạc nhẹ Việt Nam là một đối tượng học mà nhu cầu xã hội đang rất quan tâm. nghiên cứu còn khá mới mẻ và chưa thể nói 3. Kết luận là một đối tượng âm nhạc đã hoàn thiện. Để Nhạc nhẹ Việt Nam trải qua 2 thời kỳ tiếp cận nhạc nhẹ, những người làm công kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là tác giáo dục âm nhạc cần có sự chọn lọc và một nguồn nhạc mới có ảnh hưởng sâu định hướng đúng. Hiện nay, xu hướng học rộng và trở thành món ăn tinh thần trong và chơi nhạc nhẹ ở Việt Nam ngày càng đời sống văn hoá nghệ thuật của quần phát triển, để có thể hướng người nghe đến chúng. Vì tính chất nhẹ nhàng, sự đơn giản loại hình “nhạc nhẹ” lành mạnh, có một cái dễ hiểu cùng nhiều thể loại phong phú và nhìn đúng đắn, nâng cao trình độ dân trí, đa dạng, thể loại âm nhạc này đã chiếm lĩnh các ban ngành, các trường đào tạo âm nhạc thị trường nghe nhìn suốt bao thập kỷ qua. chuyên nghiệp cần có những kế hoạch, Thực tiễn đời sống ca nhạc của nhân dân chương trình đào tạo bài bản, nghiên cứu về trong suốt hàng chục năm qua, nhất là từ thể loại nhạc nhẹ này một cách nghiêm túc. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lan Hương dịch. (2002). Các thể loại Âm nhạc. NXB Văn Hóa Cửu Long Giang. (1977). Thực chất của cái gọi là Nghệ thuật Âm nhạc Sài Gòn cũ. tr.691. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. Dương Viết Á. (1982). Thị hiếu âm nhạc, tr.956. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. 69
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) Lê Lôi. (1987). Nhạc nhẹ và ca khúc, tr.120. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội Nguyễn Thị Nhung. (1996). Thể loại âm nhạc. Nhạc viện Hà Nội. NXB Âm nhạc. Phạm Đình Sáu. (1978). Bàn thêm về nhạc nhẹ, tr.712. Văn hoá nghệ thuật, số 1. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. Phạm Hoàng Gia. (1987). Tâm lý thanh niên và nhạc trẻ, tr.86. Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số 3. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. Phúc Minh. (1977). Nhạc nhẹ, tr.695. Văn hoá nghệ thuật, số 10. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. Tú Ngọc. (1987). Nghĩ về hướng đi của nhạc nhẹ Việt Nam, tr.156. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình, Hà Nội. Nguyễn Đình tấn. (1977). Góp thêm về nhạc nhẹ, tr.703. Văn hóa nghệ thuật, số 12. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. Vũ Tự Lân. (1998). Nhạc nhẹ du nhập và phát triển. Tạp chí Âm nhạc, số 4, tr.437. Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình. Hà Nội. Ngày nhận bài: 22/3/2020 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021 70