Phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu - Phạm Trung Lương

pdf 10 trang cucquyet12 4190
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu - Phạm Trung Lương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphat_trien_du_lich_sinh_thai_o_viet_nam_trong_boi_canh_bien.pdf

Nội dung text: Phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu - Phạm Trung Lương

  1. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU PGS.TS. Phạm Trung Lương Viện Môi trường và Phát triển Bền vững 1. Du lịch sinh thái với biến đổi khí hậu Khái niệm về ''Du lịch sinh thái'' (Ecotourism), với tư cách là một loại hình/một sản phẩm du lịch cụ thể, đã xuất hiện từ khá lâu trong các nghiên cứu về du lịch và gần đây là trong các ấn phẩm quảng cáo về du lịch ở các quy mô khác nhau từ quốc gia, địa phương đến doanh nghiệp. Từ khi xuất hiện khái niệm này vào những năm 1970, du lịch sinh thái (DLST) đã thu hút được sự quan tâm không chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn của các doanh nghiệp du lịch, các nhà quản lý về du lịch và của khách du lịch. Tuy nhiên nhận thức về du lịch sinh thái còn có sự chưa thống nhất, theo đó đối với nhiều người DLST được hiểu đơn giản là sự kết hợp giữa ý nghĩa của 2 từ ghép ''Du lịch'' và ''Sinh thái'' hoặc được hiểu là du lịch gắn với thiên nhiên vốn đã xuất hiện từ đầu những năm 1800 (Ashton, 1993). Với khái niệm này mọi hoạt động du lịch gắn với thiên nhiên như du lịch tham quan thắng cảnh, du lịch tắm biển, du lịch nghỉ dưỡng,v.v. đều được hiểu là DLST. Với một cách nhìn khác, Hiệp hội Du lịch Sinh thái Quốc tế đã đưa ra khái niệm, theo đó: “Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương”. Khái niệm trên cho thấy DLST không chỉ đơn thuần là du lịch gắn với thiên nhiên mà DLST còn tạo cơ hội để du khách trải nghiệm, tìm hiểu về thiên nhiên, đặc biệt về các giá trị sinh thái và đa dạng sinh học và văn hóa bản địa ở những nơi du khách đến du lịch, qua đó làm tăng thêm nhận thức và trách nhiệm của du khách đối với việc bảo tồn và phát triển tự nhiên và cộng đồng địa phương. Ở Việt Nam, DLST đã được quan tâm nghiên cứu từ đầu những năm 1990, tuy nhiên nhận thức về DLST lần đầu tiên có sự thống nhất tại Hội thảo về “Xây dựng khung chiến lược cho phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam” do Tổng cục Du lịch phối hợp với Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) và Uỷ ban Kinh tế- Xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức từ 07 - 09/09/1999, theo đó: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. 1
  2. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 Mặc dù hiểu biết về DLST còn có những điểm chưa thống nhất và sẽ được tiếp tục hoàn thiện trong quá trình phát triển của nhận thức, song những nguyên tắc cơ bản của DLST đã được thừa nhận cần tuân thủ trong quá trình phát triển của mình bao gồm : * Giáo dục nâng cao hiểu biết của du khách về môi trường tự nhiên, qua đó tạo ý thức tham gia của khách du lịch vào các nỗ lực bảo tồn. Đây là một trong những nguyên tắc chính của DLST tạo sự khác biệt cơ bản giữa DLST với các loại hình du lịch tự nhiên khác. Với những hiểu biết mà du khách có được nhờ tham gia vào hoạt động DLST, thái độ cư xử của du khách được thay đổi và sẽ thể hiện bằng những nỗ lực hành động tích cực trong việc bảo tồn và phát triển những giá trị của môi trường tự nhiên và văn hoá bản địa ở khu vực mà du khách đặt chân đến. * Góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái bởi đó là mục tiêu của hoạt động DLST và đảm bảo cho sự tồn tại của DLST. * Góp phần bảo vệ và phát huy văn hoá bản địa. Là một trong những nguyên tắc quan trọng đối với hoạt động DLST bởi các giá trị về văn hóa bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời các giá trị môi trường tự nhiên đối với một hệ sinh thái cụ thể. * Tạo thêm việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương. Nếu như các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên khác ít quan tâm đến vấn đề này và phần lớn lợi nhuận từ các hoạt động du lịch đều thuộc về các doanh nghiệp du lịch thì ngược lại lợi nhuận từ DLST sẽ dành một phần đáng kể để đóng góp cải thiện môi trường, nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương. Bên cạnh đó DLST sẽ luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động của mình dưới nhiều hình thức dịch vụ: dẫn viên (guider), lưu trú tại nhà (homestay), cung ứng các nhu cầu về thực phẩm (food supply), về hàng lưu niệm cho khách (souvenir supply), v.v. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc giảm sức ép của cộng động sống trong và ở vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên lên môi trường và đa dạng sinh học. 2
  3. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 Như vậy có thể thấy phát triển DLST sẽ là cách tiếp cận quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo được sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường cho một lãnh thổ ở những quy mô khác nhau từ địa phương đến vùng, quốc gia, khu vực và toàn cầu và qua đó sẽ góp phần tích cực vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang có những tác động tiêu cực đến phát triển bền vững ở Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu. Vậy BĐKH là gì và tác động thế nào đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có du lịch? BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. Biểu hiện rõ nhất của BĐKH là hiện tượng nóng lên toàn cầu đã được phát hiện từ nửa cuối thế kỷ XX và được khẳng định dần qua các kết quả nghiên cứu của Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) thuộc Liên Hiệp Quốc từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước đến nay (IPCC-2006). Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu tại Rio de Janero (1992) với Công ước khung về biến đổi khí hậu (BĐKH), Hội nghị Kioto (1997) với nghị định thư Kioto, v.v đã là những hiệp ước quốc tế nói lên tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề BĐKH, đòi hỏi các quốc gia phải liên kết hành động nhằm giảm bớt những hiểm hoạ đối với nhân loại trong một tương lai không xa. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới ở Johannesburg (2002) và trước đó là "Chương trình nghị sự 21" về phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, BĐKH tiếp tục được coi là nguy cơ trọng yếu đối với mục tiêu phát triển bền vũng đòi hỏi sự chung sức khắc phục của toàn nhân loại. Trong thời gian gần đây, liên tiếp các năm từ 2009 - 2014 Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc lần lượt được tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch), Concun (Mexico), Durban (Nam Phi), Doha (Qatar), Warsaw (Ba Lan) và New York (Mỹ) thể hiện sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế đến BĐKH Theo báo cáo của Liên hợp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu 90% là do con người gây ra, 10% là do tự nhiên. Những tác động từ biến đổi khí hậu đã khiến nhiệt độ toàn cầu trong thế kỷ XX tăng 0,55°C và dự báo sẽ tiếp tục tăng 2-5°C trong thế kỷ XXI kèm theo hậu quả rất nặng nề cho con người và môi trường. Các nghiên cứu cũng cho thấy mỗi năm biến đổi khí hậu có thể làm kinh tế thế giới tổn thất 1,2 nghìn tỷ USD; khiến hơn 4,5 tỷ người (khoảng 64% dân số toàn 3
  4. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 cầu) phải sống tại các khu vực có nguy cơ cao chịu hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, mưa lớn, lũ lụt, bão, lốc xoáy Việt Nam được xem là một trong các quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là do tác động của nước biển dâng, vì có đường bờ biển dài, dân cư tập trung đông tại các vùng đồng bằng ven biển và các hoạt động kinh tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên và lâm nghiệp.Theo các số liệu nghiên cứu, trong khoảng 50 năm qua (1958-2007), nhiệt độ trung bình năm tại Việt Nam đã tăng 0,5-0,7ºC, mực nước biển trung bình đã dâng thêm 20cm. Những dự báo mới nhất cho thấy nhiệt độ trung bình của Việt Nam có thể tăng thêm 2,3ºC và mực nước biển có thể dâng thêm 75cm vào năm 2100 và nếu nước biển dâng từ 75cm đến 1m thì các vùng đồng bằng và ven biển của Việt Nam sẽ ngập từ 19% đến 38%, gây ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp đến kinh tế - xã hội và đời sống người dân ở Việt Nam. “BĐKH đã làm cho thiên tai ngày càng ác liệt hơn. Bão xảy ra nhiều hơn, đường đi của bão có xu hướng dịch chuyển về phía Nam; số ngày nắng nhiều hơn; nhiệt độ trung bình trong 30 năm qua tăng o 0,5 C; mực nước biển tăng 3mm/năm; mưa lớn dị thường xảy ra nhiều hơn; v.v.” GS.TS. Trần Thục, Nguyên Viện trưởng Viện KTTV và MT Quốc gia Đến nay chưa có thống kê, nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tình hình BĐKH ở Việt Nam nhưng nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đều khẳng định BĐKH đã và đang diễn ra với những biểu hiện bất thường của thời tiết; sự gia tăng về mức độ, quy mô và tần suất của các hiện tượng thời tiết cực đoan không theo quy luật ngày một gia tăng. Sự xuất hiện và tác động trực tiếp của cơn bão số 8 (có tên quốc tế là Sơn Tinh) với sức gió lên đến trên cấp 12 đến các tỉnh ven biển phía Bắc từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa vào những ngày cuối tháng 10/2012; sự xuất hiện, tác động của cơn bão số 1 ở khu vực phía Nam vào những ngày đầu năm 2013 và của siêu bão Hayan với cấp độ lên tới 16 đổ bộ vào vùng duyên hải Đông Bắc vào cuối tháng 11/2013; đợt nóng khô hạn, đặc biệt ở các tình miền Trung mùa hè năm 2015; trận mưa lớn kỷ lục ở phía Bắc, đặc biệt ở Quảng Ninh trong tháng 7/2015 là những minh chứng rõ rệt. Những tác động trên đã có những ảnh hưởng rất lớn đến phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng. Như vậy có thể thấy ở chiều ngược lại, BĐKH sẽ làm thay đổi quy luật diễn thế theo mùa của các yếu tố khí hậu, đặc biệt là nhiệt độ, lượng mưa vốn đã tồn tại hàng triệu năm và là nền tảng để hình thành nên sự đa dạng và giá trị của các hệ sinh thái tự nhiên trên Trái đất nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Sự thay đổi chế độ khí 4
  5. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 hậu sẽ làm thay đổi sinh cảnh và môi trường sống (habitat) của nhiều loài sinh vật và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức khai thác các giá trị cảnh quan, sinh thái và đa dạng sinh học cho phát triển DLST. Sự dịch chuyển nhiều loài thực vật trên dãy Hoàng Liên Sơn Sự ấm lên của khí hậu khiến nhiều loài cây trên dãy Hoàng Liên Sơn đang phải dịch chuyển lên phân bố ở đai cao hơn để tồn tại. Đây thực sự là khó khăn của vườn quốc gia Hoàng Liên - nơi đang lưu trữ nguồn gen hệ động, thực vật bậc nhất Việt Nam với gần 2.850 loài, trong đó có 149 loài thuộc quý hiếm, nguy cấp. Điển hình có thông Vân San Hoàng Liên (một loài thực vật chỉ tìm thấy duy nhất tại đây), trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao 2.200m - 2.400m, thì nay chỉ có thể gặp ở độ cao 2.400m - 2.700m. Cùng với nó là Thông thích Xi-Pan, Thông thích SaPa trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao dưới 1.700m nay đã bắt gặp ở độ cao trên 2.000m và một số loài khác cũng đang “leo” dần l ên cao. Nguồn: Dự án nghiên cứu đánh giá tác động của BĐKH tới các khu bảo tồn của Việt Nam, Tổng cục MT Suy thoái hệ sinh thái biển tại Kiên Giang Tại Ki ên Giang đã ghi nhận, các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái về diện tích là HST rạn san hô 700 ha, thảm cỏ biển 12.000 ha và về số lượng loài có 10 loài cỏ biển, 87 loài san hô. Thêm vào đó là nguy cơ tuyệt chủng của các loài quý hiếm như Rùa biển, Rùa xanh, Rùa quản đồng hay Đồi mồi, Bò biển, cá ong sư, cá heo xám, cá lưng gù, các heo mỏ dài Nguồn: BĐKH và bảo vệ vùng ven biển, du lịch và bảo tồn thiên nhiên Kiên Giang, TS. Thái Thanh Lượm Theo nghiên cứu của Tổ chức chim Quốc tế (BirdLife International), dưới tác động của nước biển dâng, từ 1/4 đến 1/3 tất cả các vùng sinh cảnh tự nhiên then chốt ở Việt Nam có thể bị tác động. Những khu vực này bao gồm phần lớn các khu bảo tồn và đề nghị bảo tồn hiện nay của Việt Nam vì chúng thường tập trung trên các đảo và khu vực bờ biển. Thậm chí đáng chú ý hơn nữa là chỉ với mức dâng nước biển khá nhỏ (1 m) cũng sẽ tác động hầu hết đến sinh cảnh tự nhiên chủ yếu - và hầu hết tất cả các điểm bảo tồn sinh cảnh khi mức nước biển dâng cao (5m). Rõ ràng hệ đa dạng sinh học Việt Nam đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng khi mức nước biển dâng, thậm chí với hầu hết các kịnh bản BĐKH được xem xét tính toán một cách thận trọng nhất. Cùng với sự thay đổi về chế độ khí hậu, BĐKH sẽ làm thay đổi quy luật và gia tăng về cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan. Hậu quả của tác động này không chỉ làm suy giảm giá trị tài nguyên DLST, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm DLST mà còn ảnh hưởng rất lớn đến hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch nói chung và DLST nói riêng; ảnh hưởng đến việc tổ chức các chương trình (tour) DLST do các doanh nghiệp lữ hành xây dựng. Như vậy có thể thấy phát triển DLST trong bối cảnh BĐKH là mối quan hệ hai chiều, một mặt DLST là phương thức phát triển bền vững góp phần tích cực vào nỗ lực “giảm nhẹ” tác động với BĐKH, mặt khác sự phát triển của DLST bị ảnh hưởng bởi tác động của BĐKH và vì vậy rất cần phải có được những định hướng 5
  6. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 phát triển phù hợp để “thích ứng” với những tác động của BĐKH, đặc biệt là ảnh hưởng của những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lốc xoáy, mưa lớn, khô hạn, v.v. 3. Hiện trạng và những vấn đề đặt ra đối với phát triển DLST ở Việt Nam Với đặc điểm tự nhiên, tính đa dạng cao về các hệ sinh thái và đa dạng sinh học với tư cách là một trong những trung tâm đa dạng sinh học lớn nhất của thế giới, nơi có tới 02 di sản thiên nhiên thế giới, 01 di sản hỗn hợp, 09 khu dự trữ sinh quyển, 34 VQG, 58 khu bảo tồn thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài/sinh cảnh và 61 khu bảo vệ cảnh quan, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn để phát triển DLST. Hoạt động nghiên cứu về phát triển DLST ở Việt Nam mới bắt đầu từ cuối những năm 90 với một số công trình đáng chú ý như “Cơ sở khoa học cho phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam”; “Du lịch sinh thái - những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”; “Nghiên cứu đề xuất tiêu chí về khu du lịch sinh thái ở Việt Nam” ; v.v. Bên cạnh đó một số nghiên cứu có tính ứng dụng đánh giá tiềm năng và bước đầu đề xuất định hướng phát triển DLST ở hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên như Cúc Phương, Ba Vì, Cát Bà, Phong Nha - Kẻ Bàng, Cát Tiên, Côn Đảo, v.v. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã xác định DLST là loại hình du lịch được ưu tiên bởi đó chính là phương thức tiếp cận hướng đến phát triển du lịch bền vững và có những đóng góp tích cực cho nỗ lực xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Trong Chiến lược phát triển du lịch Việt nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tư tưởng đối với phát triển DLST vẫn được khẳng định song mở rộng hơn với khái niệm “Du lịch xanh” với nòng cốt là DLST, theo đó một trong 3 mục tiêu cụ thể của Chiến lược đã xác định: “Phát triển du lịch “xanh”, gắn hoạt động du lịch với gìn giữ và phát huy các giá trị tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khẳng định môi trường là yếu tố hấp dẫn du lịch, đảm bảo chất lượng và giá trị hưởng thụ du lịch, thương hiệu du lịch. Các dự án phát triển du lịch phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về môi trường” nhằm hỗ trợ cho mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên một chiến lược riêng đối với phát triển DLST ở quy mô quốc gia cho đến nay vẫn còn chưa được xây dựng. Đây chính là hạn chế cơ bản đối với hoạt động phát triển DLST ở Việt Nam. 6
  7. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 Việc chưa có được một chiến lược phát triển DLST ở tầm quốc gia là một trong những khó khăn cho phát triển DLST ở các điểm đến có tiềm năng. Tuy nhiên để có thể khai thác có hiệu quả tiềm năng, đẩy mạnh phát triển DLST, nhiều điểm đến du lịch như Tràm Chim (Đồng Tháp), Láng Sen (Long An), VQG Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), khu bảo tồn Bắc Đèo Cả (Phú Yên), Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm (Quảng Nam), VQG Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), VQG Xuân Thủy (Nam Định), Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (Hải Phòng), VQG Bái Tử Long (Quảng Ninh), v.v. đã phải xây dựng riêng cho mình chiến lược, quy hoạch hoặc định hướng phát triển DLST. Ở Việt Nam, do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, hoạt động phát triển DLST đích thực theo đúng những khái niệm và nguyên tắc của loại hình du lịch này chưa thực sự diễn ra trong thực tế. Những biểu hiện của hạn chế này có thể được tóm tắt bao gồm : - Phát triển loại hình/sản phẩm DLST còn thiếu những căn cứ khoa học cần thiết, đặc biệt trong việc xác định “tính hấp dẫn, độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện” của tài nguyên du lịch DLST được khai thác theo các nguyên tắc đặc thù của loại hình du lịch này. Đây là nguyên cơ bản của tình trạng cho đến nay du lịch Việt Nam còn thiếu những sản phẩm DLST đặc thù ở cấp độ vùng và ở cấp quốc gia, để thu hút khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam với tư cách là một trung tâm của thế giới về đa dạng sinh học. Nhiều tài nguyên DLST, đặc biệt ở các khu di sản thế giới, các khu dự trữ sinh quyển, các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên có được những đặc tính cần thiết để phát triển thành sản phẩm DLST đặc thù, song trong thực tế đã không được khai thác một cách hợp lý, thậm chi còn bị “biến dạng” bởi những “ý tưởng” thiếu căn cứ khoa học. Ví dụ điển hình là du lịch Phú Quốc nơi cảnh quan tự nhiên - gíá trị được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới - đã có sự “biến dạng” ở một số khu vực bởi sự phát triển của công trình nhân tạo, bởi sự thu hẹp không gian biển do mật độ xây dựng các công trình dịch vụ du lịch, v.v. Hơn thế nữa, tính “xanh” trong các dịch vụ du lịch như vận chuyển khách, dịch vụ lưu trú, v.v. chưa được nhìn nhận và thể hiện một cách đầy đủ để tạo ra tính “đích thực” của loại hình/sản phẩm DLST. - Phát triển sản phẩm DLST với mục tiêu kinh doanh ngắn hạn : nhằm giảm chi phí và tăng thu, nhiều công ty du lịch thay vì phải tiến hành điều tra khảo sát xây dựng chương trình tour, đánh giá “cung - cầu”, v.v. để xây dựng sản phẩm DLST phù hợp với xu thế hướng tới du lịch “xanh” đã tiến hành việc “sao chép” sản phẩm du lịch của các công ty khác. Đây là tình trạng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam trong phát triển sản phẩm du lịch nói chung, sản phẩm DLST nói riêng. Tình trạng này cũng là phổ biến đối với việc xây dựng các chương trình DLST tại những điểm 7
  8. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 đến du lịch tự nhiên nổi tiếng ở Việt Nam như Hạ Long, Cát Bà, Tràng An, Phong Nha - Kẻ Bàng, Côn Đảo, v.v. - Phát triển sản phẩm DLST chưa đúng với bản chất do sự thiếu hiểu biết của các nhà đầu tư. Thể hiện điển hình nhất của tình trạng này là việc phát triển các sản phẩm “du lịch sinh thái” - loại sản phẩm du lịch được xem là “xanh” điển hình, theo đó phần lớn các sản phẩm DLST hiện nay ở Việt Nam đều không đúng với bản chất của loại hình du lịch này. Việc thiếu nội dung về “giáo dục môi trường”; “có sự đóng góp cho nỗ lực bảo tồn”; và “có sự tham gia tích cực của cộng đồng” trong cấu thành sản phẩm DLST được xem là phổ biến trong phát triển DLST ở các điểm đến tiềm năng ở Việt Nam. Kết quả của tình trạng này đã ảnh hưởng đến “hình ảnh” về sản phẩm DLST của Việt Nam. Trong nhiều trường hợp điều này đã làm thất vọng đối với những gì mà khách DLST kỳ vọng ở du lịch Việt Nam nơi có sự đa dạng về sinh cảnh với tính đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm có giá trị toàn cầu. Thực trạng chung về phát triển DLST trên đây ở Việt Nam, đặc biệt là sự thiếu vắng những sản phẩm DLST đặc thù đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh, tính hấp dẫn du lịch của điểm đến du lịch Việt Nam, trong đó yếu tố “sản phẩm DLST” được xem là yếu tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, nếu không nói là quyết định. Tình trạng phát triển trên về DLST cũng thể hiện đóng góp còn rất hạn chế của DLST vào nỗ lực chung ứng phó với tác động của BĐKH ở Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, tuy nhiên một trong những nguyên nhân cơ bản là nhận thức xã hội, đặc biệt nhận thức của các nhà quản lý, về tầm quan trọng của phát triển DLST đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam và góp phần vào ứng phó với BĐKH cũng như như năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ chiến lược này còn nhiều hạn chế. 3. Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển DLST góp phần ứng phó với BĐKH ở Việt Nam Căn cứ vào những vấn đề mang tính lý luận và thực trạng phát triển DLST ở Việt Nam thời gian qua, một số giải pháp cơ bản cần được xem xét thực hiện bao gồm: - Cần nâng cao nhận thức xã hội, trước hết là nhận thức của các nhà quản lý các cấp, về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển DLST, nhất là các sản phẩm DLST đặc thù, nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay và góp phần tích cực vào nỗ lực ứng phó với 8
  9. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 BĐKH ở Việt Nam. Nhận thức này cần được chuyển hóa thành hành động cụ thể trong hoạt động tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch, trong thẩm định các dự án đầu tư phát triển sản phẩm DLST ở các cấp, từ địa phương đến vùng và quốc gia. - Dù có thể đã muộn, tuy nhiên rất cần phải xây dựng đề án về “Chiến lược phát triển du lịch sinh thái Việt Nam” nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của du lịch Việt nam đồng thời góp phần tích cực thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt nam và nỗ lực ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. - Trên cơ sở định hướng chiến lược về phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đã được xác định trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cần tổ chức xây dựng một số chương trình hành động cụ thể phát triển các sản phẩm “Du lịch xanh” đặc thù với nòng cốt là DLST cho từng địa phương và từng vùng du lịch ở Việt Nam. Những Chương trình này cần được xây dựng trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản có định hướng về tài nguyên du lịch tự nhiên đặc thù của địa phương/vùng; khuyến khích và tăng cường tính “xanh” trong phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và trong các dịch vụ du lịch với những điều kiện cụ thể ở cấp địa phương và cấp vùng. Ở đây cần đặc biệt chú trọng đối với việc khai thác các giá trị di sản văn hóa truyền thống; các tri thức bản địa trong phát triển DLST ở Việt Nam. - Để có được hướng dẫn cụ thể đối với việc thực hiện các Chương trình hành động trên đối với các nhà quản lý, các nhà đầu tư, cần thiết phải có được đánh giá toàn diện có tính hệ thống về hệ thống các sản phẩm DLST, đặc biệt là các sản phẩm du lịch đặc thù. Trên cơ sở những đánh giá này mới có thể xác định được sản phẩm du lịch nào cần được “nâng cấp” hoàn thiện theo đúng nguyên tắc của DLST và sản phẩm DLST đích thực nào cần được phát triển mới. - Cần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và hướng dẫn đối với các dự án đầu tư phát triển DLST, đặc biệt là phát triển sản phẩm DLST ở các khu di sản thiên nhiên, các khu dự trữ sinh quyển, các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên thông qua việc xây dựng các tiêu chí và đưa vào áp dụng trong thực tiễn; đẩy mạnh công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch và thẩm định các dự án đầu tư của các cơ quan quản lý, tư vấn du lịch. Ở đây vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý và tư vấn du lịch cần được đặt ra một cách nghiêm túc. Thực tế cho thấy năng lực của đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý và tư vấn các dự án phát triển du lịch nói chung, phát triển DLST nói riêng ở Việt Nam còn rất hạn chế. Tình trạng này đã và đang là một trong những nguyên nhân của những hạn chế đối với phát triển DLST ở Việt Nam như đã được đề cập ở trên. 9
  10. Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu” Hà Nội, ngày12/11/2015 - Cơ chế phân cấp xét duyệt các dự án đầu tư phát triển du lịch hiện nay đã tạo điều kiện để các địa phương chủ động, đẩy nhanh quá trình đầu tư phát triển du lịch nói chung, phát triển các sản phẩm DLST nói riêng. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi năng lực thẩm định của các địa phương nhìn chung còn hạn chế, vì vậy đòi hỏi cần có sự hợp tác liên kết, tham vấn với các cơ quan quản lý, tư vấn vùng và trung ương đối với những dự án phát triển DLST nói chung và phát triển sản phẩm DLST có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt đối với những khu vực nhạy cảm về môi trường sinh thái. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các địa phương nằm trên các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch đã được xác định trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. - Tăng cường hoạt động bảo vệ môi trường du lịch với việc nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch; nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích phát triển du lịch “Du lịch xanh” với nòng cốt là DLST với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Việc thực hiện một số giải pháp cơ bản trên đây sẽ góp phần tích cực vào phát triển DLST, đặc biệt là quá trình hình thành hệ thống các sản phẩm DLST đặc thù, góp phần tích cực vào nỗ lực bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH ở Việt Nam cũng như tạo ra sự khác biệt, nâng cao tính hấp dẫn, khả năng cạnh tranh chung của du lịch Việt Nam./. TÀI LIỆU THAM KHẢO : 1. Phạm Trung Lương, nnk. “Du lịch sinh thái: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002 2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030”. Hà Nội, 2011 3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Báo cáo “Đánh giá tác động và kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu đến lĩnh vực du lịch”. Đề án “Xây dựng kế hoạch ứng phó với BĐKH của Bộ VHTTDL”. Hà Nội, 2012. 10