Giáo trình nội bộ Hình thức âm nhạc - Trường Cao đẳng Lào Cai

pdf 43 trang Gia Huy 21/05/2022 2290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình nội bộ Hình thức âm nhạc - Trường Cao đẳng Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_noi_bo_hinh_thuc_am_nhac_truong_cao_dang_lao_cai.pdf

Nội dung text: Giáo trình nội bộ Hình thức âm nhạc - Trường Cao đẳng Lào Cai

  1. UBND TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC/MÔ ĐUN: HÌNH THỨC ÂM NHẠC NGÀNH: THANH NHẠC, ORGAN, BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG Lưu hành nội bộ Năm 2019 1
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Hình thức Âm nhạc là một bộ môn quan trọng không thể thiếu trong chương trình Đào tạo của các trường Âm nhạc. Bộ môn này giúp cho sinh viên có một khái niệm tổng quan về việc phân tích một tác phẩm Âm nhạc, từ đó giúp cho sinh viên nắm được những phương pháp cơ bản khi phân tích một tác phẩm Âm nhạc ở bất kỳ hình thức nào, kể cả những đặc điểm, các dạng cấu trúc trong Dân ca người Việt. Ngoài ra sinh viên còn có thể nắm được những đặc điểm, phong cách sáng tác ở các thời kỳ khác nhau, cũng như những nét điển hình đặc trưng của nền Âm nhạc các nước trên thế giới. Hình thức Âm nhạc là môn học bổ trợ rất tốt cho học sinh học các chuyên ngành như; Thanh nhạc, Nhạc cụ vì khi các em học môn này thì các em sẽ biết được tác phẩm chuyên ngành mình đang học thuộc thể loại gì, viết ở hình thứ gì, từ đó việc vỡ bài của các em sẽ rễ ràng và ghi nhớ nhanh hơn. Đồng thời khi thể hiện tác phẩm cũng sẽ đúng phong cách và thể loại hơn, giúp cho người nghe có cảm nhận xâu sắc về tác phẩm. Tập bài giảng được chia thành hai phần. Phần thứ nhất - Nguyên tắc phân tích tác phẩm Âm nhạc: Cung cấp cho học sinh những kiến thức về “tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc” như; Giai điệu, hòa âm, tiết tấu, tiết nhịp, nhịp độ, cường độ, chủ đề và phương pháp phân tích một tác phẩm Âm nhạc. Phần thứ hai - Hình thức Âm nhạc: Trang bị cho học sinh kiến thức về định nghĩa hình thức, cấu trúc và ứng dụng của các hình thức; Đoạn nhạc, đoạn nhạc trong dân ca người Việt, hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, ba đoạn phức, Biến tấu, Rondo, Sonata từ đó các em có thể vẽ được sơ đồ cấu trúc tác phẩm, các vòng hòa âm kết. Đồng thời nói lên được nội dung, ý nghĩa, cũng như tư tưởng tình cảm của các nhà soạn nhạc gửi gắm ở trong những tác phẩm đó. Trong qúa trình biên soạn, tác giả có thể còn có những khiếm khuyết, hoặc chưa cập nhật kịp thời những kiến thức mới, rất mong quý thầy cô, các chuyên gia và người sử dụng góp ý để công trình được hoàn thiện hơn. Lào Cai, năm 2019 Người biên soạn Kiều Đức Thăng 3
  4. MỤC LỤC CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ÂM NHẠC 9 Bài 1. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc, phương pháp phân tích tác phẩm Âm nhạc 9 1. Âm nhạc - Nghệ thuật của âm thanh. 9 2. Phương pháp phân tích tác phẩm. 9 Bài 2. Phương tiện diễn tả cơ bản của Âm nhạc 10 1. Giai điệu. 10 2. Hòa âm. 10 3. Tiết tấu và tiết luật. 10 a. Tiết tấu. 10 b. Tiết luật. 10 4. Âm sắc, âm vực. 11 a. Âm sắc. 11 b. Âm vực. 11 5. Nhịp độ, cường độ. 11 a. Nhịp độ. 11 b. Cường độ. 11 6. Cách cấu tạo. 11 Bài 3. Chủ đề Âm nhạc, những nguyên tắc phát triển trong hình thức Âm nhạc 12 1. Chủ đề âm nhạc 12 a. Chủ đề âm nhạc: 12 b. Giới hạn chủ đề. 12 c. Các giai đoạn trình bày chất liệu chủ đề. 12 d. Các loại chủ đề. 12 . Những nguyên tắc phát triển trong hình thức âm nhạc. 12 Bài 4. Chức năng từng phần của hình thức Âm nhạc 14 1. Phần mở đầu: 14 2. Phần trình bày. 14 3. Phần nối. 14 4. Phần giữa. 14 5. Phần tái hiện 15 6. Phần kết (còn gọi là Coda) nằm ở cuối bài. 15 Bài 5. Sự phân chia trong hình thức Âm nhạc 16 1. Ngắt, cơ cấu, phần. 16 4
  5. a. Ngắt. 16 b. Cơ cấu. 16 c. Phần. 16 2. Môtíp, tiết nhạc, câu nhạc. 16 a. Môtíp 16 b. Tiết nhạc. 17 c. Câu nhạc. 17 CHƯƠNG II. HÌNH THỨC ÂM NHẠC 18 Bài 6. Đoạn nhạc 18 1. Định nghĩa 18 2. Các bộ phận của đoạn nhạc. 18 3. Các dạng đoạn nhạc. 18 a. Đoạn nhạc hai câu có nhắc lại. 18 b. Đoạn nhạc hai câu không nhắc lại. 18 c. Đoạn nhạc ba câu. 18 d. Đoạn nhạc không phân câu. 18 e. Đoạn nhạc phức tạp (còn gọi là đoạn nhạc kép hoặc phức). 18 4. Các bộ phận phụ. 19 5. Ứng dụng của đoạn nhạc. 19 Bài 7. Đoạn nhạc trong dân ca người Việt – người Kinh 20 1. Một số đặc điểm trong dân ca người việt. 20 2. Các dạng đoạn nhạc trong dân ca người Việt. 20 a. Đoạn nhạc 2 câu không nhắc lại, sơ đồ xy. 20 b. Đoạn nhạc 2 câu có nhắc lại, sơ đồ xx’, không có loại hai câu nhắc lại nguyên dạng. 20 c. Đoạn nhạc ba câu. 20 d. Đoạn nhạc 2 câu trong đó câu hai được nhắc lại như một điệp khúc, sơ đồ (xyy) hoặc (xyy’). 20 e. Đoạn nhạc 2 câu được nhắc đi nhắc lại, tạo thành hình thức có tính biến tấu. 20 f. Đoạn nhạc gồm hai thành phần khác nhau, được xây dựng theo lối chu kỳ (hay gặp trong các bài hò; hò sông mã). 20 Bài 8. Hình thức hai đoạn đơn 21 1. Định nghĩa, sơ đồ chung. 21 2. Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc. 21 a. Phần thứ nhất (a): 21 b. Phần thứ hai (b): 21 5
  6. 3. Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần. 21 a. Các phần phụ. 21 b. Sự nhắc lại từng phần. 21 4. Ứng dụng của hình thức hai đoạn đơn. 21 5. Thực hành phân tích. 22 Bài 9. Hình thức ba đoạn đơn 23 1. Định nghĩa, sơ đồ chung. 23 2. Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc. 23 3. Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần. 23 a. Các phần phụ. 23 b. Sự nhắc lại từng phần. 24 4. Ứng dụng của hình thức ba đoạn đơn. 24 5. Thực hành phân tích. 24 Bài 10. Hình thức ba đoạn phức 26 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung. 26 2. Cấu trúc từng phần. 26 a. Phần thứ nhất. 26 b. Phần thứ hai (phần giữa). 26 c. Phần tái hiện. 26 3. Ứng dụng của hình thức ba đoạn phức. 27 4. Thực hành phân tích. 27 5. Hình thức lưng chừng 3-5 đoạn phức. 27 a. Là hai hình thức ba đoạn phức gối đầu nhau. 27 b. Là hình thức ba năm đoạn phức. Cách giải thích này có ý nghĩa đầy đủ hơn, phản ánh nguồn gốc của hình thức, về một khía cạnh khác nó khẳng định số lượng chính xác của các phần (năm phần). 27 Bài 11. Hình thức Rondo 28 1. Định nghĩa. Sơ đồ cấu trúc chung 28 2. Các dạng hình thức Rondo 28 a. Rondo cổ pháp. 28 b. Rondo cổ điển. 28 c. Rondo thế kỷ XIX-XX 29 3. Ứng dụng của hình thức Rondo. 29 4. Thực hành phân tích. 29 Bài 12. Hình thức biến tấu 31 1. Định nghĩa. Sơ đồ cấu trúc chung 31 6
  7. 2 Các dạng biến tấu. 31 a. Biến tấu nghiêm khắc. 31 c. Biến tấu hỗn hợp, biến tấu kép. 31 3. Ứng dụng của hình thức biến tấu. 32 4. Thực hành phân tích. 32 Bài 13. Hình thức Sonate 33 1. Định nghĩa. Sơ đồ chung. 33 2. Các phần của hình thức sonate. 33 a. Phần trình bày. 33 b. Phần phát triển 33 c. Phần tái hiện 33 d. Coda 34 Bài 14. Hình thức Rondo Sonate 35 1. Định nghĩa. Sơ đồ chung. 35 2. Các dạng cấu trúc Rondo sonate. 35 3. Cấu trúc đặc biệt. 35 Bài 15. Hình thức hai đoạn cổ 37 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung. 37 a Phần thứ nhất của hình thức hai đoạn cổ 37 Hoà âm 37 Cấu trúc 37 2. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ 38 Giai điệu chủ đề 38 Hoà âm 38 Cấu trúc 38 3. Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ 39 Bài 16. Hình thức Sonate cổ. 39 1. Đặc điểm chung 39 Phần trình bày 40 2. Phần thứ nhất – Trình bày 40 a. Chủ đề I (chủ đề chính) 41 b. Phần nối 41 c. Chủ đề II (chủ đề phụ) 41 d. Phần kết 42 3. Phần thứ hai – Phát triển và tái hiện 42 4. Sự xuất hiện của phần tái hiện đầy đủ 43 7
  8. GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Hình thức Âm nhạc Mã môn học: MHT16 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học: - Vị trí: Hình thức Âm nhạc là học phần trong khối các môn học lý thuyết cơ sở ngành bắt buộc của chương trình đào tạo Trung cấp và Cao đẳng Âm nhạc chuyên nghiệp – Chuyên ngành; Thanh nhạc, Organ, Nhạc cụ truyền thống. Học phần nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Hình thức Âm nhạc. - Tính chất: Môn học lý thuyết cơ sở ngành bắt buộc - Ý nghĩa và vai trò của môn học: Môn Hình thức Âm nhạc có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc trang bị cho học sinh những nền tảng kiến thức về phương pháp phân tích một tác phẩm Âm nhạc, từ đó có thể phân tích được những tác phẩm chuyên ngành mà học sinh đang học. Bên cạnh đó học sinh còn hiểu được tác phẩm mình đang học thuộc thể loại gì, viết ở hình thức gì, khi đó các em sẽ thể hiện tác phẩm của mình được đúng tính chất hơn. Mục tiêu của môn học: Sau khi hoàn thành môn học này, học viên cần đạt được các mục tiêu sau đây: - Về kiến thức: Trang bị cho học sinh kiến thức về cách phân tích một tác phẩm Âm nhạc. - Về kỹ năng: Sau khi học xong học phần này, học sinh HSSV phân tích được những tác ở các hình thức; Đoạn nhạc, hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, ba đoạn phức, rondo, biến tấu. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Trong giờ lên lớp HSSV phải có trách nghiệm tham gia góp ý xây dựng bài, thái độ học tập nghiêm túc. 8
  9. CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ÂM NHẠC Bài 1. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc, phương pháp phân tích tác phẩm Âm nhạc 1. Âm nhạc - Nghệ thuật của âm thanh. Là một trong những hình thái của ý thức xã hội, phụ thuộc vào hoạt động và quy luật chung của tự nhiên. Âm nhạc thông qua những âm thanh đặc trưng dựa trên hai yếu tố cơ bản là giai điệu và tiết tấu, nó được tổ chức một cách chặt chẽ tạo thành những hệ thống có tính lôgíc, để thể hiện một hình tượng rõ ràng, một nội dung nhất định, những tình cảm sinh động, sâu sắc của con người. + Tiết tấu: Chỉ là đơn âm nhưng được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau. + Tiết nhịp: Là thể hiện những phách mạnh, phách nhẹ. + Đặc trưng: Ví dụ như ở thế kỷ XX người ta sử dụng tất cả các âm thanh để diễn tả tư tưởng tình cảm (như các tiếng động). Một tác phẩm Âm nhạc có tính nghệ thuật cao bao giờ cũng chứa đựng nội dung sâu sắc. Để thể hiện những nội dung ấy các nhà sáng tác đã lựa trọn những hình thức phù hợp, điển hình và không trùng lặp. 2. Phương pháp phân tích tác phẩm. Muốn phân tích một tác phẩm Âm nhạc dù nhỏ nhất như một bài hát tập thể, một làn điệu dân ca, đân vũ cho tới những tác phẩm có quy mô lớn như một bản giao hưởng nhiều chương, một vở nhạc kịch đòi hỏi ta phải có sự hiểu biết rộng toàn diện. Phân tích một tác phẩm Âm nhạc trước hết phải nghiên cứu toàn diện, tổng hợp trong phạm vi rộng của nhiều vấn đề, không chỉ giới hạn về cấu trúc của tác phẩm ấy. Phát hiện nội dung và ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm là công việc chính của phân tích. 9
  10. Bài 2. Phương tiện diễn tả cơ bản của Âm nhạc 1. Giai điệu. Trong toàn bộ phương pháp diễn tả “Giai điệu” giữ vai trò trung tâm, đặc biệt quan trọng. Những khía cạnh quan trọng nhất của giai điệu là mối tương quan về độ cao - thấp; độ dài - ngắn của âm thanh và cả mối quan hệ về hòa âm, điệu tính. Trong một số trường hợp giai điệu còn chứa đựng cả những đường nét biểu hiện về thể loại. Cấu tạo giai điệu: Giai điệu được tạo nên bởi các quãng (đi liền bậc hoặc quãng nhảy) và chiều hướng chuyển động của các quãng đó (đi lên, đi xuống, đi ngang, lượn sóng ) Cách phát triển giai điệu: Sau một bước đi liền bậc cùng hướng thường có một bước nhảy ngược hướng: Sau một bước nhảy xa, lại có những bước tiến hành liền bậc để điền đầy vào khoảng trống do bước nhảy tạo nên. 2. Hòa âm. Hòa âm là một trong những phương pháp diễn tả quan trọng nhất, là động lực tạo thành hình thức Âm nhạc và góp phần tạo nên sự tương phản giữa các hình tượng. Ba khía cạnh quan trọng nhất của hòa âm là; Bổ sung và làm rõ giai điệu. Tạo màu sắc. Công năng. Nếu hòa ân ít thay đổi thì giai điệu có tính dàn trải, ca xướng. Khi phân tích chú ý đến tính công năng. Các màu sắc Các công năng Các giọng 3. Tiết tấu và tiết luật. a. Tiết tấu. Tiết tấu không chỉ là nhân tố của đường nét giai điệu mà còn có ý nghĩa độc lập. Tiết tấu là một trong những phương pháp diễn tả quan trọng của âm nhạc, được phát triển từ rất sớm khi giai điệu và điệu thức còn chưa hình thành. Tiết tấu thường có hai chức năng chính; Tiết tấu là nhân tố tích cực cho sự phát triển hình tượng âm nhạc. Tiết tấu tạo tính thống nhất. Trong một số trường hợp tiết tấu không thay đổi trong cả một phần lớn của hình thức. b. Tiết luật. Là sự luân phiên giữa phách mạnh và phách nhẹ. Tiết luật là hình thức cao của tổ chức tiết tấu. Phách mạnh là điểm tựa có chức năng dẫn dắt còn phách nhẹ với chức năng phụ thuộc. Trong âm nhạc hình thành hai dạng chính của tiết luật: 10
  11. Tiết luật nghiêm khắc: Vị trí trọng âm không thay đổi. Tiết luật tự do: Vị trí trong âm thay đổi tạo nên đảo phách. 4. Âm sắc, âm vực. a. Âm sắc. Âm sắc là màu sắc của âm thanh phụ thuộc vào nguồn gốc âm thanh phát ra. Âm sắc có một vị trí đặc biệt, không phụ thuộc vào một cơ cấu lôgíc như cơ cấu của tiết tấu, điệu thức. Âm sắc có mối liên quan đến một số phương pháp diễn tả đặc biệt là giai điệu. Âm sắc gồm hai loại căn bản khác nhau: âm sắc cuả giọng người và âm sắc của từng loại nhạc khí. Âm sắc của giọng người cũng được phân thành nhiều loại. b. Âm vực. Âm vực thường liên quan đến giai điệu và âm sắc và trong toàn bộp phương pháp diễn tả cơ bản của âm nhạc âm vực ở mức độ thứ hai. Tuy nhiên có tac phẩm hoặc một phần nào đó của một tác phẩm, âm vực có khi lại ở vị trí thứ nhất. Âm vực còn liên quan tới âm sắc như âm sắc của từng loại giọng hát và âm sắc của các nhạc khí, nhất là các loại kèn hơi. 5. Nhịp độ, cường độ. a. Nhịp độ. Nhịp đọ có mối liên quan chặt chẽ đến tiết tấu, tiết luật và cùng các nhân tố này tạo nên sự chuyển động trong âm nhạc. Nhịp đọ có liên quan đến tính chất, đến hình tượng và tính thể loại của tác phâmr âm nhạc. b. Cường độ. Cường độ là phương pháp diễn tả, xác định độ mạnh, nhẹ của âm thanh và liên quan chặt chẽ tới sự chuyển động của giai điệu. Khi âm thanh thể hiện với cường độ mạnh thường biểu hiện sự căng thẳng, tích cực, ngược lại sẽ bình ổn và êm ả, 6. Cách cấu tạo. Cách cấu tạo là phương pháp sắp đặt âm thanh trong tác phẩm âm nhạc gồm có các bè riêng biệt, được phân thành hai dạng cơ bản: một bè và nhiều bè. Cách cấu taọ một bè có ba kiểu khác nhau: bè đơn, đồng âm và tăng đôi trong một vài quãng tám. VD: Như các bài đân ca, hát lĩnh xướng trong hợp xướng Cách cấu tạo nhiều bè được phân thành ba kiểu: Chủ đề (homophonie), bè tòng (héterophonie) và phức điệu (polyphonie). 11
  12. Bài 3. Chủ đề Âm nhạc, những nguyên tắc phát triển trong hình thức Âm nhạc 1. Chủ đề âm nhạc. a. Chủ đề âm nhạc: Chủ đề âm nhạc là một khối phức tạp, chứa đựng tính hoàn thiện về tư duy, sự bố cục về cấu trúc và tính điển hình rõ ràng của hình tượng. Chủ đề âm nhạc là những yếu tố chính dẫn dắt và chi phối bước phát triển trong tác phẩm âm nhạc. Chủ đề âm nhạc còn thống nhất một vài khía cạnh như; đặc điểm cảm xúc, hình tượng, tính chất đặc biệt về thể loại và những đường nét dân tộc độc đáo. Khuôn khổ và cấu trúc chủ đề rất khác nhau; có thể một vài nhịp đến một số nhịp, tùy thuộc vào vai trò chức năng, thể loại âm nhạc b. Giới hạn chủ đề. Chủ đề bắt đầu ở điệu tính chính và kết trọn ở điệu tính chính thì đó là giới hạn hết chủ đề. Cũng có loại chủ đề bắt đầu ở điệu tính này nhưng kết thúc ở điệu tính khác thì chỗ kết chuyển sang điệu tính khác đó là giới hạn hết chủ đề. Giới hạn của chủ đề cũng có thể được xác định ở chỗ sau khi tiến về kết thì xuất hiện một cái mới hoàn toàn tương phản. c. Các giai đoạn trình bày chất liệu chủ đề. Chất liệu chủ đề được trình bày qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu; chứa đựng sự trần thuật đầu tiên của chủ đề, đôi khi cả đoạn nhắc lại chủ đề để củng cố thêm trong nhận thức. Giai đoạn phát triển; các chủ đề được thay đổi phát triển. Giai đoạn kết; khẳng định những đường nét hình tượng cơ bản của tác phẩm bằng việc họa lại chủ đề nguyên dạng hoặc thay đổi. d. Các loại chủ đề. Có hai loại chủ đề. Chủ đề đồng nhất; Là loại chủ đề mà trong đó có một hạt nhân hoặc một vài hạt nhân nhưng gần gũi nhau về tính chất. Chủ đề tương phản; là loại chủ đề có hai chất liệu khác nhau trở lên, tương phản về chất liệu và cấu tạo của nó. . Những nguyên tắc phát triển trong hình thức âm nhạc. Một vài nguyên tắc cơ bản tổng hợp nhất là: Nguyên tắc nhắc lại; Nhắc lại nguyên dạng; là khi nhắc lại chủ đề, nó được giữ nguyên về cấu trúc và độ dài. 12
  13. Nhắc lại có thay đổi; là có nhắc lại nhưng không nguyên dạng. Thay đổi bằng cách thêm hoa mĩ, kết, mở rộng hoặc rút ngắn Nguyên tắc đổi mới âm điệu. Gồm biến đổi chất liệu chủ đề cũ và xuất hiện chất liệu chủ đề mới tương phản (tương phản đối chiếu, tương phản bổ sung và tương phản hoàn toàn). Nguyên tắc tái hiện. Tái hiện nguyên dạng; là khi tái hiện lại chủ đề hoặc một phần nào đó của hình thức được dữ nguyên về khuôn khổ và cấu trúc. Tái hiện có thay đổi; là khi tái hiện lại chủ đề hoặc một phần nào đó của hình thức nhưng không được dữ nguyên về khuôn khổ và cấu trúc. Có thể thay đổi bằng cách mở rộng hoặc rút gọn 13
  14. Bài 4. Chức năng từng phần của hình thức Âm nhạc Chức năng tường thuật của hình thức Âm nhạc. Trong một tác phẩm âm nhạc thường gồm có các phần sau đây; Phần mở đầu -> Trình bày -> Nối tiếp -> Phần giữa -> Phần tái hiện -> Phần kết. 1. Phần mở đầu: Chức năng là phần chuẩn bị cho sự xuất hiện của phần trình bày (phần chính đầu tiên). Đặc điểm: Giới thiệu điệu tính chính, hòa âm chính, có thể đưa ra một vài yếu tố của chủ đề. Có thể giới thiệu phắc tuya phần đệm. Đặc điểm cấu tạo phần mở đầu thường không có cấu trúc, cấu tạo về câu đoạn. Chất liệu: Phần lớn lấy chất liệu ở trong bài, đôi khi dùng chất liệu riêng, trong trường hợp đó gọi là phần mở đầu sử dụng chất liệu độc lập. 2. Phần trình bày. Làm nhiệm vụ trần thuật và trình bày những chủ đề chính, chất liêụ, nội dung, hình tượng chính, luôn luôn ở điệu tính chính. 3. Phần nối. Không bao giờ có nối tiếp giữa phần phụ và phần chính, mà phải ở giữa hai bộ phận chính, hoặc có thể là trung gian để chuyển tiếp giữa hai điệu thức, hoặc hai chất liệu khác nhau. Cấu tạo phần nối thường không có cấu trúc rõ ràng nhưng thường có tình trạng chung là; nửa đầu của phần nối thì gần gũi với phần trước, nửa sau thì gần gũi với phần sau. A B Chất liệu; phần lớn dùng chất liệu trong bài, đôi khi cũng dùng chất liệu riêng. 4. Phần giữa. Phần giữa làm nhiệm vụ phát triển các chất liệu đã đưa ra ở phần trình bày. Phần giữa có hai dạng: Phần giữa phát triển; Sử dụng các chất liệu đã đưa ra ở phần trình bày để phát triển và phát triển bằng các thủ pháp (mô phỏng, mô tiến, chuyển giọng, đảo ảnh ). Đặc điểm; thường chuyển giọng nhiều, hòa âm điệu thức không ổn định, dẫn đến không có cấu trúc rõ ràng. Phần giữa tương phản; là loại phần giữa sử dụng chất liệu mới để phát triển mà chất liệu đó tương phản với phần trình bày. Đặc điểm; thường chuyển sang giọng mới, có cấu trúc rõ ràng (có thể là một đoạn nhạc, hai đoạn hoặc ba đoạn. 14
  15. 5. Phần tái hiện. Giải quyết những mâu thuẫn đã sảy ra ở trong tác phẩm. Đặc điểm; tạo sự ổn định cho tác phẩm. Tái hiện lại các chủ đề và được tái hiện bằng hai cách; Tái hiện nguyên dạng như a – b – a. Tái hiện có thay đổi như a – b – a’. Thay đổi bằng các cách; kéo dài, rút ngắn, thay đổi kết, đảo bè, thêm hoa mỹ. Tuy nhiên bản chất giai điệu vẫn giữ nguyên. 6. Phần kết (còn gọi là Coda) nằm ở cuối bài. Coda là một loại kết bổ sung cho các nhiệm vụ. Có thể làm khẳng định lại một lần nữa điệu tính chính. Có thể làm cân đối hình thức của tác phẩm. Có thể làm nhiệm vụ phát triển liên tục. Về chất liệu phần lớn Coda lấy ở trong bài, đôi khi cũng sử dụng chất liệu riêng. 15
  16. Bài 5. Sự phân chia trong hình thức Âm nhạc 1. Ngắt, cơ cấu, phần. a. Ngắt. Phân chia hình thức âm nhạc thành từng bộ phận riêng biệt và ranh giới giữa chúng xuất hiện sự ngưng nghỉ, chuyển động. Sự ngưng nghỉ tạm thời đó được gọi là ngắt. Ngắt là sự phân chia hình thức thành từng bộ phận, chứa đựng mức độ khác nhau về sự hoàn thiện của hình thức. b. Cơ cấu. Là một bộ phận của hình thức, có mức độ nhỏ hơn về tính độc lập và hoàn thiện. Cơ cấu không thực hiện chức năng lôgic độc lập hoặc chức năng cấu trúc trong hình thức âm nhạc (xem ví dụ 33). c. Phần. Là bộ phận lớn hơn của hình thức, có tính hoàn thiện tương đốivà thực hiện chức năng cấu trúc độc lập (thí dụ phần trình bày hoặc phần tái hiện, cụng như phần giữa trong hình thức âm nhạc). Sự phân chia trong hình thức âm nhạc còn được xác định từ hàng loạt các yếu tố hư: Xuất hiện chất liệu chủ đề mới hoặc hoạt động tương phản. Nhắc lại của chính cơ cấu âm nhạc đã trần thuật. Sự khác nhau của các cơ cấu và các phần lân cận trong khuôn khổ lớn hơn hoặc nhỏ hơn là yếu tố phân chia thường gặp. Bước nhảy trong giai điệu, kết thúc các làn sóng giai điệu, cũng như các cao điểm giai điệu góp phần cho việc phân chia. Xuất hiện nốt nhạc có giá trị trường độ dài hơn ở đầu. Xuất hiện dấu lặng ở ranh giới giữa các cơ cấu. Sự thay đổi về hòa âm. Sự họa lại chất liệu chủ đề cũ sau khi xuất hiện chủ đề mới. Xuất hiện chuyển động tiết tấu mới. Sự thay đổi nhịp độ , điệu tính, âm sắc, âm vực, cường độ, cách cấu tạo Tính chu kỳ của giai điệu, tiết tấu. Là nhân tố chính xác nhất, tạo ra sự phân chia rõ ràng trong hình thức âm nhạc. 2. Môtíp, tiết nhạc, câu nhạc. a. Môtíp. Môtíp là cơ cấu nhỏ nhất với tính hoàn thiện của tư duy, là một tổ âm bao quanh một phách mạnh. VD: (SGK – tr72) 16
  17. Môtíp là hạt nhân cơ bản của chủ đề, có vai trò dẫn dắt sự phát triển trong toàn bộ hình thức. b. Tiết nhạc. Tiết nhạc gồm vài môtíp (ít nhất là hai) có tính độc lập và hoàn thiện nhất định; có âm điệu phong phú hơn môtip, có khuôn khổ lớn hơn và được liên kết theo mối tương quan của nội dung. Có tiết nhạc phân thành từng môtip nhưng cũng có những tiết nhạc không phân thành môtip được. c. Câu nhạc. Câu nhạc gồm một vài tiết nhạc (ít nhất là hai), đôi khi cũng gặp câu nhạc không phân thành tiết nhạc. Câu nhạc biểu hiện tư duy tương đối hoàn thiện, tạo ra điểm chia cắt thời gian trong đường nét chung phát triển của đoạn nhạc. Câu nhạc có thể được kết hoàn toàn hoặc không hoàn toàn, ở điệu tính chính hoặc điệu tính phụ thuộc. Câu nhạc mẫu mực ở thời kỳ cổ điển thường có cấu trúc trẵn 4 nhịp hoặc tám nhịp. VD: (SGK – tr 78) 17
  18. CHƯƠNG II. HÌNH THỨC ÂM NHẠC Bài 6. Đoạn nhạc 1. Định nghĩa. Đoạn nhạc là hình thức nhỏ nhất của một tác phẩm âm nhạc, thể hiện một tư duy âm nhạc hoàn chỉnh, trong đó có tính thống nhất về chủ đề, về điệu tính và tính tập trung về nội dung. 2. Các bộ phận của đoạn nhạc. Đoạn nhạc bao gồm có các bộ phận sau: Đoạn nhạc là trên cùng, dưới đoạn nhạc là câu nhạc, dưới câu nhạc là tiết nhạc, dưới tiết nhạc là mô típ (hay còn gọi là động cơ). VD: (SGK – tr92). 3. Các dạng đoạn nhạc. Các dạng cấu trúc đoạn nhạc rất phong phú, đa dạng nhưng có thể sắp xếp thành 5 dạng điển hình, mẫu mực sau. a. Đoạn nhạc hai câu có nhắc lại. Là đoạn nhạc có hai câu mà câu hai nhắc lại câu một. Có thể là nhắc lại nguyên dạng (xx) hoặc nhắc lại có thay đổi (xx’). Có thay đổi bằng cách; kết hoặc câu 1 dài hơn câu 2 và ngược lại, thêm hoa mĩ luyến láy, đảo bè. b. Đoạn nhạc hai câu không nhắc lại. Là đoạn nhạc mà câu hai không nhắc lại câu một, ký hiệu (x y). Có hai loaị đoạn nhạc hai câu không nhắc lại Câu hai phát triển chất liệu từ câu một (tiết tâú). Câu hai hoàn toàn tương phản với câu một. c. Đoạn nhạc ba câu. Có hai loại; Đoạn nhạc gồm có ba câu khác nhau, ký hiệu (xyz). Đoạn nhạc gồm có ba câu, trong đó câu hai có thể phát triển từ câu một hoặc câu ba phát triển từ câu hai. Tóm lại những câu sau phát triển từ câu trước. Đoạn nhạc ba câu hay gặp nhất là câu ba phát triển từ câu hai. d. Đoạn nhạc không phân câu. Là đoạn nhạc không phân thành câu nhạc nhưng vẫn phân thành tiết nhạc và mô típ. e. Đoạn nhạc phức tạp (còn gọi là đoạn nhạc kép hoặc phức). Đặc điểm gồm hai phần, trong đó mỗi phần là một đoạn nhạc, đoạn hai nhắc lại đoạn một nhưng kết chuyển sang giọng khác. a (xx’) – a’ (xx’’) 18
  19. 4. Các bộ phận phụ. Ngoài các bộ phận chính thì hình thức đoạn nhạc còn có thể có thêm các bộ phận phụ như; mở đầu, nối, coda. Nếu có các bộ phận phụ thì thường lấy chất liệu trong bài, đôi khi cũng lấy chất liệu riêng. 5. Ứng dụng của đoạn nhạc. Hình thức đoạn nhạc chủ yếu được ứng dụng trong thể loại ca khúc và dân ca, đặc biệt là ca khúc thiếu nhi hoặc trong tiểu phẩm nhạc đàn, trong các bài tập. Trong ứng dụng có hai dạng đoạn nhạc; Đoạn nhạc độc lập; là hình thức đoạn nhạc được dùng làm cấu trúc cho toàn tác phẩm. Đoạn nhạc phụ thuộc; là hình thức được dùng làm một phần trong tác phẩm ở hình thức lớn hơn một đoạn. Yêu cầu phân tích. Vẽ sơ đồ đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc. Nêu tên đoạn nhạc, thuộc loại đoạn nhạc nào. Phân tích từng câu, trong đó gồm mấy tiết nhạc, kết ở đâu. Thực hành trên lớp Hãy phân tích dạng đoạn nhạc của tác phẩm sau. V.A. Mozart: Sonate piano No2 chương I, II, III. V.A. Mozart: Sonate piano No5 chương I, II, III. 19
  20. Bài 7. Đoạn nhạc trong dân ca người Việt – người Kinh 1. Một số đặc điểm trong dân ca người việt. Dân ca người Việt có những cái khác với âm nhạc phương tây. Dân ca người Việt phần lớn được sử dụng lời ca là các thể loại thơ ca dân gian. Dân ca người Việt sử dụng nhịp phân đôi, bao giờ cũng có phách lấy đà. Dân ca người Việt phần lớn bắt đầu từ trên cao sau đó xuống thấp dần. Dân ca người Việt sử dụng các thang âm điệu thức chủ yếu là năm âm. 2. Các dạng đoạn nhạc trong dân ca người Việt. a. Đoạn nhạc 2 câu không nhắc lại, sơ đồ xy. b. Đoạn nhạc 2 câu có nhắc lại, sơ đồ xx’, không có loại hai câu nhắc lại nguyên dạng. c. Đoạn nhạc ba câu. d. Đoạn nhạc 2 câu trong đó câu hai được nhắc lại như một điệp khúc, sơ đồ (xyy) hoặc (xyy’). e. Đoạn nhạc 2 câu được nhắc đi nhắc lại, tạo thành hình thức có tính biến tấu. f. Đoạn nhạc gồm hai thành phần khác nhau, được xây dựng theo lối chu kỳ (hay gặp trong các bài hò; hò sông mã). Điệu cung; 2T+2T+3t+2T+3t. Điệu thương; 2T+3t+2T+3t+2T. Điệu giốc; 3t+2T+3t+2T+2T. Điệu chủy; 2T+3t+2T+2T+3t. Điệu vũ; 3t+2T+2T+3t+2T. 20
  21. Bài 8. Hình thức hai đoạn đơn 1. Định nghĩa, sơ đồ chung. Hình thức hai đoạn đơn là hình thức gồm có hai phần, mỗi phần không vượt quá phạm vi một đoạn nhạc. Sơ đồ chung a | b (phần thứ nhất) (phần thứ hai) Hình thức hai đoạn đơn bắt nguồn từ những bài dân ca có phiên khúc (couplet) và điệp khúc (refrain). Chủ đề âm nhạc ở phần thứ nhất còn điệp khúc có nội dung phát triển. Do vậy phần thứ nhất tiêu biểu về chất liệu âm nhạc rõ ràng hơn. 2. Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc. Mỗi phần trong hình thức hai đoạn đơn có chức năng cấu trúc khác nhau. a. Phần thứ nhất (a): Giữ chức năng là phần trình bày, thường là một đoạn đơn có nhắc lại (xx) thường kết hoàn toàn ở điệu tính chính, đôi khi ở điệu tính khác. b. Phần thứ hai (b): Căn cứ vào đặc điểm của (b) mà hình thức hai đoạn đơn được phân thành hai dạng cơ bản; hai đoạn đơn tái hiện và hai đoạn đơn không tái hiện. Hai đoạn đơn tái hiện; là câu thứ hai của đoạn (b) nhắc lại một trong hai câu của đoạn (a). Hai đoạn đơn không tái hiện; là câu hai của đoạn (b) không nhắc lại câu nào của đoạn (a). Hình thức hai đoạn đơn còn có hai dạng; Hai đoạn đơn phát triển; là đoạn (b) sử dụng chất liệu của đoạn (a). Hai đoạn đơn tương phản; là đoạn (b) hoàn toàn dùng chất liệu mới. 3. Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần. a. Các phần phụ. Trong hình thức hai đoạn đơn, ngoài các phần chính còn có thể có thêm các phần phụ như; mở đầu, nối tiếp, coda. Những phần này có chức năng liên kết các phần chính, góp phần hoàn chỉnh hình tượng âm nhạc. b. Sự nhắc lại từng phần. Các phần chính của hình thức hai đoạn đơn cũng có thể được nhắc lại nguyên dạng hoặc có thay đổi như sau: a :||: b :|| hay aa’ bb’ 4. Ứng dụng của hình thức hai đoạn đơn. Là một tác phẩm độc lập như các ca khúc, các tiểu phẩm khí nhạc. 21
  22. Là một phần của tác phẩm có hình thức lớn hơn như; Phần trình bày của hình thức ba đoạn phức, chủ đề của hình thức Rondo, biến tấu 5. Thực hành phân tích. Vẽ sơ đồ đoạn nhạc (a), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Vẽ sơ đồ đoạn nhạc (b), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Tiết: 24, ngày giảng: Nêu tên hình thức hai đoạn đơn thuộc loại nào, dạng nào, nhịp bao nhiêu, giọng gì. Đi vào giải thích từng đoạn, từng câu, kết về đâu. 22
  23. Bài 9. Hình thức ba đoạn đơn 1. Định nghĩa, sơ đồ chung. Hình thức ba đoạn đơn là hình thức gồm có ba phần, mỗi phần không vượt quá khuôn khổ một đoạn nhạc. Mỗi phần của hình thức đều có chức năng độc lập - phần trình bày, phần giữa, phần tái hiện. Sơ đồ chung a | b | a Trình bày Phần giữa Tái hiện Hình thức ba đoạn đơn có mối liên hệ với hình thức hai đoạn đơn có tái hiện. Khi câu tái hiện của đoạn hai hình thức hai đoạn đơn, tiếp tục được mở rộng khuôn khổ trở thành đoạn nhạc độc lập, khi ấy sẽ trở thành hình thức ba đoạn đơn. 2. Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc. Mỗi phần trong hình thức ba đoạn đơn có chức năng độc lập. Phần trình bày (đoạn a): Chức năng là phần trình bày nên thường được viết ở dạng đoạn nhạc hai câu (xx’ hoặc xy). Kết trọn ở điệu tính chính hoặc điệu tính chuyển điệu. Phần giữa (đoạn b): Là phần giữa của hình thức, dựa vào phần này hình thức ba đoạn đơn tái hiện, có thể chia làm hai dạng là ba đoạn đơn phát triển và ba đoạn đơn tương phản. Ba đoạn đơn phát triển; Là đoạn (b) lấy chất liệu từ đoạn (a), trường hợp đơn giản nhất là (b) nhắc lại chất liệu của (a) nhưng ở điệu tính mới. Ba đoạn đơn tương phản; Là đoạn (b) được hình thành từ chất liệu mới. * Đoạn b; Có thể viết ở dạng đoạn nhạc hai câu, ba câu, đoạn nhạc không phân câu hoặc đoạn nhạc rút gọn. Mối quan hệ điệu tính giữa đoạn (b) với đoạn (a) có thể là trưởng thứ cùng tên hoặc giọng thứ song song hoặc chủ át, chủ hạ át. Phần tái hiện (đoạn a’): Có hai loại; Tái hiện nguyên dạng (aba). Tái hiện có thay đổi (aba’). 3. Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần. a. Các phần phụ. Ngoài ba phần chính hình thức ba đoạn phức còn có thể có thêm các phần phụ như; mở đầu, nối, coda. 23
  24. b. Sự nhắc lại từng phần. Cũng giống như một số hình thức khác, hình thức ba đoạn đơn có thể được nhắc lại từng phần. Thông thường phần trình bày được nhắc lại riêng, phần giữa và phần tái hiện được nhắc lại liền nhau. ||: a :||: b a :|| Trình bày Phần giữa Tái hiện 4. Ứng dụng của hình thức ba đoạn đơn. Hình thức ba đoạn đơn được sử dụng rộng rãi cho các tác phẩm ở nhiều thể loại như: Romance, Nocturne, Prelude Có thể dùng để viết tác phẩm độc lập hoặc có thể là một phần của ba đoạn phức, chủ đề của hình thức Rondo, chủ đề của hình thức Sonate. Trong các sáng tác cho thanh nhạc ta còn gặp hình thức ba đoạn đơn không có tái hiện (abc). Đặc điểm của dạng này là các đoạn khác nhau về đường nét giai điệu, về hình tượng cũng như tính chất âm nhạc. Nhưng nó được liên kết với nhau bởi nội dung tư tưởng của bài hát. Hình thức ba đoạn đơn không có tái hiện hiếm gặp trong các tác phẩm khí nhạc. 5. Thực hành phân tích. Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm. Vẽ sơ đồ đoạn trình bày (a), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Vẽ sơ đồ đoạn giữa (b), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Vẽ sơ đồ đoạn tái hiện (a’), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Nêu tên hình thức ba đoạn đơn thuộc loại nào, dạng nào, nhịp bao nhiêu, giọng gì. Đi vào giải thích từng đoạn, từng câu, kết về đâu. Phân tích hình thức cấu trúc của bài hát; Bóng cây Kơnia – sáng tác: Phan Huỳnh Điểu. 24
  25. Bài 10. Hình thức ba đoạn phức 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung. Hình thức ba đoạn phức là hình thức gồm có ba phần tái hiện, trong đó mỗi phần có thể được viết ở hình thức hai hoặc ba đoạn đơn. Phần giữa có cấu trúc tự do hơn hai phần đầu và cuối, đôi khi là một đoạn nhạc phát triển tự do không ổn định (Episode). A B A Phần thứ nhất Phần giữa Phần tái hiện Hai đoạn đơn hai đoạn đơn Hai đoạn đơn Ba đoạn đơn đoạn nhạc phát Ba đoạn đơn triển tự do 2. Cấu trúc từng phần. a. Phần thứ nhất. Giữ chức năng là phần trình bày, có sự thống nhất chủ đề. Điển hình nhất là được viết ở hình thức hai hoặc ba đoạn đơn phát triển, (tuy nhiên đôi khi cũng được viết ở hình thức ba đoạn đơn tương phản). Phần thứ nhất của hình thức ba đoạn phức, thường được bắt đầu và kết thúc ở điệu tính chính, tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ. b. Phần thứ hai (phần giữa). Phần giữa bước vào giai đoạn đối chiếu, tương phản với phần đầu và cuối, sự tương phản đối chiếu có thể bằng nhiều cách như; thay đổi cách cấu tạo, âm vực, đường nét giai điệu mới. Phần giữa của hình thức ba đoạn phức có hai dạng chính. Dạng Trio. Dạng này có hình thành nên cấu trúc hình thức và ổn định điệu tính (tức là cũng có thể được viết ở hình thức đoạn nhạc, hai hoặc ba đoạn đơn). Dạng Episode (đoạn chen). Dạng này không hình thành nên cấu trúc hình thức và không ổn định điệu tính, dù có dùng chất liệu mới hay phát triển chất liệu từ phần trình bày. Dạng này thường tạo ra sự phát triển phong phú, không ổn định, mạnh mẽ hơn dạng Trio. c. Phần tái hiện. Phần tái hiện trong hình thức ba đoạn phức cũng như mọi phần tái hiện trong Âm nhạc, có thể là nguyên dạng hoặc có thay đổi. Tái hiện nguyên dạng; theo mẫu mực cổ điển chỉ cần ghi “Da Capo al Fine”, (tức là biểu diễn lại một lần nữa phần trình bày). Tái hiện có thây đổi; đơn giản nhất là bỏ bớt sự nhắc lại trong từng phần. 26
  26. Ngoài các phần chính thì hình thức ba đoạn phức còn có thể có thêm các phần phụ như; Mở đầu, nối tiếp, Coda. 3. Ứng dụng của hình thức ba đoạn phức. Hình thức ba đoạn phức có thể dùng làm một tác phẩm độc lập cho các loại nhạc cụ, giọng hát khác nhau. Bên cạnh đó nó cũng có thể là một chương trong những tác phẩm lớn hơn như trong các liên khúc Sonata, giao hưởng, Concerto (thường là chương ba). 4. Thực hành phân tích. Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm. Vẽ sơ đồ phần trình bày (A), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Vẽ sơ đồ phần giữa (B), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Vẽ sơ đồ phần tái hiện (A), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Nêu tên hình thức thuộc loại nào, dạng nào, nhịp bao nhiêu, giọng gì. Đi vào giải thích chi tiết. 5. Hình thức lưng chừng 3-5 đoạn phức. Cũng như hình thức ba đoạn đơn, do nhắc đi nhắc lại tạo thành hình thức ba năm đoạn đơn (a b a b a). Hiện tượng này cũng cuất hiện ở hình thức ba năm đoạn phức, trong đó phần giữa và phần thứ nhất xuất hiện thêm một lần nữa (A BA BA). Do sự nhắc lại tạo thành hình thức gồm năm phần vì vậy có thể được giải thích theo hai cách; a. Là hai hình thức ba đoạn phức gối đầu nhau. b. Là hình thức ba năm đoạn phức. Cách giải thích này có ý nghĩa đầy đủ hơn, phản ánh nguồn gốc của hình thức, về một khía cạnh khác nó khẳng định số lượng chính xác của các phần (năm phần). 27
  27. Bài 11. Hình thức Rondo 1. Định nghĩa. Sơ đồ cấu trúc chung. Rondo là hình thức bao gồm nhiều phần, trong đó có một phần được nhắc lại nhiều lần (ít nhất là ba lần) gọi là chủ đề. Xen giữa những lần xuất hiện chủ đề là các phần, đoạn nhạc khác nhau về nội dung tính chất, những phần đó gọi là đoạn chen. Sơ đồ: A B A C A D A . Xuất xứ của hình thức Rondo; Hình thức Rondo được bắt nguồn từ sinh hoạt múa hát quần vũ của phương tây TK XVI-XVII và dược hoàn thiện ở thế kỷ XVIII. Chữ Rondo có hai nghĩa. Hình thức Rondo (là như định nghĩa trên). Thể loại Rondo; Là những tác phẩm có ghi chữ Rondo ở đầu bài nhưng phân tích thì không ra hình thức Rondo. Tóm lại, thể loại Rondo là những tác phẩm mang tính chất nhảy múa vui vẻ. Hình thức này, thường được dùng trong chương III hoặc chương kết của các bản Sonate hoặc giao hưởng 2. Các dạng hình thức Rondo. Có ba dạng chính đó là; Rondo cổ pháp Rondo cổ điển Rondo thế kỷ XIX-XX a. Rondo cổ pháp. Loại này do các nhạc sĩ Clavorxanh ở Pháp thế kỷ XVII sáng tạo ra. Đặc điểm cấu tạo. Chủ đề (A) dùng hình thức đoạn nhạc, khi nhắc lại chủ đề thường không thay đổi hoặc có thay đổi rất ít. Các đoạn tren có đọ dài không được lớn hơn chủ đề. Có thể là một đoạn nhạc hoặc không có cấu trúc, đôi khi nhỏ hơn một đoạn (1 câu). Các đoạn tren không tương phản với chủ đề, có khi sử dụng chất liệu của chủ đề để phát triển. Thường có rất nhều phần, thậm chí có đến 16-32 phần, không bao giờ có nối vì các phần không có sự tương phản. Đoạn tren được phép chuyển sang các giọng họ hàng gần như; át, song song, cùng tên. b. Rondo cổ điển. Loại này được sử dụng trong Âm nhạc thời kỳ cổ điển Viên TK XVIII. Đặc điểm cấu tạo. Tiếp tục những nguyên tắc trong Rondo cổ pháp cộng thêm một số cải tiến như; Chủ đề có thể viết ở hình thức 1,2,3 đoạn. 28
  28. Khi chủ đề nhắc lại có thể có những thay đổi nhất định như; chuyển sang giọng cùng tên, thêm hoa mĩ. Các đoạn tren phải tương phản với chủ đề, phát triển tự do chuyển giọng nhiều, hòa âm điệu tính không ổn định. Rondo cổ điển có thể dùng nói tiếp và dất hay có Coda (coda được coi như phần chính. c. Rondo thế kỷ XIX-XX Tiếp thu Rondo cổ pháp, cổ điển cộng thêm một số đổi mới. Mở rộng tính thể loại, ngoài những tính chất vui vẻ còn có nội dung khác như; chữ tình, vũ khúc mềm mại, hành khúc Sử dụng loại Rondo có nhiều phần kết hợp với tính tổ khúc, trong đó tăng cường sự độc lập của các phần. Có thể biểu diễn trích đoạn mà không cần biểu diễn cả bài. Chủ đề 1,2,3 đoạn, khi nhắc lại có những thay đổi đáng kể như; chuyển giọng, có khi thay đổi cả cấu trúc. Thay đổi ý nghĩa vai trò của đoạn tren. Rondo cổ thì chủ đề là chính nhưng ở TK XIX-XX thì đoạn tren lại là phần chính, có thể được viết ở hình thức 1,2,3 đoạn. Không nhất thiết phải là một chủ đề song đến đoạn tren mà có thể là hai ba đoạn tren ở một chỗ. Thường kết hợp Rondo với các hình thức khác như; A B A C A Coda (Rondo mang tính đoạn phức). A B A C A B A Coda (Rondo mang tính sonate). A B A1 C A2 D A3 Coda (Rondo mang tính biến tấu). Nói chung Rondo ở thời kỳ này mở rộng về quy mô, phức tạp hóa về nội dung. VD: Những bức tranh trong phòng triển lãm của Mu-Xoc-Ki). 3. Ứng dụng của hình thức Rondo. Rondo được sử dụng phổ biến như một chương của liên khúc Sonate giao hưởng, cũng như một số Aria trong các vở nhạc kịch. Đồng thời nó còn dùng làm cấu trúc cho một tác phẩm khí nhạc độc lập. 4. Thực hành phân tích. Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm, nêu tên loại Rondo. Vẽ sơ đồ chủ đề (A), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu. Vẽ sơ đồ đoạn tren. Đi vào giải thích chi tiết. Bài tập: Phân tích các tác phẩm sau đây L. V. Beethoven sonate cho Piano số 2 chương II. L. V. Beethoven sonate cho Piano số 7 chương kết. L. V. Beethoven sonate cho Piano số 8 chương II. 29
  29. Bài 12. Hình thức biến tấu 1. Định nghĩa. Sơ đồ cấu trúc chung. Biến tấu là hình thức gồm có nhiều phần, trong đó chỉ có một chủ đề được nhắc lại nhiều lần nhưng có sự thay đổi. Những lần nhắc lại có thay đổi đó gọi là các biến khúc (Variation). A A1 A2 A3 A4 A5 (cd) (bk) . 2 Các dạng biến tấu. Biến tấu được phân thành hai loại chính đó là; biến tấu nghiêm khắc và biến tấu tự do. a. Biến tấu nghiêm khắc. Là loại biến tấu mà chủ đề khi nhắc lại không thay đổi về điệu tính, cấu trúc hình thức. Biến tấu nghiêm khắc có ba loại chính. Biến tấu trên cơ sở họa lại chủ đề không thay đổi ở bè trầm (basso ostinato) Biến tấu trên cơ sở họa lại chủ đề không thay đổi ở bè cao (soprano ostinato). Dạng biến tấu này được sáng tạo từ M. Glinka và sử dụng phổ biến ở nhạc kịch cổ điển Nga. Hai loại trên phát triển ở TK XVII, sự khác biệt giữa các biến khúc được tạo nên bởi những lối kết hợp khác nhau của các bè trên với bè trầm. Biến tấu trang sức. Biến tấu trang sức là dạng điển hình nhất của biến tấu nghiêm khắc, nó phản ánh đầy đủ, rõ ràng nhất của hình thức biến tấu. Đặc điểm của loại này là đường nét giai điệu của chủ đề luôn luôn được trang sức và đổi mới qua mỗi biến khúc. b. Biến tấu tự do. Biến tấu tự do xuất hiện trong những sáng tác ở thời kỳ giữa của “Beethoven”, loại biến tấu này mở rộng phạm vi và khả năng biểu hiện, phát triển căng thẳng, đổi mới chủ đề. Để đổi mới chủ đề, ngoài nguyên tắc nhắc lại thay đổi còn thực hiện nguyên tắc phát triển. VD: Biến tấu op. 34 cho Piano – F dur của L. V. Beethoven. c. Biến tấu hỗn hợp, biến tấu kép. Biến tấu hỗn hợp; là loại biến tấu tổng hợp những đường nét của hai dạng biến tấu cơ bản là; biến tấu nghiêm khắc và biến tấu tự do. Loại biến tấu này được các nhạc sĩ lãng mạn sử dụng nhiều. VD: Chương kết giao hưởng số 3, chương IV của Beethoven Biến tấu kép; hay còn gọi là biến tấu trên hai chủ đề, là loại biến tấu được xây dựng trên hai chủ đề khác nhau. Cấu trúc của biến tấu này có thể theo hai dạng cơ bản đó là; Biến tấu chủ đề theo thứ tự. 31
  30. A B A1 B1 A2 B2 Biến tấu theo từng nhóm. A B A1 B1 A2 A3 A4 3. Ứng dụng của hình thức biến tấu. Hình thức biến tấu được sử dụng rộng rãi, có thể là một chương trong liên khúc sonate hay còn là một tác phẩm độc lập. Tác phẩm độc lập như; Etude giao hưởng cho piano của R. Schuman 4. Thực hành phân tích. Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm, nêu tên loại Biến tấu. Đi vào giải thích chi tiết. Bài tập: Phân tích các tác phẩm sau đây L. V. Beethoven chương II sonate cho piano số 10. L. V. Beethoven chương I sonate cho piano số 12. 32
  31. Bài 13. Hình thức Sonate 1. Định nghĩa. Sơ đồ chung. Hình thức sonate là một trong những hình thức âm nhạc phức tạp và hoàn thiện nhất. So với những hình thức khác thì hình thức sonate có khả năng biểu hiện lớn nhất, phản ánh những nội dung đa dạng trong cuộc sống; từ những tình cảm nội tâm riêng tư, đến những nội dung tư tưởng phức tạp có tính triết lý, xung đột, căng thẳng. Trình bày - Phát triển - Tái hiện - coda Chủ đề I,II Chủ đề I,II 2. Các phần của hình thức sonate. a. Phần trình bày. Chứa đựng sự trần thuật dầu tiên của chất liệu chủ đề cơ bản để dẫn dắt những bước phát triển tiếp theo. Chủ đề chính Nối tiếp đến chủ đề phụ (chủ đề II) Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Chủ đề phụ Kết phần trình bày b. Phần phát triển Đây là phần trung tâm của hình thức sonate, chứa đựng sự phát triển căng thẳng bằng biến đổi chất liệu chủ đề từ phần trình bày. Theo mối tương quan trong dàn ý chung, phần phát triển cũng được chia thành ba giai đoạn, đặc biệt trong nhiều mẫu mực cổ điển. Giai đoạn đầu; Ở giai đoạn này mức phát triển ở mức độ thấp, vì là giai đoạn bắt đầu. - Giai đoạn phát triển chính; Trải qua những quá trình phức tạp nhất, sâu sắc nhất, căng thẳng nhất trong việc biến đổi chất liệu chủ đề. Giai đoạn chuẩn bị cho phần tái hiện; Thường chứa đựng âm nền trì tục trên bậc át, để chuẩn bị cho sự xuất hiện của điệu tính chính, chùng hợp với sự xuất hiện của phần tái hiện. c. Phần tái hiện Tái hiện lại phần trình bày, thứ tự và sự sắp đặt chất liệu chủ đề tương tự như phần trình bày. Khuynh hướng căn bản là làm dịu đi tính xung đột giữa các hình tượng, bằng cách họa lại chúng trong phạm vi điệu tính chính. 33
  32. d. Coda Ở thời kỳ của Haydn, Mozart nhiều tác phẩm còn không có phần coda, đến thời kỳ thành thục của Beethoven thì coda xuất hiện như một phần không thể thiếu có tính logic. Bài tập: Phân tích tác phẩm sau đây * Mozart Sonate piano số 5 chương I. 34
  33. Bài 14. Hình thức Rondo Sonate 1. Định nghĩa. Sơ đồ chung. Rondo – sonate là hình thức được hình thành có mối quan hệ từ hai hình thức đó là hình thức Rondo và hình thức Sonate. Mối quan hệ này được thể hiện bằng những đường nét điển hình của chúng như; Rondo thì chủ đề họa lại ít nhất là ba lần, còn Sonate thì bằng sự trần thuật và tái hiện hai chủ đề trong mối tương quan về điệu tính được xác định. Sơ đồ chung của hình thức Rondo – Sonate sẽ được hiểu như sau; Cách gọi A B A C A B A Coda Hình thức Rondo Cách gọi Chủ đề Chủ đề Chủ đề Chủ đề Hình thức Sonate chính hai chính hai Mối quan hệ điệu tính giữa AB trong giai đoạn đầu và AB trong giai đoạn cuối, giống như mối quan hệ điệu tính giữa chủ đề một và chủ đề hai ở hình thức Sonate. Sự họa lại chủ đề chính lần cuối trong nhiều trường hợp có thể bỏ, hoặc đôi khi phát triển thành Coda. 2. Các dạng cấu trúc Rondo sonate. Trong thực hành phân tích, tùy vào tác phẩm mà yếu tố đường nét của Rondo hay Sonate được biểu hiện mạnh hơn trong cấu trúc. Nếu đường nét của Rondo thể hiện mạnh hơn thì chủ yếu về mối quan hệ thể loại, tiếp đến là những dấu hiệu như những nét chạy trong nối tiếp và sự tương phản giữa các phần chủ đề và đoạn chen “C”. Những trường hợp dấu hiệu của hình thức Sonate được biểu hiện mạnh hơn. Đoạn chen “C” phần phát triển thay thế chất liệu chủ đề tương phản, phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn nối tiếp giữa chủ đề chính, đôi khi là phần trình bày hình thành bằng giai đoạn kết. Như chương kết Giao hưởng No2 của L. V. Beethoven. 3. Cấu trúc đặc biệt. Trong thực hành phân tích, hình thức Rondo – sonate còn có những cấu trúc khá đặc biệt, như mở rộng thêm doạn chen. Sơ đồ A – B – A – C – A – D – A - B1 - A Coda Có những tác phẩm lại bỏ bớt phần họa lại chủ đề lần thứ ba như; A nối tiếp B A C B1 A B Cadenza Coda Chủ đề hai được trình bày ba lần, giữ vai trò quan trọng cho sự phát triển chương kết. Cung có những trường hợp chủ đề của hình thức này không chỉ họa lại có tính chu kỳ mà còn thay đổi như những biến khúc. Phần Coda trong hình thức Rondo – sonate thường có chức năng tổng hợp, có thể sử dụng chất liệu của đoạn chen “C” và một số chi tiết trong sự phát triển. 35
  34. Hình thức Rondo – sonate ít gặp trong Âm nhạc lãng mạn. 36
  35. Bài 15. Hình thức hai đoạn cổ 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung. Hình thức hai đoạn cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII là hình thức hai đoạn cổ. Phần lớn chúng có sự khác biệt rất lớn so với hình thức hai đoạn thời kỳ sau đó, bởi vì nó không có sự miêu tả riêng. Sự khác biệt cơ bản của hình thức hai đoạn cổ với hình thức hai đoạn thời kỳ sau đó được thể hiện trước hết là ở tỷ lệ giữa hai phần của nó. Phần thứ hai có sự nối tiếp liên tục, độ dài có thể gấp hai hay ba lần so với độ dài của phần thứ nhất. Các phần thường được nhắc lại (đôi khi không nhắc lại). a Phần thứ nhất của hình thức hai đoạn cổ Phần thứ nhất của hình thức hai đoạn đơn cổ thường thuần nhất. Ở một số trường hợp, nó là một đoạn gồm hai câu có giai điệu chủ đề giống nhau. Những giai điệu chủ đề đó thường chịu ảnh hưởng từ âm nhạc của các vũ điệu, mà ở đó ta dễ dàng cảm nhận được sự ảnh hưởng này nhất là ở khía cạnh tiết tấu (ví dụ điệu Gavotte trong các Suite của Bach). Trong các vũ điệu này ta cũng có thể gặp các đoạn nhạc với cấu trúc ba câu. Ở các tác phẩm ấy, giai điệu chủ đề chịu ảnh hưởng từ âm nhạc phức điệu, những giai điệu chủ đề đơn giản với tính định kỳ của cấu trúc ít phổ biến. Giai điệu chủ đề Nhìn chung, giai điệu chủ đề phần thứ nhất của hình thức hai đoạn cổ thường được mở rộng, chúng có thể không phân chia ra các câu nhạc, kết cũng không rõ ràng. Đoạn nhạc thường được bắt đầu bằng những nhân tố chủ đề ngắn, sử dụng các thủ pháp mô-tiến tạo nên sự luân chuyển liên tục, giống như sự luân chuyển chủ đề trong âm nhạc phức điệu. Hoà âm Hòa âm của phần thứ nhất luôn luôn được viết ở giọng điệu chính và kết thúc đầy đủ ở giọng điệu phụ. Nếu giọng điệu chính là trưởng, thì chúng sẽ được kết thúc ở giọng điệu của bậc V trưởng. Nếu giọng điệu chính là thứ, thì chúng sẽ được kết ở giọng trưởng song song hoặc ở giọng điệu của bậc V thứ (đôi khi kết ở giọng điệu cùng tên). Ngoài ra phần thứ nhất còn có thể được kết nửa ở giọng điệu chính của tác phẩm. Cấu trúc Như đã nêu ở trên, phần thứ nhất có cấu trúc một đoạn nhạc với ảnh hưởng của nhạc múa, độ dài của chúng thường là 8 hay 16 nhịp, thậm chí là 12 nhịp với các câu nhạc có độ dài bằng nhau. Nếu là đoạn nhạc phát triển thì cấu trúc của nó sẽ phức tạp hơn, độ dài cũng lớn hơn. Đôi khi phần thứ nhất này có sự phát triển rất lớn (ví dụ như đoạn đầu 37
  36. “Allemande” trong Suite A-dur của Bach là 32 nhịp). Với sự phát triển, mở rộng thì độ dài của nó gần với độ dài của phần hai. 2. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ Giai điệu chủ đề Trong mối tương quan về giai điệu chủ đề, thì phần thứ hai của hình thứ hai đoạn cổ không có gì mới. Giai điệu chủ đề của phần này hoàn toàn dựa trên cơ sở của giai điệu chủ đề của phần thứ nhất. Các nhân tố giai điệu chủ đề ấy được biến đổi bằng cách chuyển sang một âm khu mới, một cao độ mới hoặc chuyển vào một bè khác v.v. Thứ tự dẫn dắt, biến đổi các nhân tố âm nhạc của phần thứ nhất trong một mức độ nào đó cũng gợi nhớ lại âm nhạc của phần trước, nhưng đây hoàn toàn không phải là tái hiện. Tái hiện là điển hình đối với hình thức hai đoạn của các nhạc sỹ thời kỳ sau, còn trong thời kỳ này tái hiện hoàn toàn không có. Hoà âm Hoà âm của phần thứ hai có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất: giọng điệu của phần thứ hai thường được bắt đầu cùng giọng điệu hoặc hợp âm kết thúc phần thứ nhất. Tất nhiên, khi kết thúc phần thứ hai sẽ trở về giọng điệu chính để kết thúc hình thức. Sự kết hợp về hoà âm của hình thức hai đoạn cổ có thể được biểu thị như sau: Phần thứ nhất Phần thứ hai Tác phẩm giọng trưởng: I - V V - I Tác phẩm giọng thứ: I - III III - I hoặc là: I - V V - I Thứ hai: sau bước khởi đầu như trên, hoà âm sẽ được chuyển về hướng hạ át bằng các bước chuyển điệu về giọng điệu của các bậc IV, bậc II hoặc bậc VI. Việc chuyển điệu về các giọng điệu mới này thường được tiến hành ngay sau khi nhắc lại giọng điệu hoặc hợp âm của phần thứ nhất ở đầu phần thứ hai, nhưng nó cũng có thể diễn ra muộn hơn hoặc thậm chí không có. Như vậy, đặc tính chung về hoà âm đã được làm rõ theo thứ tự các bậc T – D – S – T và công thức này đã hoàn toàn được xác định từ đầu thế kỷ XVIII. Nhìn chung, phần thứ hai có sự linh hoạt hơn nhiều so với phần thứ nhất thông qua những biến đổi của hòa âm. Giọng điệu chính của hình thức được khôi phục lại ở cuối phần hai, đôi khi việc khôi phục này lại tiến hành rất muộn. Cấu trúc Phần hai của hình thức hai đoạn cổ tạo nên sự chú ý trước hết ở độ dài của mình. Như đã trình bày ở trên, rất ít khi phần thứ hai có độ dài bằng với độ dài của 38
  37. phần thứ nhất, mà nó thường dài gấp hai hoặc gấp ba độ dài của phần thứ nhất. Tỷ lệ này gắn liền với quá trình biến đổi, chuyển điệu của hoà âm ở phần thứ hai. Phần thứ hai lại được chia ra thành những thành phần âm nhạc, với sự kết thúc riêng của nó và mỗi một thành phần ấy có độ dài tương đương với phần thứ nhất của hình thức. Và như vậy, có thể thấy rằng câu nhạc thứ hai của phần hai, trong một mức độ nào đó, có giá trị như một đoạn nhạc và phần thứ hai của hình thức như là đoạn nhạc phức. 3. Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ Hình thức hai đoạn cổ được áp dụng rộng rãi trong các tác phẩm có quy mô không lớn vào cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII. Trong các phần của Suite như các Vũ điệu , các Prélude cũng như rất nhiều Invention của Bach đã được viết ở hình thức này. Bài 16. Hình thức Sonate cổ. 1. Đặc điểm chung Qua việc tìm hiểu và xem xét hình thức hai đoạn cổ ở phần trên, ta có thể nhận thấy hình thức sonate cổ có mối liên quan với hình thức hai đoạn cổ: chúng đều có chung một đặc điểm là việc chuyển từ giọng điệu phụ khi kết thúc đoạn thứ nhất về giọng điệu chính ở cuối đoạn thứ hai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết thúc toàn bộ hình thức. Việc tiến hành hòa âm như thế có thể thấy rất rõ trong “Allemande” trong tổ khúc nước Pháp (giọng G-dur) của Bach. Ở đó, 6 nhịp bổ sung ở cuối đoạn thứ nhất được chuyển đến cuối đoạn thứ hai và được viết ở giọng điệu chính. Sơ đồ cấu trúc này cũng tương tự như cấu trúc trong Sonate № 11 của D. Scarlatti: Phần thứ nhất Phần thứ hai 4 5 5 4 5 5 a b a b1 Giọng điệu: c c – g g V c V c c Như vậy, ở phần thứ nhất, 5 nhịp giữa như là phần nối chủ đề chính (c-moll) sang chủ đề phụ (g-moll); ở phần thứ hai, 5 nhịp giữa cũng chức năng như phần nối chủ đề chính sang chủ đề phụ - cùng giọng điệu. 39
  38. Để cho từng thành phần trong hình thức có được quy mô và ý nghĩa lớn hơn (ý nghĩa của chủ đề chính, chủ đề phụ), các thành phần này có xu hướng được mở rộng, kéo dài. Đặc điểm này ta có thể gặp trong rất nhiều trong các sonate của Scarlatti. Sơ đồ phổ biến: Phần trình bày Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận a b Giọng điệu chính Chuyển điệu Giọng điệu phụ Bổ sung giọng điệu phụ Phần phát triển - Phần tái hiện Chủ đề I (Nối) Chủ đề II Kết luận a1 b1 Giọng điệu phụ Bước chuyển về giọng điệu chính Giọng điệu chính Bổ sung giọng điệu chính (Từng phần riêng thường được lặp lại) Sơ đồ trên cho thấy hình thức hai đoạn cổ và hình thức sonate cổ có những điểm giống nhau: cả hai hình thức đều có hai phần. Trong phần thứ nhất, hoà âm đi từ ổn định đến không ổn định, phần thứ hai thì ngược lại, từ không ổn định về ổn định (hòa âm của giọng điệu chính). Nhờ vậy, chúng có được cấu trúc đối xứng với sự lặp lại của riêng từng phần. Phần thứ nhất Phần thứ hai T - D D - T Như vậy, sự khác biệt giữa hình thức hai đoạn cổ với hình thức sonate cổ phụ thuộc vào những nhân tố âm nhạc ở cuối các phần cũng như vào số lượng các thành phần tham gia vào hình thức. Nếu việc nhắc lại chỉ là sự chuyển đổi khi kết thúc đoạn nhạc hoặc là sự bổ sung không lớn, thì có thể nói rằng đây là hình thức hai đoạn có một số dấu hiệu của hình thức Sonate. Nếu việc nhắc lại ấy diễn ra với quy mô lớn hơn, tính chất âm nhạc của mỗi thành phần trong phần thứ nhất được thể hiện rõ trong phần thứ hai của hình thức khi ta có thể xác định đây là hình thức Sonate cổ. Sự tương phản về giai điệu chủ đề không là điều bắt buộc của sonate thời kỳ này. 2. Phần thứ nhất – Trình bày Phần trình bày của hình thức sonate cổ, trong cốt lõi có chứa đựng những nhân tố của hình thức sonate hoàn thiện sau này, tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự tương phản rõ ràng và phân chia rành mạch thành phần này với thành phần khác. 40
  39. a. Chủ đề I (chủ đề chính) Chủ đề I rất linh hoạt, thường được xây dựng với quy mô không lớn khoảng từ 8 đến 16 ô nhịp, được viết ở một giọng điệu, kết đầy đủ ở giọng điệu chính hoặc kết nửa trên bậc V (có trường hợp bè chính kết thúc chuyển điệu về bậc V). Âm nhạc chủ đề I thường có ảnh hưởng “xâm nhập” vào cả những thành phần sau nó. Nhìn chung chủ đề I đơn giản, nó thường chứa đựng những yếu tố biến đổi và mô phỏng theo những nhóm sắc thái ngắn. b. Phần nối Giai điệu chủ đề của nối rất gần với chủ đề I, ít khi âm nhạc phần nối không bắt nguồn từ chủ đề I. Nối có nhiệm vụ chuyển đổi, dẫn hoà âm từ giọng điệu chính đến giọng điệu phụ. Có những trường hợp nối được phát triển và mở rộng. Sơ đồ phần trình bày: Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận 14 40 30 6 g As - Es - B c B - F - C - d d d Từ sơ đồ này, có thể dễ dàng nhận thấy thủ pháp mô tiến đã được tác giả sử dụng để xây dựng phần nối. Ngoài ra, nối còn được áp dụng sự tương phản bằng cách sử dụng giọng điệu cùng tên, ví dụ D. Scarlatti, Sonate № 13: Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận G g - d d - D c. Chủ đề II (chủ đề phụ) Theo nguyên tắc, chủ đề II tương phản với chủ đề I rất ít và thậm chí còn có thể được hình thành trên những nhân tố của chủ đề I. Chủ đề II thường ổn định về hoà âm, được viết ở một giọng điệu. Có thể bên trong sự luân chuyển của mình, chủ đề II tạo nên sự tương phản bằng cách sử dụng giọng điệu cùng tên giống như trong bè nối. Chẳng hạn như trong Sonate № 2 của Scarlatti. Chủ đề I Nối Chủ đề II G G - D D - d - D Đôi khi có thể gặp sự tương phản chủ đề ở giọng điệu phụ như là những dự báo cơ sở của hình thức sonate sau đó. Vd. 41
  40. Sự xây dựng chủ đề phụ nhìn chung đơn giản và thuần nhất, gần như là sự nhắc lại một cách tuần hoàn những nhân tố âm nhạc ngắn. d. Phần kết Theo nguyên tắc, phần kết thường ngắn, đó là một loạt những bổ sung cho giọng điệu của chủ đề II. Phần kết luận thường kết hợp với sự kết thúc của chủ đề II, mặc dù thực chất nó là một phần riêng. 3. Phần thứ hai – Phát triển và tái hiện Sự khác biệt của hình thức sonate cổ với hình thức sonate đầy đủ (có ba phần cơ bản là trình bày, phát triển và tái hiện) với hình thức sonate không có phần phát triển là chủ đề chính của hình thức sonate cổ không được nhắc lại. Phần thứ hai của hình thức sonate cổ được bắt đầu bằng việc dẫn dắt có biến đổi những nhân tố của chủ đề chính và những nhân tố này được viết ở giọng điệu phụ, là giọng điệu kết thúc phần trình bày. Đôi khi, người ta còn đưa vào đó cả những nhân tố của phần nối. Giọng điệu phần phát triển trong hình thức sonate cổ khác nhau tuỳ từng trường hợp, nhưng thường được bắt đầu trùng với giọng điệu kết của phần trình bày (giống như trong hình thức hai đoạn). Thứ tự và số lượng các giọng điệu phụ trong phần này cũng không giống nhau, đôi khi nó được xây dựng hoàn toàn chỉ trên một giọng điệu của bậc V. Có trường hợp giọng điệu phần phát triển được chuyển về hướng hạ át giống như trong hình thức hai đoạn (Scarlatti, Sonate № 2) rồi sau đó mới chuyển điệu về giọng điệu chính. Trong phần tái hiện của hình thức sonate cổ, chỉ có chủ đề phụ và phần kết luận được nhắc lại. Những thành phần âm nhạc này về hòa âm đã có sự thay đổi, chúng được đưa vào giọng điệu chính. Như vậy, nhìn từ tổng thể phần thứ hai có sự hợp nhất các đặc điểm của phần phát triển (biến đổi các nhân tố chủ đề chính, một phần nào đó phần nối) và tái hiện (chủ đề phụ và phần kết luận). Vì vậy người ta gọi phần thứ hai của hình thức sonate cổ là phần phát triển - tái hiện. 42
  41. 4. Sự xuất hiện của phần tái hiện đầy đủ Trong việc chiếm ưu thế gần như tuyệt đối của hình thức hai đoạn và hình thức sonate cổ, các nhạc sỹ luôn tìm tòi, xác lập nên những cấu trúc riêng khác mà ở đó phần trình bày luôn thuần nhất, phần phát triển và phần tái hiện có vị trí riêng. Phần thứ hai là sự phát triển, biến đổi các nhân tố của chủ đề chính. Khi các nhân tố của chủ đề chính đã được tận dụng hết để biến đổi sẽ xuất hiện phần tái hiện. Ở phần tái hiện, chủ đề I, rồi lần lượt đến nối, chủ đề II sẽ được nhắc lại ở cùng giọng điệu của chủ đề I. Như vậy, hình thức sonate này đã có được cấu trúc với đầy đủ ba phần (Scarlatti, Sonate № 30). Cấu trúc này sau đó đã trở thành cấu trúc hoàn chỉnh của hình thức sonate. 5. Ứng dụng hình thức Sonate cổ Hình thức sonate cổ được viết rất nhiều trong các sáng tác của Scarlatti cũng như rất nhiều các nhạc sỹ cùng thời khác. Ngoài ra, hình thức sonate cổ còn được viết trong các hình thức khác, chẳng hạn là một phần của Suite. 43