Tạo sức mạnh tổng hợp để kinh tế tư nhân “tỏa sáng” là động lực lớn của sự phát triển kinh tế Việt Nam

pdf 10 trang Gia Huy 18/05/2022 2360
Bạn đang xem tài liệu "Tạo sức mạnh tổng hợp để kinh tế tư nhân “tỏa sáng” là động lực lớn của sự phát triển kinh tế Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftao_suc_manh_tong_hop_de_kinh_te_tu_nhan_toa_sang_la_dong_lu.pdf

Nội dung text: Tạo sức mạnh tổng hợp để kinh tế tư nhân “tỏa sáng” là động lực lớn của sự phát triển kinh tế Việt Nam

  1. TẠO SỨC MẠNH T NG HỢP ĐỂ KINH TẾ TƯ NHÂN “TỎA SÁNG” LÀ ĐỘNG LỰC LỚN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM ThS. Vũ Thị Nhung Học viện An ninh Nhân dân Tóm tắt Kinh tế tư nhân từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã bắt đầu xuất hiện, hoạt động, dần dần phát triển và được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế phi XHCN, kinh tế tư bản tư nhân Trước sự phát triển khách quan của kinh tế tư nhân, các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ đã từng bước đề cập tới kinh tế tư nhân, coi trọng và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Có thể khẳng định, chưa bao giờ phát triển kinh tế tư nhân lại được Đảng, Nhà nước, các bộ ban ngành, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân quan tâm tới kinh tế tư nhân như hiện nay. Kinh tế tư nhân đã trải qua những bước thăng trầm cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta trong công cuộc đổi mới 30 năm qua và ngày càng thể hiện r vị thế của mình:“Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”(1). Từ khóa: Kinh tế tư nhân, sức mạnh tổng hợp, rào cản, động lực phát triển kinh tế Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, nhấn mạnh và xác định rõ “phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là yêu cầu tất yếu, khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” trong Nghị quyết Trung ương V khóa XII - Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - đã tiếp tục kh ng định, cụ thể hóa rõ hơn nhận thức, tư duy nhất quán và liên tục phát triển của Đảng đối với phát triển kinh tế tư nhân. Điều đó cũng thể hiện sự tiếp tục đổi mới kinh tế của Đảng để phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế sau 30 năm đổi mới, từ đó đã tạo nên động lực và sự yên tâm cho các doanh nhân, doanh nghiệp và nhà đầu tư được tự do kinh doanh theo pháp luật, đưa kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng. 375
  2. Trước hết, chúng ta có thể thấy rõ rằng kinh tế tư nhân từ chỗ chủ yếu chỉ có các hộ kinh doanh cá thể, nhỏ lẻ, Việt Nam đã có những doanh nghiệp tư nhân theo đúng nghĩa, trong đó, không ít các doanh nghiệp tư nhân đã trở thành các tập đoàn kinh tế lớn, những doanh nhân ngày càng được tôn vinh trên thương trường. Chúng ta biết đến các tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam Tính đến nay, Việt Nam hiện có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp trong đó có gần 500 nghìn doanh nghiệp tư nhân. Đóng góp của khu vực tư nhân được nâng lên từ 27% (2016) lên 32,3% trong của toàn Bảng xếp hạng VNR500 năm 2017 (Bảng xếp hạng các doanh nghiệp Việt Nam -VNR500). Mặc dù trong số các doanh nghiệp tư nhân có tới hơn 96% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn nhưng các doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm hàng năm, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm. Cùng với đó, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển là từ khu vực kinh tế tư nhân. Một con số rất đáng ghi nhận là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực tư nhân tốt hơn so với các thành phần kinh tế khác, cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực Nhà nước, có tốc độ phát triển nhanh hơn các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế. Ngoài những thành tựu đáng kể trên, kinh tế tư nhân còn có những đóng góp quan trọng như: Góp phần quan trọng vào quá trình tái cấu trúc nền kinh, làm cho hoạt động kinh tế năng động hơn; góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, Những thành tựu đó phản ánh khá đầy đủ, rõ ràng, toàn diện và không thể phủ nhận về thực tiễn vị thế và vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời kh ng định sự đúng đắn trên con đường phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, ngoài những thành tựu và tiến bộ của khu vực kinh tế tư nhân, khu vực này cũng còn những hạn chế, tiêu cực của nó như trình độ quản lý quản trị kém, trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới, đội ngũ nhân sự chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thiếu vốn, năng lực cạnh tranh yếu, hiệu quả kinh doanh còn thấp, chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ (trong số đó có những doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng); năng lực tài chính, năng suất lao động, thiếu tính liên kết, khả năng tham gia chuỗi giá trị 376
  3. trong nước và quốc tế thấp; tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân đang có xu hướng giảm, từ 11,93%/năm (2003-2010) xuống 7,54%/năm (2011-2015). Một trong những nguyên nhân lớn nhất đang kìm hãm sự phát triển kinh tế tư nhân là do kinh tế tư nhân còn đang vấp phải nhiều loại rào cản. Không khó để chúng ta nhận biết được những loại rào cản đang cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân, chúng ta có thể chia các rào cản thành hai nhóm: Nhóm rào cản bên ngoài và nhóm rào cản bên trong. Trên cơ sở phân tích những thành công mà thời gian qua Đảng, Nhà nước ta và các doanh nghiệp đã và đang nỗ lực cải thiện những yếu tố thuộc hai nhóm rào cản trên, bài viết chỉ ra những bất cập khó khăn mà những yếu tố này đang đặt ra đối với việc phát triển kinh tế tư nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ những yếu tố được xem như các rào cản này. Và như vậy, lúc đó sức mạnh tổng hợp từ việc kết hợp hai yếu tố bên trong và bên ngoài một cách hài hòa trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển thực sự tỏa sáng thành động lực cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước hết, với các yếu tố thuộc nhóm rào cản bên ngoài. Đây là hệ thống các yếu tố tác động, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế tư nhân từ bên ngoài tạo nên môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển. Có rất nhiều yếu tố khác nhau thuộc nhóm rào cản này điển hình như: các chính sách khung pháp lý và các điều kiện kinh doanh. Các chính sách khung pháp lý của Đảng và Nhà nước như “kim chỉ nam” cho việc phát triển kinh tế tư nhân để kinh tế tư nhân trở thành “động lực quan trọng của nền kinh tế”. Trong những năm qua, Chính phủ đã xây dựng chính sách khung pháp lý tạo điều kiện thuận lợi hơn, bình đ ng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Những nỗ lực này đã thực sự góp phần quan trọng tạo nên những bước tiến mới trong cải cách môi trường kinh doanh. Ví dụ như: một Chính phủ kiến tạo vì doanh nghiệp đang được Thủ tướng Chính phủ phát động và thực hiện quyết liệt theo đó một loạt cải cách thể chế, chính sách pháp luật đã được ban hành như: Luật Phá sản, Luật Hải quan, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thế giá trị gia tăng đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó có các doanh nghiệp siêu nhỏ. Tất cả đều theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Đáng chú ý hơn, lần đầu tiên, Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 3/10/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa 377
  4. XII về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã đưa vào nội dung bãi bỏ các rào cản, quy định điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý, mở rộng khả năng tham gia thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình đ ng. Một sự kiện chưa từng có trong lịch sử Bộ Công Thương, năm 2017, Bộ Công Thương cắt giảm, đơn giản hóa khoảng 55,5% tổng số các điều kiện đầu tư kinh doanh (675 điều kiện kinh doanh). Cùng với đó, nhiều bộ, ban, ngành đã chủ động rà soát, lên kế hoạch cải cách điều kiện đầu tư, kinh doanh, theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, như: Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Những hành động trên là những bước tiến đáng kể, là điều mà các doanh nghiệp luôn kỳ vọng vào sự hành động của chính phủ. Những kết quả đó đã tạo điều kiện rộng đường cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, tham gia vào các lĩnh vực mình có thể làm được mà nhà nước không cấm, theo đúng tinh thần Chính phủ kiến tạo, hành động. Từ đó, những tồn tại, vướng mắc của nền kinh tế được nhận diện và xử lý, khơi lại niềm tin của doanh nghiệp, thể hiện triển vọng tăng trưởng của khu vực tư nhân trong thời gian tới. Tuy nhiên những yếu tố bên ngoài đó vẫn còn đang là rào cản đối với các doanh nghiệp tư nhân: Thứ nhất, chính sách và khung pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự hoàn thiện, trong đó vẫn có nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa r ràng, thiếu nhất quán, hết sức phức tạp và chồng chéo. Với hơn 4.000 các điều kiện kinh doanh hiện nay (trong đó nhiều quy định không theo thông lệ quốc tế và khoảng 50% các điều kiện kinh doanh có thể cắt giảm càng sớm càng tốt) đặt ra các rào cản không phù hợp đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đặc biệt, còn tồn tại rất nhiều các điều kiện kinh doanh hay các giấy phép “con”, giấy phép “cháu” Theo đó mà chi phí không chính thức (theo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2016) lên tới trên 10% doanh thu của doanh nghiệp. Thứ hai, có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân còn bị đối xử thiếu công bằng. Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến doanh nghiệp nhà nước mà chưa đề cập đến doanh nghiệp tư nhân. Lợi được hưởng từ những chính sách thường 378
  5. ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước. Những quan điểm đánh giá về doanh nghiệp tư nhân chưa khách quan, gây khó khăn, cản trở hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, điều mà các doanh nghiệp tư nhân cần là hệ thống pháp luật về kinh doanh minh bạch, công bằng và lành mạnh, hệ thống thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện và sớm đi vào thực tiễn. Chính vì vậy, giải pháp xin được phép đưa ra như sau: Một là, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân phát triển. Cơ quan Nhà nước các cấp, các bộ, ban, ngành theo thẩm quyền cần khẩn trương ban hành khung pháp lý, cơ chế, chính sách nhằm cụ thể hóa và củng cố định hướng chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân mạnh mẽ hơn nữa. Trong đó phải tập trung vào việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân một cách thực chất và nhanh chóng đi vào thực tiễn, thông qua các chính sách hỗ trợ về lãi suất, ưu đãi về thuế, đất đai, giải phóng mặt bằng. Đồng thời, các cơ chế, chính sách khung pháp lý phải tích hợp được với nhau để hình thành nên một trật tự sản xuất kinh doanh “mới hơn, có độ mở hơn” với các quan hệ đa dạng, đa chiều trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường và hệ thống pháp luật. Như xây dựng cơ chế “một cửa điện tử”, công bố số điện thoại đường dây nóng, hộp thư điện tử để tiếp nhận và trả lời, cần xử lý một cách quyết liệt nạn tham nhũng, quan liêu - rào cản và gánh nặng chi phí đối với phát triển kinh tế tư nhân. Cộng đồng doanh nghiệp đang kỳ vọng lớn vào một Chính phủ hành động, biến chủ trương thành các chính sách cụ thể, thực tiễn và hiệu quả. Thứ hai, cần xây dựng khung pháp lý tạo điều kiện thuận lợi hơn, bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Trên tinh thần, kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước là các bộ phận bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, do vậy cần phải tạo ra môi trường kinh doanh bình đ ng, không phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trên cơ sở nguyên tắc: bình đ ng, tôn trọng, chủ động. Theo hướng đó, không biến các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành chính sách bao cấp, phục vụ "lợi ích nhóm" dưới mọi hình thức.Tạo điều 379
  6. kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế. Tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh với doanh nghiệp sản xuất, từng bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Hai là, nhóm rào cản bên trong, trong đó phải kể đến các yếu tố: Khả năng cạnh tranh, khả năng liên kết, khả năng tạo các doanh nghiệp đầu tàu và khả năng tiếp cận các nguồn lực. Mặc dù được xác định là động lực của tăng trưởng kinh tế nhưng hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam vẫn chưa đủ lớn, chưa phát triển cho dù đã có một khoảng thời gian phát triển. Có thể thấy rằng, hầu hết đều là các doanh nghiệp trẻ thành lập từ năm 2000 trở lại đây và phần lớn trong số đó là doanh nghiệp siêu nhỏ. Số lượng các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn của Việt Nam rất hạn chế, chúng ta có thể dễ dàng kể tên: Vingroup, Hòa Phát, TH true MILK, Hoa Sen Xem xét lịch sử hoạt động của các tập đoàn này có thể thấy, quy mô và phạm vi kinh doanh còn hẹp. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực phi sản xuất, trong đó, một bộ phận không nhỏ đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, dịch vụ. Hơn nữa, so với các tập đoàn trên thế giới, quy mô vẫn còn khá nhỏ, nhất là trình độ kỹ nghệ, công nghệ và quản trị còn cách xa các nước trong khu vực cũng như thế giới. Trong khi đó trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, số tập đoàn thực sự rất ít, những tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, có thể vươn tầm khu vực và thế giới của Việt Nam vẫn còn khá ít ỏi. Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam vừa nhỏ, vừa sơ khai, các lĩnh vực hoạt động còn hạn chế, nhất là trình độ kỹ nghệ, công nghệ và quản trị còn cách xa các nước khác. Công nghệ ứng dụng của các doanh nghiệp hơn 45% là công nghệ cực thấp, gần 50% là công nghệ thấp, chỉ có 8% là công nghệ trung bình, 2% là công nghệ cao đạt được trình độ so với thế giới, như vậy vũ khí của doanh nghiệp để kinh doanh là công nghệ của chúng ta chưa có. Đại bộ phận doanh nghiệp còn lại của Việt Nam vẫn còn ở mức độ nhỏ và vừa, thậm chí là siêu nhỏ, chủ yếu ở quy mô hộ gia đình sang quy mô sản xuất 380
  7. nông nghiệp quy mô lớn, dựa vào doanh nghiệp và trang trại, hoạt động theo cơ chế thị trường và đủ sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Không những thế, không chỉ có hạn chế về công nghệ, về quy mô các doanh nghiệp của Việt Nam còn thiếu tính liên kết, năng lực cạnh tranh chậm được nâng cao, cạnh tranh không lành mạnh với nhau gây ra hình ảnh xấu trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Cũng chính bởi vậy mà cho đến hiện nay sau 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chỉ đứng “ngoài hàng rào” các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) do không thể liên kết được với các doanh nghiệp này và cũng không đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn ở mức khá khiêm tốn so với các quốc gia khác trên thế giới. Hiện chỉ có 21% doanh nghiệp tư nhân Việt Nam liên kết được với chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi ở Thái Lan có thể lên đến 30% và 46% ở Malaysia. Gặp rào cản về nhiều mặt một phần là bởi các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đều rất khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Trong đó, thiếu vốn luôn là rào cản và luôn là vấn đề thách thức lớn đối với các doanh nghiệp tư nhân. Thiếu vốn, các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư công nghệ và mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hiện nay có đến 70% doanh nghiệp tư nhân, tương đương với khoảng gần 400.000 doanh nghiệp chưa tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng đang là những khó khăn lớn đối với sự phát triển kinh tế nước ta. Do vậy, doanh nghiệp tư nhân cần nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để đứng vững trong thị trường và hoạt động theo cơ chế thị trường, theo đó, cần tập trung vào một số giải pháp sau: Một là, khuyến khích các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn mạnh trở thành những đầu tàu và phát huy sức lan tỏa của họ. Họ là những tập đoàn kinh tế có thể dẫn dắt cuộc chơi, tạo ra thị trường và mạng lưới kinh doanh hay các chuỗi giá trị, để các thành viên khác trong cộng đồng doanh nghiệp có thể tìm thấy ở đó đường đi nước bước và chỗ đứng cho mình để tham gia. Hai là, cần có sự hợp tác giữa các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi để các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn đặt hàng nguồn cung đối với các sản phẩm và dịch vụ cho các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn khi các doanh nghiệp tư nhân lớn không có hiệu quả 381
  8. nếu tự làm lấy. Đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là thị trường quan trọng trực tiếp tiêu thụ hoặc tham gia phân phối các sản phẩm của các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn. Họ cũng có thể là nơi mà các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn tổ chức nghiên cứu hoặc thực hiện những sáng tạo mới, ứng dụng công nghệ mới trong kinh doanh. Quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa các tập đoàn kinh tế tư nhân với các doanh nghiệp khác tạo nên sự phát triển mà cả phía doanh nghiệp cũng như xã hội và người dân đều được hưởng. Hợp tác ở đây không chỉ giới hạn với những đối tác nước ngoài đến từ các quốc gia trong khu vực và thế giới, mà còn phải hợp tác với cả chính các doanh nghiệp trong cùng lãnh thổ, tạo thành những doanh nghiệp lớn mạnh cả về tiềm lực kinh tế lẫn quy mô. Có như vậy, mới cạnh tranh được với những tập đoàn nước ngoài, vươn ra sân chơi toàn cầu và hình thành nên chuỗi giá trị. Ba là, cần tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp nước ngoài về việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ. Để kết nối được với các tập đoàn đa quốc gia thì Việt Nam cần thúc đẩy các hoạt động phát triển công nghệ tầm trung phù hợp với trình độ phát triển hiện tại, như thiết lập các cụm liên kết ngành sản xuất linh kiện đòi hỏi quy mô đầu tư vốn vừa phải và độ tinh vi công nghệ ở mức trung bình. Đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cũng cần nắm bắt được làn sóng khởi nghiệp của các doanh nghiệp công nghệ và thúc đẩy các hệ sinh thái khởi nghiệp nhằm giúp các doanh nhân vượt qua rào cản về vốn, rủi ro, nguồn nhân lực để hiện thực hóa các ý tưởng của mình liên quan đến công nghệ và đổi mới sáng tạo. Bốn là, để xây dựng được một thương hiệu lớn, vai trò của doanh nhân, những người đứng đầu doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Họ cần phải có ý tưởng, có chiến lược kinh doanh lâu dài, am hiểu luật pháp, chấp nhận dấn thân, chấp nhận thất bại và chấp nhận cạnh tranh. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ với các nền kinh tế khu vực và thế giới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam muốn lớn mạnh được, bên cạnh việc am hiểu luật pháp, ngôn ngữ toàn cầu, doanh nhân Việt Nam cần có tinh thần hợp tác, tinh thần đấu tranh trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Điều quan trọng là tập đoàn kinh tế phải hình thành từ mối liên kết chặt chẽ giữa các công ty thành viên, trong khi từng công ty vẫn độc lập trong hoạt động kinh doanh, có giá trị riêng; các công ty có thể kết nối trong các chuỗi giá trị, hoặc cùng nhau tạo thêm giá trị cho tập đoàn. Tập đoàn kinh tế cũng phải có hệ thống quản trị theo những thông lệ quốc tế tốt, nền tảng sáng tạo cao và không ngừng cải thiện. 382
  9. Năm là, để dễ dàng tiếp cận các yếu tố nguồn lực, đặc biệt là yếu tố vốn, các doanh nghiệp cần mạnh dạn liên kết với nhau để tự kh ng định quyền được vay và độ tin cậy bên cạnh việc chứng minh khả năng tài chính, có phương án kinh doanh hiệu quả, có báo cáo tài chính ổn định và minh bạch. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng cần có những điều chỉnh mang tính đột phá hơn nữa, chính sách cụ thể hơn nữa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân đến gần hơn với các nguồn vốn, như vậy doanh nghiệp tư nhân và Ngân hàng mới nhanh chóng tìm được tiếng nói chung. Kết luận Những chỉ tiêu về phát triển kinh tế tư nhân chúng ta đã đặt ra rất trong ở nghị quyết là không khó thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng quan trọng hơn hết là cần sự kết hợp hết sức hài hòa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân. Trong đó, chính các doanh nghiệp tư nhân cần phải nỗ lực hết mình để nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt trước sự cải thiện mạnh mẽ và quyết liệt của môi trường kinh doanh.Và điều đó cần sự chung tay không chỉ ở Chính phủ, các doanh nghiệp tư nhân mà ở cả xã hội. Không chỉ là những đường lối, chính sách theo hướng bình đ ng, minh bạch mà cần đi vào thực tiễn và hành động nhiều hơn. 383
  10. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII 2. 3. 384