Những thành tựu nổi bật trong hợp tác nghiên cứu khảo cổ học Việt - Nga

pdf 7 trang Hùng Dũng 05/01/2024 100
Bạn đang xem tài liệu "Những thành tựu nổi bật trong hợp tác nghiên cứu khảo cổ học Việt - Nga", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhung_thanh_tuu_noi_bat_trong_hop_tac_nghien_cuu_khao_co_hoc.pdf

Nội dung text: Những thành tựu nổi bật trong hợp tác nghiên cứu khảo cổ học Việt - Nga

  1. Khoa học Xã hội và Nhân văn Những thành tựu nổi bật trong hợp tác nghiên cứu khảo cổ học Việt - Nga Nguyễn Khắc Sử* Hôi Khao cô hoc Việt Nam Ngày nhận bài 23/2/2018; ngày chuyển phản biện 27/2/2018; ngày nhận phản biện 26/3/2018; ngày chấp nhận đăng 29/3/2018 Tóm tắt: Lĩnh vực hợp tác khai quật, nghiên cứu khảo cổ học luôn chiếm vị trí quan trọng trong hợp tác giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây và Nga ngày nay. Một trong những hoạt động hợp tác nổi bật trong thời gian gần đây là Chương trình hợp tác giữa Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khảo cổ học - dân tộc học Novosibirsk thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga (2009-2019). Trong chương trình này, hai bên đã cùng nhau tổ chức và thực hiện các cuộc khảo sát thực địa; trao đổi ngắn hạn cán bộ nghiên cứu khoa học, trao đổi các ấn phẩm khoa học, tư liệu; viết bài về những phát hiện khảo cổ học mới nhất ở Việt Nam, Nga và cung nhau công bố. Hai bên đã cùng tham gia các chương trình sinh hoạt khoa học (các hội thảo do hai nước hoặc nhiều nước tổ chức, giảng bài, báo cáo khoa học) và cùng tìm kiếm nguồn kinh phí tài trợ thực hiện chương trình hợp tác theo hướng hai bên cùng quan tâm. Thành tựu nổi bật nhất trong Chương trình hợp tác này là kết quả khai quật, nghiên cứu hang Con Moong (Thanh Hoa) và hệ các di tích sơ kỳ Đá cũ ở An Khê (Gia Lai). Từ khóa: An Khê, Con Moong, Đá cũ, Đá mới, khảo cổ học. Chỉ số phân loại: 5.9 Dẫn nhập học Nga đã giúp đào tạo nhiều nghiên cứu sinh, đào tạo thực tập sinh nhiều lĩnh vực chuyên sâu của khảo cổ học. Trong Khảo cổ học Liên Xô trước đây và khảo cổ học Nga hiện thời kỳ Liên Xô, giữa Viện Khảo cổ học Việt Nam và các viện nay tích lũy được nhiều thành tựu nghiên cứu lịch sử nhân loại, chuyên ngành khảo cổ ở Liên Xô cũ đã tăng cường các đoàn vững vàng về học thuật và gắn liền với cuộc sống nóng hổi, đã tham quan, trao đổi học thuật. Ngày 6/11/1982, nhân kỷ niệm treo một tấm gương sáng cho chúng ta thấy nên noi theo. Trong lần thứ 65 Cách mạng tháng Mười và lần thứ 60 thành lập Liên các chương trình hợp tác khảo cổ học Việt - Nga đều đem lại bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, Viện Khảo cổ học Việt kết quả cụ thể, quan trọng cả trong nhận thức lịch sử và đào Nam đã tổ chức Hội nghị Thông báo về khảo cổ học Liên Xô, tạo cán bộ. nhằm khẳng định những thành tựu khảo cổ học Xô viết và kết Từ những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, các nhà quả hợp tác khảo cổ học Nga - Việt. Trong Hội nghị này, ngoài khảo cổ học Nga đã có mặt ở Việt Nam, tham gia giảng dạy, báo cáo khai mạc Hội nghị của GS.VS, Viện trưởng Viện Khảo đào tạo cán bộ khảo cổ, tiến hành điền dã, khai quật và nghiên cổ học Phạm Huy Thông, các cán bộ chủ chốt của Viện, những cứu các di tích khảo cổ Việt Nam. Ngành khảo cổ học Việt người được đào tạo tại Liên xô đã có các tham luận, nêu bật Nam không quên công lao của GS.TS P.I. Boriskovski, ngay những nét tiêu biểu, đặc sắc về sự nghiệp khảo cổ học rực rỡ từ những năm 60 của thế kỷ trước, đã có nhiều năm giảng dạy của Liên Xô. Tạp chí Khảo cổ học số 4/1982 đã công bố các và nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà tham luận đó [1]. nghiên cứu khảo cổ học của Việt Nam, đồng thời tham gia phát Kế thừa các nhà khảo cổ học Liên Xô trước đây, các nhà hiện, khai quật một số di tích then chốt trong nhận thức thơi khảo cổ Nga hiện nay vẫn tiếp tục hợp tác, sát cánh cùng các nguyên thuy cua Việt Nam, trong đó có di tích sơ kỳ Đá cũ Núi nhà khảo cổ Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu khảo cổ học Đọ và các di tích sơ kỳ Đá mới văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc thời tiền sử và sơ sử. Sơn. GS.TS P.I. Boriskovski đã được nhận Huân chương Lao Trước hết trong lĩnh vực nghiên cứu, tổng kết đáng chú ý là động cao quý của Nhà nước Việt Nam. công trình do các nhà sử học Nga đã biên tập và xuất bản năm Các trường đại học của Liên Xô trước đây ở Moscov, 2014: Lịch sử Việt Nam trọn bộ 6 tập đề tặng nhân 40 năm ngày Leningrad và một số thành phố khác đã giúp đào tạo nhiều thế Việt Nam thống nhất. Tập 1. Cổ đại và trung đại sớm (từ cuối hệ các nhà khảo cổ Việt Nam, nhất là trong những năm chiến 4.000 năm - đầu 3.000 năm cách nay đến năm 1010) do TS. tranh chống Mỹ ác liệt nhất. Viện Khảo cổ học Moscov và các D.V. Mosiakov chủ biên. Đây là tập sách của người Nga viết về Phân viện Khảo cổ học Leningrad thuộc Viện Hàn lâm khoa Lịch sử Việt Nam mới nhất, dày dặn nhất. Phần thời ky nguyên *Email: khacsukc@gmail.com 60(4) 4.2018 33
  2. Khoa học Xã hội và Nhân văn hội Việt Nam và Viện Khảo cổ học - dân tộc học Novosibirsk thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga (2009-2019). Trong chương Prominent achievements in trình này, hai bên đã cùng nhau tổ chức và thực hiện nghiên cứu khảo cổ học thực địa; trao đổi ngắn hạn cán bộ nghiên Vietnamese-Russian archaeological cứu khoa học, trao đổi các ấn phẩm khoa học, tư liệu; viết bài research cooperation về những phát hiện khảo cổ học mới nhất ở Việt Nam, Nga và cung nhau công bố. Hai bên cùng tham gia các chương trình Khac Su Nguyen* sinh hoạt khoa học (các hội thảo do hai nước hoặc nhiều nước tổ chức, giảng bài, báo cáo khoa học) và cùng tìm kiếm nguồn Vietnam Archaeological Association kinh phí tài trợ thực hiện chương trình hợp tác theo hướng hai Received 23 February 2018; accepted 29 March 2018 bên cùng quan tâm. Thành tựu nổi bật nhất trong Chương trình Abstract: hợp tác này là kết quả khai quật, nghiên cứu hang Con Moong và di tích sơ kỳ Đá cũ An Khê. The field of archaeological excavation and research has always played an important role in the cooperation Nghiên cứu khai quật hang Con Moong between the former Soviet Union, Russia today and Vietnam. One of the prominent collaborative activities Kết quả hợp tác khai quật di tích hang Con Moong (2009- recently is the Cooperation Program between the Institute 2014) và một số di tích hang động xung quanh như hang Lai, of Archeology, Vietnam Academy of Social Sciences and hang Mang Chiêng, hang Diêm đã làm rõ tiến trình lịch sử the Novosibirsk Institute of Archaeology and Ethnology, nguyên thủy Việt Nam giai đoạn chuyển tiếp từ Cánh tân sang Russian Academy of Sciences (2009-2019). In this program, Toàn tân, từ Đá cũ sang Đá mới, từ hồng hoang đến văn minh, the two sides have jointly organized and conducted field thông qua địa tầng dày trên 10,14 m, nguyên vẹn (in situ) với archaeological surveys; short-term exchange of scientists; exchange of scientific publications, materials; compiling sự diễn biến văn hóa từ 66.000 năm đến 7.000 năm trước Công articles associated with the latest archaeological findings nguyên (viết tắt BC). in Vietnam and Russia as well for being jointly published. Trên địa tầng 10 lớp ở hang Con Moong, ở độ sâu dưới The two sides have also participated in the program of 8,6 m, có tuổi 66.000 năm BC, tồn tại công cụ đá quartz, kích scientific activities (such as seminars organized by two or thước nhỏ, vết ghè thô sơ, loại hình chủ yếu là mũi nhọn, nạo, more countries, lectures, and scientific reports) and jointly sought funds for implementation of cooperation programs cạo, dao khắc. Lớp văn hóa này hoàn toàn khác và sớm hơn of mutual interest. The most outstanding achievement nhiều so với các kỹ nghệ mảnh tước hang động hiện biết ở Việt in this cooperation program is the excavations at the Nam. Tư liệu cho biết, những cư dân này cư trú trong hang Con Moong Cave (Thanh Hoa province) and the early không thường xuyên, bởi vì số lượng công cụ ở đây rất ít, đại Paleolithic locations in An Khe (Gia Lai province) with the diện cho khí hậu lạnh và lạnh nhất qua phân tích cổ từ cảm. excellent results. Cư dân các lớp 5, 6 và 7, độ sâu từ 5,1 đến 6,8 m có 4 Keywords: An Khe, archaeology, Con Moong, Neolithic Age, niên đại OSL là 48.000 năm BC (lớp 7), 44.000 năm BC (lớp Paleolithic Age. 6), 35.000 năm BC (lớp 5). Trong mức này tồn tại công cụ Classification number: 5.9 mảnh tước, công cụ cuội nhỏ, chất liệu đá quartz, anderit, đá vôi (limestone), cùng di cốt động vật bán hóa thạch từ lớp 6 trở lên, còn nhuyễn thể do con người khai thác đưa về hang xuất hiện ở lớp 5. Dấu hiệu của mưa xuất hiện vào cuối lớp 5 và đầu lớp 4. Kỹ nghệ đá ở mức này khác với kỹ nghệ mảnh tước kiểu thủy trong bộ sách này được biên soạn, trình bày băng tư liêu Ngườm (Thái Nguyên), Bạch Liên Động (Quảng Tây), Lang Khảo cổ học Việt Nam, do S.V. Laptev biên soạn đã đề cập đến Rongrien (Thái Lan), nơi công cụ mảnh tước nhỏ có dấu tu các vấn đề: Lịch sử nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam, thời đại chỉnh lần thứ hai. Đá (gồm Đá cũ, Đá mới), thời kỳ Kim khí (thời đại đồng và So với mức sớm, con người cư trú từ lơp 5 đến lơp 7 thường đồ sắt) [2]. Chúng ta đánh giá cao cố gắng các nhà sử học Nga xuyên hơn, song vẫn còn mờ nhạt. Một biến động lớn về khí trong việc nghiên cứu, biên soạn lịch sử Việt Nam thời nguyên hậu diễn ra vào giai đoạn này, đó là ở lớp 5 xuất hiện một pha thủy trên cơ sở tư liệu khảo cổ học. khí hậu lạnh đột ngột, khiến đá vôi trong hang co lại và nứt vỡ ra thành các mảnh nhỏ (mà các nhà khảo cổ gọi là dăm kết đá Lĩnh vực hợp tác khai quật, nghiên cứu khảo cổ học luôn vôi). Trong điều kiện khí hậu như vậy, cư dân lúc này chế tác chiếm vị trí quan trọng trong hợp tác giữa 2 nước. Một loạt các công cụ mảnh tước, thiên về săn bắt động vật nhỏ, phản ánh sự cuộc khai quật nghiên cứu các nhà nước sớm, trong đó có văn tương thích của con người với môi trường. hóa Óc Eo giữa Viện Khảo cổ học Saint Petersburg với Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, đặc biệt Chương trình hợp Cư dân sống ở lớp 3 và 4, độ sâu từ 3,6 m đến 5,1 m, niên tác giữa Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã đại tuyệt đối lớp 4 là 34.000 năm BC; lớp 3 là 26.000 năm BC 60(4) 4.2018 34
  3. Khoa học Xã hội và Nhân văn và 25.000 năm BC. Cư dân ở các mức này chế tác công cụ cuội hêt sưc quan trong cho viêc biên soan lich sư nguyên thuy Viêt nhỏ, công cụ mảnh tước đá diabaz, basalt, quartz và đá vôi. Săn Nam ơ giai đoan ban lê tư Đa cu sang Đa mơi, tư săn băt hai bắt các loài động vật, bắt các loài nhuyễn thể cạn, chủ yếu là ốc lươm đôc tôn sang nông nghiêp sơ khai. núi. Sau giai đoạn băng hà cuối cùng (sau 20.000 năm), khí hậu ấm dần lên, con người cư trú trong hang Con Moong thường Nghiên cứu khai quật tại An Khê xuyên hơn. Họ chuyển dịch dần về phía cửa hang, phía tây. Do Một thành tựu đặc biệt có ý nghĩa trong hợp tác khảo cổ cư trú thường xuyên nên vỏ ốc thường bị dẫm đạp nhiều lần mà học Việt - Nga đó là việc phát hiện, khai quật và nghiên cứu trở nên vụn nát, nén chặt hơn. Vào giai đoạn này, đã xảy ra một hệ thống di tích Đá cũ ở An Khê (Gia Lai). Cac nha khao biến động địa chất nào đó, khiến cho nhiều tảng đá trên trần rơi cô hoc đa xác nhận sự hiện diện của kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ xuống lòng hang, tác động vào tầng văn hóa, khiến nó bị tụt với phức hợp rìu tay - mũi nhọn tam diện - chopper, niên đại xuống lòng hang. Dấu tích của khối trầm tích ban đầu này hiện tuyệt đối bằng phương pháp K/Ar là 806.000±22.000 năm và còn sót lại trên vách hang thành một vệt chay dài. 782.000±20.000 năm BP và cũng là di tích văn hóa sơ kỳ Đá Lớp 2 (độ sâu 2,5 m đến 3,6 m) có 10 niên đại C14, cho cũ cổ xưa nhất hiện biết ở Việt Nam và Đông Nam Á, mở đầu tuổi từ 17.000 đến 13.000 năm cách ngày nay (viết tắt BP), tồn cho lịch sử Việt Nam. tại chủ yếu là công cụ cuội ghè đẽo kiểu văn hoa Sơn Vi, công Từ năm 2014 đên nay, ở thị xã An Khê, các nhà khảo cổ cụ xương. Cư dân giai đoạn này săn bắt nhiều động vật có vú học Việt - Nga đa phat hiên 21 đia điêm Đá cũ. Trong đó, 4 lớn, thu lượm các loài ốc núi, ốc suối. Người chết được chôn địa điểm đã được khai quật là Gò Đá, Rộc Tưng 1, Rộc Tưng trong hang theo nghi thức nằm co, chôn theo công cụ đá. Kết 4 và Rộc Tưng 7. Các di tích này có địa tầng nguyên vẹn (in quả phân tích cổ từ cảm và bào tử phấn cho thấy, con người situ), thu được hàng nghìn hiện vật đá, hàng trăm mẫu thiên sống ở giai đoạn nhiệt đới gió mùa rõ rệt, họ đã thu hái các loài thạch (tectits) [3]. Đây là nguồn sử liệu quan trọng xác lập nhuyễn thể, chế tác hàng trăm công cụ lao động đá cuội, công sự hiện diện của kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ An Khê và vị trí của nó cụ xương đặc trưng cho sự phát triển từ ky nghê Sơn Vi sang trong di sản văn hóa nhân loại. ky nghê Hòa Bình. Kỹ nghệ An Khê gồm các di tích phân bố ở các đôi gò Cư dân muộn nhất ở độ sâu từ mặt xuống 2,5 m, có niên đại cao trung bình 420-450 m, dọc đôi bờ sông Ba, thị xã An Khê. từ 13.000 năm BP đến 7.000 năm BP. Người thời này chế tác Đây là 1 trong 21 tiểu vùng địa lý của Tây Nguyên, mang tên và sử dụng công cụ cuội ghè đẽo, xuất hiện rìu mài lưỡi, muộn nữa là rìu mài toàn thân và đồ gốm. Lúc này, cư dân cổ trong trũng An Khê, vùng chuyển tiếp từ cao nguyên Pleiku ở phía tây hang đã chứng kiến quá trình biến đổi cổ khí hậu với nhiều xuống đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ ở phía đông. pha nóng - lạnh và mát xen kẽ, sự biến động từ lạnh hơi khô Dấu tích văn hóa kỹ nghệ An Khê được bảo lưu trong tầng sang nóng ẩm, gió mùa. Cùng như nhiều hang khác, vào thời văn hóa dày trung bình 25-40 cm, cấu tạo từ đất sét bị laterit điểm 8.800-11.400 năm BP là thời kỳ mưa rất nhiều, bởi vì tốc hóa, vốn phong hóa tại chỗ của đá granit. Trong tầng văn hóa có độ trầm tích đưa vào hang là 1 cm/100 năm, lớn hơn 10 lần so mặt các mảnh thiên thạch, được rơi vào nơi cư trú cổ xưa từ các với giai đoạn trước đó là 11.400-20.500 năm BP (vốn là 0,1 hành tinh khác ngoài trái đất. Bước đầu ở đây đã ghi nhận có địa cm/100 năm). Nói cách khác, lượng mưa vào giai đoạn 8.800- điểm cư trú với dấu tích kiến trúc tạo nền sinh hoạt; có địa điểm 11.400 năm BP tăng gấp ngân ây lần so với giai đoạn trước dấu tích chế tác công cụ là chính - kiểu di chỉ xưởng (workshop đó. Thời kỳ mưa lớn và kéo dài ở Bắc Việt Nam đã khiến con - site) và cả di tích vừa cư trú, vừa chế tác công cụ tại chỗ. người cư trú trong hang nhiều hơn, liên tục hơn so với các giai đoạn trước và sau đó. Chỉ sau 7.000 năm, về cơ bản kết thúc Công cụ đá của kỹ nghệ An Khê được làm từ đá cuội sông thời kỳ mưa nhiều. Con người bắt đầu rời hang chiếm lĩnh các suối tại địa phương. Chúng có kích thước lớn, làm tư đá cứng, vùng đất mới ở đồng bằng chân núi như cư dân Đa Bút (Thanh hạt mịn, chủ yếu là đá thạch anh (quartz), thạch anh biến tính Hoa va Ninh Binh), hoặc tiến thẳng ra chiếm lĩnh bờ biển cổ (quartzite), đá sét silic. Trên thân công cụ còn lưu những vết như cư dân Quỳnh Văn (Nghê An va Ha Tinh), thậm chí vươn ghè thô sơ của con người, hầu như ít được tu chỉnh nhỏ. Tổ hẳn ra biển đảo như cư dân văn hóa Cái Bèo (Quang Ninh va hợp công cụ kỹ nghệ An Khê gồm công cụ ghè hai mặt, rìu tay, Hai Phong), thiết lập văn hóa biển tiền sử. công cụ ghè hết một mặt, mũi nhọn, mũi nhọn tam diện, công cụ chặt dạng chopper, choping, con dao, cái nạo, hòn ghè, chày, Kết quả khai quật hang Con Moong đã cho một địa tầng hạch đá và mảnh tước. Trong đó, đặc trưng tiêu biểu nhất là chuẩn về diễn trình văn hóa tiền sử, về sự tương thích của phức hợp: Rìu tay (handaxe), ghè hết một mặt (unifacial tool), con người và môi trường, về hệ thống kết cấu cộng đồng cư mũi nhọn tam diện (triangle shaped cross-section pick) va công dân cuối Đá cũ sang đầu Đá mới qua hệ thống các hang động cụ chặt thô (chopper, choping - tool). xung quanh Con Moong như hang Lai, Mang Chiêng, hang Đắng, hang Mộc Long, Mái đá Mộc Long, hang Diêm và Động Rìu tay (Handaxe) là loại hình công cụ đặc biệt trong nhóm Người Xưa gắn liền với cảnh quan khu vực karst và sự đa dạng công cu ghè hai mặt (biface) [4]. Công cụ ghè hai mặt có mặt sinh học của rừng quốc gia Cúc Phương. Đây la nguôn sư liêu trong hầu khắp các địa điểm Đá cũ An Khê, song số lượng 60(4) 4.2018 35
  4. Khoa học Xã hội và Nhân văn không nhiều. Tiêu biểu cho rìu tay An Khê là 4 chiếc tìm thấy cm và nặng 1,9 kg. ở Rộc Lớn, Rộc Gáo, Rộc Hương và Rộc Tưng (hình 1). Rìu Công cụ ghè hết một mặt (Uniface) có số lượng khá lớn, tay An Khê được làm từ đá cuội quartzite, kích thước lớn, tiêu tiêu biểu là các di vật tìm thấy ở Rộc Lớn, Rộc Tưng và Rộc biêu la loai có thân hinh mui lao với một đầu thuôn nhọn, đốc Hương. Chúng được làm từ viên cuội lớn gần hình bầu dục, cầm tròn; vết ghe tâp trung ở 2/3 thân kể từ đầu nhọn, ghe 2 một mặt lớn được ghè gần hết bóc hết mặt cuội, mặt đối diện măt, vết ghè từ rìa vào trung tâm, tao ra một đường nổi cao giữ nguyên vỏ cuội, các vết ghè tập trung ở hai rìa cạnh, tạo ra chạy từ đầu nhọn đến gần đốc cầm, day ơ giưa va mong dần vê ria sư dung cong lồi ở một đầu, một đầu còn lại làm đốc cầm, hai ria. Các vết ghè nhỏ, đan nhau, tạo rìa lươi zích zắc, kích kích thước trung bình thân dài 17,82 cm, rộng 13,6 cm, dày 8,4 thước trung bình có thân dài 20,7 cm, rộng 11,9 cm, dày 7,4 cm và nặng 2,3 kg (hình 2 a, b). a) Gò Đá b) Rộc Tưng c) Rộc Gáo d) Rộc Lớn Hình 1. Rìu tay ở An Khê. a) Rộc Lớn b) Rộc Tưng c) Rộc Gáo d) Rộc Tưng Hình 2. a, b: Công cụ ghè một mặt; c, d: Mũi nhọn tam diện. 60(4) 4.2018 36
  5. Khoa học Xã hội và Nhân văn Mũi nhọn (Pick) chiếm số lượng lớn, đặc trưng nhất là mũi tools vùng này vân la chu đao [8]. nhọn hình khối tam diện, ba mặt phẳng kẹp một đầu nhọn, đầu Ở Đông Á, rìu tay đã tìm thấy ở các đia điêm Đinh Thôn, kia giữ tối đa vỏ cuội làm đốc cầm. Nếu viên đá có sẵn 2 mặt Hợp Hà, Chu Khẩu Điếm, đặc biệt là Bách Sắc (Trung Quốc). cuội giao nhau thành môt goc tu, thì người xưa ghè thêm một Ở thung lũng Bách Sắc, dọc đôi bờ sông Hữu Giang, thuộc đất 5 mặt phẳng. Còn ở viên cuôi co môt măt phẳng tư nhiên, thi huyện: Bách Sắc, Điền Đông, Điền Dương, Bình Quả và Điền người xưa ghe thêm 2 mặt phẳng nữa; mặt cắt ngang thân gần Lâm thuộc tỉnh Quảng Tây đến nay đã phát hiện được 44 địa tam giác cân; kích thước thân dài 19,80 cm; rộng ngang 11,90 điểm sơ kỳ Đá cũ, được xếp vào kỹ nghệ Bách Sắc. Kỹ nghê cm; thân dày 8,07 m và nặng 2,32 kg (hình 2 c, d). này gồm những công cụ mũi nhọn, chopper, nạo, công cụ ghè Công cụ chặt thô (chopper, chopping) được làm từ viên hai mặt và rìu tay được làm từ đá cuội, kích thước lớn, ghè cuội quartz hoặc quartzite, kích thước lớn, thân hình bầu dục, trực tiếp trên đe, rất ít mảnh tước. Hiện nay có 4 địa điểm tim vết ghè tập trung ở một đầu, từ mặt cuội này sang mặt kia tạo ra thấy rìu tay, đó là Dương Thụ, Na Lai, Nam Bán Sơn (Nang công cụ chặt kiểu chopper, hoăc ghe hai măt tạo ra công cụ chặt Ban Shan) va Bì Hồng (Pohong), phân bố trong thềm bậc IV kiểu chopping. Loại công cụ này thường có một đường rìa cong sông Hữu, có tuổi trung kỳ Pleistocene. Năm 1993, môt mẫu lồi và một đốc cầm lớn còn vỏ cuội. Kích thước trung bình: thiên thạch (tektite) ở địa điểm Bách Cốc, thôn Đại Hòa, thuôc Thân dài 19,2 cm, rộng 11,7 cm, dày 9,0 cm và nặng 2,4 kg. ky nghê Bách Sắc được xác định niên đại tuyệt đối, co tuổi là Kỹ nghệ An Khê khác với các kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ hiện 732.000±39.000 BP. Mới đây, là một mẫu tektite khác cua kỹ biết ở Việt Nam như Núi Đọ (Thanh Hóa) và Xuân Lộc (Đồng nghệ Bách Sắc có tuổi là 803.000±3.000 BP. Các nhà khảo cổ Nai). Ở hai nơi này công cụ được làm từ đá basalte, thu thập Trung Quốc cho rằng, Bách Sắc là đại diện cho kỹ nghệ rìu tay trên mặt. Công cụ Núi Đọ có rìu tay, tiền rìu tay kích thước sơ kỳ Đá cũ cổ nhất được biết ở vùng Đông Á [9]. Kỹ nghệ An lớn, ghè thô sơ cùng mảnh tước clacton và hạch đá đa diện, còn Khê và kỹ nghệ Bách Sắc có nhiều nét tương đồng về kỹ thuật công cụ Xuân Lộc có rìu tay, mũi nhọn tam diện, kích thước - loại hình, do đó tuổi của hai kỹ nghệ nay có thể tương đương nhỏ và hầu như vắng mặt hạch đá, mảnh tước. Việc định niên nhau, đều khác kỹ nghệ Acheulean châu Âu. đại cho các kỹ nghệ này đêu dựa vào hình thái công cụ, chẳng Các nhà khảo cổ Việt - Nga đã xác nhận, kỹ nghệ An Khê hạn Núi Đọ có tuổi dự đoán 400.000 năm [5], còn Xuân Lộc có được đăc trưng bơi phức hợp: Công cụ chặt thô (chopper - tuổi 500.000 năm [6]. choping tool)/mũi nhọn hình khối tam diện (triangle shaped Ngoài Việt Nam, kỹ nghệ Acheulean (Pháp) được giới khoa cross-section pick)/công cụ ghè hai mặt - rìu tay (biface- học xem là kỹ nghệ ghè hai mặt/rìu tay (bifaces/handaxe) điển handaxe). Trong đó, chopper - choping tool chủ yếu tìm thấy hình cho sơ kỳ Đá cũ thế giới, có tuổi từ 500.000-300.000 ở khu vực châu Á, biface - handaxe nổi trội cho Đá cũ phương năm BP [7]. Công cụ được làm từ đá lửa, ghè hai mặt, có một Tây, còn mũi nhọn tam diện nổi trội nhất ở sơ kỳ Đá cũ vùng lưỡi mỏng nhọn, đốc cầm rộng và dày, thân bằng. Rìu tay có An Khê. các loai hinh: Tam giác, trái tim, quả hạnh nhân, mũi lao, hình Về niên đại, đã có kết quả phân tích 2 mẫu tektite bằng trứng, hình đĩa và hình elíp, tiêu biểu nhất là hình quả hạnh phương pháp K/Ar từ phòng thí nghiệm đồng vị địa hóa học nhân và hình mũi lao. và địa thời học IGEM RAN, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, cho Khác với rìu tay Acheulean, rìu tay An Khê được làm từ đá kết quả: Mẫu ký hiệu 15.GD.M4.L1-2 ở địa điểm Gò Đá là cuội, trên thân còn bảo lưu một ít vỏ cuội tư nhiên, đốc cầm to, 806±22 nghìn năm và mẫu ký hiệu 16.RT1. H1. F6.L2.2 Rộc gần tròn; còn rìu tay Acheulean làm từ đá trầm tích, chủ yếu là Tưng là 782±20 nghìn năm. Như vậy, kỹ nghệ An Khê nằm đá silic, ghè hết vỏ tự nhiên, đốc rìu vat mỏng. Thân rìu An Khê trong khung thời gian khoảng 800.000 năm BP. còn bảo lưu những vết ghè lớn, hầu như không tu chỉnh; còn rìu Vơi kêt qua nay, các nhà khảo cổ Việt - Nga tự hào bô sung Acheulean có nhiều vết ghè nhỏ, dấu tu chỉnh đều đặn, cân đối. ky nghê An Khê (Việt Nam) vao ban đô ky nghê công cụ ghè Rìu tay An Khê có mặt bổ dọc hình nêm, mặt cắt ngang gần hai mặt trên thế giới. Trong đó cac di tich ở châu Âu (co tuôi hình bầu dục, còn rìu châu Âu mặt bổ dọc hình nêm, mặt cắt 0,5-0,6 triệu năm); Ubeidlya (1,4 triệu năm); Gesher Benot ngang gần hình thấu kính. Nhìn chung, rìu tay An Khê không Ya’aqov (0,9 triệu năm); Ả-rập-xê-út (0,4 triệu năm); Tukmeniastan quy chuẩn, tiến bộ như riu Acheullian điên hinh, mà có nhiều (Kazakhstan) (0,25-0,3 triệu năm); Mông Cổ (0,25-0,3 triệu năm); ở nét cổ xưa hơn. Ấn Độ: Isampur (1,2 triệu năm), Bori (0,7 triệu năm), Nam Ấn Độ Ở Đông Nam Á, công cụ ghè hai mặt cổ nhất được tìm thấy (0,4-0,5 triệu năm); ở Trung Quốc: Pinling (0,9 triệu năm), Yuanxian ở Indonesia mang đặc trưng kỹ nghệ Acheulean điển hình, có (0,9 triệu năm), Lan Điền (0,8-0,6 triệu năm) va Bách Sắc (0,8 triệu tuổi khoảng 0,8 triệu năm BP, song kỹ nghệ chopper - chopping năm); và ở Việt Nam có tuổi 0,7-0,9 triệu năm [10] (hình 3). 60(4) 4.2018 37
  6. Khoa học Xã hội và Nhân văn Hình 3. Phân bố kỹ nghệ rìu tay ở ngoài châu Phi (Nguồn: Derevianko, et al., 2016). Những phát hiện ky nghê Đá cũ An Khê đã làm thay đổi trên các châu lục cũng như diên trinh lich sư - văn hoa vung nhận thức về lịch sử vùng đất và đời sống của tổ tiên chúng nay trong cac giai đoan sơ ky Đa cu. ta. Con người xuất hiện lúc nào thì lịch sử được bắt đầu từ đó. Trước đây, chúng ta lấy thời điểm xuất hiện Người đứng thẳng Kết luận (Homo erectus) ở Thẩm Khuyên và Thẩm Hai (Lạng Sơn) có Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập, ngành khảo cổ học tuổi 0,5 triêu năm làm mốc mở đầu cho lịch sử Việt Nam. Với Việt Nam hợp tác rộng rãi với nhiều nước khác nhau trên thế phát hiện di tích Đá cũ An Khê, chúng ta có thêm cơ sở kéo dài giới, song trong các dự án, chương trình hợp tác với các nhà hơn lịch sử Việt Nam về phía trước, niên đại 0,8 triệu năm. Chủ khảo cổ học Xô viết trước đây và nước Nga hiện nay vẫn thể nhân cư dân khung niên đại này là những Người đứng thẳng, hiện tinh thần thân thiện, chân thành và hiệu quả cao. tổ tiên trực tiếp của Người hiện đại (Homo sapiens). Va như vậy, An Khê (Gia Lai) được ghi dâu vao ban đô thê giơi, la môt Với tình bạn cao cả, những người làm công tác khảo cổ trong nhưng nơi lưu giư dâu tich văn hoa cua tổ tiên loài người Việt Nam không quên tình cảm thắm thiết mà nhân dân Nga - Người đứng thẳng, chu nhân cua ky nghê An Khê và là tổ tiên đã dành cho nhân dân Việt Nam, không quên tình cảm khảo cổ trực tiếp của người hiện đại. học Liên Xô trước đây và nước Nga ngày nay đầy nhiệt tình với Việt Nam, với khảo cổ học Việt Nam và với nhân dân Việt Trong một thời gian dài, do không có tài liệu nên nhiều Nam. Trong các chương trình hợp tác khác nhau, khảo cổ học người tin vào đường ranh giới văn hóa sơ kỳ Đá cũ do H. Mov- Việt Nam có điều kiện để phát triển, soi sáng hơn nữa nguồn ius đề xướng năm 1948 (Movius Line), đối lập văn hóa phương gốc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cống hiến hơn nữa cho Đông và phương Tây. Theo đó, ở phương Tây phổ biến rìu tay, khảo cổ học thế giới. Thành tựu nổi bật trong hợp tác khảo cổ có hình dáng cân đối, ghè đẽo quy chuẩn, thể hiện cho sự tiến học giữa Nga và Việt Nam trong những năm gần đây là khai bộ, năng động của con người, còn phương Đông tồn tại kỹ nghệ quật, nghiên cứu hang Con Moong và An Khê. cuội ghè đẽo chopper - chopping, thô sơ, phụ thuộc vào hình dáng tự nhiên của hòn cuội, thể hiện cho khu vực bảo thủ, trì Kết quả khai quật hang Con Moong đã cho một địa tầng trệ, lạc hậu và hầu như không có đóng góp gì cho sự tiến bộ của chuẩn về diễn trình văn hóa tiền sử, về sự tương thích của nhân loại [11]. Những phát hiện kỹ nghệ ghè hai mặt và những rìu con người và môi trường, về hệ thống kết cấu cộng đồng cư tay sớm ở An Khê (Việt Nam), Bách Sắc (Trung Quốc) và nhiều dân cuối Đá cũ sang đầu Đá mới qua hệ thống các hang động nơi khác ở khu vực châu Á đã bác bỏ quan điểm trên. xung quanh Con Moong như hang Lai, Mang Chiêng, hang Đắng, hang Mộc Long, Mái đá Mộc Long, hang Diêm và Động Gần nửa thế kỷ qua, đa số ý kiến cho rằng, con người đầu Người Xưa gắn liền với cảnh quan khu vực karst và sự đa dạng tiên được hình thành ở châu Phi. Từ đó họ di chuyển sang châu sinh học của rừng quốc gia Cúc Phương. Âu, rồi châu Á đem theo kỹ nghệ ghè hai mặt vơi những chiếc rìu tay. Việc phát hiện rìu tay sớm ở An Khê là cơ sở để xem Những phát hiện ky nghê Đá cũ An Khê đã làm thay đổi xét lại giả thuyết về quá trình tiến hóa của Người khôn ngoan nhận thức về lịch sử vùng đất và đời sống của tổ tiên chúng ta. 60(4) 4.2018 38
  7. Khoa học Xã hội và Nhân văn Với phát hiện di tích Đá cũ An Khê, chúng ta có thêm cơ sở học Xô viết và Thời đại Đá cũ ở Liên Xô”, Tạp chí Khảo cổ học, 2, tr. 9-11; kéo dài hơn lịch sử Việt Nam về phía trước, niên đại 0,8 triệu Phạm Lý Hương (1982), “Khảo cổ học Xô viết và Thời đại Đá ở Trung Á”, năm. Chủ nhân cư dân khung niên đại này là những Người Tạp chí Khảo cổ học, 2, tr.11-13; Ngô Sĩ Hồng (1982), “Khảo cổ học Xô viết và văn hóa Xkip”, Tạp chí Khảo cổ học, 2, tr.13-15. đứng thẳng (Homo erectus), tổ tiên trực tiếp của Người hiện đại (Homo sapiens). Va như vậy, An Khê (Gia Lai) được ghi [2] Полная академическая история Bиетнама, в шести томах, том I, dâu vao ban đô thê giơi, la môt trong nhưng nơi lưu giư dâu Древность и раннее средневековье (конец 4-начало 3 тыс. до н.э. - 1010 г. tich văn hoa cua tổ tiên loài người - Người đứng thẳng, chu Э.), Президиум Российской Академии Наук, Москва, 2014. nhân cua ky nghê An Khê và là tổ tiên trực tiếp của người hiện [3] Nguyen Khac Su, Nguyen Gia Doi (2015), “Systerm of the Palaeolithic đại. Việc phát hiện rìu tay sớm ở An Khê là cơ sở để xem xét lại Loacations in the Upper Ba River”, Vietnam Social Sciences, 4(168), pp.47-63. giả thuyết về quá trình tiến hóa của Người khôn ngoan trên các [4] Nguyễn Khắc Sử (2017), “Kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ An Khê với lịch sử châu lục cũng như diên trinh lich sư - văn hoa vung nay trong thời kỳ nguyên thủy Việt Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, 2, tr.3-14. cac giai đoan sơ ky Đa cu. [5] П.И. Борисковский (1966), Первобытное прощлое Вьетнама, Мо- Với sự lớn mạnh của mình, khảo cổ học Việt Nam là địa chỉ сква ­ Λенинград. đáng tin cậy cho nhiều chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu [6] E. Saurin (1971), “Les Paléolithiques de environs de Xuan Loc”, khảo cổ học giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, trong Bulletin de la Société des Etudes Indochinoise, 46, pp.2-22. đó có các bạn Nga. Năm 2018 một dự án nghiên cứu cơ bản do [7] Bordes François (1961), “Bifaces des types classiques”, Typologie du Quỹ nghiên cứu cơ bản Nga và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Paléolithique ancien et moyen. Impriméries Delmas, Bordeaux, pp.57-66. Việt Nam (VASS) đã được đưa ra, đó là: Những vấn đề cơ bản của thời đại đồ đá Việt Nam trong bối cảnh thời đại đá Đông [8] T. Simanjuntak (2008), “Acheulean tools in Indonesia Palaeolithic”, Paper Presented on the International Seminar on Diversity and Variabilityin the Dương. Dự án này báo hiệu sức lan tỏa của hợp tác Việt - Nga East Asia Paleolithic: Toward an Improved Understanding, Seoul, Korea, p.421. sẽ vươn rộng ra các nước trong khu vực Đông Dương và Đông Nam Á. Nhưng kêt qua nôi bât trong hơp tac Viêt - Nga thơi [9] Guang Mao Xie, Erika, Bodin 2007), "Les inductries paleolithiques de gian qua la bo hoa tươi thăm hương tơi cac hoat đông cua Nga basin de Bose (Chine de Sud)", L’Anthropologie, 111, pp.182-206. tai Viêt Nam va năm Viêt Nam tai Nga - năm 2019 trong cac [10] А.П. Деревянко, Н.Х. Шу, А.А. Цыбанков, Н.З. Дой (2016), linh vưc văn hoa, khoa hoc, trong đo co Khao cô hoc. Возникновение бифасиальной индастрии в Восточной и Юго - Васточной Азии, Новосибирск Издательство ИАЭТ СОРАН, ctp.59. TÀI LIỆU THAM KHẢO [11] H. Movius (1948), “The Lower Palaeolithic Cultures of Southern [1] Phạm Huy Thông (1982), “Khai mạc Hội nghị”, Tạp chí Khảo cổ học, and Eastern Asia”, Transactions of the American philasophical Society, 38(4), 2, tr.1-2; Chử Văn Tần (1982), “Khảo cổ học Xô viết - một mẫu hình khoa học pp.330-420; H. Movius (1949), New Palaeolithic Cultures of Southern and tiên tiến”, Tạp chí Khảo cổ học, 2, tr.3-8; Nguyễn Khắc Sử (1982), “Khảo cổ Eastern Asia, Philasophia. 60(4) 4.2018 39