Những cơ hội và thách thức đối với ngành ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP

pdf 11 trang Gia Huy 24/05/2022 1030
Bạn đang xem tài liệu "Những cơ hội và thách thức đối với ngành ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhung_co_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_nganh_ngan_hang_viet_nam.pdf

Nội dung text: Những cơ hội và thách thức đối với ngành ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP

  1. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP TS. Nguyễn Thanh Phương1 Tóm tắt Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) không chỉ tập trung vào tự do hóa đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa mà còn mở rộng đối với lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, trong đó có các ngành dịch vụ tài chính ngân hàng. Các nước TPP cam kết tuân thủ các nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo cách tiếp cận chọn bỏ, ngoại trừ những lĩnh vực được đưa vào danh mục bảo lưu có chọn lọc. Việc thực thi Hiệp định này mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức lớn đối với ngành dịch vụ tài chính của Việt Nam. 1. Giới thiệu về Hiệp định TPP, quá trình gia nhập TPP của Việt Nam và các cam kết trong lĩnh vực tài chính ngân hàng 1.1. Hiệp định TPP Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chilê, Niu Di-lân và Singapore (P) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-hi-cô. Tháng 4 năm 2005, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4 (do ban đầu chỉ có 3 nước tham gia). Đây là một Hiệp định Tự do Thương mại thế hệ mới chính thức được ký kết giữa 4 quốc gia trên vào ngày 3/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 28/5/2006. Từ tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp theo đó, tháng 11 năm 2008, Úc và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP. Tại buổi họp báo công bố việc tham gia của Úc và Pê-ru, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết lập một khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho đến nay. Ban đầu Hiệp định TPP - P4 có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ, vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ và minh bạch hóa. Theo đánh giá thì điểm nổi 1 Trường Đại học Thương mại. Email: ntpdhtm@gmail.com 442
  2. bật nhất của P4 là tự do hóa rất mạnh về hàng hóa. Thuế nhập khẩu được xóa bỏ hoàn toàn và phần lớn là xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực. Về dịch vụ, P4 thực hiện tự do hóa mạnh theo phương thức chọn - bỏ. Theo đó, tất cả các ngành dịch vụ đều được mở, trừ những ngành nằm trong danh mục loại trừ. Ngoài ra, còn có một chương về hợp tác và 02 văn kiện đi kèm về hợp tác môi trường và hợp tác lao động. Cũng theo thỏa thuận, các bên tham gia P4 sẽ tiếp tục đàm phán và ký 02 văn kiện quan trọng về đầu tư và dịch vụ tài chính, chậm nhất là sau 02 năm kể từ khi P4 chính thức có hiệu lực (tức là từ tháng 5 năm 2008). Hiện tại sau 8 năm đàm phán, Mỹ và 11 nước trong khu vực Thái Bình Dương đã đạt được thoả thuận thương mại lớn nhất trong khu vực từ trước tới nay với khả năng trở thành chuẩn mực mới cho nền thương mại trên toàn thế giới cũng như tiêu chuẩn về lao động hợp nhất cho 40% tổng GDP của thế giới, từ Canada, Chile tới Nhật, Úc và đặc biệt là Việt Nam. Nội dung của Hiệp định TPP hoàn chỉnh bao gồm 30 chương về thương mại và các vấn đề liên quan đến thương mại, từ thương mại hàng hóa đến hải quan và trợ giúp thương mại; biện pháp vệ sinh dịch tễ; rào cản kỹ thuật đối với thương mại; biện pháp phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện tử; mua sắm công; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường; các chương “ngang” nhằm mục đích đảm bảo TPP tận dụng được các tiềm năng về phát triển, năng lực cạnh tranh, và sự toàn diện; giải quyết tranh chấp, các điều khoản ngoại lệ, và điều khoản thi hành. Ngoài cập nhật các phương pháp truyền thống đối với vấn đề của các hiệp định thương mại tự do trước đây, TPP còn đưa vào các vấn đề thương mại mới và các vấn đề xuyên suốt, bao gồm các vấn đề liên quan đến internet và nền kinh tế kỹ thuật số, sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước trong đầu tư và thương mại quốc tế , khả năng của các doanh nghiệp nhỏ để tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại, và các chủ đề khác. Như vậy, TPP là hình thức hội nhập “theo chiều sâu”, trong đó các cam kết mạnh mẽ hơn, ở nhiều lĩnh vực hơn và do đó mức độ tác động tới hiện tại và tương lai của nền kinh tế cũng như của mỗi ngành cũng lớn và phức tạp hơn. Hiệp định TPP có sứ mệnh hướng tới việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. 1.2. Quá trình đàm phán gia nhập TPP của Việt Nam Từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã tích cực mời Việt Nam tham gia TPP 443
  3. - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này của Singapore. Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc lại việc tham gia hay không tham gia TPP. Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên liên kết. Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách trên tại Úc (tháng 3 năm 2010), tại Hoa Kỳ (tháng 6 năm 2010) và Brunei (tháng 10 năm 2010) Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Về nội dung đàm phán, Việt Nam và gần 20 nhóm đàm phán của các nước đã bước vào giai đoạn thảo luận thực chất trên cơ sở các đề xuất và văn bản thể hiện quan điểm của mỗi quốc gia thành viên trong từng lĩnh vực cụ thể thuộc phạm vi của Hiệp định. Một số nhóm đã đạt được những tiến bộ nhất định trong việc thu hẹp khoảng cách về quan điểm trong các lĩnh vực như mở cửa thị trường đối với hàng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đầu tư, Sau hơn 5 năm với 20 vòng đàm phán, cuối cùng, vào ngày 5/10/2015, quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã chính thức hoàn tất, mở ra một khu vực tự do lớn nhất thế giới với sự tham gia của 12 nước thành viên. 1.3. Một số quy định của TPP liên quan tới lĩnh vực tài chính ngân hàng Những quy định liên quan đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng được thể hiện trong 2 chương “Đầu tư” và “Dịch vụ tài chính”. Những quy định này nêu rõ, các nước tham gia TPP phải cam kết tuân thủ nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo cách tiếp cận chọn bỏ, ngoại trừ những lĩnh vực được đưa vào danh mục bảo lưu có chọn lọc. Với kỳ vọng đưa TPP trở thành hiệp định tự do hóa của thế kỷ XXI, các nước thành viên đã cùng đưa ra những cam kết sâu rộng về tăng cường tiếp cận thị trường tài chính, đặc biệt là mở cửa các loại hình dịch vụ tài chính - ngân hàng. Mặc dù yêu cầu cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng các nước trong TPP có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Giống như WTO hay các hiệp định thương mại tự do khác, TPP cũng quy định đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, tiếp cận thị trường và một vài quy định cụ thể về việc cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới. Tuy nhiên, theo nội dung đã cam kết đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch vụ của một nước TPP 444
  4. có thể cung cấp dịch vụ tài chính tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Các nước thành viên của TPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số quy tắc trong hai phụ lục đính kèm theo TPP và phù hợp với điều kiện của từng nước: (i) Các biện pháp hiện hành quy định bên tham gia phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất cứ biệp pháp chế tài nào khác trong tương lai cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này và (ii) Các biện pháp và chính sách quy định bên tham gia có đầy đủ quyền tự quyết trong lâu dài. Các nước TPP cũng đặt ra nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan trọng của các quy trình thủ tục pháp lý nhằm khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm của các nhà cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục tiêu này. Ngoài ra, Hiệp định TPP cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ thẻ thanh toán điện tử và chuyển giao thông tin để phục vụ mục đích xử lý dữ liệu. Tuy nhiên, TPP cũng đề cập đến các trường hợp ngoại lệ trong việc bảo hộ quyền tự chủ của các nhà quản lý tài chính của các nước TPP, trong đó họ sẽ được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn đình tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình, bao gồm những quy định ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ hay các chính sách khác. Việt Nam cam kết các nội dung sau về dịch vụ tài chính: (i) Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa (dịch vụ quản lý danh mục đầu tư, cung cấp và lưu chuyển thông tin tài chính, các dịch vụ chứng khoán phụ trợ; (ii) Tăng cường minh bạch hoá ; (iii) Bảo hộ đầu tư (cơ chế giải quyết tranh chấp minh bạch, rõ ràng và có hiệu quả); (iv) Cho phép áp dụng các ngoại lệ và các quy định thận trọng. 2. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Ở Việt Nam hiện nay đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng mạnh thực sự tầm cỡ quốc tế. Các ngân hàng đã đua nhau mở rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn (phát triển theo chiều rộng). Việc này dẫn đến tình trạng các các tổ chức tín dụng cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà quên mất các sản phẩm và dịch vụ tiện ích kèm theo. Không những thế, các ngân hàng mở rộng quy mô nhưng do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng nên công tác quản trị không theo kịp quy mô phát triển. Khủng hoảng kinh tế kéo dài suốt từ năm 2008 đến nay cũng đem đến rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng. Một số ngân hàng đã không thể duy 445
  5. trì được mức tăng trưởng trong những năm vừa qua. Đây chính là cơ sở để khẳng định rằng xu hướng sáp nhập trong ngành ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Ngoài ra, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mai Việt Nam trong thời gian qua còn bộc lộ rất nhiều yếu điểm như: tỷ lệ nợ xấu cao (tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,02% cao thứ tư trong khu vực cao hơn các nước Singapore, Malaysia và Cambodia), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam có xu hướng giảm, tỷ lệ sinh lời thấp nhất trong khi đó tỷ lệ chi phí trên thu nhập cao thứ hai trong số 7 nước thuộc thu vực ASEAN. Bên cạnh đó, các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa hoạt động theo chuẩn mực quốc tế cả về quản trị rủi ro và quản trị công ty. Chẳng hạn việc tuân thủ Basel II mới chỉ được thí điểm tại 10 ngân hàng mà chưa được thực hiện trong toàn hệ thống. Điều này cho thấy các ngân hàng Việt Nam đang kém hơn rất nhiều so với các ngân hàng đối thủ. 3. Cơ hội và thách thức đối với ngành ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP 3.1. Cơ hội đối với ngành ngân hàng Việt Nam Thứ nhất là cơ hội tăng cường về quy mô tín dụng và các dịch vụ ngân hàng Do lưu thông tiền tệ trong các nước TPP thuận lợi, tỷ giá ổn định, dòng tiền đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ dẫn tới nền sản xuất trong nước tăng trưởng mạnh, xuất khẩu cũng sẽ tăng mạnh. Ước tính, GDP Việt Nam sẽ tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Bên cạnh đó, TPP giúp hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam thuận lợi hơn khi tiếp cận thị trường các nước đối tác thông qua cắt giảm thuế quan, bãi bỏ các điều kiện hạn chế đối với đầu tư, dịch vụ. Xuất khẩu ước tính sẽ tăng thêm 68 tỷ USD vào năm 2025. Điều này mở ra cơ hội cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đồng hành hỗ trợ vốn, dịch vụ cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu trong tương lai. Thứ hai là cơ hội cải thiện năng lực quản trị và năng lực tài chính từ đó nâng cao năng lực tài chính Lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ mở rộng hơn theo các cam kết chung. Theo đó, Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào chính ngành ngân hàng - nơi cần vốn, công nghệ và năng lực quản lý điều hành cao. Hơn nữa, các NHTM có nhiều khả năng nới tỷ lệ nắm giữ cho các đối tác chiến lược nước ngoài. Điều này sẽ tạo điều 446
  6. kiện mở rộng hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội địa làm tiền đề để phát triển ngành ngân hàng Việt Nam trong tương lai. Hơn nữa, khi gia nhập TPP, các tổ chức tài chính và ngân hàng của các nước thành viên TPP sẽ gia tăng sự xuất hiện tại thị trường Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc tạo ra sức ép cạnh tranh bắt buộc ngành ngân hàng Việt Nam phải đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ theo hướng đáp ứng đầu đủ và nhanh chóng nhu cầu của khách hàng bằng nhiều phương thức an toàn và tiện lợi. Đây là một nhiệm vụ không dễ dàng nhưng ngành ngân hàng Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được nhờ cơ hội tự do tiếp cận và áp dụng các trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến, vốn đầu tư và năng lực chất lượng cao từ các thành viên TPP. Thứ ba là cơ hội tăng tính minh bạch hóa và hiệu quả quản trị rủi ro khi hoạt động hướng theo các tiêu chuẩn quốc tế Tham gia TPP là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính mịnh bạch, tính tự chịu trách nhiệm của ngành ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng và thực hiện các cam kết của hiệp định, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. 3.2. Những nguy cơ đối với ngành ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP Thứ nhất là sự gia tăng áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Sau khi TPP có hiệu lực, tự do hóa hàng hóa và dịch vụ, trong đó có lĩnh vực dịch vụ tài chính - ngân hàng sẽ được mở cửa rộng nhất nếu so sánh với các FTA của Việt Nam trước đây. Chẳng hạn, cam kết mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Mỹ, được ký kết vào năm 2000, Việt Nam cam kết mở cửa rất hạn chế cho Mỹ tham gia vào cung ứng dịch vụ ngân hàng - tài chính. Trong khi đó, tham gia TPP, Việt Nam phải cam kết mở rộng ngành dịch vụ tài chính - ngân hàng với mức độ sâu hơn, xóa bỏ dần các điều kiện tiếp cận thị trường tài chính - ngân hàng và không chỉ cam kết với riêng Mỹ, mà còn phải mở cửa rộng hơn với 10 nước khác có trình độ phát triển khác nhau nên tác động của việc mở cửa dịch vụ tài chính - ngân hàng cũng sẽ lớn hơn. Như vậy, với sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng của các nước trong TPP, đặc biệt các định chế tài chính đến từ Mỹ, Nhật Bản và Úc thì áp lực cạnh tranh trong ngành ngân hàng sẽ ngày càng tăng lên. Các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính và khả năng quản trị chuyên nghiệp sẽ gia tăng sức ép đối với khối ngân hàng trong nước. Đặc biệt, khi TPP cho phép ngân hàng của các nước trong TPP được cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng xuyên biên giới. Nghĩa 447
  7. là ngân hàng ở Mỹ có thể cung cấp dịch vụ về thẻ, chuyển tiền cho người dân Việt Nam mà không cần có chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam thì thách thức về cạnh tranh dịch vụ lại càng gia tăng mạnh hơn. Thứ hai là nguy cơ các NHTM trong nước bị suy yếu năng lực cạnh tranh, bị mất thị phần và bị thâu tóm bởi các ngân hàng ngoại Theo cam kết trong TPP, các điều kiện tiếp cận thị trường sẽ dần được xóa bỏ. Điều này cũng là một thách thức mà các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt do những hạn chế của hệ thống ngân hàng. Việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam tuy đã có những cải thiện nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế khi việc “phủ sóng” của các ngân hàng thương mại chưa rộng. Nếu so sánh với một số nước trong khu vực và trên thế giới nói chung thì khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam còn chưa cao, mức độ phân bố các chi nhánh và phòng giao dịch chưa đồng đều, chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm như thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này sẽ tăng cơ hội tiếp cận thị phần khách hàng trong nước cho ngân hàng có bề dày và có chiến lược “bán lẻ” tốt với những thế mạnh về sản phẩm dịch vụ, công nghệ, kỹ năng tiếp cận khách hàng chuyên sâu của các nước như Mỹ, Nhật đầu tư vào Việt Nam. Đây là một nguy cơ đe dọa thị trường tiềm năng của ngân hàng trong nước, có thể khiến ngân hàng nội địa mất dần các phân khúc thị trường quan trọng. Bên cạnh đó, những bất cập về quản trị rủi ro tại các ngân hàng trong nước và nợ xấu hệ thống ngân hàng đang có xu hướng gia tăng. Cùng với năng lực quản trị yếu kém và vi phạm các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro, chính là một trong các điểm yếu, làm giảm năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Nguy cơ không cạnh tranh được, mất thị trường vào tay các ngân hàng nước ngoài sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy trong hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường. Đó là hiện tượng chuyển giá sẽ ngày càng gia tăng và khó có thể quản lý vì các ngân hàng nước ngoài thường đi theo các doanh nghiệp nước họ khi đầu tư ra nước ngoài. Sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong đối phó các vấn đề tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài như chuyển giá, bất ổn về an ninh tiền tệ, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Thứ ba là sự đa dạng hóa trong nguồn thu nhập của các NHTM trong nước thấp, gây khó khăn so với các ngân hàng trong khu vực Các dịch vụ mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đang cung cấp chưa phong phú và linh hoạt, chính vì vậy, nguồn thu chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay chủ yếu trông vào hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ thu nhập ngoài lãi 448
  8. cũng chỉ chiếm có 26%, so với các ngân hàng trên thế giới khoảng 30% - 40% thì đây là mức thu cũng còn khiêm tốn. Đối với ngân hàng ở nước phát triển như Singapore có tỷ lệ này rất cao là 63%. Bên cạnh đó, khả năng sinh lời (ROE) của ngân hàng Việt Nam cũng rất thấp chỉ ở mức 5,5%, vì chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra chỉ khoảng 3%, thấp nhất so với ngân hàng khu vực. Trong khi đó, các ngân hàng Việt Nam lại phải trích lập dự phòng rủi ro lớn để xử lý nợ xấu khiến tỷ lệ sinh lời rất thấp. Nếu không cải thiện thực trạng trên, các ngân hàng Việt Nam sẽ gặp khó khăn so với các ngân hàng khu vực. Thứ tư là những yếu kém của thể chế và đội ngũ quản lý làm tăng nguy cơ về rủi ro tài chính Thể chế dành cho ngành Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn bất cập. Cùng với đó là chất lượng của đội ngũ nhân lực quản lý cấp cao, khả năng quản trị rủi ro và định hướng chiến lược phát triển tập trung chưa cao. Mặt khác, gia nhập TPP có thể làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng trong điều kiện cơ chế quản lý chưa thật sự hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam Đồng thời, vấn đề liên quan đến tự do hóa tài khoản vốn trong đàm phán TPP cũng đưa ra nhiều thách thức liên quan đến nội dung giao dịch xuyên biên giới (mặc dù cũng mở ra nhiều cơ hội, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp xúc với luồng vốn ngoại của khu vực). Vướng mắc là thị trường chứng khoán Việt Nam và các thị trường trong khu vực vẫn còn sự khác biệt, không chỉ đơn thuần là vấn đề kỹ thuật, mà quan trọng nhất là sự kết nối đó phải đảm bảo cho nhà đầu tư có thể giao dịch tại chỗ thông qua hệ thống thanh toán bù trừ tại các thị trường chứng khoán khác nhau. Hiện nay, một số quy định ở trong nước vẫn là những rào cản cho việc kết nối này như quy định hạn chế tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp chỉ ở mức 49% (ở các ngân hàng là 30%), chưa tự do hóa tài khoản vốn (liên quan đến việc chuyển đổi giữa tiền đồng và ngoại tệ). Mặt khác, TPP sẽ tạo điều kiện cho dòng vốn đầu tư gián tiếp luân chuyển giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, sự gia tăng dòng vốn, nhất là từ nước ngoài vào cũng làm gia tăng nguy cơ về bong bóng giá tài sản và vấn đề rút vốn đột ngột có thể sẽ gây mất ổn định cho quốc gia nhận vốn. Thực tế, hầu hết các ngân hàng thương mại ở Việt Nam có năng lực quản trị rủi ro thấp và nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng gia tăng. Một số ngân hàng có năng lực quản lý yếu kém, vi phạm các nguyên tắc quản trị 449
  9. doanh nghiệp và quản trị rủi ro sẽ phải đối mặt với nguy cơ lớn hơn. Việc tham gia TPP cũng khiến Việt Nam có thể đối diện với nhiều bất ổn tiềm tàng. Rủi ro từ việc phụ thuộc vốn ngoại sẽ tăng lên cho nền kinh tế Việt Nam. Với tỷ lệ nợ nước ngoài ngày một tăng lên, cộng với tầm quan trọng của tỷ trọng FDI trên cán cân thanh toán và sự mở cửa hơn nữa của thị trường chứng khoán khiến Việt Nam đang ngày càng phụ thuộc vào vốn ngoại. Trong bối cảnh đó, khi thị trường tài chính toàn cầu gặp những cú sốc lớn khiến dòng vốn quốc tế biến động mạnh, nền kinh tế Việt Nam sẽ càng dễ tổn thương. Một cú sốc khiến vốn ngoại ngưng vào hoặc chảy ra sẽ tác động khó lường tới sức ép phá giá ngoại tệ và sự ổn định của hệ thống tài chính. Sức ép bị thâu tóm và chi phối có thể tăng mạnh đối với lĩnh vực ngân hàng. 4. Một số kiến nghị 4.1. Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần quyết tâm, mạnh dạn đổi mới chính sách quản lý, điều hành, tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ để thiết lập môi trường vĩ mô ổn định cũng như chung tay hỗ trợ định hướng tầm nhìn phát triển chiến lược cho ngành ngân hàng. Thứ hai, TPP đặt ra yêu cầu cao về khả năng kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều kiện mở cửa thị trường tài chính ngân hàng, bởi tham gia vào sân chơi TPP, những rủi ro hệ thống của các ngân hàng thương mại Việt Nam rất dễ xảy ra khi thị trường tiền tệ Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn hơn trước những biến động nhanh nhạy của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Chính vì vậy, để tránh được rủi ro này, công tác thanh tra, giám sát vĩ mô và giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước phải dựa trên tiêu chuẩn thanh tra, giám sát quốc tế. 4.2. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam Thứ nhất, các ngân hàng thương mại Việt Nam nên chủ động nghiên cứu, xây dựng kịch bản, kế hoạch hành động với chương trình cụ thể để ứng phó ngay với những thách thức khi TPP có hiệu lực. Đồng thời, việc không ngừng thay đổi để phù hợp với yêu cầu của những quy định của TPP cũng là yêu cầu cấp bách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Thứ hai, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần chủ động cải tiến hoạt động, mở rộng và đa dạng hóa các dịch dụ ngân hàng, tạo điều kiện cho việc tiếp cận dễ dàng hơn các dịch vụ do ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp, tránh để thị trường dịch 450
  10. vụ ngân hàng mất dần vào tay các ngân hàng nước ngoài. Việc cải tiến các hoạt động kinh doanh tiền tệ, cũng sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trở thành ngân hàng đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh để có thể được xếp hạng cùng các ngân hàng khác trong khu vực và trên thế giới theo các tiêu chí về vốn, tổng tài sản, năng lực quản lý, lợi nhuận, khả năng thanh khoản, thông tin công khai, minh bạch và độ thích ứng với thị trường. Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng. Cho đến nay, phần lớn các ngân hàng thuộc các nước thành viên TPP đã đi gần hết chặng đường trong việc áp dụng hệ thống quản trị rủi ro theo Basel II (Hiệp ước do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng thiết lập) và đang bắt đầu tiếp cận với Basel III. Trong khi đó, theo lộ trình, phải đến năm 2018, 10 ngân hàng thương mại Việt Nam mới hoàn thành thí điểm thực hiện Basel II. Sự chậm chạm này có thể sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại. Khắc phục tình trạng trên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải nỗ lực đẩy mạnh việc nâng cấp các chuẩn mực quản trị, hướng đến các thông lệ quốc tế để đủ năng lực, tự tin tham gia vào “sân chơi” TPP cũng như hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và quốc tế. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Thị Tường Anh, “Doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì khi tham gia TPP”, Tạp chí tài chính 2013, truy cập ngày 12/5/2016 tại: /Doanh-nghiep-Viet-Nam- phải-lam-gi-khi-tham-gia-TPP/26860.tctc 2. Đặng Khanh, “Vào TPP, kinh tế Việt Nam được-mất gì”, , truy cập ngày 12/5/2016 tại: 307957.vov. 3. Giới thiệu tóm tắt về TPP, Trung tâm thương mại WTO, truy cập ngày 12/5/2016 tại: hiep-dinh-thuong-mai-xuyen-thai-binh-duong-tpp. 4. PGS.TS. Hà Văn Hội, “Tham gia TPP, cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 3+4/2016. 5. Peter A. Petri and Michael, “TPP and Asian Intergration policy implication”, G. Plummer, Peterson Institute for International Economics, June 2012. 451
  11. 6. Brock R. Williams, 2013“Trans-Pacific Partnership (TPP) Countries Comparative Trade and Economic Analysis, CRS Report for Congress”. 452