Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Từ quan điểm của Đảng đến pháp luật của Nhà nước và rào cản triển khai trong thực tiễn

pdf 17 trang Gia Huy 18/05/2022 2020
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Từ quan điểm của Đảng đến pháp luật của Nhà nước và rào cản triển khai trong thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphat_trien_kinh_te_tu_nhan_tro_thanh_mot_dong_luc_quan_trong.pdf

Nội dung text: Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Từ quan điểm của Đảng đến pháp luật của Nhà nước và rào cản triển khai trong thực tiễn

  1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRỞ THÀNH MỘT ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM: TỪ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG ĐẾN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ RÀO CẢN TRIỂN KHAI TRONG THỰC TIỄN TS. Viên Thế Giang Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Tóm tắt Bài viết phân tích các khả năng hay cơ hội để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trên ba khía cạnh: i) Tương quan giữa kinh tế nhà nước (giữ vai trò chủ đạo) và kinh tế tư nhân (động lực quan trọng) trong tiếp cận thị trường và tiếp cận các nguồn lực; ii) Hài hòa trong phát triển doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; iii) Vai trò “bà đỡ” của Nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân mà trọng tâm là xây dựng các thiết chế bổ khuyết cho những nhược điểm của thể chế thị trường thay cho những kìm hãm, cản trở thị trường phát triển. Từ kết quả nghiên cứu quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn thị trường cho thấy, phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là hành trình gian nan đi tìm tiếng nói đồng thuận về lợi của người kinh doanh, nhà nước và xã hội. Từ khóa: Kinh tế tư nhân, nhà nước, thể chế, pháp luật 1. Quá trình chuyển biến từ thù ghét sang miễn cƣỡng chấp nhận và thừa nhận chính thức kinh tế tƣ nhân là động lực cho sự phát triển kinh tế quốc gia Thực chất của quá trình phát triển tư duy của Đảng và hoạt động lập pháp của Nhà nước trong việc xác định vị trí kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là việc tìm kiếm, xây dựng, vận hành một mô hình kinh tế mà nhiều chuyên gia th ng thắn thừa nhận chưa hề nghe định nghĩa cụ thể nào về khái niệm này1 hoặc làm gì có cái thứ đó (kinh tế thị trường định hướng xã hội 1 Ý kiến của Ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Xem cụ thể tại: Tư Giang, Mô hình phát triển nào cho Việt Nam, truy cập ngày 1-11- 2014, 259
  2. chủ nghĩa) mà tìm,2 chưa có tiền lệ, chưa có cơ sở lý luận hoàn chỉnh.3 Thực tế này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến việc thiết lập khuôn khổ thể chế cho nền kinh tế thị trường vận hành. Do đó, việc xác định các thành phần kinh tế và vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường có thể coi là “thành tựu riêng” của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới mặc dù “không thay đổi đáng kể về chính thể và các nguyên tắc tổ chức quyền lực công cộng, song trên lĩnh vực kinh tế Hiến pháp Việt Nam đã lặng lẽ xa rời một cách đáng kể mô hình Xô viết Vào năm 2001, những sửa đổi uyển chuyển lại tiếp diễn, Việt Nam mạnh dạn đón nhận nền kinh tế thị trường, cởi mở hơn với nền kinh tế tư bản tư nhân, khiêm tốn hơn với vai trò then chốt, chủ đạo của kinh tế quốc doanh”.4 Đối với kinh tế tư nhân đã có những thay đổi quan trọng từ chỗ không được thừa nhận đến chỗ được thừa nhận; từ chỗ là đối tượng phải cải tạo đến chỗ được tự do phát triển, được tôn trọng và bình đ ng, và cuối cùng được coi như động lực của nền kinh tế.5 Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đ ng trước phát luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.6 Việc thừa nhận sự tồn tại lâu dài của kinh tế tư nhân (kinh tế dân doanh), kh ng định vai trò là một động lực quan trọng của nó trong phát triển kinh tế xã hội chính là phát huy tốt hơn các nguồn lực tiềm tàng trong nhân dân.7 Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo “Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng.” Chúng ta có thể khái quát một số nét chuyển biến trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường như sau: 2 Ý kiến của ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Xem cụ thể: Trần Ngọc Thơ, Nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, truy cập ngày 5-3-2015, XHCN.html. 3 Uông Chu Lưu (Chủ biên), Những vấn đề lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.205. 4 Phạm Duy Nghĩa, Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992 - phát hiện một số bất cập và kiến nghị hướng sửa đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22/2011, tr. 57 – 61. 5 Lương Xuân Quỳ (Chủ biên), Tư duy mới về phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới, sách tham khảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.43. 6 Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành trung ương – Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2015, tr.64. 7 Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương – Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2015, tr.217. 260
  3. Một là, phân định ngày càng rõ nét hơn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường thông qua việc tách biệt chức năng kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước, từ đó nhà nước can thiệp, điều tiết nền kinh tế không phải bằng mệnh lệnh hành chính mà trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Hiến pháp 1992 nhấn mạnh đến vai trò quản lý thống nhất nền kinh tế quốc dân của bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp song dường như Nhà nước cũng quá “tham” khi đòi hỏi cần kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.8 Hậu quả của cách tiếp cận này là sự lẫn lộn vị trí, vai trò của Nhà nước; yêu cầu điều tiết của Nhà nước nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh kinh tế một cách công bằng, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, tuân thủ triệt để các cam kết quốc tế, nhất là cam kết với WTO chưa được hiến định rõ nét; cơ cấu vận hành bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập. 9 Hiến pháp 2013 coi trọng vai trò xây dựng thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.10 Với cách tiếp cận này, vị trí, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường sẽ rõ ràng hơn, khi đó nhà nước làm cho thị trường hoàn hảo hơn, “triệt để hơn” thông qua việc “đẩy lùi/xoá bỏ” những trở ngại/hạn chế về quyền sở hữu, quyền kinh doanh, thông tin, chế tài thực hiện hợp đồng; và thực thi hữu hiệu công cụ chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế rủi ro bất ổn định và khủng hoảng kinh tế; làm chất xúc tác và nuôi dưỡng sự phát triển một số thị trường cho “chính thức hơn, lành mạnh hơn” (nhất là đối với các thị trường nhân tố sản xuất như thị trường tài chính, thị trường đất đai, bất động sản và thị trường lao động); thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển con người thông qua việc xây dựng và thực thi hệ thống an sinh xã hội, công cụ luật pháp, thuế, chương trình hỗ trợ vùng/nhóm người khó khăn.11 8 Điều 26 Hiến pháp 1992. 9 Uông Chu Lưu (Chủ biên), Những vấn đề lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.220-221. 10 Điều 52 Hiến pháp 2013. 11 Võ Trí Thành, Thể chế, kinh tế học thể chế và cải cách ở Việt Nam, Vo%20Tri%20Thanh.pdf. 261
  4. Hai là, nội hàm “bình đ ng giữa các thành phần kinh tế” ngày càng thể hiện rõ hơn Trong thời kỳ đầu đổi mới, việc xác định rõ ràng các thành phần kinh tế rất được chú trọng như là một biện pháp giữ vững “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường. Việc xác định các thành phần kinh tế được thực hiện theo quy trình từ văn kiện đảng12 đến các quy định trong Hiến pháp13 và cụ thể hóa trong các đạo luật. Tuy nhiên, cách phân chia các thành phần kinh tế và phân định trọng trách của các thành phần kinh tế trong Hiến pháp không phù hợp với thực tiễn công tác thống kê, quản lý ở nước 12 Cụ thể: - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta kh ng định có năm (05) thành phần kinh tế: Kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể, gia đình); kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ; kinh tế tự túc, tự cấp; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định có năm (05) thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; kinh tế tư nhân; và kinh tế tư bản nhà nước. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định có năm (05) thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác xã; kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế; tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định có sáu (06) thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng xác định có năm (05) thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định có bốn (04) thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 13 Cụ thể: - Các thành phần kinh tế theo Hiến pháp 1992 bao gồm: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. - Các thành phần kinh tế theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. 262
  5. ta14 cũng như khó có thể bảo đảm phân bổ phúc lợi một cách hài hòa cho các giai tầng nhân dân, giữ gìn tài nguyên quốc gia cho các thế hệ, cân đối giữa phát triển và an ninh sinh thái, bảo vệ môi trường.15 Vì vậy, khi sửa đổi Hiến pháp nhiều quan điểm kiến nghị không nên ghi nhận các thành phần kinh tế trong Hiến pháp.16 Tiếp thu các ý kiến đóng góp và khắc phục nhược điểm về các thành phần kinh tế, Hiến pháp 2013 ghi nhận:11 Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, bình đ ng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Với quy định này của Hiến pháp 2013, các thành phần kinh tế được tự do phát triển mà không bị trói buộc bởi các mục tiêu phát triển, các “mặc cảm” thuộc khu vực tư nhân chính thức được xóa bỏ, bởi trước pháp luật, các thành phần kinh tế được chủ động trong việc lựa chọn mô hình kinh doanh, liên kết, hợp tác phát triển. Ba là, trả cho thị trường chức năng phân bổ nguồn lực phát triển kinh tế xã hội thông qua việc bãi bỏ các ưu đãi không cần thiết đối với khu vực kinh tế nhà nước, từ đó tạo cơ hội bình đ ng cho các thành phần kinh tế trong tiếp cận các nguồn lực công phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cơ chế thị trường là sự tương tác giữa Nhà nước, các doanh nghiệp, người dân, người tiêu dùng trong quá trình tích tụ/tích lũy các nguồn lực và phân bổ các 14 Uông Chu Lưu (Chủ biên), Những vấn đề lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.214. 15 Phạm Duy Nghĩa, Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992 - phát hiện một số bất cập và kiến nghị hướng sửa đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22/2011, tr. 57 – 61. 16 Xem thêm: - Phạm Duy Nghĩa, Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992 - phát hiện một số bất cập và kiến nghị hướng sửa đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22/2011, tr. 57 – 61. - Phan Thị Thanh Thủy, Những yêu cầu sửa đổi chương chế độ kinh tế của hiến pháp 1992 xuất phát từ hội nhập kinh tế quốc tế, in trong “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tập II Quyền con người,quyền công dân, chế độ kinh tế, bảo hiến và một số vấn đề khác, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.218-234. - Lê Thị Thu Thủy, Một số vấn đề về các thành phần kinh tế trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung, in trong “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tập II Quyền con người, quyền công dân, chế độ kinh tế, bảo hiến và một số vấn đề khác, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.235-245. 11 Điều 51 Hiến pháp 2013. 263
  6. nguồn lực (công và tư) trên nguyên tắc bình đ ng, công bằng. Cơ chế thị trường đã chứng minh cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn rằng nó là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất của một nền kinh tế mà loài người có được cho tới nay; nó giúp nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết nạn nghèo đói và gia tăng thịnh vượng cho người dân.12 Do đó, việc Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định rõ “thị trường có vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”13 là một bước tiến quan trọng về nhận thức, giúp cho nền kinh tế thị trường Việt Nam tiệm cận gần hơn với nền kinh tế thị trường hiện đại. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã quan tâm tới việc hoàn thiện thể chế về sở hữu theo hướng thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Nguồn lực nhà nước – một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước là các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, như đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của Nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nghĩa là những yếu tố phi doanh nghiệp (đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia)14, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định rõ được “quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế”15. Theo đó, việc quản lý, thu lợi từ tài sản công thuộc về Nhà nước. Việc tiếp cận, sử dụng tài sản công là quyền của các chủ thể trong nền kinh tế. Điều này cũng có nghĩa, yêu cầu bảo đảm bình đ ng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của các chủ thể trong nền kinh tế là 12 Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh (Chủ biên), Báo cáo phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam 2014, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2015, tr.39. 13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.103. 14 Vũ Văn Phúc, Vì sao lại hiến định: nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?, truy cập ngày 5/2/2014, nen-kinh-te-nuoc-ta-co-nhieu.aspx. 15 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.105. 264
  7. bước tiến vượt bậc về nhận thức lý luận, đồng thời phá bỏ mọi hoài nghi về việc đồng nhất kinh tế mà nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc được ưu tiên tiếp cận các nguồn tài sản công. Như vậy, để được tiếp cận, sử dụng tài sản công, doanh nghiệp nhà nước cũng phải cạnh tranh, phải đáp ứng được yêu cầu như những doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế, nghĩa là đã “tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước”16. Phân biệt rõ ràng chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước với nhiệm vụ chính trị, công ích. 2. Để phát triển kinh tế tƣ nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Nhận diện các rào cản và giải pháp khắc phục Thứ nhất, để phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trước hết phải làm rõ vai trò của Nhà nước trong “xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường”.17 Một trong những nhược điểm được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII là: Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn vào nền kinh tế18 mà thực chất là làm rõ mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Xác định rõ vai trò của Nhà nước, vai trò của thị trường là một trong những vấn đề lý luận cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ.19 Do vậy, thực chất của nội dung chính sách pháp luật về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước và quyền lực của thị trường; kiểm soát sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển hài hòa lợi ích người dân - nhà kinh doanh và nhà nước - với tư cách là một hạt nhân trung tâm của cấu trúc nền kinh tế. Cần giới hạn sự can thiệp của Nhà nước, tăng cường quyền lực thị trường và khuyến khích sự tự điều tiết của thị trường. Nhà nước chỉ can thiệp khi thị trường thất bại, mục đích can thiệp nhằm phân bổ phúc lợi thông 16 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.106. 17 Điều 52 Hiến pháp 2013. 18 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.100. 19 Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành Trung ương - Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2015, tr.217. 265
  8. qua chính sách điều tiết hoặc các chính sách thuế20. Để phát huy tốt vai trò của Nhà nước trong phát triển các thành phần phần kinh tế, chúng tôi kiến nghị: Một là, sự quản lý, điều tiết của nhà nước đối với quá trình phát triển các thành phần kinh tế là cần thiết. Sự quản lý, điều tiết của nhà nước là để bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các thành phần kinh tế trên nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Hai là, sự quản lý, điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường chỉ là những định hướng chung, mang tính bao quát ở tầm vĩ mô để tạo lập môi trường kinh doanh an toàn cho các thành phần kinh tế. Việc định hướng phát triển đồng bộ các loại thị trường được coi là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hợp tác và cạnh tranh với nhau trên các nguyên tắc sau: - Tuyệt đối tuân thủ yêu cầu quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật. Pháp luật phải được coi là chuẩn mực cho các giao dịch trên thị trường. - Quy hoạch, kế hoạch quản lý, điều hành nền kinh tế cần có tầm nhìn dài hạn và thống nhất. - Không đồng nhất việc Nhà nước quản lý nền kinh tế với việc “góp phần bảo đảm công bằng xã hội, vì sự phát triển dân chủ, văn minh của đất nước, song vẫn giữ được bản sắc chính trị – xã hội của dân tộc trong thời kỳ hội nhập toàn cầu”21. Ba là, công cụ để Nhà nước quản lý, điều tiết sự phát triển các thành phần kinh tế là chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, trong đó quan trọng nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp. Thứ hai, các văn kiện Đảng và Hiến pháp hiện hành vẫn tiếp tục quan điểm “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” không đáp ứng được mong mỏi các thành phần kinh tế, bởi lẽ đây là tiếp tục phản ánh “sự bất bình đẳng từ nội hàm của tư tưởng này”.22 Do đó, để phát triển kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường thì việc làm rõ nội hàm của kinh tế nhà nước và vai trò chủ 20 Phạm Duy Nghĩa, Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992 - phát hiện một số bất cập và kiến nghị hướng sửa đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22/2011, tr. 57 – 61. 21 Phạm Ngọc Quang, Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, truy cập, ngày 1/5/2009, 22 Lương Xuân Quỳ (Chủ biên), Tư duy mới về phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới, Sách tham khảo, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.45. 266
  9. đạo của kinh tế nhà nước càng sớm càng tốt vì nó sẽ là yếu tố quyết định đến việc tạo lập môi trường pháp lý thật sự bình đ ng giữa các thành phần kinh tế, bởi lẽ, chỉ khi minh định được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường để bảo đảm thiết lập môi trường pháp lý bình đ ng thì các thành phần kinh tế mới được cạnh tranh công bằng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận nguồn lực quốc gia như đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Trọng tâm của việc minh định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong mối quan hệ với việc phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường là xây dựng các tiêu chí để xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và việc sử dụng doanh nghiệp nhà nước để điều tiết nền kinh tế của nhà nước trên tinh thần: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Sớm hoàn thiện thể chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Phân định r quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp”. Thực tiễn phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, mặc dù số lượng chỉ chiếm dưới 1% về số lượng doanh nghiệp trong cơ cấu của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhưng lại nắm giữ tới gần 40% các khoản nợ.23 Trong thực tế, có nhiều ngân hàng thương mại sẵn sàng cho các doanh nghiệp nhà nước được xem là kém hiệu quả vay vì họ kỳ vọng Nhà nước sẽ hỗ trợ khi các doanh nghiệp này không trả được nợ; Lợi thế về thủ tục: Văn bản chỉ đạo cho phép cho vay vượt mức cấp tín dụng có sự chỉ đạo, chỉ định, bảo lãnh, tín chấp của Nhà nước.24 Nhà nước vẫn đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Nói cách khác, các doanh nghiệp nhà nước luôn được sự ưu ái trong phân bổ các nguồn vốn đầu tư nhà nước, ODA, tín dụng thương mại cũng như các biện pháp khoanh nợ, giãn nợ và các hỗ trợ tài chính khác. Thực tế này đã giúp các doanh nghiệp nhà nước có những lợi thế nhất định 23 Phạm Đức Trung, Cải cách thể chế kinh tế để đổi mới doanh nghiệp nhà nước, truy cập ngày 2/1/2015, binh-luan/cai-cach-the-che-kinh-te- de-doi-moi-doanh-nghiep-nha-nuoc-57108.html. 24 Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Doanh nghiệp nhà nước và biến dạng thị trường, Bài tham luận tại Hội thảo “Doanh nghiệp nhà nước: Ràng buộc ngân sách, khuôn khổ quản trị và biến dạng thị trường”, Hà Nội ngày 27/5/2015, Rang-buoc-ngan-sach-khung-kho-quan-tri-va-bien-dang-thi-truong%E2%80%9D-.htm. 267
  10. trong tiếp giúp cận các nguồn lực25 và gián tiếp năng lực cạnh tranh được nâng cao nhưng không dựa trên nội lực thực sự của các doanh nghiệp này. Khắc phục những nhược điểm này chúng tôi kiến nghị: - Quy định rõ trong các văn bản pháp luật cấm doanh nghiệp nhà nước đầu tư ngoài ngành, nhất là trong lĩnh vực chứng khoán, bất động sản. - Thực thi tốt trách nhiệm của người đại diện phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước và có cơ chế pháp lý giám sát việc thực hiện trách nhiệm của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Cơ quan này có trách nhiệm thống nhất quản lý mọi phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước và nên thiết kế cơ quan này trực thuộc Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. - Triển khai có hiệu quả Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg ngày 28/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước và Danh mục doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 – 2020 để tránh tái diễn tình trạng đầu tư tràn lan như trước đây. Thứ ba, khuôn khổ pháp luật cho tự do kinh doanh ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, song để quyền tự do kinh doanh này góp phần thúc đẩy hình thành khối kinh tế tư nhân vững mạnh đủ sức cạnh tranh với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì còn đòi hỏi phải chuyển hóa những “quy định trên giấy” thành các hành động cụ thể của chính quyền, công chức Hiếp pháp năm 2013 đã quy định tự do kinh doanh là quyền con người và mọi người được tự kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.26 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định tại Luật này; bảo đảm bình đ ng 25 Phạm Đức Trung, Cải cách thể chế kinh tế để đổi mới doanh nghiệp nhà nước, truy cập ngày 2/1/2015, binh-luan/cai-cach-the-che-kinh-te- de-doi-moi-doanh-nghiep-nha-nuoc-57108.html. 26 Khoản 3 Điều 51 Hiến pháp 2013. 268
  11. trước pháp luật của các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh.27 Doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm.28 Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh29, kinh doanh có điều kiện được quy định cụ thể tại Luật Đầu tư năm 2014. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích30 cũng như tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội.31 Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh, khu vực kinh tế tư nhân vẫn gặp phải vô vàn những lực cản từ các quy định pháp luật. Ch ng hạn: - Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Đình Cung (2015) nhấn mạnh: Chỉ riêng các quy định về điều kiện kinh doanh đã gần 900 trang, chưa kể quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thời hạn và cơ quan có thẩm quyền xác nhận đáp ứng điều kiện kinh doanh và còn hàng ngàn “công văn điều hành hàng năm” làm cho rủi ro pháp lý, chi phí tuân thủ cao, thiếu cụ thể, thiếu nhất quán, hay thay đổi và không tiên liệu trước được; không công bằng trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiêp được minh chứng bằng điều kiện kinh doanh một số ngành nghề (kinh doanh xuất khẩu gạo, kinh doanh vận tải hành khách), một số điều kiện kinh doanh trước đây đã bãi bỏ nay không khôi phục lại và kết quả rà soát của Bộ Tư pháp về thực trạng ban hành điều kiện kinh doanh không chỉ ở các Bộ mà còn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.32 27 Khoản 1 Điều 5 Luật Doanh nghiệp 2014. 28 Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2014. 29 Ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh bao gồm: - Kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ lục 1 của Luật Đầu tư 2014; - Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật quy định tại Phụ lục 2 của Luật Đầu tư 2014; - Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật Đầu tư 2014; - Kinh doanh mại dâm; - Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người; - Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người. Việc sản xuất, sử dụng sản phẩm quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế, sản xuất dược phẩm, điều tra tội phạm, bảo vệ quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ. 30 Xem: Điều 9 Luật Doanh nghiệp 2014. 31 Xem: Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014. 32 Nguyễn Đình Cung, Pháp luật về điều kiện kinh doanh: thực trạng và những thách thức thực hiện. 269
  12. - Những can thiệp trái quy luật kinh tế thị trường vào giao dịch kinh doanh, tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế đang có nguy cơ bùng phát; sự lúng túng, thiếu thống nhất, chưa có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc cấp giấy phép đầu tư, kiểm tra, giám sát doanh nghiệp trong nền kinh tế; sự phản ứng chậm trễ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với sự cố môi trường nghiêm trọng do hoạt động kinh tế mang lại làm suy giảm đáng kể niềm tin của người dân vào bộ máy nhà nước; quyền lợi của Nhân dân – chữ được viết hoa trong Hiến pháp chưa được đặt vào vị trí trung tâm của các quyết định chính sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; yêu cầu bảo đảm phát triển bền vững nền kinh tế chưa được quan tâm nhiều đặt ra đòi hỏi cần phải làm rõ hơn vị trí, vai trò của Nhà nước trong quản lý điều tiết nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay. - Có không ít doanh nhân phản ánh sự thật xót xa “Công chức cứ trả thù, trả đũa thì có luật cũng như không” và hệ quả, doanh nghiệp như cá nằm trên thớt”.33 Những kêu đòi của người dân, doanh nghiệp cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam thường bị vấp phải lực cản là cả hệ thống cơ quan công lực với nhiều thiết chế cưỡng chế sẵn sàng được sử dụng bất cứ khi nào. Thứ tư, nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp lý cho việc tiếp cận nguồn lực nhà nước bình đ ng giữa các thành phần kinh tế, nhất là nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII kh ng định tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu theo hướng thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đ ng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế34. Luật đầu tư, Bài thuyết trình tại Hội thảo Điều kiện kinh doanh – kinh nghiệm quốc tế và thách thức đối với Việt Nam do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức dưới sự tài trợ của Dự án Hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (RCV), ngày 6 tháng 4 năm 2015, nghiem-quoc-te-va-thach-thuc-doi-voi-Viet-Nam%E2%80%9D.htm. 33 Bầu Đệ: Công chức cứ trả thù, trả đũa thì có luật cũng như không!, truy cập ngày 12-7-2016, luat-cung-nhu-khong.html 34 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.104-105. 270
  13. Hiến pháp năm 2013 quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53); Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ (Khoản 2 Điều 54); Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật (Khoản 1 Điều 55). Như vậy, nội dung văn kiện Đảng, Hiến pháp đều kh ng định cơ hội tiếp cận bình đ ng đối với tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Để làm được điều này việc thực hiện tốt yêu cầu “Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu của các bộ, Ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp”35. Chính sách pháp luật về bảo đảm tiếp cận tài sản công của các thành phần kinh tế phải được thực hiện thông qua cơ chế đấu thầu công khai trên nền tảng pháp luật rõ ràng và có cơ chế giám sát đủ mạnh để phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi lạm dụng để thông thầu hoặc trục lợi trái pháp luật. Thứ năm, nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp lý hỗ trợ các thành phần kinh tế khởi nghiệp, nhất là bảo đảm cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy tiềm năng sáng tạo. Trước đây, chính sách pháp luật Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào việc phát triển số lượng doanh nghiệp dựa trên các sửa đổi, bổ sung liên tục trong Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Với điều kiện thành lập doanh nghiệp thông thoáng như hiện nay, có thể kh ng định, khuôn khổ pháp lý cho việc thành lập doanh nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu thành lập doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, có sự tương phản đáng kể giữa những cải cách thủ tục 35 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.106. 271
  14. thành lập doanh nghiệp với việc tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách ưu đãi, chính sách thuế, thủ tục hành chính kinh doanh Nếu như những cải cách thành lập doanh nghiệp được tiến hành hối hả dưới sự thúc giục của thị trường thì những đòi hỏi tạo cơ chế pháp lý hỗ trợ cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường một cách thuận lợi thì dường như vẫn còn là khoảng trống trong chính sách pháp luật về phát triển các thành phần kinh tế. Chúng ta vẫn chưa có một thống kê chính thức về số lượng doanh nghiệp hoạt động sau 5 năm được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; chưa tiến hành đánh giá mức độ ảnh hưởng của thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh như là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm nhiệt huyết khởi nghiệp của giới kinh doanh hoặc hành vi khởi tố người kinh doanh do không đăng ký kinh doanh là những sự kiện gây giảm nhiệt huyết kinh doanh của các thành phần kinh tế. Ngoài ra, quá trình phát triển của các thành phần kinh tế vẫn còn trong tình trạng “mạnh ai nấy làm” mà thiếu sự liên kết cần thiết. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp mới tiến hành kinh doanh rất cần được hỗ trợ của các thành công, doanh nghiệp dẫn đầu trên thị trường hoặc các doanh nghiệp mới khởi nghiệp được hỗ trợ, tạo điều kiện tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn hoặc thiếu các chia sẻ kinh nghiệm thành công hoặc kinh nghiệm thất bại, kinh nghiệm gia nhập thị trường – những kiến thức rất cần thiết cho doanh nghiệp thành công trên thị trường Để tạo cơ sở cho tinh thần khởi nghiệp của các thành phần kinh tế, chúng tôi kiến nghị: - Triển khai có hiệu quả chiến lược khởi nghiệp doanh nghiệp ở cấp quốc gia, cấp ngành và từng địa phương. - Xây dựng khuôn khổ pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong toàn quốc trong năm đầu thành lập về: các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh; thông tin thị trường trong và ngoài nước; cập nhật chính sách pháp luật; đào tạo người quản trị, điều hành theo các chuẩn mực quốc tế; chính sách thuế; chính sách đất đai - Cụ thể hóa chính sách ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh theo ngành, địa phương phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia. 272
  15. 3. Kết luận Phát triển thể chế kinh tế thị trường là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia. Từ thù ghét, bài bác trong quá khứ và thất bại của những thử nghiệm về các mô hình kinh tế mang màu sắc kế hoạch hóa tập trung hoặc coi kinh tế tập thể/kinh tế nhà nước làm chủ đạo bị thất bại, đến nay, vị trí vai trò của kinh tế thị trường đã được chấp nhận. Bối cảnh phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay không chỉ là loại bỏ tư duy, quan niệm xưa cũ đối với kinh tế tư nhân mà còn là vô vàn các áp lực cải cách, đổi mới trước những thúc bách, đòi hỏi của khu vực kinh tế tư nhân. Thực tiễn đã chứng minh, nếu thể chế nhà nước không theo kịp với sự phát triển của đời sống kinh tế thì tự nó sẽ bị lạc hậu và đương nhiên, nhà nước không thể quản lý được các quá trình kinh tế. Như thế cũng có nghĩa, để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phải làm song song hai việc là: Nỗ lực khắc phục những nhược điểm xưa cũ, nhất là thể chế hành chính và thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của khu vực kinh tế tư nhân. 273
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đình Cung, Pháp luật về điều kiện kinh doanh: thực trạng và những thách thức thực hiện Luật đầu tư, Bài thuyết trình tại Hội thảo Điều kiện kinh doanh – kinh nghiệm quốc tế và thách thức đối với Việt Nam do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức dưới sự tài trợ của Dự án Hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (RCV), ngày 6 tháng 4 năm 2015, %E2%80%9CDieu-kien-kinh-doanh-%E2%80%93-Kinh-nghiem-quoc-te- va-thach-thuc-doi-voi-Viet-Nam%E2%80%9D.htm. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành Trung ương – Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016. 4. Tư Giang, Mô hình phát triển nào cho Việt Nam, truy cập ngày 1-11- 2014, Viet-Nam.html. 5. Viên Thế Giang, Những vấn đề đặt ra khi thực thi chính sách, pháp luật về cải cách doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 1+2 (329+330)/ 2017, tr. 67-78. 6. Viên Thế Giang, Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: Từ quan điểm của Đảng đến pháp luật của Nhà nước và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Thể chế kinh tế và rào cản của thể chế kinh tế đối với phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2017, tr.109-120. 7. Viên Thế Giang, Chính sách pháp luật về phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Thể chế với phát triển kinh tế ở Việt Nam”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2018, tr.235-254. 8. Uông Chu Lưu (Chủ biên), Những vấn đề lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh (Chủ biên), Báo cáo phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam 2014, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2015. 10. Phạm Duy Nghĩa, Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992 - phát hiện một số bất cập và kiến nghị hướng sửa đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22/2011, tr. 57 – 61. 11. Vũ Văn Phúc, Vì sao lại hiến định: nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?, truy cập ngày 5/2/2014, XHCN/2014/25741/Vi-sao-lai-hien-dinh-nen-kinh-te-nuoc-ta-co-nhieu.aspx. 274
  17. 12. Phạm Ngọc Quang, Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, truy cập, ngày 1/5/2009, 13. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên), Tư duy mới về phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới, sách tham khảo, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015. 14. Võ Trí Thành, Thể chế, kinh tế học thể chế và cải cách ở Việt Nam, e%20hoc%20the%20che_Vo%20Tri%20Thanh.pdf. 15. Trần Ngọc Thơ, Nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, truy cập ngày 5-3-2015, truong-dinh-huong-XHCN.html. 16. Lê Thị Thu Thủy, Một số vấn đề về các thành phần kinh tế trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung, in trong “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tập II Quyền con người,quyền công dân, chế độ kinh tế, bảo hiến và một số vấn đề khác, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.235-245. 17. Phan Thị Thanh Thủy, Những yêu cầu sửa đổi chương chế độ kinh tế của hiến pháp 1992 xuất phát từ hội nhập kinh tế quốc tế, in trong “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tập II Quyền con người, quyền công dân, chế độ kinh tế, bảo hiến và một số vấn đề khác, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.218-234. 18. Phạm Đức Trung, Cải cách thể chế kinh tế để đổi mới doanh nghiệp nhà nước, truy cập ngày 2/1/2015, doi/trao-doi binh-luan/cai-cach-the-che-kinh-te-de-doi-moi-doanh- nghiep-nha-nuoc-57108.html. 19. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Doanh nghiệp nhà nước và biến dạng thị trường, Bài tham luận tại Hội thảo “Doanh nghiệp nhà nước: Ràng buộc ngân sách, khung khổ quản trị và biến dạng thị trường”, Hà Nội ngày 27/5/2015, nghiep-nha-nuoc-Rang-buoc-ngan-sach-khung-kho-quan-tri-va-bien-dang- thi-truong%E2%80%9D-.htm. 20. vietnamnet.vn: Bầu Đệ: Công chức cứ trả thù, trả đũa thì có luật cũng như không!, truy cập ngày 12-7-2016, doanh/doanh-nhan/315149/bau-de-cong-chuc-cu-tra-thu-tra-dua-thi-co- luat-cung-nhu-khong.html. 275