Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA và khả năng đáp ứng của Việt Nam

pdf 13 trang Gia Huy 18/05/2022 1730
Bạn đang xem tài liệu "Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA và khả năng đáp ứng của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfquy_tac_xuat_xu_doi_voi_hang_det_may_theo_evfta_va_kha_nang.pdf

Nội dung text: Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA và khả năng đáp ứng của Việt Nam

  1. QUY TẮC XUẤT XỨ ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY THEO EVFTA VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CỦA VIỆT NAM TS. Đỗ Thị Hƣơng Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm lược: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) là một trong hai Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới Việt Nam đã tham gia. Một trong những tính mới của Hiệp định này là quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo tiêu chí hai công đoạn (hay còn gọi là “từ vải trở đi”). Trong khi đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc và motts số quốc gia không phù hợp với quy định xuất xứ của EVFTA. Trong bối cảnh EVFTA đang chờ được phê chuẩn và đưa vào thực thi, việc nghiên cứu về quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong Hiệp định này và tình hình đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam, đề xuất các giải pháp để nâng cao khả năng đáp ứng là rất cần thiết. Bài viết dưới đây sẽ tập trung làm rõ các nội dung sau: (i) Giới thiệu khái quát về nội dung của EVFTA; (ii) Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong EVFTA; (iii) Tình hình đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may theo EVFTA của Việt Nam và (iv) Một số giải pháp nâng cao khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ theo EVFTA của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Từ khóa: (1) Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA): Vietnam - European Union Free Trade Agreement; (2) Hàng dệt may: Textiles and garments; (3) Quy tắc xuất xứ: Rules of Origin. 1. Đặt vấn đề EVFTA đã chính thức được ký kết giữa Việt Nam và EU vào ngày 30 tháng 6 năm 2019. Đây là sự kiện đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ Việt Nam - EU. Đặc biệt là quan hệ thương mại và đầu tư. Ký kết và thực thi EVFTA sẽ tạo cơ hội cho nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang EU. Theo phân tích, đánh giá và dự báo của Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, nhóm hàng dệt may là một trong những nhóm hàng sẽ có nhiều cơ hội nhất từ cam kết mở cửa thị trường và cắt giảm thuế quan trong EVFTA. Để tận dụng được cơ hội tăng khả năng tiếp cận và cạnh tranh tại thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam cần đáp ứng được các quy định của EU về chất lượng sản phẩm, trách nhiệm xã hội, quy tắc xuất xứ. Theo EVFTA, hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan thì nguyên liệu phải đáp ứng được một tỷ lệ về hàm lượng nội khối nhất định (nguyên liệu có xuất xứ tại EU và/hoặc Việt Nam). Đối với hàng dệt may, quy tắc xuất xứ trong EVFTA là một trong những điểm mới của Hiệp định này so với các Hiệp định khác Việt Nam đã tham gia (trừ Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ - CPTPP). Theo đó, hàng dệt may được coi là có xuất xứ Việt Nam chỉ khi đáp ứng tiêu chí hai công đoạn hay còn gọi là ―từ vải trở đi‖. Cụ thể là, để đáp ứng được quy tắc xuất xứ trong EVFTA đối với hàng dệt may, nguyên liệu sản xuất sản phẩm của các doanh 402
  2. nghiệp Việt Nam cần đảm bảo tỷ trọng 40% giá trị vải được sản xuất tại Việt Nam và/hoặc tại EU hay từ một nước thứ ba đồng thời có hiệp định thương mại tự do với Việt Nam, EU. Đây là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam để nhận được ưu đãi của EU bởi nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu hiện nay chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc và một số nước châu Á khác như Đài Loan, Nhật Bản. Bên cạnh đó, tại thị trường EU, hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn chiếm thị phần nhỏ, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn chưa cao. Chính vì vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có những biện pháp phù hợp nhằm đáp ứng các quy tắc xuất xứ theo EVFTA để thâm nhập thành công vào thị trường EU giàu tiềm năng, tận dụng hết các cơ hội mà EVFTA đem lại cho Việt Nam. 2. Giới thiệu khái quát về nội dung của EVFTA Theo thông tin giới thiệu trên trang web của Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp định EVFTA gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo với các nội dung chính là: ―thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường); quy tắc xuất xứ (các nguyên tắc xác định xuất xứ chung và các quy tắc xuất xứ riêng cho những loại hàng hóa nhất định); hải quan và thuận lợi hóa thương mại; các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT); thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường); đầu tư (các nguyên tăc chung về đối xử với nhà đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà Đầu tư nước ngoài); phòng vệ thương mại (TR); cạnh tranh; doanh nghiệp nhà nước; mua sắm của Chính phủ; sở hữu trí tuệ; thương mại và Phát triển bền vững (bao gồm cả môi trường, lao động); hợp tác và xây dựng năng lực; các vấn đề pháp lý-thể chế‖. Dưới đây là các nội dung cơ bản của EVFTA: (1) Thương mại hàng hóa Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EU - Đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, ngay khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế quan với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương với 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU. - Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm một số sản phẩm gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm, đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao, tinh bột sắn, cá ngừ đóng hộp), EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan (TRQs) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. - Cam kết của EU đối với nhóm hàng Nông-Thủy sản + Thủy sản (trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên): Xóa bỏ ngay khoảng 50% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. 50% số dòng thuế còn lại được xóa bỏ theo lộ trình từ 3-7 403
  3. năm. Đối với cá ngừ đóng hộp và cá viên áp dụng hạn ngạch thuế quan lần lượt là 11.500 tấn và 500 tấn. + Gạo: Áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan, lượng nhập khẩu trong hạn ngạch được hưởng mức thuế 0%. Tổng hạn ngạch là 80.000 tấn. + Cà phê, mật ong tự nhiên, các sản phẩm rau củ quả tươi và chế biển, nước hoa quả, hoa tươi: Xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. + Đường: Áp dụng hạn ngạch thuế quan với mức là 10.000 tấn đường trắng và 10.000 tấn sản phẩm chứa trên 80% đường. + Các sản phẩm nông sản khác: Một số sản phẩm được áp dụng cam kết về hạn ngạch thuế quan như: Trứng gia cầm đã qua chế biến là 500 tấn, tỏi là 400 tấn, ngô ngọt là 5000 tấn, tinh bột sắn là 30.000 tấn, nấm là 350 tấn, cồn etylic là 1000 tấn, một số sản phẩm hóa chất (manitol, sorbitol, dextrins, ) là 2000 tấn. - Đối với nhóm hàng công nghiệp + Dệt may: 42,5% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Số còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm. + Giày dép: 37% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Số còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm. + Gỗ và sản phẩm gỗ: Khoảng 83% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Khoảng 17% còn lại (gồm ván dăm, ván sợi và gỗ dán, ) sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 5 năm. + Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: 74% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 5 năm. + Một số sản phẩm khác: Một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực ví dụ như sản phẩm nhữa, điện thoại các loại và linh kiện, túi xách, ví, vali, mũ, ô dù Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam - Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan ngay sau khi EVFTA có hiệu lực cho hàng hóa của EU thuộc 48,5% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 64,5% kim ngạch xuất khẩu của EU sang Việt Nam. - Trong vòng 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cam kết xóa bỏ 91,8% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu của EU sang Việt Nam. - Trong vòng 10 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ khoảng 98,3% số dòng thuế trong biểu thuế, chiếm 99,8% kim ngạch xuất khẩu của EU sang Việt Nam. - Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, Việt Nam cam kết dành hạn ngạch thuế quan như cam kết WTO, hoặc áp dụng lộ trình xóa bỏ đặc biệt (như thuốc lá, xăng dầu, bia, linh kiện ô tô, xe máy). (2) Thương mại dịch vụ và đầu tư 404
  4. Cam kết của Việt Nam và EU về thương mại dịch vụ đầu tư nhằm tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên. Cam kết của Việt Nam có đi xa hơn cam kết trong WTO. Cam kết của EU cao hơn trong cam kết trong WTO và tương đương với mức cam kết cao nhất của EU trong những Hiệp định FTA gần đây của EU. Các lĩnh vực mà Việt Nam cam kết thuận lợi cho các nhà đầu tư EU gồm một số dịch vụ chuyên môn, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải, dịch vụ phân phối. Hai bên cũng đưa ra cam kết về đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư, đồng thời thảo luận về nội dung giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước. (3) Mua sắm của Chính phủ Việt Nam và EU thống nhất các nội dung tương đương với Hiệp định mua sắm của Chính phủ (GPA) của WTO. Với một số nghĩa vụ như đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng thông tin điện tử để đăng tải thông tin đấu thầu, v.v, Việt Nam có lộ trình để thực hiện. EU cũng cam kết dành hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để thực thi các nghĩa vụ này. Việt Nam bảo lưu có thời hạn quyền dành riêng một tỷ lệ nhất định giá trị các gói thầu cho nhà thầu, hàng hóa, dịch vụ và lao động trong nước. (4) Sở hữu trí tuệ Cam kết về sở hữu trí tuệ gồm cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý, v.v. Về cơ bản, các cam kết về sở hữu trí tuệ của Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Về chỉ dẫn địa lý, khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của EU (bao gồm 27 thành viên) và EU sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên quan tới nông sản, thực phẩm, tạo điều kiện cho một số chủng loại nông sản của Việt Nam xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình tại thị trường EU. 3. Quy tắc xuất xứ trong EVFTA đối với hàng dệt may 3.1. Quy tắc xuất xứ chung Về Quy tắc xuất xứ chung của EVFTA, hàng hóa được coi là có xuất xứ EU hoặc Việt Nam theo quy định chung của EVFTA khi thuộc một trong ba trường hợp sau: Trường hợp 1: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy Trường hợp này bao gồm các hàng hóa được hình thành một cách tự nhiên trong lãnh thổ Việt Nam hoặc EU. Ví dụ như: Khoáng sản, động vật, thực vật được hình thành tự nhiên và sản phẩm của các loại động thực vật này Các trường hợp được coi là hàng hóa có xuất xứ thuần túy được quy định cụ thể tại Điều 4 Nghị định thư.Trích điều 4, hàng hóa có xuất xứ thuần túy quy định như sau: (1). Các sản phẩm iẹ t ke du ới đa y đu ợc xem à có xuất xứ thuần t y tại mọ t Be n: (a) Sản phẩm khoáng sản đu ợc khai thác từ lòng đất hoạ c đáy biển của Be n đó; (b) Ca y trồng và các sản phẩm rau quả đu ợc trồng và thu hoạch hoạ c thu lu ợm tại Be n đó; (c) Đọ ng vạ t sống đu ợc sinh ra và nuo i du ng tại Be n đó; 405
  5. (d) Sản phẩm thu đu ợc từ đọ ng vạ t sống đu ợc nuo i du ng tại Be n đó; (e) Sản phẩm thu đu ợc từ giết mổ đọ ng vạ t sinh ra và nuo i du ng tại Be n đó; (f) Sản phẩm thu đu ợc từ sa n bắn hoạ c đánh bắt tại Be n đó; (g) Sản phẩm thu đu ợc từ nuo i trồng thủy sản trong đó cá, đọ ng vạ t giáp xác và đọ ng vạ t tha n mềm đu ợc sinh ra hoạ c nuo i du ng từ trứng, cá bọ t, cá nhỏ và ấu trùng; (h) Sản phẩm đánh bắt cá biển và các sản phẩm khác thu đu ợc ngoài vùng hãnh hải bằng tàu của Be n đó; (i) Sản phẩm đu ợc sản xuất ngay tre n tàu chế biến của Be n đó từ các sản phẩm đu ợc quy định tại điểm (h); (j) Sản phẩm đã qua sử dụng thu đu ợc từ Be n đó chỉ phù hợp để tái chế thành nguye n liẹ u tho ; (k) Phế thải và phế liẹ u thu đu ợc từ quá trình sản xuất tại Be n đó; (l) Sản phẩm đu ợc khai thác từ đáy biển hoạ c du ới đáy biển ngoài vùng lãnh hải nhu ng Be n đó có đọ c quyền khai thác; (m) Hàng hoá sản xuất tại Be n đó chỉ từ các sản phẩm đu ợc quy định từ điểm (a) đến (l). (2). Khái niệm “tàu của bên đó” và “tàu chế biến của Bên đó” tại điểm 1(h) và (i) chỉ áp d ng đối với tàu và tàu chế biến: (a) Đu ợc đa ng k tại mọ t quốc gia thành vie n của Lie n minh Cha u A u hoạ c tại Viẹ t niẹ m ―tàu của Be n đó‖ và ―tàu chế biến của Be n đó‖ tại điểm 1(h) và (i) chỉ áp Nam; (b) Treo cờ của mọ t quốc gia thành vie n của Lie n minh Cha u A u hoạ c của Viẹ t Nam; và (c) Đáp ứng mọ t trong các điều kiẹ n sau: (i) t nhất 50% thuọ c sở hữu của thể nha n của mọ t Be n; hoạ c (ii) Thuọ c sở hữu của pháp nha n thì pháp nha n đó phải: - Có trụ sở chính và co sở kinh doanh chính đạ t tại Lie n minh Cha u A u hoạ c tại Viẹ t Nam - t nhất 50% thuọ c sở hữu của mọ t quốc gia thành vie n của Lie n minh Cha u A u hoạ c của Viẹ t Nam, bởi các tổ chức nhà nu ớc hoạ c co ng da n của mọ t trong các Be n. Trường hợp 2: Hàng hóa có xuất xứ cộng gộp Trường hợp này bao gồm các hàng hóa được hình thành từ nguyên liệu có xuất xứ một phần hoặc toàn bộ từ EU hoặc Việt Nam và được chế biến hoặc sản xuất tại Việt Nam/EU thỏa mãn các yêu cầu về quy tắc sản xuất theo quy định tại Điều 6 Nghị định thư. Trích Điều 6, công đoạn gia công, chế biến đơn giản, qquy định như sau: (1). Hàng hóa kho ng đu ợc coi là có xuất xứ nếu chỉ thực hiẹ n những co ng đoạn sau, dù đáp ứng quy định tại Điều 5 (Hàng hóa kho ng có xuất xứ thuần túy): (a) Co ng đoạn bảo quản để giữ sản phẩm trong tình trạng tốt trong quá trình vạ n chuyển và lu u kho. (b) Tháo d và lắp gh p kiẹ n hàng. (c) Rửa, làm sạch, loại bỏ bụi bẩn, o xit, dầu m , so n hoạ c các vết che phủ khác. 406
  6. (d) Là ủi hoạ c là ho i vải và sản phẩm dẹ t may. (e) Co ng đoạn so n và đánh bóng đo n giản. (f) Xay để bỏ trấu và xay xát mọ t phần hoạ c hoàn toàn thóc, gạo; đánh bóng và hồ ngũ cốc và gạo. (g) Co ng đoạn tạo màu hoạ c tạo hu o ng cho đu ờng hoạ c tạo khuo n cho đu ờng cục nghiền nhỏ mọ t phần hay hoàn toàn đu ờng tinh thể. (h) Co ng đoạn bóc vỏ, trích hạt và tách vỏ hoa quả, hạt và rau củ. (i) Mài sắc, mài đo n giản hoạ c cắt đo n giản. (j) Co ng đoạn ra y, sàng lọc, sắp xếp, pha n loại, xếp loại hoạ c kết hợp (bao gồm co ng đoạn tạo ne n bọ sản phẩm). (k) Co ng đoạn đạ t hàng hóa, cho hàng hóa vào chai, lon, bình, túi, hòm, họ p, gắn tre n th hoạ c bảng tho ng tin sản phẩm và các co ng đoạn đóng gói đo n giản khác. (l) Dán hoạ c in nhãn, mác, logo và những dấu hiẹ u dùng để pha n biẹ t tu o ng tự khác tre n sản phẩm hoạ c tre n bao bì của sản phẩm. (m) Co ng đoạn pha trọ n đo n giản các sản phẩm, cùng loại hoạ c khác loại; trọ n đu ờng với bất k nguye n liẹ u khác. (n) Co ng đoạn the m nu ớc, pha loãng, rút nu ớc hoạ c làm biến tính đo n giản sản phẩm; (o) Co ng đoạn lắp gh p đo n giản các bọ phạ n của sản phẩm để tạo ne n sản phẩm hoàn thiẹ n hoạ c tháo rời sản phẩm thành các bọ phạ n. (p) Kết hợp hai hoạ c nhiều co ng đoạn đu ợc đề cạ p từ tiểu đoạn (a) đến (o); hoạ c (q) Giết mổ đọ ng vạ t. (2). Vì mục đích của khoản 1, các co ng đoạn đu ợc coi là đo n giản khi kho ng dùng kỹ na ng đạ c biẹ t hoạ c máy móc, thiết bị hay co ng cụ đu ợc sản xuất hoạ c lắp đạ t chuye n dụng để thực hiẹ n. (3). Tất cả các co ng đoạn đu ợc thực hiẹ n tại Viẹ t Nam hoạ c Lie n minh Cha u A u để sản xuất ra mọ t sản phẩm cùng đu ợc xem x t để xác định co ng đoạn gia co ng, chế biến sản phẩm đó là đo n giản theo quy định tại khoản 1. Trường hợp 3: Hàng hóa được sản xuất hoàn toàn tại Việt Nam/EU, sử d ng một phần nguyên liệu không có xuất xứ Hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam hoặc EU, sử dụng nguyên liệu không hoàn toàn từ Việt Nam hoặc EU nhưng các nguyên liệu này thỏa mãn các yêu cầu cụ thể về quy trình sản xuất được quy định tại Điều 5 Nghị định thư và Phụ lục II về quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng. 3.2. Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may Quy tắc xuất xứ phổ biến đối với sản phẩm dệt may trong EVFTA là tiêu chí hai công đoạn, hay còn gọi là ―từ vải trở đi‖. Cụ thể là, để sản phẩm dệt may được coi là có xuất xứ 407
  7. theo EVFTA thì vải sử dụng để tạo thành sản phẩm phải có xuất xứ Việt Nam hoặc EU và việc cắt, may phải được thực hiện tại Việt Nam hoặc EU. Tuy nhiên, EVFTA có cam kết linh hoạt về quy tắc xuất xứ cộng gộp liên quan tới trường hợp vải từ nước có FTA. - Cộng gộp xuất xứ với Hàn Quốc: Trong quá trình sản xuất các sản phẩm dệt may, các nguyên liệu có xuất xứ Hàn Quốc sẽ được coi là có xuất xứ Việt Nam, miễn là thỏa mãn các yêu cầu về quy trình sản xuất theo quy định tại Điều 6 Nghị định thư. Cho đến nay, Hàn Quốc là nước duy nhất hiện có cả FTA với Việt Nam và EU. - Trong tương lai, nếu có một nước nào đó cũng có FTA với Việt Nam và EU thì Việt Nam sẽ thông báo cho Uỷ ban Hải quan của EU và Uỷ ban này sẽ quyết định việc có cho phép cộng gộp hay không. Nhìn chung, quy tắc xuất xứ trong EVFTA đối với dệt may lỏng hơn quy tắc ―từ sợi trở đi‖ trong CPTPP nhưng vẫn được xem là rất khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam bởi vì phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ đang thực hiện công đoạn cắt - may, vải nguyên liệu sử dụng để sản xuất chủ yếu được nhập khẩu từ các khu vực chưa có FTA với EU như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. 4. Thực trạng khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong EVFTA của Việt Nam 4.1. Thực trạng nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2016 - 2019 4.1.1. Về nguồn nguyên liệu nhập khẩu Ngành dệt may Việt Nam hiện đang thiếu hụt phần lớn nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sang EU theo quy tắc xuất xứ của EVFTA. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, vải các loại và nguyên phụ liệu dệt may da giày là hai trong số 10 mặt hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam (xem hình 1). Cho đến cuối năm 2019, Việt Nam nhập khẩu gần 90% vải các loại từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc hay 80% sợi để sản xuất là nhập khẩu từ Mỹ, Tây Phi, Ấn Độ Bên cạnh đó, theo Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas), trung bình mỗi năm, cả ngành dệt may sử dụng khoảng 820.000 tấn nguyên phụ liệu, trong đó khoảng 70% nhập từ Trung Quốc. Như vây, nếu không có sự chuyển hướng thị trường khai thác nguyên phụ liệu phù hợp, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó có cơ hội được hưởng ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA và CPTPP. Theo quy tắc xuất xứ trong EVFTA, hàng dệt may khi xuất khẩu sang EU phải đáp ứng nguồn nguyên liệu vải sử dụng phải có xuất xứ từ Việt Nam/EU hoặc vải nhập khẩu từ Hàn Quốc và việc cắt, may phải được thực hiện tại Việt Nam/EU. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nguyên liệu vải của Việt Nam chủ yếu đến từ nguồn nhập khẩu từ các thị trường khác ngoài EU và Hàn Quốc. 408
  8. Nguồn: Tổng c c Hải quan, “Sơ bộ tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong nửa cuối tháng 12/2019 (từ ngày 16/12 đến ngày 31/12/2019)”, Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20k%E1%BB%B3&Group= Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch Hình 1: Trị giá nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất vào Việt Nam trong năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018 Nhìn chung, cho đến giữa năm 2019, Việt Nam đa số nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt nay từ nước ngoài. Trong giai đoạn này, nguồn cung nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu cũng ngày càng có xu hướng tăng mạnh qua các năm. Trong đó, nguyên liệu quan trọng nhất để đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong EVFTA là vải cũng có xu hướng tăng mạnh. Nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, và các nước châu Á khác như Đài Loan, Nhật Bản, v.v. Trong đó. thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng gần 40% năm 2017, 2018 và trên 50% trong 6 tháng đầu năm 2019, còn nhập khẩu từ thị trường Hàn Quốc lần lượt là gần 14% và gần 16% (xem bảng 1 và hình 2). Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do nguồn nguyên phụ liệu dệt may từ Trung Quốc khá đa dạng, giá cả lại r hơn các thị trường khác. Tuy nhiên Trung Quốc hiện nay không phải là nước thỏa mãn quy tắc xuất xứ cộng gộp theo EVFTA. Đây là hạn chế lớn của ngành dệt may Việt Nam khi quá phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ Trung Quốc mà chưa có xu hướng chuyển sang các thị trường phù hợp với EVFTA như thị trường EU, thị trường Hàn Quốc hay sử dụng các nguồn cung nguyên liệu trong nước. 409
  9. Bảng 2.8: Tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày của Việt Nam từ các thị trường năm 2017 và 2018 Thị 6 tháng đầu năm 2018 Năm 2017 Năm 2018 trƣờng 2019 so Tỷ Tỷ Tỷ với Tổng Giá trị (USD) trọng Giá trị (USD) trọng Giá trị (USD) trọng 2017 kim (%) (%) (%) (%) ngạch 5.428.510.825 100 5.709.371.037 100 6.564.958.938 100 5,17 Trung 2.046.795.859 37,71 2.196.929.068 38,48 57,76 7,34 Quốc 3.791.778.194 Hàn 753.953.673 13,89 771.020.396 13,5 15,87 2,26 Quốc 1.042.009.500 Thị trường 1.929.806.107 48,4 2.078.947.733 48,02 1.731.171.244 26,37 7,73 khác Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ số liệu của tổng c c Hải quan ( giay-hang-dau-cua-viet-nam-nam-2018) 2017 [VALUE] [VALUE] [VALUE] Trung Quốc Hàn Quốc Thị trường khác Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ số liệu của tổng c c Hải quan Hình 2: Cơ cấu thị trường nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày của Việt Nam năm 2017, 2018 4.1.2. Về nguồn nguyên liệu trong nước Theo đánh giá của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, cho đến hết năm 2019, diện tích trồng bông của Việt Nam là khoảng 1 nghìn hecta, sản lượng bông hàng năm đạt 1,38 nghìn tấn. Sản lượng này chỉ đáp ứng được khoảng 1% nhu cầu của thị trường. Ngành bông, xơ ở Việt Nam kém phát triển là do nước ta không có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho trồng trọt cây công nghiệp phục vụ dệt may và không chú trọng đầu tư vào trồng bông và sản xuất xơ. 410
  10. Trồng bông chịu tác động nhiều bởi thời tiết, khí hậu, và cũng là ngành rất thâm dụng đất đai, vì thế dẫn tới việc diện tích trồng bông ở Việt Nam vẫn còn thấp và còn rất manh mún. Bên cạnh đó, kinh nghiệm, trình độ của nông dân trong việc thâm canh chưa tốt, hệ thống thủy lợi hỗ trợ không có, chủ yếu phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, sản xuất thu hoạch chủ yếu bằng tay, chưa có máy móc hỗ trợ nên chất lượng bông của nước ta thấp dẫn tới giá bán không cạnh tranh so với các nước khác. Nguyên nhân thứ hai khiến ngành dệt may thiếu hụt nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước là do hàng loạt địa phương đang từ chối các dự án dệt nhuộm vì lo ngại ảnh hưởng môi trường. Nhưng tới nay công nghệ đã khác, cùng với đó quy định của các FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP rất đề cao công tác bảo vệ môi trường. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện môi trường thì sẽ không có đơn hàng. Do đó, doanh nghiệp rất cần sự vào cuộc hiệu quả của Nhà nước trong hoạch định chiến lược phát triển các khu công nghiệp theo chuỗi khép kín của ngành dệt may.Vấn đề nguồn cung nguyên liệu là thách thức không chỉ của ngành dệt may mà còn của nhiều ngành hàng khác. Nếu không bảo đảm quy tắc xuất xứ thì hàng hóa Việt Nam không được hưởng ưu đãi từ EVFTA. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp để giải quyết vấn đề môi trường trong dệt, nhuộm, chứ không nên có quan điểm từ chối các dự án này. Còn về phía doanh nghiệp, để có thể trụ vững và mở rộng thị phần tại thị trường EU, doanh nghiệp dệt may Việt Nam không có cách nào khác là phải chủ động tìm hiểu thấu đáo về quy chuẩn, tiêu chuẩn pháp lý thị trường EU. Mặc dù, ngành sợi Việt Nam trong những năm gần đây phát triển có phần thuận lợi hơn, đó là do ngành đã tận dụng được lợi thế về chi phí đầu vào thấp, cụ thể là chi phí nhân công và tiền thuê đất. Đồng thời, nhu cầu sợi của thị trường thế giới có xu hướng tăng nhanh. Lượng sợi sản xuất trong nước chủ yếu được xuất khẩu sang các nước như Trung Quốc, Đài Loan, trong khi các doanh nghiệp dệt Việt Nam lại phải nhập khẩu nguyên liệu sợi từ nước ngoài. Điều đó có thể được coi là nghịch lý và chỉ được khắc phục khi có những giải pháp phù hợp nâng cao chất lượng sợi sản xuất trong nước. Thực tế những năm qua cho thấy, sợi sản xuất tại Việt Nam chưa đa dạng về chủng loại, chất lượng còn thấp và chủ yếu dùng vào sản xuất các sản phẩm có chất lượng trung bình nên chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp dệt may sản xuất sản phẩm cao cấp, đòi hỏi nhiều loại nguyên liệu sợi khác nhau với các loại nguyên liệu đầu vào đặc biệt, thiết bị sản xuất hiện đại. Bông, xơ, sợi đều là các nguyên phụ liệu quan trọng trong sản xuất vải. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chỉ dừng lại ở khâu sản xuất sợi, rất ít các doanh nghiệp trong nước chủ chương sản xuất vải để phục vụ nhu cầu của ngành dệt may. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ tiềm lực về tài chính để xây dựng nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất. Hiện nay, mô hình tại các doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng mạnh tại Việt Nam là thực hiện sản xuất khép kín từ việc tạo nguồn nguyên liệu 411
  11. đến khâu thành phẩm cuối cùng để xuất khẩu. Trên thực tế, để đón đầu cơ hội hưởng ưu đãi thuế xuất khẩu sang Liên minh Châu Âu, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã đẩy mạnh đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam. 4.2. Đánh giá khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong Hiệp định EVFTA của Việt Nam Như nội dung phân tích trên, quy định xuất xứ từ vải của EVFTA chính là thách thức lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam khi các doanh nghiệp vẫn đang phải nhập phần lớn nguyên phụ liệu để phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Đối với lĩnh vực may mặc, hình thức sản xuất hàng may mặc tại Việt Nam chủ yếu là gia công. Như vậy, may xuất khẩu lệ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu, trong đó chủ yếu không phải từ các nước thành viên của EVFTA hay Hàn Quốc là nước duy nhất đáp ứng quy tắc xuất xứ về nhập khẩu nguyên liệu dệt may, tỷ trọng chỉ chiếm dưới 16% tính đến giữa năm 2019. Nguồn cung nguyên phụ liệu của Việt Nam hiện nay còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó nguồn cung trong nước thì lại yếu, không đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU nên chủ yếu xuất khẩu sang các nước khác như: Trung Quốc, Đài Loan, Đó là hạn chế lớn nhất đối với ngành dệt may Việt Nam khi tìm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU trong bối cảnh EVFTA được thực thi. Đối với hàng dệt may có xuất xứ cộng gộp Đối với hàng dệt may có xuất xứ cộng gộp, nguồn nguyên liệu vải nhập khẩu đáp ứng được quy tắc xuất xứ vẫn còn thấp. Hiện tại, Hàn Quốc là nước duy nhất áp dụng được quy tắc xuất xứ cộng gộp. Hàn Quốc hiện cũng là thị trường nhập khẩu vải cũng như nguyên phụ liệu lớn của nước ta trong những năm gần đây, chỉ xếp sau Trung Quốc về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, vải nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng quá lớn trong kim ngạch nhập khẩu vải của Việt Nam, chiếm trên 50%. Trong khi đó, thị trường Hàn Quốc chỉ chiếm dưới 16%. Dự kiến khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU chính thức có hiệu lực thì nguồn cung nguyên phụ liệu từ Hàn Quốc cũng sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu của thị trường EU. EU là thị trường rất lớn, tiềm năng vẫn chưa được khai thác sâu, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự chuẩn bị kĩ lư ng từ khâu nguyên liệu đầu vào đến chất lượng hàng hóa. Có như vậy, hàng dệt may Việt Nam mới có khả năng thâm nhập sâu và có lợi thế cạnh tranh trên thị trường EU. Đối với hàng dệt may có xuất xứ thuần túy Đối với hàng dệt may có xuất xứ thuần túy, nguồn nguyên liệu vải trong nước hiện chưa đáp ứng được nhu cầu và chất lượng của thị trường. Ngành công nghiệp sản xuất vải may mặc của Việt Nam vẫn chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu chỉ dừng lại ở khẩu sản xuất sợi, rất ít doanh nghiệp có đủ tiềm lực tài chính để xây dựng nhà máy với công nghệ sản xuất vải đủ tiêu chuẩn phục vụ ngành công nghiệp may mặc. Các doanh nghiệp sản xuất vải thì chưa đáp ứng được chất lượng sản xuất hàng may mặc. Đây là một nhược điểm lớn 412
  12. trong việc cung ứng nguyên phụ liệu dệt may đáp ứng quy tắc xuất xứ của EVFTA của các doanh nghiệp Việt Nam. Có thế thấy, cơ hội khi EVFTA có hiệu lực là rất lớn đối với ngành dệt may, nhưng khả năng đáp ứng của doanh nghiệp Việt Nam thì còn hạn chế, chưa thể khai thác tối đa tiềm năng của thị trường, đặc biệt là đáp ứng quy định xuất xứ để tận dụng ưu đãi thuế quan, đẩy mạnh xuất khẩu. Hiện nay, một số các doanh nghiệp FDI từ nước ngoài đang có xu hướng đầu tư vào Việt Nam trong ngành dệt may với mô hình sản xuất đa dạng. Dự kiến đây sẽ là một nguồn cung lớn nguyên liệu vải để phục vụ xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể để tăng nguồn cung ứng nguyên phụ liệu cần thiết cho ngành dệt may, nhằm đáp ứng tốt các quy tắc xuất xứ của EVFTA. Có như vậy thì Việt Nam mới khai thác triệt để lợi thế mà EVFTA đem lại cho ngành dệt may Việt Nam. 5. Kết luận và kiến nghị Cho đến nay, trở ngại lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường EU là khâu nguyên liệu đầu vào do chưa đáp ứng được quy tắc xuất xứ trong EVFTA. Cụ thê là nguồn nguyên liệu vải chủ yếu nhập từ Trung Quốc, nguyên liệu vải trong nước thì chưa đảm bảo chất lượng do công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ. Chính vì thế, trước thềm EVFTA có hiệu lực, Việt Namcần có những biện pháp cụ thể nhằm thay đổi cơ cấu nguồn nguyên phụ liệu sao cho phù hợp với quy tắc xuất xứ của EVFTA, kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường EU. Thứ nhất là nhóm giải pháp nâng cao nguồn cung trong nước. Trước hết, Cần hoàn thiện quy hoạch đồng bộ các vùng trồng các loại cây công nghiệp phục vụ ngành công nghiệp dệt may như cây bông, cây đay, v.v. Bên cạnh đó, hệ thống cung cấp giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật canh tác và thu mua sản phẩm từ các loại cây công nghiệp dệt may cần được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng tiêu chuẩn, có kế hoạch thu mua đồng bộ trong từng vùng cũng như cả nước. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt và nâng cao khả năng đáp ứng tiêu chuẩn, quy tắc xuất xứ của EVFTA. Tiếp theo là khuyến khích người dân trồng cấy các loại cây công nghiệp phục vụ ngành dệt may thông qua chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật và đảm bảo bao tiêu đầu ra. Đồng thới, các tổ chức khuyến nông cần tăng cướng hướng dẫn, mở các lớp đào tạo người dân trồng có quy hoạch và đúng kỹ thuật. Cuối cùng là hoàn thiện và triển khai xây dựng các khu liên hợp sản xuất dệt may, các nhà máy sản xuất sợi, vải đạt tiêu chuẩn, có hệ thống kỹ thuật công nghệ hiện đại phù hợp với quy định của EVFTA và CPTPP, trước mắt là thông qua thu hút FDI từ các nhà đầu tư từ các quốc gia có lợi thế như Hàn Quốc, EU. 413
  13. Để góp phần thực hiện thành công các biện pháp trên, các doanh nghiệp và người dân Việt Nam cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của việc đảm bảo các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, môi trường khi tham gia sản xuất hàng dệt may theo quy định của các thị trường thành viên EVFTA. Thứ hai là nhóm giải pháp chuyển hướng nguồn nhập khẩu nguyên phụ liệu. Các cơ quan quản lý của ngành Công thương và Hiệp hội Dệt may Việt Nam cần tư vấn và hỗ trợ tìm kiếm đối tác giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc trong nước chuyển hướng nhập khẩu nguồn nguyên phụ liệu từ Trung Quốc dần sang nhập khẩu nguyên phụ liệu từ EU, Hàn Quốc để đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ trong EVFTA. Đồng thời, các doanh nghiệp cần chủ động tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm các nhà môi giới, các doanh nghiệp xuất khẩu vải từ EU, Hàn Quốc để nhập khẩu vải. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Trần (2019), ―Ngành Dệt may Việt Nam: Từng bước chủ động nguồn nguyên liệu‖, Thời báo Ngân hàng điện tử, tung-buoc-chu-dong-nguon-nguyen-lieu-90362.html (Truy cập 05/12/2019). 2. Tổng cục Hải quan (2020), Thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam, %BB%91%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA (Truy cập 02/01/2020). 3. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2016), Tóm lược Hiệp định Tương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA), (Truy cập ngày 25/12/2019). 4. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2017), EVFTA và ngành dệt may Việt Nam, tai- lieu/2 (Truy cập ngày 25/12/2019). 5. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2019), ―EVFTA tạo cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam khi quan hệ với EU‖, trong-quan-he-voi-eu (Truy cập ngày 25/12/2019). 6. Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), Quy tắc xuất xứ trong các FTA mà Việt Nam là thành viên. 414