Phát triển kinh tế xanh – xu thế tất yếu trên thế giới và Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển kinh tế xanh – xu thế tất yếu trên thế giới và Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- phat_trien_kinh_te_xanh_xu_the_tat_yeu_tren_the_gioi_va_viet.pdf
Nội dung text: Phát triển kinh tế xanh – xu thế tất yếu trên thế giới và Việt Nam
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH – XU THẾ TẤT YẾU TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TS. Lê Tố Anh ThS. Nguyễn Công Đức ThS. Đào Thu Huyền Đại học Công đoàn Tóm tắt Sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong mấy thập kỷ vừa qua đang tác động mạnh mẽ tích cực đến đời sống của toàn nhân loại. Nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức do những mặt trái của nền kinh tế gây ra: khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra; sự biến đổi của khí hậu trên toàn cầu; sự gia tăng dân số kéo theo các vấn đề xã hội; tình trạng khan hiếm nguồn nước, cạn kiệtnguồn tài nguyên đặt ra thách thức cho các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phải tìm kiếm một phương thức phát triển kinh tếđảm bảo sự bền vững về môi trường, hướng tới kinh tế xanh – một xu thế phát triển của thế kỷ 21. Từ khóa: Phát triển kinh tế xanh; phát triển bền vững Việt Nam; xu thế thế giới. Abstract: The world's economy development in several decades is impacting strongly to human's life. But there are lots of difficulties due to the disadvantages of economy such as:economic crisis, global climate change, population increase and social crimes, lack of water, lack of natural materials As result, the countries and Vietnam have to face economy troubles and they need to find the suitable mode of economic development to protect environment to develop green economy -a development trang in 21st century Key words: green economic development, Vietnam's sustainable development, world trend. 62
- 1. Đặt vấn đề Xu thế phát triển kinh tế xanh bền vững gắn với bảo vệ mội trường là tất yếu hiện nay khi mà trong một thời gian dài hơn nửa thế kỷ trước chúng ta chỉ tập trung phát triển “nền kinh tế nâu”, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, mất đa dạng sinh học tự nhiên. Nhằm mang lại cuộc sống xanh với một số ngành kinh tế mũi nhọn như nông nghiệp hữu cơ, du lịch sinh thái, công nghiệp tái chế, năng lượng tái tạo, tái sinh rừng tự nhiên trong khuôn khổ bài viết này tác giả đi nghiên cứu một phần làm rõ khái niệm kinh tế xanh, xu hướng phát triển kinh tế xanh trên thế giới và thực tếởViệt Nam nhằm hướng tới cuộc sống xanh bền vững. 2. Một số khái niệm liên quan 2.1. Kinh tế xanh Khi nghiên cứu về kinh tế xanh (Green Economy) trước đây đã có rất nhiều quốc gia, các tổ chức thực hiện và có những quan điểm khác nhau. Kinh tế xanh được coi là một mô hình phát triển mới, được nhiều nước ủng hộ và hướng theo. Theo Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), nền kinh tế xanh là “nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”1. Nói một cách đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. Theo cuốn Designing the green economy the Postindustrial Alternative to Coporate Globalization của Brian Milani (2005) thì kinh tế xanh là môn kinh tế nghiên cứu về thế giới thực – thế giới của việc làm và nhu cầu con người, các nguồn lực trái đất và cách thức kếthợp chúng với nhau. Nó phản ánh “giá trị sử dụng” chứ không phải “giá trị trao đổi” hay tiền bạc. Nó thể hiện chất lượng chứ không phải số lượng vì lợi ích của nó. Nó biểu hiện sự tái tạo của cá nhân, cộng đồng và hệ sinh thái chứ không phải sự tích lũy tiền bạc hay vật chất. Theo Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Liên hiệp quốc (UNESCAP) thì gắn kinh tế xanh với tăng trưởng xanh, trong đó là chiến lược xanh hướng 63
- đến việc tìm kiếm sự tối đa hóa trong sản lượng kinh tế và tối thiểu hóa gánh nặng sinh thái. Viện Nghiên cứu môi trường thuộc Trường đại học tổng hợp Kyoto (Nhật Bản) thì tăng trưởng xanh đồng nghĩa với việc xây dựng một xã hội cacbon thấp đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ và hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Như vậy cần có một nghiên cứu khoa học mang tính toàn diện, tổng thể nhằm làm rõ khái niệm kinh tế xanh và vai trò của hệ thống tài chính xanh trong nền kinh tế xanh. Có thể nói, quan niệm và nhận thức về kinh tế xanh vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau giữa các nước và giữa các khu vực. Nhưng dù hiểu theo cách tiếp cận nào thì có thể khái quát lại: Nội dung cơ bản của kinh tế xanh gồm 3 trụ cột: phát triển kinh tế (các vấn đề tăng trưởng kinh tế, việc làm ); bền vững môi trường (giảm thiểu năng lượng cacbon và mức độ suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên ); gắn kết xã hội (đảm bảo mục tiêu giảm nghèo, bình đẳng trước các cơ hội mà nền kinh tế xanh tạo ra, đem lạimôi trường sống trong lành). Khái niệm “kinh tế xanh” không thay thế khái niệm bền vững, nhưng nó ngày càng được công nhận là mô hình phù hợp làm nền tảng cho phát triển bền vững. Tính bền vững là một mục tiêu dài hạn quan trọng, nhưng xanh hóa nền kinh tế là phương tiện đưa chúng ta tới đích. 2.2. Tăng trưởng xanh (Green Growth) Là hướng tiếp cận mới của thế giới trong tăng trưởng kinh tế, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn hướng tới phục hồi và bảo trì hệ sinh thái tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống con người, giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu. “Tăng trưởng Xanh” làm cho các quá trình tăng trưởng có hiệu quả về mặt tài nguyên, sạch hơn và có khả năng phục hồi hơn chứ không làm cho quá trình này chậm lại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đầu tư vào môi trường để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy, “tăng trưởng Xanh” được đánh giá là con đường ngắn nhất hướng tới sự phát triển bền vững. 64
- 2.3. Phát triển bền vững (Sustainable Development) Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1987 Uỷ ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm Phát triển bền vững: "Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai". Theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam năm 2005: “Phát triển bền vững là sự phát triển có thểđáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng hay làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai”. Phát triển bền vững đòi hỏi sự tiến bộ và tăng cường sức mạnh của ba yếu tố có tính chất phụ thuộc và tương hỗ nhau: Kinh tế - Xã hội - Môi trường. 3. Xu thế phát triển kinh tế xanh trên thế giới Nhận thấy được những lợi ích, tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường của kinh tế xanh mang lại mà chính phủ các quốc gia trên thế giới đã tiến hành thay đổi chính sách, cách thức phát triển, từ bỏ dần nền “kinh tế nâu” trước đây và đã đạt được những kết quả tích cực của các khoản đầu tư và chính sách xanh. Phát triển kinh tế xanh tại Pháp Pháp là một trong những nước tiến hành thực hiện phát triển nền kinh tế xanh, cụ thể là sản xuất điện năng từ nguồn nhiên liệu tái tạo dự kiến đạt 23% vào năm 2020; khôi phục hoạt động của các nhà máy sản xuất năng lượng tái tạo; phát triển các dự án thúc đẩy tăng trưởng xanh. Trong 10 năm tới Pháp sẽ chi 450 tỷ EUR để đầu tư cho các lĩnh vực như: xây dựng, vận tải, năng lượng tái tạo, bảo vệđa dạng sinh học, quản lý nguồn nước, xử lý rác 65
- thải, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người tiêu dùng. Theo thống kê của cơ quan quản lý việc làm Pháp, tới năm 2012 sẽ có khoảng 220 nghìn “việc làm xanh” được tạo ra. Ngoài ra, Pháp có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo nên Chính phủđã đưa ra nhiều chính sách tạo điều kiện giúp thị trường này phát triển như giảm thuế, yêu cầu và khuyến khích người dân sử dụng nguồn điện này Tính đến năm 2008, tổng sử dụng năng lượng tái tạo của Pháp đã chiếm 7% toàn bộ năng lượng của nước này. Bên cạnh đó, Pháp đã sử dụng vật liệu cách âm cách nhiệt đối với các công trình xây dựng mới và triển khai tu sửa hệ thống cách nhiệt của các tòa nhà cũ nhằm giảm thiểu 30% tiêu thụđiện năng vào 2020. Phát triển kinh tế xanh tại Mỹ Cũng giống như Liên minh Châu Âu, Nhật Bản , việc phát triển kinh tế xanh tại Mỹ ngày càng được quan tâm. Dưới sự lãnh đạo củacựu Tổng thống Obama, một loạt các chính sách mới nhằm chấn hưng nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh chính sách phát triển năng lượng, phát triển kinh tế xanh, thực hiện chính sách tiết kiệm năng lượng, giảm bớt ô nhiễm môi trường đã được thực hiện. Cụ thể tháng 6/2009, Hạ viện Mỹđã thông qua Dự luật chống biến đổi khí hậu với mục tiêu đến năm 2020 sẽ giảm khí thải nhà kính 17% so với năm 2005 và cho phép các công ty xả khí thải thấp hơn hạn ngạch có thể bán phần hạn mức khí thải không dùng hết cho các công ty khác; Thành lập cơ quan triển khai năng lượng sạch để huy động các nguồn lực và đầu tư cho chương trình năng lượng sạch Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹđang nỗ lực xóa bỏ tiếng xấu là nước tiêu thụ năng lượng hoang phí nhất và xả khí thải lớn nhất thế giới (chiếm 4,5% dân số thế giới nhưng tiêu dùng đến 25% năng lượng toàn cầu). Chính phủ Mỹđã thông qua một loạt tiêu chuẩn mới về khí thải, trong đó yêu cầu các công ty sản xuất ôtô chuyển sang sản xuất các xe hybrid vừa chạy điện vừa chạy xăng, song song với cải tiến các động cơ để tiết kiệm nhiên liệu. Ở cấp độ bang, các bang Mỹ cũng đã có những nhận thức sớm và đầy đủ về vai trò của kinh tế xanh, trong đó điển hình là bang Washington. Đây là bang đi đầu trong việc phát triển và thực hiện 66
- các chương trình hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế và tạo việc làm theo hướng xanh hơn, bền vững hơn. Hàn Quốc: Đẩy mạnh tiêu dùng xanh Hàn Quốc là quốc gia châu Á đi đầu về phát triển xanh và coi tăng trưởng xanh là một phần trong chiến lược quốc gia. Chiến lược xanh của Hàn Quốc gồm ba yếu tố: công nghiệp, năng lượng và đầu tư. Chiến lược này nhằm duy trì quy mô hoạt động sản xuất kinh tế nhằm tối ưu hoá nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạn chế tối đa ảnh hưởng môi trường lên các nguồn năng lượng và tài nguyên, đồng thời chuyển đổi đầu tư sang các hoạt động môi trường và tăng trưởng kinh tế. Để hiện thực hoá chiến lược, Hàn Quốc đã ban hành gói kích cầu “Hiệp định tăng trưởng xanh mới” (tháng 1/2009) trị giá 50 nghìn tỷ Won trong 4 năm với 9 dự án xanh, tạo 956.000 việc làm. Cũng trong tháng 1/2009, “Kế hoạch Nghiên cứu và phát triển toàn diện về công nghệ xanh” kêu gọi tăng 2 lần chi phí cho công nghệ xanh vào năm 2012, tập trung vào các lĩnh vực như tái sử dụng rác thải, chế tạo và sử dụng pin năng lượng mặt trời, dự đoán biến đổi khí hậu, lưu giữ cacbon Trong giai đoạn 2010 - 2011, chính phủ Hàn Quốc tập trung thúc đẩy phát triển ngành năng lượng gió, năng lượng mặt trời, hỗ trợ các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp xanh và ban hành luật Hạn chế khí thải, phát triển quản lý năng lượng. Đã có nhiều dự án xanh ở Hàn Quốc được người dân tích cực tham gia như “Thành phố mặt trời”, “Ngôi nhà xanh trị giá 2 triệu”, “Thành phố và dòng sông xanh hơn” Từ năm 2011, Hàn Quốc đã chi khoảng 60 tỷ USD trong 5 năm cho phát triển xanh, tạo hơn 1,8 triệu việc làm. Cũng trong giai đoạn này, Hàn Quốc xây dựng hệ thống “thẻ thanh toán xanh” để kích thích tiệu thụ hàng hoá xanh. Với sự hỗ trợ của thẻ này, việc sử dung hàng hoá xanh và sản phẩm tiết kiệm năng lượng ngày càng được phổ biến. Theo đó, người tiêu 67
- dùng có thể sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường và tiết kiệm chi tiêu thông qua điểm thưởng. Điểm thưởng có thể quy đổi ra tiền mặt, hoặc trừ vào các hóa đơn thanh toán. Một chương trình khác do chính quyền Seoul khởi xướng đó là, nếu người dân tiết kiệm nước thì họ sẽ được giảm giá khi mua các sản phẩm xanh. Chính phủ Hàn Quốc tuyên bố sẽ cắt giảm lượng khí thải nhà kính tới 30% vào năm 2020. Trung Quốc triển khai công nghệ nano Trung Quốc phấn đấu đến 2020 đạt 15% lượng điện sản xuất từ năng lượng tái tạo, giảm 45% lượng cacbon khí thải. Xu hướng phát triển xanh tại Trung Quốc bắt đầu bằng kế hoạch 5 năm từ năm 2011. Chính phủ Trung Quốc đã đóng cửa hơn 2.000 doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Khối lượng đầu tư nhà nước trong lĩnh vực bảo toàn năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ thích ứng vượt qua chỉ tiêu của Mỹ và EU. Đặc biệt, các doanh nghiệp sản xuất của Trung Quốc đã chiếm 40% lượng xuất khẩupin mặt trời thế giới. Một lĩnh vực khác cũng phát triển tại nước này là công nghệ nano. Năm 2016, Trung tâm sáng kiến toàn cầu Blodal Innovation GICNA được thành lập giúp Bắc Kinh trở thành nước dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ xanh thế ký 21. Nông nghiệp hữu cơ ở Uganda Ugana đã có những bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp thường thành một hệ thống canh tác hữu cơ, với những lợi ích đáng kể cho kinh tế, xã hội và môi trường. Nông nghiệp hữu cơ (Organic Agriculture – OA) thúc đẩy và tăng cường sức khỏe, hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm cả đa dạng sinh học, chu kỳ sinh học và hoạt động sinh học đất. Ngăn cấm việc sử dụng các yếu tố đầu vào tổng hợp, chẳng hạn phân bón và thuốc trừ sâu. Uganda là một trong nước sử dung phân bón nhân tạo ít nhất thế giới, ước tính ít hơn 2% (hoặc 1kg/ha). Việc không sử dụng phân bón như là cơ hội để theo đuổi hình thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ, một hướng chính sách được chấp nhận rộng rãi ở Uganda2. 68
- 4. Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam – Con đường phát triển bền vững Ở Việt Nam, kinh tế xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Kinh tế xanh là phương thức thúc đẩy quá trình thay đổi các mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, nhằm khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh thông qua nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủđã ban hành Quyết định số 1393/QĐ – TTg phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng Xanh thời kỳ 2012 – 2020 và tầm nhìn đến 2050. Mục tiêu đặt ra trong hành trình “tăng trưởng Xanh” tạiViệt Nam: “Tăng trưởng Xanh”, tiến tới nền kinh tế cacbon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu thế chủđạo trong phát triển kinh tế bền vững, giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành tiêu chí bắt buộc và quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng trong thực hiện chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Chiến lược kinh tế xanh của Việt Nam đã xác định 3 mục tiêu: Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc xây dựng lối sống thân thiện với môi trường. 69
- Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế Sơ bộ 2016 Tổng số 1.485.096,0 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 90.591,0 Khai khoáng 51.978,0 Công nghiệp chế biến, chế tạo 436.618,0 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí 95.046,0 Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 25.544,0 Xây dựng 84.650,0 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 25.989,0 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 11.138,0 Giáo dục và đào tạo 51.236,0 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 34.900,0 Hoạt động khác 84.650,0 (Nguồn Tổng cục Thống kê; đơn vị tính: tỷđồng) Tiếp theo đó, ngày 20/3/2014, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020. Kế hoạch bao gồm 12 nhóm hoạt động với 66 hoạt động cụ thể theo 4 chủ đề chính: (1) Xây dựng thể chế quốc gia và Kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương (8 hoạt động); (2) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (20 hoạt động); (3) Thực hiện xanh hóa sản xuất (25 hoạt động); và (4) Thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững (13 hoạt động). 70
- Có thể thấy, Việt Nam đã đưa Tăng trưởng xanh từ Chiếnlược thành động lực quan trọng cho tăng trưởng bền vững. Mặc dù vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện khung chính sách nhưng Việt Nam đã sẵn sàng chuyển từ chính sách sang thực hiện với việc bổ sung nội dung biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh vào Luật Bảo vệ môi trường 2014 và một số quy định liên quan khác. Thông qua chiến lược tăng trưởng xanh đặt ra mục tiêu và mốc thời gian khác nhau trong kế hoạch hành động, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ. Chính vì vậy, ngày càng nhiều đối tác phát triển đã tham gia Liên minh xanh với Việt Nam (như UNDP, KOICA, GIZ, Belgium, EU, ADB, USAID, WB). Đến nay, cả nước đã có 5 bộ và gần 30 tỉnh, thành phố xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cấp tỉnh, thành phố, lồng ghép khía cạnh đầu tư xanh trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (như Quảng Nam, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hòa Bình, Đà Nẵng, Huế, Vĩnh Phúc, Lào Cai, ). Từ Chiến lược tăng trưởng xanh đến Kế hoạch hành động và triển khai trong thực tế sẽ mang đến nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đây là một quá trình lâu dài đòi hỏi các cấp, các ngành, doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ, từ đó thay đổi cách thức sản xuất, tiêu dùng theo hướng hiệu quả để thực hiện được mục tiêu trong chiến lược tăng trưởng xanh. Để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh đòi hỏiViệt Nam phải thực hiện tổng hoà các nhóm giải pháp như tuyên truyền, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng môi trường pháp lý, thúc đẩy đổi mới công nghệ, phát triển các nguồn năng lượng sạch Điều đó đòi hỏi phải huy động, tập trung và đầu tư nguồn lực và cơ chế tài chính một cách phù hợp. Đây là giải pháp quan trọng nhất vì bối cảnh hiện nay và dự báo trong thời gian tới nền kinh tế thế giới vẫn còn rất nhiều khó khăn, phức tạp khó lường sẽảnh hưởng đến các yếu tố của lực lượng sản xuất, đặc biệt là vốn. Phải biết kết hợp hài hoà giữa việc thu hút nguồn lực và chuyển đổi cơ cấu đầu vào theo hướng giảm dần tỉ trọng đóng góp của yếu tố 71
- vốn vật chất, sau đó là lao động và gia tăng dần vai trò của yếu tố năng suất tổng hợp trên cơ sở phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao kết hợp với ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Đồng thời, việc phân bổ nguồn lực tăng trưởng phải theo các tín hiệu và nguyên tắc của thị trường. Hơn nữa, cách thức đầu tư tạo động lực phát triển kinh tế xanh cũng phải bắt nguồn từ nguồn tài chính công làm đòn bẩy. Từđó tạo sức lan tỏa dẫn dắt các nguồn vốn tư nhân sẽ chiếm vai trò chính trong giai đoạn sau. Thí điểm áp dụng cơ chế chính sách đặc thù, đột phá cho một số khu vực, địa phương có tiềm năng và cơ hội đáp ứng các yêu cầu cho phát triển xanh, trên cơ sởđó rút kinh nghiệm về chính sách và tạo nguồn lực, động lực để áp dụng trên phạm vi rộng. Chúng ta cũng nên đầu tư vào các ngành kinh tế có thể phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam, trong đó chú ý nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa – đây là điển hình một ngành kinh tế xanh mà Hàn Quốc và Trung Quốc đang tập trung xây dựng. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao hướng đến xây dựng nền kinh tế tri thức. Phát triển đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường, nâng cao năng lực quản lý giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam cần tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính cũng như kỹ thuật từ cộng đồng quốc tế cho các khu vực kinh tế xanh. Đồng thời, chúng ta cần xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi tối đa để khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển các lĩnh vực của kinh tế xanh. Bên cạnh đó, nên lồng ghép việc huy động nguồn lực đầu tư phục vụ phát triển xanh trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, khu vực và từng địa phương. Tăng cường quản lý nhà nước, khai thác có hiệu quả, đúng mục đích, tránh tiêu cực, thất thoát chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu Nghiên cứu thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển bền vững trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước. Ưu đãi về chính sách để phát triển hoạt động tài chính, tín 72
- dụng liên quan đến bảo vệ môi trường, kể cảđối với việc phát triển khoa học công nghệ thân thiện với môi trường. 5. Kết luận Phát triển kinh tế xanh là một ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, là một nội dung lớn và khó khăn xuất phát từ thực tế hiện nay. Để từng bước hoàn thiện và thực hiện được kinh tế xanh cần sự nỗ lực từ nhiều phía: ý thức của cộng đồng; các khuyến nghị, tư vấn của các nhà hoạch định chính sách cũng như sự quyết tâm của các cơ quan ban ngành của Chính phủ. Có như vậy mới đảm bảo xây dựng một cuộc sống vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa bền vững, an toàn về môi trường sống. CHÚ THÍCH 1. UNEP (2011), Hướng tới nền kinh tế xanh - Lộ trình cho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo, Bản dịch củaViệnChiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 2011, tr.13. 2. Tổng cục Môi trường, Trung tâm đào tạo và truyền thông môi trường (2012), Sổ tay hành trang kinh tế xanh. 73
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Huy Bá (2016), Biến đổi khí hậu, thích ứng để chung sống , NXB Đại học Quốc gia TP HCM. 2. Bộ Kế hoạch – Đầu tư (2012), Dự thảo Chiến lược tăng trưởng xanh củaViệtNam thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn 2050. 3. Phạm Minh Chính, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh (2013), Kinh tế xanh và con đường phát triển của nước ta thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản. 4. Vũ Anh Dũng (2012), Tăng trưởng kinh tế xanh ở Hàn Quốc, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Hậu (2015), Về kinh tế xanh ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12. 6. Nguyễn Danh Sơn (2018), Kinh tế Xanh – cho phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Nxb chính trị Quốc gia sự thật. 7. UNEP (2011), Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication – A Synthesis for Policy Market. 74