Những vấn đề đặt ra đối với lao động khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

pdf 9 trang Gia Huy 18/05/2022 3090
Bạn đang xem tài liệu "Những vấn đề đặt ra đối với lao động khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhung_van_de_dat_ra_doi_voi_lao_dong_khi_viet_nam_tham_gia_c.pdf

Nội dung text: Những vấn đề đặt ra đối với lao động khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

  1. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo Lao động các năm 2016 2019 2. Báo Sài Gòn giải phóng các năm 2016 2019. 3. Niên giám Tổng cục Thống kê các năm 2018; 2019. 4. Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017. 5. Đường Vinh Sường: ―Giáo dục đào tạo với phát triển NNL chất lượng cao ở nước ta hiện nay‖, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4/12/2014 6. Đối thoại chính sách cao cấp về phát triển NNL trong kỷ nguyên số tại Hội nghị các quan chức cao cấp APEC lần thứ hai (SOM-2) tổ chức tại Hà Nội, ngày 15/5/2017 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHI VIỆT NAM THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI Ths. Phạm Thị Dự Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới được nhận định sẽ mang lại cơ hội to lớn về việc làm cho các quốc gia, cụ thể là tạo cơ hội có thêm nhiều việc làm chất lượng cao. Theo Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực, Việt Nam có thể tạo thêm 27.000 việc làm mới mỗi năm; thu nhập và tay nghề của người lao động c ng được cải thiện. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội, việc tham gia các FTA thế hệ mới Việt Nam c ng phải đối mặt với những vấn đề về lao động như: số lượng việc làm gia tăng song tập trung chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động; lực lượng lao động đòi h i phải có kỹ năng nghề, công nghệ thông tin; tiền lương tăng song chủ yếu trong nhóm lao động gắn với khu vực xuất khẩu và trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cơ chế, chính sách lao động còn nhiều bất cập Xuất phát từ điều đó bài viết tập trung chỉ ra cam kết về lao động của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới, phân tích những vấn đề đang đặt ra đối với lao động Việt Nam và đề xuất một số giải pháp thực thi cam kết về lao động. Từ khóa: Lao động, FTA thế hệ mới Đặt vấn đề Với cách tiếp cận người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong thương mại quốc tế nên trước hết họ phải được hưởng thành quả của quá trình này, năm 1998, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ra Tuyên bố về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động và đến năm 2008 tiếp tục thông qua Tuyên bố về thúc đẩy việc 937
  2. bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình toàn cầu hóa công bằng. Đây cũng là cách tiếp cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành xu thế trên toàn cầu. Theo Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nếu như thời điểm thành lập Tổ chức Thương mại thế giới chỉ có 4 FTA có nội dung về lao động thì từ 2008 – 2016 có 77 FTA có nội dung này, chiếm 64%. Các FTA thế hệ mới, ngoài các cam kết cắt giảm thuế quan, tạo thuận lợi cho các dòng đầu tư, còn có thêm các cam kết về tuân thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Việc đưa các nội dung về lao động vào trong các FTA thế hệ mới xuất phát từ quan điểm cho rằng chi phí lao động chiếm tỷ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất và do vậy bình đẳng trong lao động là điều kiện để đảm bảo sự bình đẳng trong cạnh tranh và duy trì đạo đức trong thương mại quốc tế. Dù ở mỗi quốc gia có mức thu nhập và điều kiện sống khác nhau nhưng những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động cần phải được đảm bảo như một chuẩn mực của sự công bằng và cạnh tranh bình đẳng. Nếu một nước duy trì tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và các điều kiện lao động không được xác lập trên cơ sở thương lượng, thì được cho là sẽ có chi phí sản xuất thấp hơn so với những nước thực hiện tiêu chuẩn lao động cao. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hoặc đàm phán tham gia 17 FTA với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới. Trong đó, đặc biệt phải kể đến 2 FTA thế hệ mới được dự báo sẽ có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế và thị trường lao động trong nước, bao gồm: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Việt Nam - EU (EVFTA). Bài viết tập trung nghiên cứu cam kết về lao động của Việt Nam trong 2 FTA này. 1. Cam kết về lao động của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới a. Cam kết về lao động trong các FTA thế hệ mới Các FTA thế hệ mới yêu cầu tất cả các nước tham gia phải thông qua và duy trì các quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của ILO trong pháp luật, thể chế và thông lệ của họ. Các quyền này được quy định trong 8 công ước cơ bản của ILO, với nền tảng là: (1) Tự do liên kết và công nhận hiệu quả quyền thương lượng tập thể (được quy định trong Công ước ILO số 87 và 98), (2) Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước ILO số 29 và 105), (3) Xoá bỏ lao động trẻ em (Công ước ILO số 138 và 182), và (4) Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước ILO số 100 và 111). Việt Nam là thành viên của ILO từ năm 1992, đã phê chuẩn 6/8 Công ước cơ bản của ILO (bao gồm các Công ước số 29, 100, 111, 138, 182 và 98) và đang chuẩn bị trình cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn đối với 2 Công ước cơ bản còn lại (các Công ước số 87 và 105). Nhưng theo Tuyên bố năm 1998 của ILO thì các nước thành viên dù đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn các Công ước cơ bản nêu trên đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện các tiêu chuẩn lao động được đề cập trong các Công ước đó. Như vậy, trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện các quy định của ILO theo kế hoạch chủ động của mình. b. Cam kết về lao động của Việt Nam trong EVFTA Vấn đề lao động được đề cập trong chương 13 của EVFTA. Hiệp định không đưa ra các cam kết hay tiêu chuẩn lao động mới mà chỉ nhấn mạnh việc thực hiện các nghĩa vụ mà 938
  3. Việt Nam và EU đã cam kết với tư cách là thành viên của ILO và các tiêu chuẩn lao động trong Tuyên bố 1998 của ILO về Các nguyên tắc và các quyền cơ bản tại nơi làm việc, cụ thể có 4 nguyên tắc: - Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động - Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc - Cấm sử dụng lao động trẻ em - Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp Ngoài ra EVFTA cũng có các cam kết không bắt buộc về việc nỗ lực tham gia ký kết và thực thi các Công ước khác về lao động của ILO mà mình chưa phải là thành viên nhưng vẫn nhấn mạnh điều này phụ thuộc vào bối cảnh của từng nước. c. Cam kết về lao động của Việt Nam trong CPTPP Cam kết về lao động của CPTPP được quy định trong chương 19 của Hiệp định. CPTPP chủ yếu viện dẫn tới các tiêu chuẩn lao động trong Tuyên bố 1998 của ILO về Những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động và các vấn đề về điều kiện lao động. CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải đảm bảo trong pháp luật và thực tiễn của mình các nguyên tắc về quyền lao động thuộc 2 nhóm: Nhóm các nguyên tắc trong Tuyên bố của ILO năm 1998 (gồm 4 nhóm nguyên tắc cụ thể như trong EVFTA) và Nhóm các nguyên tắc về điều kiện lao động ―chấp nhận được‖. Nhóm này bao gồm các quy định về lương tối thiểu, giờ làm việc, các vấn đề về an toàn lao động và sức khỏe của người lao động. Mặc dù CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải có quy định về các vấn đề này nhưng CPTPP lại không ràng buộc các nước ở cách thức cũng như mức độ (ví dụ không quy định cụ thể điều kiện lao động chấp nhận được là điều kiện nào), vì vậy việc thực hiện là linh hoạt, tùy thuộc vào giải thích của từng nước. Pháp luật Việt Nam hiện đã có các quy định về những vấn đề này. Liên quan tới việc thực thi các nghĩa vụ trong Chương Lao động, Việt Nam đã đạt được thỏa thuận với các nước CPTPP (tại các Thư song phương) về các nội dung sau: Việt Nam phải thực hiện ngay các nghĩa vụ trong Chương Lao động ngay khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam (từ ngày 14/01/2019). Trong vòng 03 năm kể từ 14/01/2019, các nước cam kết không áp dụng trừng phạt thương mại đối với Việt Nam nếu họ có khiếu kiện Việt Nam theo Cơ chế giải quyết tranh chấp cấp Nhà nước trong CPTPP về việc vi phạm nghĩa vụ Chương Lao động. Liên quan tới các nghĩa vụ về tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể, trường hợp có khiếu kiện Việt Nam, các nước cam kết: Trong vòng 5 năm kể từ 14/01/2019: Không sử dụng tới các biện pháp ngừng nhượng bộ trong CPTPP. Trong vòng từ năm thứ 5 đến năm thứ 7 kể từ khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam: sẽ xem xét việc có áp dụng biện pháp trừng phạt thương mại không trong khuôn khổ Hội đồng lao động của CPTPP. Các cam kết khác về lao động: Bên cạnh các quy định về các tiêu chuẩn lao động, CPTPP có một số cam kết khác liên quan tới lao động, trong đó phần lớn là các cam kết mang 939
  4. tính khuyến nghị (không bắt buộc) về việc cải thiện điều kiện lao động, hợp tác giữa các nước CPTPP trong lĩnh vực lao động Tuy nhiên, cũng có một số các cam kết bắt buộc, ví dụ cam kết về việc thiết lập cơ chế để các tổ chức, cá nhân có thể đệ trình các yêu cầu về các vấn đề liên quan tới việc thực thi Chương Lao động của CPTPP và các cơ quan Nhà nước phải cân nhắc, xem xét trả lời các đệ trình này phù hợp với pháp luật của các nước thành viên. Đặc biệt, CPTPP quy định một quy trình riêng để các nước CPTPP tham vấn với nhau và giải quyết các vướng mắc liên quan tới việc thực thi Chương Lao động của CPTPP trong khuôn khổ Hội đồng Lao động của CPTPP; chỉ khi tranh chấp không thể giải quyết theo quy trình này thì các nước CPTPP mới có thể sử dụng tới quy trình Giải quyết tranh chấp Nhà nước – Nhà nước trong CPTPP. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu a. Phương pháp thu thập dữ liệu Dữ liệu sử dụng trong bài viết chủ yếu là dữ liệu thứ cấp bao gồm: - Dữ liệu cam kết về lao động trong các FTA thế hệ mới, cam kết về lao động của Việt Nam trong EVFTA và CPTPP được thu thập từ các nguồn cơ bản: trang web của tổ chức lao động quốc tế ILO, trang web của Viện Khoa học Lao động và Xã hội – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, chương 13 của Hiệp định EVFTA và chương 19 của Hiệp định CPTPP. - Dữ liệu về các vấn đề đặt ra đối với lao động Việt Nam: thu thập chủ yếu từ các ấn phẩm, bài báo khoa học đã được công bố, bản tin chắt lọc chính sách số 1 năm 2019 của Viện Khoa học Lao động và Xã hội – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; Tổng điều tra doanh nghiệp năm 2016 của Tổng cục Thống kê; Báo cáo của dự án EUMUTRAP (2016) và của Ngân hàng Thế giới (2018); Khảo sát Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI (2018). b. Phương pháp phân tích dữ liệu Với các dữ liệu thứ cấp thu được, bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích đánh giá theo các tiêu chí đã đưa ra. Các số liệu thứ cấp được cung cấp từ các nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2018) dựa trên việc sử dụng mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là tốc độ tăng việc làm, các biến độc lập là giá trị xuất khẩu, vốn đầu tư nước ngoài và một số biến kiểm soát khác. Bài viết đã tham khảo và kế thừa các kết quả nghiên cứu đó cũng như sử dụng các số liệu thứ cấp thu được từ các nguồn dữ liệu nêu ở trên; từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm thực thi các cam kết về lao động trong các FTA thế hệ mới. 3. Những vấn đề đặt ra đối với lao động khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới Việc tham gia vào các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, Việt Nam có thêm cơ hội tham gia ngày càng nhiều hơn vào chuỗi giá trị và mạng phân phối toàn cầu, vào phân công lao động quốc tế. Các FTA mang lại nhiều lợi ích về kinh tế thông qua việc thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng xuất khẩu. Kinh tế phát triển tạo ra nhiều việc làm và tăng tiền lương cho người lao động. Bên cạnh các lợi ích, việc tham gia các FTA thế hệ mới lao động Việt Nam cũng phải đối mặt với những vấn đề cơ bản sau: 940
  5. a. Vấn đề việc làm Theo nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động và xã hội (2018) dựa trên việc sử dụng mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là tốc độ tăng việc làm, các biến độc lập là giá trị xuất khẩu, vốn đầu tư nước ngoài và một số biến kiểm soát khác tính toán trên bộ số liệu Tổng điều tra doanh nghiệp năm 2016 của Tổng cục Thống kê, kết quả ước lượng tác động của việc tham gia các FTA thế hệ mới đến việc làm cho thấy, khi các yếu tố khác không thay đổi, trị giá xuất khẩu hàng hóa tăng 1% thì số việc làm trong doanh nghiệp (DN) có xuất khẩu tăng so với các DN không xuất khẩu ở mức 0,082% (CPTPP); 0,080% (EVFTA) với ý nghĩa thống kê ở mức 99%. Kết quả tính toán cũng cho thấy, khi vốn FDI tăng 1% thì số việc làm tăng ở mức 0,061% đối với CPTPP và EVFTA so với khi không có FDI. Tổng tác động của xuất khẩu lên việc làm theo từng FTA được xác định trên cơ sở tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào các nước trong khối FTA đó và mức độ tác động tương ứng lên cầu lao động. Tổng tác động đối với việc làm của 2 FTA thế hệ mới này khá tương đồng: 0,014 đối với CPTPP và 0,015 đối với EVFTA. Với kịch bản dự báo tác động của các FTA đến kinh tế và thương mại Việt Nam từ các báo cáo của dự án EUMUTRAP (2016) và của Ngân hàng Thế giới (2018) cho thấy số việc làm tăng thêm hàng năm nhờ tham gia các hiệp định EVFTA, CPTPP như sau: Đối với EVFTA, số việc làm tăng thêm khoảng 7.591/năm cho giai đoạn 2019 - 2020 và 8.097/năm cho giai đoạn 2021 - 2025. Đối với CPTPP, số việc làm tăng thêm khoảng 5.484 - 8.649/năm cho giai đoạn 2019 - 2020 và 7.312 - 11.672/năm cho giai đoạn 2021 - 2025. Xem xét mức độ tác động tới việc làm theo ngành: EVFTA sẽ thúc đẩy tăng việc làm cao nhất trong ngành sản xuất đồ gỗ (0,083%), tiếp đến là ngành dệt may (0,072%), thực phẩm và đồ uống (0,057%), da giày (0,028%), điện tử và các ngành khác (0,037%) so với các DN không xuất khẩu (mức ý nghĩa đều là 99%). CPTPP sẽ thúc đẩy tăng việc làm cao nhất trong ngành sản xuất đồ gỗ (0,084%), tiếp đến là ngành dệt may (0,073%), thực phẩm và đồ uống (0,058%), da giày (0,028%), điện tử và các ngành khác (0,037%) so với các DN không xuất khẩu (mức ý nghĩa đều là 99%). Như vậy, có thể thấy số lượng việc làm gia tăng song tập trung chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. b. Nhu cầu về lao động có kỹ năng Với EVFTA và CPTPP, các kết quả ước lượng đều không cho thấy có những tác động ở mức có ý nghĩa thống kê về việc tăng nhu cầu lao động có kỹ năng. Kết quả ước lượng này tương đối phù hợp với những đánh giá gần đây cho thấy các DN đang tập trung khai thác các lợi thế hiện có của Việt Nam như lao động giá rẻ và các ưu đãi khác. Thực tế, nhiều DN đã và đang chuyển cơ sở sản xuất về các khu vực có giá nhân công rẻ hơn như khu vực miền Trung hoặc Tây Nam Bộ. Việt Nam vẫn dựa chủ yếu vào nguồn nhân công giá rẻ để thu hút đầu tư nước ngoài. Đây không phải là giải pháp bền vững để đảm bảo tính cạnh tranh cho Việt Nam. Đặc biệt khi chi phí lao động đang tăng dần, nhưng năng suất lao động không hề tăng theo mức tăng lương. 941
  6. Theo các chuyên gia kinh tế, vào CPTPP, EVFTA người lao động Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội việc làm, lựa chọn nghề nghiệp, điều kiện lao động, thu nhập ; song đòi hỏi và yêu cầu đặt ra rất lớn là lực lượng lao động cần được đào tạo để có kỹ năng nghề, công nghệ thông tin, nhất là về công nghệ mới. Rõ ràng, nếu không đáp ứng được điều kiện đặt ra, người lao động sẽ phải đối mặt với nguy cơ không có việc làm, thất nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực, lao động có kỹ năng cao vẫn là một trong những thách thức chính các DN gặp phải, đặc biệt quá trình thực thi các FTA thế hệ mới. Theo khảo sát Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI (2018) cho thấy, các doanh nghiệp FDI cho rằng, họ dễ dàng tiếp cận được với nguồn lao động phổ thông, tuy nhiên bức tranh không mấy tích cực khi DN muốn tìm kiếm lao động lành nghề, có kỹ năng cao như cán bộ kỹ thuật, giám sát và quản lý. 50% DN cho rằng khó tuyển dụng lao động chất lượng cao; 85% DN khó khăn trong tuyển dụng nhân sự cấp cao, kỹ sư hàng đầu c. Vấn đề chi phí lao động của doanh nghiệp Theo nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2018), sử dụng mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là chi phí lao động bình quân, các biến độc lập là có xuất khẩu, vốn đầu tư nước tính toán trên bộ số liệu Tổng điều tra doanh nghiệp năm 2016 của Tổng cục Thống kê, kết quả ước lượng như sau: trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, chi phí lao động bình quân đều cao hơn đối với các DN có xuất khẩu và có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, các DN xuất khẩu có chi phí lao động bình quân cao hơn các DN không xuất khẩu 0,091% và các DN có vốn đầu tư nước ngoài có chi phí lao động bình quân cao hơn các DN không có vốn đầu tư nước ngoài. Kết quả trên cho thấy việc tham gia các FTA thế hệ mới có khả năng làm tăng tiền lương của người lao động. Tuy tiền lương tăng song chủ yếu trong nhóm lao động gắn với khu vực xuất khẩu và trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó có nghĩa là nhóm lao động không gắn với khu vực xuất khẩu và có vốn đầu tư nước ngoài thì sẽ khó có cơ hội tăng lương từ việc tham gia các FTA. Do vậy, chênh lệch về cơ hội việc làm và thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày càng gia tăng, trong đó người nghèo chịu thiệt thòi nhất. d. Chính sách lao động và quan hệ lao động Các quy định về quan hệ lao động ở nước ta hiện nay chủ yếu hướng về quan hệ hai bên tại doanh nghiệp, ít quan tâm đến quan hệ ba bên ở cấp quốc gia, cấp ngành và cấp địa phương. Điều này làm hạn chế sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động vào việc xây dựng chính sách, pháp luật về quan hệ lao động, từ đó hạn chế chất lượng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ khi tham gia quan hệ lao động. Việc nội hóa luật hóa các quy định của ILO trong các Công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn chưa thực sự đầy đủ hoặc đồng bộ; không ít tiêu chuẩn lao động quốc tế chưa được tôn trọng và đảm bảo thực hiện trên thực tế như thương lượng tập thể chưa thực sự được chú trọng, nhìn chung mang tính hình thức và chưa đạt hiệu quả; lao động bắt buộc vẫn tồn tại dưới các dạng và bằng những con đường khác nhau (người lao động phải đặt cọc, ký quỹ; phải nộp văn bằng gốc cho người sử dụng lao động giữ với mục đích ràng buộc trách nhiệm của người lao động đối với doanh nghiệp, buộc người lao động phải gắn bó với doanh nghiệp 942
  7. và gây khó dễ khi người lao động muốn lựa chọn một cơ hội việc làm khác). Việc phân biệt đối xử trong nghề nghiệp và việc làm trên thực tế chưa được xóa bỏ Quy định về tổ chức và hoạt động của đại diện người lao động (công đoàn) còn khá cứng nhắc và chưa khuyến khích được công đoàn, nhất là công đoàn cấp cơ sở thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Từ đó dẫn đến chất lượng đại diện và bảo vệ người lao động còn thấp. Các quy định về giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công, giải quyết đình công chưa phù hợp với nhu cầu thực tế và nhìn chung chưa phát huy tác dụng trên thực tiễn. Một số quy định về quan hệ việc làm, quan hệ học nghề (các quan hệ tiền quan hệ lao động) vẫn mang tính chất tuyên bố chính sách hoặc hoặc vẫn còn mang nặng tính bao cấp, thiếu cơ chế và các dịch vụ thích ứng yêu cầu của thị trường lao động, nhất là trong chính sách việc làm đối với các lao động đặc thù, việc xác định phạm vi của hoạt động dịch vụ việc làm, vấn đề vi phạm cam kết làm việc và bồi thường chi phí dạy nghề của người lao động 4. Một số giải pháp thực thi các cam kết về lao động của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới Để có thể tận dụng các lợi ích và giảm thiểu rủi ro đối với lao động khi tham gia các FTA thế hệ mới, Việt Nam cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau: a. Giải pháp về phía Nhà nước Hoàn thiện thể chế về lao động, việc làm theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế và lộ trình cam kết trong CPTPP và EVFTA, bao gồm: sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn và các quy định khác có liên quan, đặc biệt là các nội dung về quyền tự do liên kết và quyền thỏa ước. Hoàn thiện các thiết chế quan hệ lao động, đặc biệt là thiết chế hòa giải và trọng tài theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả, đảm bảo cho quan hệ lao động diễn ra hài hòa, các tranh chấp lao động được xử lý kịp thời và theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Tăng cường năng lực đại diện, năng lực đối thoại xã hội, thương lượng, tham vấn thỏa thuận và giải quyết tranh chấp lao động cho cả người sử dụng lao động và người lao động và các tổ chức đại diện của họ; xây dựng cơ chế xác định tổ chức đại diện lớn nhất của người lao động trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở; tạo điều kiện và thúc đẩy các tổ chức của người lao động phát huy hiệu quả thực sự trong vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Hoàn thiện chính sách tiền lương theo hướng tăng cường thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường. Phát triển các hoạt động tư vấn, công bố thông tin thị trường lao động; cải cách chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hướng tới các giải pháp duy trì, bảo đảm việc làm cho người lao động. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động thông thoáng, thống nhất, có sự quản lý, kiểm soát, điều tiết của nhà nước. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động đảm bảo chủ động khai thác triệt để các cơ hội của chuỗi giá trị toàn cầu góp phần nâng cao năng suất lao động. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường đội ngũ lao động lành nghề; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo lao động với xu hướng đầu tư và đổi mới công nghệ. 943
  8. Thúc đẩy hợp tác công – tư hơn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nghề. Kinh nghiệm của khu vực tư nhân sẽ có đóng góp đáng kể trong đào tạo nghề. Chỉ có DN mới hiểu rõ họ cần gì, mong muốn gì, năng lực nào cho lực lượng lao động. Với sự tham gia của khu vực tư nhân, chúng ta phát triển được chương trình đào tạo và khoá tập huấn phản ánh đúng nhu cầu thị trường. Ngoài ra, sự hợp tác công – tư còn đảm bảo đầu ra cho chương trình đào tạo nghề của Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực lao động, việc làm; tăng cường quản lý lao động, gắn kết, đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu khác có liên quan. b. Giải pháp về phía người sử dụng lao động Đối với người sử dụng lao động, cần chủ động tăng cường nhận thức về các FTA thế hệ mới, tăng cường phối hợp với các hiệp hội DN, với các cơ quan của Chính phủ để nắm bắt thông tin kịp thời, đặc biệt là về chính sách, quy định luật pháp, tận dụng các chương trình hỗ trợ của Chính phủ; tuân thủ luật pháp lao động và các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Chủ động xây dựng chiến lược về nâng cao chất lượng lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa và tăng cường đối thoại tại nơi làm việc; tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội DN. Chuẩn bị năng lực, kịch bản cụ thể về thông tin, tài chính, nhân sự và kỹ thuật để khai thác các cơ hội và vượt qua các thách thức trên cơ sở thực tiễn và lộ trình cam kết được các cơ quan chức năng cung cấp công khai và thuận tiện. DN cần chú ý đến các cam kết về lao động trong các FTA thế hệ mới để tránh những rủi ro không đáng có. Bởi theo các cam kết, nếu một nước nào duy trì tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và điều kiện lao động không được xác lập trên cơ sở thương lượng thì được cho là có chi phí sản xuất thấp hơn các nước thực hiện tiêu chuẩn lao động cao. Cần chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của DN thông qua việc nâng cao chất lượng lao động. Song song với đó là các DN phải thực hiện đúng các tiêu chuẩn, quy định về rào cản kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu; DN xây dựng hoàn thiện hệ thống quản lý lao động theo chuẩn quốc tế và phải thích nghi với những tiêu chuẩn của thị trường đối tác c. Giải pháp về phía người lao động Đối với người lao động, cần chủ động học tập nâng cao trình độ, tích lũy các kỹ năng phù hợp với các loại hình công việc mới và luôn thay đổi, có ý thức về nâng cao năng lực và thay đổi kỹ năng thích nghi với công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu công việc thông qua rèn luyện học tập suốt đời. Đồng thời, cần tìm hiểu kỹ các quyền của người lao động, luật pháp về lao động; tham gia tổ chức công đoàn theo sự lựa chọn của mình. Người lao động phải tham gia các khóa đào tạo bài bản (hoặc tự trau dồi, tích lũy từ kinh nghiệm thực tiễn) như kỹ năng cứng, kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm; hay phải có độ chín nhất định như khả năng tư duy, đi ngược dòng để thử thách; khả năng chịu đựng, chấp nhận, vượt qua khó khăn, Các DN thuộc EU hay CPTPP thường có tiêu chuẩn khắt khe trong tuyển dụng lao động, đó là kỹ năng chuyên môn, kinh nghiệm làm việc và khả năng ngoại ngữ. Ngoài ra, các kỹ năng mềm như giao tiếp, khả năng thích 944
  9. nghi, chịu áp lực công việc đó là điều người lao động cần phải cập nhật và trau dồi để đáp ứng được yêu cầu của họ. Kết luận Quá trình tham gia các FTA thế hệ mới và xóa bỏ những thể chế kìm hãm lao động, làm lệch lạc, lãng phí nguồn lực lao động, hoàn thiện những ―khoảng trống thể chế‖ cần thiết để hỗ trợ người lao động, DN phát triển lành mạnh, hiệu quả đã, đang và sẽ cho phép từng bước thực thi các cam kết về lao động theo đúng lộ trình đã ký kết. Điều đó giúp cho Việt Nam tận dụng được các lợi ích từ các FTA thế hệ mới về vấn đề lao động, đồng thời vượt qua được những khó khăn, tiêu chuẩn quốc tế và mở ra triển vọng phát triển mới với nhiều thay đổi về chất đối với vai trò, vị thế của người lao động và cách thức tổ chức mới của cộng đồng DN Việt Nam thời kỳ chuyển mình hội nhập cùng thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Trường Giang (2010), Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực ti n Đông Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2. Lê Huy Khôi (2019), Giải pháp thực thi các cam kết FTA thế hệ mới, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương 3. Lương Hoàng Thái (2019), Vấn đề thực thi các FTA thế hệ mới của Việt Nam – Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp, Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Công Thương 4. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tổng quan về các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã tham gia và khả năng tận dụng của doanh nghiệp, Trung tâm WTO 5. Viện Khoa học Lao động xã hội (2019), Tác động của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến vấn đề lao động, việc làm ở Việt Nam, Bản tin chắt lọc chính sách số 1 năm 2019 6. Websites lao-dong xu-the-tat-yeu %C4%91oan-cua-hiep-%C4%91inh-cptpp-13575-22.html 98048.html 945