Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp - Hướng tới cách tiếp cận bền vững
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp - Hướng tới cách tiếp cận bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- thoa_uoc_lao_dong_tap_the_nhom_doanh_nghiep_huong_toi_cach_t.pdf
Nội dung text: Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp - Hướng tới cách tiếp cận bền vững
- ILO/Japan Multi-Bilateral Programme Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Hướng tới cách tiếp cận bền vững
- Sản phẩm được thực hiện với sự hỗ trợ từ Dự án Khung khổ Quan hệ Lao động mới của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) hợp tác với Chính phủ Nhật Bản (ILO NIRF/Japan) và Chính phủ Canada (NIRF/Canada). Các quan điểm được trình bày trong tài liệu này không nhất thiết phản ánh quan điểm của ILO và Nhà tài trợ.
- Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Hướng tới cách tiếp cận bền vững Đỗ Quỳnh Chi (Tiến sĩ) Trung tâm nghiên cứu quan hệ lao động
- 2 Lời nói đầu uyền thương lượng tập thể (TLTT) đã được đưa ra trong Bộ luật Lao động năm 1994, theo đó TLTT cấp doanh nghiệp là mô hình được các công đoàn và Q người sử dụng lao động (NSDLĐ) thực hiện phổ biến nhất. Trong những năm qua, đã có nhiều sáng kiến nhằm đưa TLTT nhóm doanh nghiệp thành một cơ chế hiệu quả giúp nâng cao lợi ích của NLĐ, một trong số đó là hoạt động thí điểm giữa Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam và TLĐLĐVN bắt đầu vào năm 2016 về thỏa ước lao động tập thể nhóm doanh nghiệp (TƯLĐTT NDN). Đối với công đoàn, TƯLĐTT NDN là đòn bẩy trọng yếu giúp xây dựng công đoàn các doanh nghiệp do công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở dẫn dắt. Đối với NSDLĐ, các TƯLĐTT NDN được kỳ vọng sẽ mang lại một sân chơi bình đẳng hơn về điều kiện làm việc, nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh lương, tránh “câu trộm” lao động và đình công tự phát. Vào năm 2017, Dự án Khung khổ Quan hệ Lao động Mới – Cấu phần Nhật Bản (NIRF/Japan) tiếp tục thí điểm mở rộng các TƯLĐTTNDN tại Hải Phòng và Đà Nẵng, đồng thời thúc đẩy ký kết những TƯLĐTT nhóm mới. Báo cáo nghiên cứu này được xây dựng và thực hiện nhằm đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và ghi chép lại những thực hành tốt về thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp, cũng như đưa ra những khuyến nghị cho quá trình sửa đổi pháp luật lao động và gợi ý nhân rộng phạm vi thực hiện. Nghiên cứu do Tiến sỹ Đỗ Quỳnh Chi thực hiện với sự hỗ trợ từ Dự án Khung khổ Quan hệ Lao động mới của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 3 Danh mục từ viết tắt NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động TLTT Thương lượng tập thể TƯLĐTT Thỏa ước lao động tập thể TƯ LĐTT NDN Thỏa ước Nhóm Doanh nghiệp/ Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp CĐCS Công đoàn cơ sở ILO Tổ chức Lao động Quốc tế QHLĐ Quan hệ lao động LĐLĐ Liên đoàn Lao động KCN Khu công nghiệp KKT Khu kinh tế LĐ-TB&XH Lao động, Thương binh và Xã hội NIRF Dự án Khung khổ Quan hệ Lao động mới PTMVCNVN Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam TLĐLĐVN Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam VITAS Hiệp hội Dệt may Việt Nam
- 4 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Nội dung Chương 1: Giới thiệu 7 1.1. Bối cảnh và Mục tiêu nghiên cứu 7 1.2. Phương pháp nghiên cứu 9 1.3. Tóm lược về các Thỏa ước Nhóm Doanh nghiệp 11 Chương 2: Bối cảnh Thương lượng tập thể 13 2.1. Về vấn đề xác định tiền lương và điều kiện làm việc trước và sau năm 2013 13 Đình công tự phát và các thương lượng mẫu trước 2013 13 Các điều kiện của thị trường lao động và thương lượng sau năm 2013 15 2.2. Cách tiếp cận của các đối tác xã hội về Thương lượng tập thể 16 Công đoàn 17 Người sử dụng lao động 18 Chương 3: Các Thỏa ước Lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp tại Hải Phòng, Bình Dương và Đà Nẵng 19 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội du lịch 19 3.2. Quá trình thương lượng và Chiến lược TLTT được công đoàn sử dụng 20 3.3. Các vấn đề thương lượng 27 3.4. Vai trò của các chủ thể chính 29 3.5. Tác động của TƯ NDN 31 3.6. Các bài học rút ra 35 Chương 4: Kết luận và Khuyến nghị 41 4.1. Góc nhìn thực tiễn đối với các quy định về TLTT NDN của Bộ luật Lao động 2019 41 4.2. Khuyến nghị đối với công đoàn 42 Tài liệu tham khảo 44
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 5 Danh mục Bảng biểu Bảng 1. Bảng tổng hợp các TƯ NDN hiệu quả 10 Bảng 2. Sơ lược thông tin về các TƯLĐTT Nhóm Doanh nghiệp đang có 11 hiệu lực Bảng 3. Các chiến lược công đoàn áp dụng trong thương lượng với từng 23 doanh nghiệp đơn lẻ Danh mục Hình Hình 1. Đình công và Tỷ lệ lạm phát, 2001-2017 14 Hình 2. Tỷ lệ tăng trưởng của tiền lương tối thiểu vùng, Chỉ số Giá tiêu 15 dùng (CPI) và Chỉ số Tổng sản phẩm Quốc nội (GDP), 2009-2016 Hình 4. CĐCS tham vấn ý kiến NLĐ về TƯ NDN 25 Hình 5. Động lực khiến NSDLĐ tham gia TƯ NDN 31 Hình 6. Đánh giá của CĐCS về tác động TU Nhóm tới thu nhập của NLĐ 32 Hình 7. Đánh giá của CĐCS về tác động của TU Nhóm tới QHLĐ 32 Hình 8. Tác động Thỏa ước nhóm tới hiệu quả kinh doanh 33 Hình 9. Tác động tích cực của Thỏa ước nhóm tới DN 34 Hình 10. Thành phần BCH CĐCS 37
- 6 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Danh mục Ảnh Ảnh 1. Cách tiếp cận của công đoàn với đề xuất TƯ NDN 21 Danh mục Hộp Hộp 1. Tăng cường sức mạnh thương lượng của công đoàn – 6 bài học 34 kinh nghiệm
- 7 Chương 1: Giới thiệu 1.1. Bối cảnh và Mục tiêu nghiên cứu Quyền thương lượng tập thể (TLTT) đã được đưa ra trong Bộ luật Lao động năm 1994, theo đó TLTT cấp doanh nghiệp là mô hình được các công đoàn và người sử dụng lao động (NSDLĐ) thực hiện phổ biến nhất. Theo thống kê của TLĐLĐVN, tới cuối năm 2018, trên 60% các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn đã có Thỏa ước Lao động tập thể (TƯLĐTT) cấp doanh nghiệp.1 Mặc dù có tỷ lệ bao phủ của TƯLĐTT ở mức cao, chất lượng của các thỏa ước này ở cấp doanh nghiệp vẫn còn là câu hỏi ngỏ trong cả nội bộ TLĐLĐVN và bên ngoài. Theo Ban Quan hệ Lao động – TLĐLĐVN, chỉ có 11.05% các TƯLĐTT cấp doanh nghiệp được đăng ký có thể được xếp loại A – nghĩa là các thỏa ước tuân thủ quy trình TLTT và ký kết được mức lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn cho người lao động (NLĐ). Kết quả điều tra do TLĐLĐVN cùng thực hiện với Viện Fredrich Ebert Stiftung cho thấy chỉ có 15% tổng số các TƯLĐTT trong số các thỏa ước đã đăng ký được ký kết sau quá trình thương lượng giữa người lao động và giới chủ, mà không có một quá trình thương lượng thực thụ.2 Một nguyên nhân khiến cho TLTT thực chất còn thiếu hụt là do công đoàn tại các doanh nghiệp hiện nay vẫn còn phụ thuộc vào phía quản lý. Trong những năm qua, đã có nhiều sáng kiến nhằm đưa TLTT nhóm doanh nghiệp thành một cơ chế hiệu quả giúp nâng cao lợi ích của NLĐ, một trong số đó là hoạt động thí điểm giữa Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam và TLĐLĐVN về thỏa ước lao động tập thể nhóm doanh nghiệp (TƯLĐTT NDN). Đối với công đoàn, TƯLĐTT NDN là đòn bẩy trọng yếu giúp xây dựng một bức bình phong đoàn kết cho công đoàn các doanh nghiệp do công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở dẫn dắt. Đối với NSDLĐ, các TƯLĐTT NDN được kỳ vọng sẽ mang lại một sân chơi bình đẳng hơn về điều kiện làm việc, nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh lương, tránh “câu trộm” lao động. 1 Số liệu của TLĐLĐVN trích từ thư viện thỏa ước 2 Số liệu từ Nghiên cứu do TLĐLĐVN cùng Viện FES thực hiện
- 8 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Thỏa ước giữa 6 doanh nghiệp điện tử Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ, Hải Phòng Thí điểm về TƯLĐTT NDN được giới thiệu lần đầu tiên Thỏa ước giữa 4 doanh nghiệp du lịch tại Đà Nẵng vào năm 2016 Thỏa ước giữa 4 doanh nghiệp may mặc tại Quận 12 – TP. Hồ Chí Minh. Tháng 12 năm 2018, Thỏa ước tại Đà Nẵng đã được mở rộng lên 10 doanh nghiệp tham gia Từ 2017, Dự án Khung khổ Tháng 6 năm 2019, TƯLĐTT NDN tại Hải Phòng đã mở Quan hệ Lao động Mới - Cấu rộng tới 20 doanh nghiệp phần Nhật Bản tiếp tục thí điểm mở rộng các TƯLĐTTNDN TƯLĐTT NDN mới được ký kết giữa 16 doanh nghiệp đã có, đồng thời thúc đẩy ký ngành gỗ tại Bình Dương kết những TƯLĐTT nhóm mới TƯLĐTT NDN mới được ký kết giữa 6 doanh nghiệp ngành gỗ tại Đồng Nai Những thỏa ước này đã thể hiện sự phối hợp hoạt động giữa Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) và công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp, cũng như các bước thương lượng thực chất giữa công đoàn và người sử dụng lao động (NSDLĐ), vốn là điều không thường thấy ở Việt Nam (Đỗ và Nguyễn, 2016). TLĐLĐVN cũng khuyến khích các LĐLĐ đi tiên phong trong ký kết TƯLĐTT nhóm doanh nghiệp. Cho tới nay, hai TƯNDN đã được ký kết tại Khánh Hòa và Quảng Ninh. TLĐLĐVN cũng đặt mục tiêu phát triển và ký kết thỏa ước nhóm tại 32 tỉnh thành phố. Đồng thời, các điều khoản về thỏa ước nhóm cũng đã được đưa vào Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019. Do mô hình TLTTNDN đang được thúc đẩy trên toàn quốc, việc nghiên cứu và xem xét những TƯLĐTT NDN hiện nay là vô cùng cần thiết, nhằm giải đáp những câu hỏi: Các TƯLĐTT NDN có phải thí điểm về giải pháp đáng tin cậy giúp tăng TƯLĐTT NDN mang lại những cường sức mạnh công đoàn, giúp công đoàn bài học gì về quy trình, chiến lược thương lượng mức lương và điều kiện lao động tốt và chiến thuật thương lượng cho hơn cho đoàn viên hay không? công đoàn? ? Đâu là các hàm ý chính sách cho quá trình sửa đổi pháp luật lao động? Các TƯLĐTT NDN được thương lượng như thế nào, và chúng có tác động như thế nào tới NLĐ và NSDLĐ?
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 9 Bởi vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là thực hiện phân tích sâu về thí điểm hợp tác giữa TLĐLĐVN và ILO về TƯLĐTT NDN, điều tra các khía cạnh sau: • Thủ tục thương lượng của mỗi thỏa ước: những điểm chung và điểm riêng • Vai trò của các đối tác khác nhau trong quá trình này • Những nhân tố ảnh hưởng tới sự thành công của thỏa ước • Tác động của Thỏa ước tới NLĐ và NSDLĐ • Những bài học kinh nghiệm cho công đoàn; và • Hàm ý đối với quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động (các điều khoản liên quan tới TƯLĐTT NDN) 1.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng kết hợp cả phương pháp định lượng và định tính. Đầu tiên, tư vấn rà soát toàn bộ các tài liệu do nhóm dự án và nhóm thí điểm địa phương cung cấp. Những tài liệu này bao gồm cả các báo cáo từ nhóm thí điểm địa phương, các báo cáo nội bộ của dự án và TLĐLĐVN về chủ đề TƯLĐTT NDN, thống kê về các doanh nghiệp tham gia, cũng như các nghiên cứu trước đây đã có về chủ đề này. Để đánh giá về TƯ và đưa ra một khung nền tảng giúp nhân rộng thí điểm, việc đảm bảo rằng các tác động của TƯ được lượng hóa là vô cùng quan trọng. Do vậy, nghiên cứu khảo sát được thực hiện tập trung vào các tác động về kinh tế và xã hội tới NLĐ và quản lý doanh nghiệp của các doanh nghiệp tham gia thỏa ước. Hai bảng hỏi – một cho quản lý và một cho các lãnh đạo công đoàn, được Ban QHLĐ - TLĐLĐVN và các LĐLĐ cấp tỉnh gửi bằng thư điện tử cho từng doanh nghiệp tham gia. Các doanh nghiệp và công đoàn cơ sở (CĐCS) tham gia điền vào bảng hỏi và gửi lại trực tiếp tới tư vấn hoặc Dự án NIRF. 29 CĐCS tại Bình Dương, Đà Nẵng & Hải Phòng (tổng số 12,183 NLĐ) 68.9% DN tham gia ba thỏa ước do Dự án NIRF của ILO hỗ trợ 88% Đoàn viên công đoàn 50% ĐVCĐ là nữ 31 doanh nghiệp Các doanh nghiệp phản hồi có quy mô lao động khác nhau: 46% các doanh nghiệp phản hồi có hơn 100 NLĐ, doanh nghiệp nhỏ nhất có 17 NLĐ và doanh nghiệp lớn nhất có 1,450 NLĐ. Về thỏa ước cấp doanh nghiệp, 51.6% các doanh nghiệp phản hồi đã có thỏa ước cấp doanh nghiệp tại thời điểm ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp, và 45.1% chưa có thỏa ước doanh nghiệp này.
- 10 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Bảng 1 Một số đặc điểm của các CĐCS và NSDLĐ tham gia phản hồi Đặc điểm NSDLĐ Công đoàn Số người phản hồi 31 29 Hải Phòng 13 9 Đà Nẵng 9 9 Bình Dương 9 11 Tổng số NLĐ 12,183 Tổng số đoàn viên công đoàn 10,828 Song song với khảo sát các doanh nghiệp tham gia thỏa ước, tư vấn cùng với thành viên nhóm dự án NIRF và TLĐLĐVN đã thực hiện 25 cuộc phỏng vấn sâu, với những chủ thể chính trong Thỏa ước nhóm. Cần chú ý thêm rằng, bên cạnh các Thỏa ước Nhóm doanh nghiệp tại Hải Phòng, Đà Nẵng hay Bình Dương được thực hiện trong khuôn khổ Dự án NIRF, tư vấn cũng rà soát các chủ thể chính đã tham gia vào các thỏa ước tương tự do các dự án hay tổ chức khác thực hiện để có sự so sánh. Các thỏa ước không thuộc khuôn khổ Dự án NIRF bao gồm: (i) Thỏa ước Nhóm doanh nghiệp ngành may tại Văn Lâm, Hưng Yên; (ii) Thỏa ước Nhóm doanh nghiệp du lịch tại Hạ Long, Quảng Ninh; (iii) Thỏa ước Nhóm doanh nghiệp các thành viên Hiệp hội Dệt may Việt Nam; và (iv) Thỏa ước Nhóm doanh nghiệp của Tập đoàn Cao su Việt Nam. Với mỗi thỏa ước, tư vấn đã phỏng vấn: • Đại diện công đoàn (công đoàn cấp ngành, công đoàn khu công nghiệp, công đoàn cấp tỉnh) đã tham gia trực tiếp vào quá trình ký kết và thực hiện các thỏa ước • Đại diện các hiệp hội doanh nghiệp đã tham gia trực tiếp vào quá trình thương lượng và ký kết, thực hiện3 • Đại diện các Sở LĐ-TB&XH • Ban Quản lý và các cán bộ công đoàn thuộc các doanh nghiệp tham gia TƯ NDN tại địa phương. 3 Thỏa ước của VINATEX và Tập đoàn Cao su được gọi là thỏa ước ngành, nhưng trên thực tế chỉ bao phủ một phần NLĐ trong ngành, chủ yếu là NLĐ trong doanh nghiệp thành viên của VINATEX và Tập đoàn Cao su. Do vậy, chúng được phân loại vào thành TƯ NDN.
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 11 1.3. Tóm lược về các Thỏa ước Nhóm Doanh nghiệp Tính đến thời điểm báo cáo này được thực hiện, đã có tổng số 7 thỏa ước nhóm doanh nghiệp, bao phủ 279 doanh nghiệp và trên 185,000 người lao động (NLĐ) (xem Bảng 1). Ngoại trừ thỏa ước của VINATEX và Tập đoàn Cao su Việt Nam4, hầu hết những thỏa ước này đều được ký kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề và cùng khu vực địa lý. Điều này cho thấy rõ đặc điểm cơ cấu công đoàn: các đông đoàn ngành chỉ chịu trách nhiệm về số người lao động trong các ngành công nghiệp, phần lớn chủ yếu trực thuộc công đoàn địa phương. Do đó, trong hầu hết các thỏa ước, các liên đoàn lao động địa phương sẽ đại diện cho người lao động – thay vì công đoàn ngành. Bảng 2 Sơ lược thông tin về các TƯLĐTT Nhóm Doanh nghiệp đang có hiệu lực Thỏa ước Ngành Địa bàn Số DN Số NLĐ Thời hạn Chủ thể ký kết nghề tham gia được hưởng lợi Trong khuôn khổ hợp tác giữa TLĐLĐVN và Dự án ILO/NIRF Tràng Duệ Điện tử Hải Phòng 20 7,415 2019-2022 Công đoàn Khu Kinh tế Hải Phòng và 20 Doanh nghiệp Du lịch Du lịch và Đà Nẵng 10 2,385 2018-2020 LĐLĐ và Hiệp hội Đà Nẵng Lưu trú Du lịch Đà Nẵng Chế biến gỗ Chế biến Bình 16 9,886 2019-2020 Hiệp hội Chế biến tại Bình gỗ Dương gỗ tỉnh Bình Dương Dương và LĐLĐ Bình Dương Chế biến gỗ - Chế biến Đồng Nai 6 12,303 2019-2020 Công đoàn Khu Đồng Nai gỗ Công nghiệp Biên Hòa và 6 doanh nghiệp Linh Trung IZ May mặc TP. HCM 5 5,921 2019-2021 Công đoàn Khu (Đang triển Kinh tế và chế khai) xuất, và 5 doanh nghiệp Nhóm trẻ Giáo dục Quảng 10 39 2019-2021 BCH Công đoàn mầm non tư Nam Nhóm trẻ mầm thục tại non tư thục và Quảng Nam các Chủ nhóm trẻ 4 VINATEX và Tập đoàn Cao su đều là các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước, mỗi bên có khoảng hơn 100 doanh nghiệp thành viên ở các tỉnh thành khác nhau.
- 12 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Thỏa ước Ngành Địa bàn Số DN Số NLĐ Thời hạn Chủ thể ký kết nghề tham gia được hưởng lợi Dự án của TLĐLĐVN và CNV International May mặc tại May mặc Hưng Yên 5 4,000 2019-2020 LĐLĐ Huyện Văn Văn Lâm Lâm và 5 doanh nghiệp Các Thỏa ước Nhóm do TLĐLĐVN triển khai Du lịch tại Du lịch và Quảng 28 4,600 2018-2020 28 doanh nghiệp Hạ Long lưu trú Ninh và LĐLĐ Hạ Long Tổng công ty Trồng và Toàn quốc 60 6,500 2019-2021 TCT Cao su và Cao su chế biến Công đoàn ngành (Pha 2) cao su cao su VINATEX May mặc Toàn quốc 80 120,000 2017-2020 VITAS và Công (Pha 4) đoàn ngành cao su May mặc tại May mặc Bình 13 7,000 2017-2020 Công đoàn may Bình Dương Dương mặc Bình Dương (Pha 3) và Hiệp hội may mặc tỉnh Bình Dương May mặc tại May mặc Hà Nội 27 5,000* 2017-2020 Công đoàn may Hà Nội mặc Hà Nội và Hiệp hội May mặc Hà Nội Tổng số 279 doanh nghiệp 185,000 NLĐ * Số liệu này do tác giả ước tính dựa trên các thông tin có trên trang thông tin của Công đoàn ngành Dệt may Hà Nội Một điểm thú vị là các công ty tiên phong ký kết các TƯTĐTT NDN là các doanh nghiệp hoạt động cả ở trong các ngành nghề sản xuất (như điện tử, may mặc, chế biến gỗ và cao su) và dịch vụ (du lịch, giáo dục và lưu trú). Hầu hết các doanh nghiệp tham gia đều là doanh nghiệp cỡ vừa hoặc cỡ lớn, có từ 100 tới hàng ngàn người lao động. Trong số này, có cả các doanh nghiệp đã có thỏa ước cấp doanh nghiệp và các doanh nghiệp chưa có thỏa ước.
- 13 Chương 2: Bối cảnh Thương lượng tập thể 2.1. Về vấn đề xác định tiền lương và điều kiện làm việc trước và sau năm 2013 Cách thức tiền lương và điều kiện làm việc được xác định trên thị trường lao động có ảnh hưởng lớn tới cách tiếp cận về thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động. Khi tiền lương và điều kiện làm việc chủ yếu được xác định thông qua thương lượng giữa cá nhân người lao động và người sử dụng lao động – vốn là trường hợp thường gặp đối với các lao động có kỹ năng nghề cao, thì nhu cầu thương lượng tập thể sẽ ít đi. Nếu tiền lương và điều kiện làm việc do người sử dụng lao động đơn phương quyết định – và thường là mức xác định này sẽ chỉ gần với hoặc thấp hơn các điều kiện tối thiểu, người lao động và tổ chức đại diện của họ sẽ có mong muốn thương lượng tập thể cao hơn (ILO, 2017). Trong phần này, quá trình chuyển tiếp của các cách thức xác định tiền lương và điều kiện làm việc sẽ được thảo luận, theo đó quá trình này được xác định thông qua đình công tự phát trước năm 2013 sang thương lượng có sự tham gia (phi chính thức) của người sử dụng lao động từ sau năm 2013. Đình công tự phát và các thương lượng mẫu trước 2013 Giữa tỷ lệ lạm phát và các cuộc đình công tự phát có một mối liên hệ rất lớn. Trong giai đoạn từ năm 2005 tới năm 2012, cả tỷ lệ lạm phát và số lượng các cuộc đình công tự phát đều tăng cao (Xem Bảng 1). Trong giai đoạn này, Chính phủ đã điều chỉnh mức lương tối thiểu sau khi đã tham vấn với các đối tác xã hội. Do đó, sau 3 tháng đầu năm – là thời điểm mà NSDLĐ bắt đầu phải điều chỉnh bảng lương theo mức lương tối thiểu mới, số lượng các cuộc đình công tăng cao nhất, chiếm 41.2% tổng số cuộc đình công (ILO Việt Nam, 2011). Người lao động đình công chủ yếu là nhằm gây ảnh hưởng tới mức sàn mà NSDLĐ điều chỉnh theo mức lương tối thiểu mới. Các cuộc đình công có xu hướng giảm đi vào tháng 4 và sau đó tiếp tục nổ ra vào các tháng 5, tháng 6 và tháng 7 – là thời gian cao điểm trong sản xuất may mặc và da giày – cũng là các ngành có xu hướng đình công cao. Do NSDLĐ cần hoàn thành các đơn hàng gấp, NLĐ có sức mạnh thương lượng lớn hơn khi đòi trả phụ cấp và thưởng cao hơn. Số cuộc đình công trong 3 tháng này chiếm 28.3% tổng số cuộc đình công hàng năm trong giai đoạn 2010-2011 (ILO Việt Nam, 2011).
- 14 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Các điều kiện của thị trường lao động và thương lượng lương sau năm 2013 Hình 1 Kể từ năm 2013, tỷ lệ lạm phát giảm xuống dưới 10% mỗi năm và Hội đồng Tiền lương Quốc gia được thành lập. Các cuộc đình công giảm nhanh từ 1000 cuộc vào năm 2011 Đình công và Tỷ lệ lạm phát, 2001-2017 còn hơn 200 cuộc vào năm 2017 và sức nóng của “thương lượng tập thể bằng cách đình công” (Hobsbawm, 1960) đã chuyển đổi thành thương lượng lương tối thiểu tại Hội đồng Tiền lương Quốc gia. Kể từ năm 2013, tiền lương tối thiểu vùng (trên danh nghĩa) đã được điều chỉnh song song với tỷ lệ lạm phát (Hình 2). 25 1200 Hội đồng Tiền lương QG 1000 Gia nhập WTO được thành lập 20 và hoạt động 800 15 600 10 400 5 200 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội 0 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá SOEs FIEs POEs CPI trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một Nguồn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2018) số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Đỉnh điểm của đình công tự phát trong giai đoạn từ năm 2008 tới năm 2011 cũng là giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Do đó, NLĐ đã lựa chọn ở lại và lên tiếng bằng cách đình Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và công thay vì lựa chọn bỏ việc khi thị trường lao động đang có nhu cầu thấp. Trong giai cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. đoạn này, NLĐ ở các doanh nghiệp dùng đình công như một “thương lượng mẫu” (Đỗ, Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực 2016). Cụ thể, các cuộc đình công đứng đầu thường xảy ra ở những doanh nghiệp có tổ hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công chức người lao động không chính thức có tiếng nói mạnh. Các cuộc đình công này phần ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. lớn đã thay đổi mức tiền lương toàn vùng hoặc trong toàn khu công nghiệp và khuyến • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham khích đình công tự phát tương tự ở các doanh nghiệp khác. Ảnh hưởng của các cuộc gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. đình công này có thể lan rộng được tới các doanh nghiệp khác là nhờ vào ba yếu tố: sự • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối tập trung về mặt địa lý của sản xuất công nghiệp, sự tham gia của NSDLĐ và mạng lưới cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. NLĐ. Cụ thể, các doanh nghiệp trong cùng một khu vực công nghiệp trong một vùng hay một khu công nghiệp thường có xu hướng liên hệ với nhau, một cách chính thức • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký hoặc không về mức trả lương cho NLĐ nhằm tránh sự cạnh tranh. Do đó, khi một cuộc kết tham gia thỏa ước. đình công ở một công ty xảy ra dẫn đến mức trả lương mới, các công ty khác cũng có xu Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF hướng điều chỉnh thang lương của mình – vừa nhằm giữ chân người lao động vừa để lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp tránh những cuộc đình công tương tự xảy ra. Mạng lưới người lao động không chính dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, thống trong cùng cụm công nghiệp hoặc khu công nghiệp là một tác nhân khác dẫn tới rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng sự phối hợp và liên hệ này giữa các công ty (Đỗ, 2016). Nếu một công ty còn lưỡng lự một địa bàn và ngành nghề. chưa tăng lương, NLĐ sẽ bắt đầu thương lượng một cách thực tế với NSDLĐ. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách:
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 15 Các điều kiện của thị trường lao động và thương lượng lương sau năm 2013 tối thiểu đã trở thành một cơ chế xác định Kể từ năm 2013, tỷ lệ lạm phát giảm xuống dưới 10% mỗi năm và Hội đồng Tiền lương tiền lương của thị trường lao động thực tế. Quốc gia được thành lập. Các cuộc đình công giảm nhanh từ 1000 cuộc vào năm 2011 Tuy nhiên, thay vì tăng lương cho NLĐ, còn hơn 200 cuộc vào năm 2017 và sức nóng của “thương lượng tập thể bằng cách đình NSDLĐ lại liên hệ với nhau để giữ mức công” (Hobsbawm, 1960) đã chuyển đổi thành thương lượng lương tối thiểu tại Hội lương cơ sở ở mức tối thiểu, chủ yếu là đồng Tiền lương Quốc gia. Kể từ năm 2013, tiền lương tối thiểu vùng (trên danh nghĩa) nhằm giảm tối đa mức đóng bảo hiểm xã đã được điều chỉnh song song với tỷ lệ lạm phát (Hình 2). hội, đồng thời chia nhỏ phần lớn thu nhập Hình 2 của NLĐ thành các khoản chi trả nhỏ lẻ như tiền lương theo đầu việc, tiền thưởng Tỷ lệ tăng trưởng của tiền lương tối thiểu vùng, Chỉ số Giá tiêu dùng và tiền làm thêm giờ. Theo một khảo sát (CPI) và Chỉ số Tổng sản phẩm Quốc nội (GDP), 2009-2016 Viện Công nhân và Công đoàn thực hiện 80 vào năm 2018 với gần 1000 NLĐ trong các 70 ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ, mức lương cơ bản của 50% NLĐ được khảo sát 60 ở mức tối thiểu, trong khi có khoảng 10% NLĐ bị trả lương thấp hơn mức tối thiểu. Nói cách khác, các áp lực từ các cuộc đình công tự phát, động lực thị trường và sự liên hệ 50 giữa NSDLĐ đã giúp tăng tiền lương và điều kiện làm việc lên tới các tiêu chuẩn tối 40 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của thiểu. Trong bối cảnh này, việc công đoàn đi đầu trong thương lượng tập thể thực chất 30 các hiệp hội để giúp cải thiện tiền lương và điều kiện làm việc cho NLĐ không có kỹ năng là vô cùng Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp 20 quan trọng. cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá 10 trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã 0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các Lương tối thiểu vùng I Lương tối thiểu vùng III CPI doanh nghiệp còn lại. Đỉnh điểm của đình công tự phát trong giai đoạn từ năm 2008 tới năm 2011 cũng là giai Lương tối thiểu vùng II Lương tối thiểu vùng IV GDP đoạn khủng hoảng kinh tế. Do đó, NLĐ đã lựa chọn ở lại và lên tiếng bằng cách đình Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và công thay vì lựa chọn bỏ việc khi thị trường lao động đang có nhu cầu thấp. Trong giai Nguồn: VEPR (2017) cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. đoạn này, NLĐ ở các doanh nghiệp dùng đình công như một “thương lượng mẫu” (Đỗ, Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực NSDLĐ và NLĐ đã dần quen thuộc hơn với các kỳ điều chỉnh lương tối thiểu hàng năm. 2016). Cụ thể, các cuộc đình công đứng đầu thường xảy ra ở những doanh nghiệp có tổ hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công Thường thì NSDLĐ sẽ cố gắng ấn định một mức nhỏ giữa lương tối thiểu và lương cơ sở chức người lao động không chính thức có tiếng nói mạnh. Các cuộc đình công này phần ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. trả cho NLĐ có kỹ năng thấp. Khi mức tiền lương cơ bản tăng lên, NSDLĐ sẽ tăng mức lớn đã thay đổi mức tiền lương toàn vùng hoặc trong toàn khu công nghiệp và khuyến lương cơ sở theo mức tăng này. Việc NSDLĐ, dù bằng cách thức chính thức hay phi chính • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham khích đình công tự phát tương tự ở các doanh nghiệp khác. Ảnh hưởng của các cuộc thức, có liên hệ với nhau khi điều chỉnh có xu hướng phổ biến hơn thời điểm trước năm gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. đình công này có thể lan rộng được tới các doanh nghiệp khác là nhờ vào ba yếu tố: sự 2013. Các doanh nghiệp FDI có xu hướng liên hệ với các doanh nghiệp cùng tham gia • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối tập trung về mặt địa lý của sản xuất công nghiệp, sự tham gia của NSDLĐ và mạng lưới trong một hiệp hội doanh nghiệp. Ví dụ, các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. NLĐ. Cụ thể, các doanh nghiệp trong cùng một khu vực công nghiệp trong một vùng ở từng khu công nghiệp có xu hướng gặp gỡ thường xuyên nhằm đồng thuận với nhau hay một khu công nghiệp thường có xu hướng liên hệ với nhau, một cách chính thức • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký về cùng một mức tăng lương sau khi mức lương tối thiểu hàng năm được đưa ra. Ở các hoặc không về mức trả lương cho NLĐ nhằm tránh sự cạnh tranh. Do đó, khi một cuộc kết tham gia thỏa ước. doanh nghiệp trong nước hoặc các doanh nghiệp nằm ngoài khu công nghiệp, NSDLĐ đình công ở một công ty xảy ra dẫn đến mức trả lương mới, các công ty khác cũng có xu Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF thường thăm dò mức điều chỉnh lương của các công ty lân cận và dựa theo đó quyết định hướng điều chỉnh thang lương của mình – vừa nhằm giữ chân người lao động vừa để lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp điều chỉnh. tránh những cuộc đình công tương tự xảy ra. Mạng lưới người lao động không chính dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, thống trong cùng cụm công nghiệp hoặc khu công nghiệp là một tác nhân khác dẫn tới Sau khi nền kinh tế hồi phục, tình trạng thiếu hụt lao động ngày càng trở nên nghiêm rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng sự phối hợp và liên hệ này giữa các công ty (Đỗ, 2016). Nếu một công ty còn lưỡng lự trọng. Một mặt, NSDLĐ phải đầu tư vào tự động hóa để giảm bớt nhu cầu về lao động5; một địa bàn và ngành nghề. chưa tăng lương, NLĐ sẽ bắt đầu thương lượng một cách thực tế với NSDLĐ. mặt khác, sự liên hệ không chính thức của NSDLĐ trong trả lương dựa theo mức lương Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách:
- 16 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Công đoàn tối thiểu đã trở thành một cơ chế xác định Chủ một doanh nghiệp gỗ tại Bình Mặc dù TLĐLĐVN có số lượng đoàn viên lớn (hơn 10 triệu đoàn viên)6, sức mạnh trong tiền lương của thị trường lao động thực tế. Dương chia sẻ: “Khi mức lương tối thương lượng tập thể của TLĐLĐVN hiện vẫn đang gặp phải ba yếu tố cản trở: Tuy nhiên, thay vì tăng lương cho NLĐ, thiểu mới được đưa ra, thường tôi sẽ NSDLĐ lại liên hệ với nhau để giữ mức Thứ nhất, cơ cấu hiện tại của TLĐLĐVN được đưa ra từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập yêu cầu cán bộ nhân sự đi tìm hiểu xem lương cơ sở ở mức tối thiểu, chủ yếu là trung, theo đó các ngành công nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu của các doanh nghiệp các công ty khác điều chỉnh lương ra nhằm giảm tối đa mức đóng bảo hiểm xã vốn nhà nước. Các công đoàn ngành bao phủ tất cả hay phần lớn NLĐ trong các sao. Có khi còn phải mua bảng lương hội, đồng thời chia nhỏ phần lớn thu nhập doanh nghiệp trực thuộc. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các doanh của các công ty lân cận để so sánh. của NLĐ thành các khoản chi trả nhỏ lẻ nghiệp ngoài nhà nước được thành lập và đăng ký với chính quyền địa phương thay Phải đảm bảo là công ty không trả như tiền lương theo đầu việc, tiền thưởng vì đăng ký với các bộ ngành dọc như các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, công lương thấp hơn các công ty khác, nếu và tiền làm thêm giờ. Theo một khảo sát đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trực thuộc công đoàn địa phương thay không sẽ không giữ được NLĐ”. (Tháng Viện Công nhân và Công đoàn thực hiện vì các công đoàn ngành. Ba mươi năm sau Đổi mới, các Liên đoàn lao động tỉnh đã 9 năm 2019). vào năm 2018 với gần 1000 NLĐ trong các có số lượng đoàn viên cao hơn nhiều so với số đoàn viên thuộc các công đoàn ngành. ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ, mức lương cơ bản của 50% NLĐ được khảo sát Ví dụ, công đoàn ngành may mặc có khoảng 100 các công đoàn doanh nghiệp trực ở mức tối thiểu, trong khi có khoảng 10% NLĐ bị trả lương thấp hơn mức tối thiểu. Nói thuộc và 150,000 đoàn viên. Số lượng đoàn viên của công đoàn ngành may mặc cách khác, các áp lực từ các cuộc đình công tự phát, động lực thị trường và sự liên hệ trung ương thấp hơn nhiều so với tổng số lượng đoàn viên trong ngành trên 8000 giữa NSDLĐ đã giúp tăng tiền lương và điều kiện làm việc lên tới các tiêu chuẩn tối doanh nghiệp và 2.5 triệu NLĐ (FPTS 2017). Cơ cấu hai nhánh này của TLĐLĐVN đã 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của thiểu. Trong bối cảnh này, việc công đoàn đi đầu trong thương lượng tập thể thực chất khiến cho sức mạnh của công đoàn bị phân mảnh ở cấp độ ngành, và chuyển đổi các hiệp hội để giúp cải thiện tiền lương và điều kiện làm việc cho NLĐ không có kỹ năng là vô cùng trọng tâm tập trung của tổ chức sang các công đoàn trực thuộc dựa theo phân giới Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp quan trọng. địa lý. cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá Thứ hai, sức mạnh của công đoàn trong thương lượng tập thể còn bị giảm sút do trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã 2.2. Cách tiếp cận của các đối tác xã hội về Thương lượng tập thực tế là các công đoàn trực thuộc TLĐLĐVN không có khả năng tổ chức các cuộc chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một thể đình công dù pháp luật có quy định cho phép công đoàn có quyền dẫn dắt đình công số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các này. Phạm (2017) cho rằng, do TLĐLĐVN là một tổ chức chính trị-xã hội có vai trò cầu doanh nghiệp còn lại. Xu hướng thương lượng tập thể trong ngành công nghiệp hoặc một quốc gia phụ thuộc nối giữa NLĐ và NSDLĐ lớn hơn, việc tổ chức đình công nằm ngoài các nhiệm vụ của Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và phần lớn vào cơ cấu công đoàn và tổ chức đại diện NSDLĐ, cũng như sức mạnh của công công đoàn. Kể từ năm 1995, đã có hơn 6000 cuộc đình công xảy ra; tuy nhiên trong cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. đoàn trong khi thương lượng các thỏa ước lao động tập thể (ILO 2017). Ví dụ, tại các quốc số này không có cuộc nào do các công đoàn trực thuộc TLĐLĐVN dẫn dắt hay tổ Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực NSDLĐ và NLĐ đã dần quen thuộc hơn với các kỳ điều chỉnh lương tối thiểu hàng năm. gia Bắc Âu, do NSDLĐ và NLĐ đều có tổ chức đại diện của mình ở cấp quốc gia, nên việc chức. Nếu không dùng tới đình công như một loại vũ khí, các thế mạnh thương lượng hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công Thường thì NSDLĐ sẽ cố gắng ấn định một mức nhỏ giữa lương tối thiểu và lương cơ sở thương lượng một thỏa ước cấp quốc gia là hoàn toàn có thể thực hiện được. Tại Hoa Kỳ của công đoàn với NSDLĐ sẽ rất hạn chế. ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. trả cho NLĐ có kỹ năng thấp. Khi mức tiền lương cơ bản tăng lên, NSDLĐ sẽ tăng mức và Anh, xu hướng thương lượng cấp ngành đã chuyển sang thương lượng cấp doanh Cuối cùng, cách tiếp cận của công đoàn về thương lượng tập thể vẫn đang trong lương cơ sở theo mức tăng này. Việc NSDLĐ, dù bằng cách thức chính thức hay phi chính nghiệp sau những năm 1970, do sức mạnh của công đoàn đã giảm bớt và NSDLĐ đi theo • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham giai đoạn chuyển tiếp từ cách tiếp cận pháp lý của nền kinh tế kế hoạch – theo đó thức, có liên hệ với nhau khi điều chỉnh có xu hướng phổ biến hơn thời điểm trước năm một quá trình ra quyết định linh hoạt hơn. Tại Việt Nam, TLĐLĐVN có tỷ lệ doanh nghiệp gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. công đoàn không đòi hỏi gì thêm so với những gì mà luật pháp quy định, sang 2013. Các doanh nghiệp FDI có xu hướng liên hệ với các doanh nghiệp cùng tham gia có công đoàn chiếm hơn 40% tổng số doanh nghiệp trong khu vực chính thức (TLĐLĐVN, • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cách tiếp cận dựa trên lợi ích – theo đó công đoàn sẽ thương lượng để đòi quyền trong một hiệp hội doanh nghiệp. Ví dụ, các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan 2017); tuy nhiên, thương lượng tập thể đều chỉ đang diễn ra ở giai đoạn sơ khai. Hơn 60% cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. lợi tốt hơn cho đoàn viên. Ví dụ, các cán bộ công đoàn được phỏng vấn trong nghiên ở từng khu công nghiệp có xu hướng gặp gỡ thường xuyên nhằm đồng thuận với nhau số doanh nghiệp có công đoàn đã có thỏa ước cấp doanh nghiệp, nhưng chỉ có 15% trong cứu này thường nói rằng “nếu trong luật không có quy định, thì không có cơ sở để thuyết • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký về cùng một mức tăng lương sau khi mức lương tối thiểu hàng năm được đưa ra. Ở các số các thỏa ước này được ký kết sau khi thương lượng thực chất, số còn lại là sao chép văn phục người lao động chấp thuận”, hoặc “người sử dụng lao động đã làm đúng luật rồi, kết tham gia thỏa ước. doanh nghiệp trong nước hoặc các doanh nghiệp nằm ngoài khu công nghiệp, NSDLĐ bản luật (Viện FES và TLĐLĐVN, 2015). Nghiên cứu này sẽ phân tích các cách tiếp cận quản không thể đòi hỏi thêm được nữa”. Bởi vậy, thực tế là công đoàn tham gia vào các sáng Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF thường thăm dò mức điều chỉnh lương của các công ty lân cận và dựa theo đó quyết định lý lao động và các đối tác xã hội tới thương lượng tập thể và cho thấy sự khác nhau căn kiến thương lượng nhóm doanh nghiệp giúp cải thiện và nâng cao lợi ích của người lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp điều chỉnh. bản có thể là nguyên nhân cản trở thương lượng tập thể thực chất. lao động tốt hơn các tiêu chuẩn tối thiểu có một tác động quan trọng đối với hệ thống dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, Sau khi nền kinh tế hồi phục, tình trạng thiếu hụt lao động ngày càng trở nên nghiêm công đoàn truyền thống. rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng trọng. Một mặt, NSDLĐ phải đầu tư vào tự động hóa để giảm bớt nhu cầu về lao động5; 5 Dự tính quá trình tự động hóa đã cắt giảm 1/3 lực lượng lao động trong vòng 5 năm qua trong các ngành một địa bàn và ngành nghề. sản xuất thâm dụng lao động tại miền Nam Việt Nam (phỏng vấn NSDLĐ và HHDN, Tháng 5 – Tháng 9 mặt khác, sự liên hệ không chính thức của NSDLĐ trong trả lương dựa theo mức lương năm 2019) Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách:
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 17 Công đoàn Mặc dù TLĐLĐVN có số lượng đoàn viên lớn (hơn 10 triệu đoàn viên)6, sức mạnh trong thương lượng tập thể của TLĐLĐVN hiện vẫn đang gặp phải ba yếu tố cản trở: Thứ nhất, cơ cấu hiện tại của TLĐLĐVN được đưa ra từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung, theo đó các ngành công nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu của các doanh nghiệp vốn nhà nước. Các công đoàn ngành bao phủ tất cả hay phần lớn NLĐ trong các doanh nghiệp trực thuộc. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các doanh nghiệp ngoài nhà nước được thành lập và đăng ký với chính quyền địa phương thay vì đăng ký với các bộ ngành dọc như các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trực thuộc công đoàn địa phương thay vì các công đoàn ngành. Ba mươi năm sau Đổi mới, các Liên đoàn lao động tỉnh đã có số lượng đoàn viên cao hơn nhiều so với số đoàn viên thuộc các công đoàn ngành. Ví dụ, công đoàn ngành may mặc có khoảng 100 các công đoàn doanh nghiệp trực thuộc và 150,000 đoàn viên. Số lượng đoàn viên của công đoàn ngành may mặc trung ương thấp hơn nhiều so với tổng số lượng đoàn viên trong ngành trên 8000 doanh nghiệp và 2.5 triệu NLĐ (FPTS 2017). Cơ cấu hai nhánh này của TLĐLĐVN đã 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của khiến cho sức mạnh của công đoàn bị phân mảnh ở cấp độ ngành, và chuyển đổi các hiệp hội trọng tâm tập trung của tổ chức sang các công đoàn trực thuộc dựa theo phân giới Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp địa lý. cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá Thứ hai, sức mạnh của công đoàn trong thương lượng tập thể còn bị giảm sút do trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã 2.2. Cách tiếp cận của các đối tác xã hội về Thương lượng tập thực tế là các công đoàn trực thuộc TLĐLĐVN không có khả năng tổ chức các cuộc chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một thể đình công dù pháp luật có quy định cho phép công đoàn có quyền dẫn dắt đình công số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các này. Phạm (2017) cho rằng, do TLĐLĐVN là một tổ chức chính trị-xã hội có vai trò cầu doanh nghiệp còn lại. Xu hướng thương lượng tập thể trong ngành công nghiệp hoặc một quốc gia phụ thuộc nối giữa NLĐ và NSDLĐ lớn hơn, việc tổ chức đình công nằm ngoài các nhiệm vụ của Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và phần lớn vào cơ cấu công đoàn và tổ chức đại diện NSDLĐ, cũng như sức mạnh của công công đoàn. Kể từ năm 1995, đã có hơn 6000 cuộc đình công xảy ra; tuy nhiên trong cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. đoàn trong khi thương lượng các thỏa ước lao động tập thể (ILO 2017). Ví dụ, tại các quốc số này không có cuộc nào do các công đoàn trực thuộc TLĐLĐVN dẫn dắt hay tổ Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực gia Bắc Âu, do NSDLĐ và NLĐ đều có tổ chức đại diện của mình ở cấp quốc gia, nên việc chức. Nếu không dùng tới đình công như một loại vũ khí, các thế mạnh thương lượng hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công thương lượng một thỏa ước cấp quốc gia là hoàn toàn có thể thực hiện được. Tại Hoa Kỳ của công đoàn với NSDLĐ sẽ rất hạn chế. và Anh, xu hướng thương lượng cấp ngành đã chuyển sang thương lượng cấp doanh ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. nghiệp sau những năm 1970, do sức mạnh của công đoàn đã giảm bớt và NSDLĐ đi theo Cuối cùng, cách tiếp cận của công đoàn về thương lượng tập thể vẫn đang trong • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham một quá trình ra quyết định linh hoạt hơn. Tại Việt Nam, TLĐLĐVN có tỷ lệ doanh nghiệp giai đoạn chuyển tiếp từ cách tiếp cận pháp lý của nền kinh tế kế hoạch – theo đó gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. công đoàn không đòi hỏi gì thêm so với những gì mà luật pháp quy định, sang có công đoàn chiếm hơn 40% tổng số doanh nghiệp trong khu vực chính thức (TLĐLĐVN, • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cách tiếp cận dựa trên lợi ích – theo đó công đoàn sẽ thương lượng để đòi quyền 2017); tuy nhiên, thương lượng tập thể đều chỉ đang diễn ra ở giai đoạn sơ khai. Hơn 60% cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. số doanh nghiệp có công đoàn đã có thỏa ước cấp doanh nghiệp, nhưng chỉ có 15% trong lợi tốt hơn cho đoàn viên. Ví dụ, các cán bộ công đoàn được phỏng vấn trong nghiên • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký số các thỏa ước này được ký kết sau khi thương lượng thực chất, số còn lại là sao chép văn cứu này thường nói rằng “nếu trong luật không có quy định, thì không có cơ sở để thuyết kết tham gia thỏa ước. bản luật (Viện FES và TLĐLĐVN, 2015). Nghiên cứu này sẽ phân tích các cách tiếp cận quản phục người lao động chấp thuận”, hoặc “người sử dụng lao động đã làm đúng luật rồi, lý lao động và các đối tác xã hội tới thương lượng tập thể và cho thấy sự khác nhau căn không thể đòi hỏi thêm được nữa”. Bởi vậy, thực tế là công đoàn tham gia vào các sáng Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF bản có thể là nguyên nhân cản trở thương lượng tập thể thực chất. kiến thương lượng nhóm doanh nghiệp giúp cải thiện và nâng cao lợi ích của người lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp lao động tốt hơn các tiêu chuẩn tối thiểu có một tác động quan trọng đối với hệ thống dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, công đoàn truyền thống. rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. 6 TLĐLĐVN (2018), Báo cáo thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW – Lưu hành nội bộ Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách:
- 18 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Người sử dụng lao động NSDLĐ chưa thực sự được đại diện một cách tập trung và đồng đều. Một mặt, các hiệp hội doanh nghiệp bao phủ một số lượng nhỏ các doanh nghiệp địa phương có quy mô lớn hơn, mặt khác các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ lại nằm ngoài những tổ chức này. Ví dụ, Hiệp hội Chế biến gỗ tỉnh Bình Dương có hơn 300 doanh nghiệp chế biến gỗ địa phương, và chỉ chiếm 1/3 tổng số các doanh nghiệp gỗ trong tỉnh. Các doanh nghiệp FDI là thành viên của các hiệp hội doanh nghiệp của nước mình như Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản (JBA), Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc, hay Phòng Thương mại Châu Âu và các hiệp hội khác. Trong khi đó, các hiệp hội doanh nghiệp, VCCI đều thu hẹp dần sự hiện diện của mình tại cấp tỉnh và cấp ngành. Cơ cấu của tổ chức đại diện NSDLĐ do vậy không phù hợp và được ủng hộ để thực hiện thương lượng tập thể cấp ngành hoặc cấp vùng. NSDLĐ không phải đối mặt nhiều với các áp lực phải tham gia vào thương lượng tập thể. Ở cấp doanh nghiệp, các công đoàn doanh nghiệp rất hiếm khi thách thức giới chủ để khởi động quá trình thương lượng tập thể thực chất. Trước thời điểm năm 2013, thương lượng tập thể thực chất có thể diễn ra như một hệ quả áp lực từ các cuộc đình công, nhưng khi mối đe dọa từ đình công giảm sút, NSDLĐ có xu hướng đưa ra các quyết định 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của dựa theo tình hình thị trường. Ở cấp độ ngành và cấp vùng, NSDLĐ thường lưỡng lự khi các hiệp hội tham gia vào thương lượng tập thể. Một trong những lý do chính là sự dao động của thị Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp trường mà NSDLĐ thường phải đối mặt, điều này khiến cho NSDLĐ rất khó có thể tham cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá gia vào một thỏa ước lao động tập thể có thời hạn kéo dài. Thứ hai, sự thiếu vắng một tổ trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chức hiệp hội có sức mạnh và tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã khiến cho NSDLĐ chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một không thực sự sẵn lòng tham gia các TƯ NDN. Thứ ba – và có lẽ là lí do quan trọng nhất, số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các NSDLĐ chưa thực sự thấy rõ được các lợi ích của việc tham gia vào TƯ NDN. doanh nghiệp còn lại. Các cuộc phỏng vấn mà nhóm nghiên cứu thực hiện với các hiệp hội doanh nghiệp và Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và NSDLĐ cho thấy rằng thương lượng nhóm doanh nghiệp có thể mang lại những lợi ích cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. tiềm năng cho NSDLĐ. Đầu tiên, các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như may Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực mặc, chế biến gỗ hay du lịch cũng đang đối mặt với sự thiếu hụt lao động ngày càng cao hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công trong tất cả các phân khúc kỹ năng. Cạnh tranh về lương và cạnh tranh lao động ngày ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. càng trở nên gay gắt. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham Trong bối cảnh này, một thỏa ước bao phủ Lãnh đạo một hiệp hội doanh nghiệp gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. hẳn một khu vực hoặc ít nhất là các nhóm cho biết: “Thiếu hụt lao động ngày doanh nghiệp cùng ngành công nghiệp càng trở nên trầm trọng. Tôi mới nhận • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối trong một khu vực sẽ giúp ổn định lực được tin nhắn từ công ty thành viên báo cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. lượng lao động. Viễn cảnh này có thể dần là cả một nhóm thợ hàn đã bỏ sang • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký dần thu hút sự chú ý của NSDLĐ, đặc biệt công ty khác họ trả lương cao hơn. kết tham gia thỏa ước. là NSDLĐ trong các doanh nghiệp nhỏ và Chuyện này xảy ra thường xuyên lắm”. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF siêu nhỏ, tới việc tham gia vào thỏa ước Quản lý một khách sạn được phỏng lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp nhóm doanh nghiệp. Do vậy, các lợi ích vấn cũng phàn nàn: “Du lịch phát triển dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, tiềm năng của các thí điểm thương lượng nhanh quá nên tỷ lệ lao động nhảy việc rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng tập thể cần phải được chứng minh cho rất cao. Chỗ nào cũng diễn ra lôi kéo một địa bàn và ngành nghề. NSDLĐ để có thể mở rộng độ bao phủ của lao động. Nhân viên họ thay đổi theo các thỏa ước nhóm doanh nghiệp. tuần chứ không phải theo tháng nữa”. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách:
- Chương 3: Các Thỏa ước Lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp tại Hải Phòng, Bình Dương và Đà Nẵng 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách:
- 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng 20 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội doanh nghiệp địa phương. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách: (i) Cán bộ công đoàn cấp trên tới từng doanh nghiệp, phối hợp với công đoàn cấp doanh nghiệp, thực hiện khảo sát tiền lương và điều kiện làm việc; đồng thời kết hợp lấy ý kiến người lao động về các vấn đề họ mong muốn đưa ra trong quá trình thương lượng; hoặc (ii) Công đoàn cấp trên yêu cầu công đoàn doanh nghiệp nộp các báo cáo về tiền lương và điều kiện làm việc. Trong trường hợp này, công đoàn doanh nghiệp có thể tự thực hiện các khảo sát, hoặc sử dụng các số liệu sẵn có để xây dựng báo cáo cho công đoàn cấp trên. Trong quá trình này, công đoàn doanh nghiệp cũng có thể xác định các vấn đề mà NLĐ quan tâm lớn nhất để đưa vào thỏa ước. Khảo sát do công đoàn cấp trên thực hiện có chất lượng thông tin tốt hơn và có cơ hội lấy ý kiến người lao động hiệu quả hơn so với việc công đoàn cơ sở nộp báo cáo cho công đoàn cấp trên. Khi càng nhiều người lao động được tham gia vào quá trình thương lượng, họ sẽ càng ủng hộ những cán bộ thương lượng nhiều hơn.
- 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng Hướng tới cách tiếp cận bền vững 21 mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm Bước 2: Xây dựng đề xuất thương lượng lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. Sau khi khảo sát và tập hợp các yêu cầu của NLĐ, công đoàn bắt đầu lựa chọn các điều Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối khoản chính để đưa vào thỏa ước đề xuất. Đây được coi là một quyết định chiến lược cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). của công đoàn, giúp xác định toàn bộ quá trình thương lượng về sau. Tác giả nghiên cứu Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội thấy rằng trong các Thỏa ước NDN thí điểm, có hai cách tiếp cận chính khi quyết định các doanh nghiệp địa phương. điều khoản trong dự thảo TƯ NDN: • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Ảnh 1 Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia Cách tiếp cận của công đoàn với đề xuất TƯ NDN vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh Tiếp cận cao nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công Tiếp cận thấp đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Bước 1: Chuẩn bị (i) Cách tiếp cận thấp7: (ii) Cách tiếp cận cao Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công Trong cách tiếp cận thứ nhất, ở đây gọi Trong cách tiếp cận “cao”, các đề xuất đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với là tiếp cận “thấp”, công đoàn cấp trên có của công đoàn đều hướng đến nhóm doanh nghiệp. thể xác định các điều khoản đề xuất gần mục tiêu tầm trung cho các doanh với mức thấp nhất hiện đang được đa số Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách: nghiệp được chọn. Ví dụ, tại Khu công các doanh nghiệp áp dụng, hoặc nếu nghiệp Tràng Duệ, lợi ích nghỉ hai ngày không, gần với mức thấp nhất của các thứ bảy trên thực tế đã được các doanh nghiệp lớn áp dụng trước khi 7 Thuật ngữ “cách tiếp cận thấp” và “”cách tiếp cận cao” đã được sử dụng thường xuyên Thỏa ước ở Tràng Duệ được ký kết. trong cách nghiên cứu nhân học, đặc biệt là Công đoàn Khu Kinh tế Hải Phòng nghiên cứu về QHLĐ và phát triển nhân sự. quyết định lồng ghép điều khoản này Cách tiếp cận cao thường nói đến các chiến lược theo đó các yếu tố bền vững, chia sẻ vào trong thỏa ước đề xuất. Sau các thịnh vượng và hiệu suất được coi là các phiên đàm phán căng thẳng với thành tố cần thiết; trong khi cách tiếp cận NSDLĐ Hàn Quốc, công đoàn thỏa thấp thường ám chỉ các chiến lược đòi hỏi sự đánh đổi giữa các lợi ích ngắn hạn của một thuận điều khoản này sẽ không phải là bên hay những mất mát cho một bên khác. điều khoản bắt buộc đối với tất cả các Tham khảo thêm tại: doanh nghiệp tham gia nhưng đã data/documents/1776.pdf. Ở đây, thuật ngữ “tiếp cận thấp” được sử dụng để nhấn mạnh thuyết phục thành công NSDLĐ đồng ý thực tế là các lợi ích cho người lao động trả ít nhất 150% lương cơ bản cho 2 không thực sự được cải thiện khi mong muốn ngày Thứ 7 trong tháng (trong trường có được một TƯLĐTT NDN được ký kết nhanh và có nhiều doanh nghiệp tham gia. hợp NLĐ làm việc trọn các ngày thứ 7
- 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng 22 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp mục tiêu. Ví dụ, nếu trong tháng. Bữa ăn ca cũng là một lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. lương cơ bản được các doanh nghiệp “điểm nút căng thẳng” trong quá trình Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối hiện đang trả cao hơn ít nhất 3% so với thương lượng, đặc biệt là trong các cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). lương tối thiểu, công đoàn sẽ lấy mức ngành thâm dụng lao động cao. Tại đề xuất sàn là mức {lương tối thiểu + Tràng Duệ, mức trợ cấp bữa ăn ca là Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội 3%} trong thỏa ước. 19.000 đồng/người/ngày; tuy nhiên doanh nghiệp địa phương. Theo những cán bộ công đoàn tham gia công đoàn vẫn đề xuất cao hơn ở mức • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham phỏng vấn, cách tiếp cận “thấp” như vậy 21.000/người/ngày và cuối cùng gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải được lựa chọn vì hai lí do sau: NSDLĐ cũng đồng ý. Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. Thứ nhất, công đoàn trong các thí điểm Cách tiếp cận cao có khả năng cải thiện không có nhiều thời gian thương lượng vì lợi ích cho NLĐ, đặc biệt là NLĐ trong • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh họ bị ràng buộc theo khung thời gian và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh mục tiêu của dự án. Bởi vậy, nếu mức đề nhiên cách tiếp cận này cũng mang lại nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. xuất đưa ra quá cao, quá trình thương nhiều thách thức và nguy cơ đối với lượng sẽ kéo dài hơn so với thời gian dự công đoàn trong việc đảm bảo TƯ 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn kiến. Thứ hai, các công đoàn mong muốn NDN được ký kết thành công. Trong sử dụng thuyết phục được càng nhiều người sử giai đoạn 2015-2016, công đoàn khu Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công dụng lao động càng tốt, theo đó bao gồm công nghiệp Đồng Nai đã áp dụng đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. cả các doanh nghiệp hiện đang trả mức cách tiếp cận cao và sau đó không thể lương cao và các doanh nghiệp trả lương đi đến được thỏa ước với nhóm NSDLĐ Bước 1: Chuẩn bị ở mức thấp hơn (các doanh nghiệp vừa và Nhật Bản sau một quá trình thương Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu nhỏ). Do các TƯLĐTT NDN được xây dựng lượng kéo dài và đầy khó khăn. thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công dựa trên cách tiếp cận “thấp” thường chỉ Vì những lí do đó, việc lựa chọn cách đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với khiến cho doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra tiếp cận thấp hay tiếp cận cao trong ký doanh nghiệp. một khoản tài chính không đáng kể, kết TƯ NDN vẫn còn là điều gây tranh NSDLĐ có xu hướng sẵn sàng tham gia Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách: cãi đối với các cán bộ công đoàn ở các vào các thỏa ước hơn. Tuy nhiên, những cấp. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm lợi ích đạt được cho NLĐ được đưa ra rằng, mục tiêu cuối cùng của thương trong thỏa ước lại không thật sự đáng kể lượng tập thể dù là ở cấp nào cũng là và được cải thiện nhiều. Ví dụ, khi thực nhằm cải thiện quyền và lợi ích của hiện phỏng vấn với LĐLĐ tỉnh Bình đoàn viên công đoàn. Do đó, một thỏa Dương, các cán bộ công đoàn bày tỏ rằng ước lao động tập thể nếu chỉ mang lại họ vẫn chưa thực sự hài lòng do những lợi những lợi ích rất nhỏ - nếu không nói ích đạt được trong thỏa ước ký kết giữa 16 là không cải thiện lợi ích gì cho NLĐ doanh nghiệp chế biến gỗ vẫn còn khiêm được bao phủ bởi thỏa ước, sẽ không tốn. NLĐ trong các doanh nghiệp tham mang ý nghĩa thực chất của thương gia vào thỏa ước ngành du lịch tại Đà lượng, và về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới Nẵng cũng thừa nhận rằng thỏa ước hiện tính chính đáng trong hoạt động của nay không mang lại điều khoản nào có lợi công đoàn (cấp trên). Cũng cần chú ý hơn những lợi ích họ đang nhận được. thêm rằng việc lựa chọn cách tiếp cận Những tác động nhỏ từ các TƯ NDN được cao hay tiếp cận thấp chủ yếu do xây dựng theo cách tiếp cận thấp cũng những cán bộ công đoàn cấp trên
- 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng Hướng tới cách tiếp cận bền vững 23 mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm được phản ánh ở sự thay đổi nhỏ trong tham gia thương lượng quyết định, lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. ngân sách của các doanh nghiệp. Theo mà không tham khảo ý kiến của các đoàn viên. Tuy nhiên, để áp dụng cách Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối khảo sát định lượng mà nhóm nghiên tiếp cận cao, việc công đoàn tăng cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). cứu đã thực hiện, 38.7% các doanh nghiệp tham gia không có sự thay đổi cường sức mạnh thương lượng của Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội trong ngân sách sau khi tham gia thỏa mình là vô cùng quan trọng. Trong doanh nghiệp địa phương. ước và 58% có ngân sách chỉ thay đổi rất ít phần sau, nghiên cứu sẽ đưa ra gợi ý • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham và điều này nằm trong dự tính ngân sách về 6 biện pháp cải thiện sức mạnh gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải họ có sẵn. thương lượng. Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh Bước 3: Thương lượng từng doanh nghiệp và quá trình thuyết phục Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh Bảng 3 nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. Các chiến lược công đoàn áp dụng trong thương lượng với từng doanh nghiệp đơn lẻ 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn sử dụng Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Biện pháp khuyến khích DN Bước 1: Chuẩn bị Thỏa ước nhóm Ngoại lệ cho Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu giải quyết khó các DN thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công khăn về QLLĐ khó khăn đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Chiến thuật Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách: của Công đoàn Ảnh hưởng Đe dọa cá nhân của đình công cán bộ CĐ Áp lực chính trị Không giống với quá trình thương lượng TƯ NDN của VINATEX, Tập đoàn Cao su, ngành may tại Bình Dương và Hà Nội trong đó các doanh nghiệp tham gia do các doanh nghiệp nhà nước sở hữu đại diện trong quá trình thương lượng, ở các thí điểm khác, công đoàn cần tiếp cận NSDLĐ một cách tách biệt hơn. Bằng cách làm như vậy, công đoàn cấp trên cố gắng thuyết phục mỗi công ty tham gia vào thỏa ước và thảo luận về các bản dự thảo thỏa ước trong cùng một thời điểm. Do đó, bước này trở thành vược quan trọng nhất và
- 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng 24 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm cũng là bước khó nhất đối với các cán bộ công đoàn tham gia thương lượng. Các công lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. đoàn cấp trên sử dụng các chiến lược sau nhằm thuyết phục và thương lượng với NSDLĐ: Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). Giải thích các thách thức về lao động mà các doanh nghiệp trong nước đang gặp phải (như tỷ lệ lao động nhảy việc cao, thiếu hụt lao động, giành giật lao động, v.v.) và giới thiệu về Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội TƯ NDN như một phương án giải quyết. Tại Hải Phòng, Bình Dương và Đà Nẵng, NSDLĐ doanh nghiệp địa phương. đều gặp phải tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng và tranh giành lao động. Do đó, • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham việc tạo ra một sân chơi bình đẳng nhằm cải thiện và ổn định tình hình lao động được gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải công đoàn giới thiệu như một cách đảm bảo lợi ích dài hạn của TƯ NDN; Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia vào thỏa ước. Đưa ra các mức thưởng khuyến khích cho các doanh nghiệp có thể tham gia thỏa ước (ví dụ: • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh các doanh nghiệp có thể nhận được điểm tín nhiệm cao hơn khi xếp hạng các giải thưởng Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh doanh nghiệp tốt nhất ở cấp địa phương) nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. Đảm bảo lợi ích cụ thể của từng NSDLĐ (ví dụ, một số NSDLĐ muốn được miễn trừ không 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn thực hiện một số điều khoản, các cán bộ công đoàn tham gia thương lượng có thể đưa sử dụng ra một số trường hợp ngoại lệ miễn trừ trong thỏa ước) Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. Sử dụng ảnh hưởng cá nhân của cán bộ công đoàn nhằm thuyết phục NSDLĐ: các cán bộ công đoàn cấp trên có kinh nghiệm đã xây dựng những liên hệ chặt chẽ với các doanh Bước 1: Chuẩn bị nghiệp trong thời gian qua (như trong trường hợp của Đà Nẵng, Bình Dương, Hải Phòng Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu và Quảng Ninh). Mối quan hệ hợp tác giữa các cán bộ công đoàn cấp trên và các doanh thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công nghiệp là một yếu tố quan trọng trong quá trình vận động NSDLĐ. đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với doanh nghiệp. Khi cần, phải dùng tới áp lực chính trị: trong một số trường hợp, công đoàn tham gia cùng Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách: với chính quyền địa phương để gây áp lực để NSDLĐ tham gia thỏa ước. Trong khi thực hiện khảo sát định lượng ở các doanh nghiệp tham gia, áp lực chính trị là lí do khiến 19.4% số NSDLĐ tham gia TƯ NDN. Sử dụng quyền đe dọa đình công: các công đoàn Việt Nam chưa bao giờ sử dụng quyền đình công hoặc đe dọa đình công đối với NSDLĐ. Mặc dù đã có truyền thống hợp tác cùng làm việc, những dẫn chứng từ các thí điểm TƯ NDN cho thấy việc sử dụng quyền đình công, hay ít nhất là đe dọa đình công có thể được khai thác trong quá trình thương lượng tập thể. Cụ thể, một công đoàn cấp trên đã sử dụng không chính thức quyền đe dọa đình công khi một doanh nghiệp (nước ngoài) rút tên khỏi quá trình thương lượng. Những chiến lược này đã kéo NSDLĐ trở lại bàn đàm phán thành công. Các chiến lược thương lượng của cán bộ công đoàn thường tập trung vào thuyết phục và đảm bảo quyền lợi của NSDLĐ hơn là sử dụng tới các biện pháp đối đầu. Trong các cuộc phỏng vấn sâu, việc các cán bộ công đoàn thường khá lưỡng lự trong việc sử dụng các chiến thuật quyết đoán hơn khi thương lượng thường bắt nguồn từ một số lý do. Thứ nhất, chiến thuật quyết đoán có thể sẽ đẩy NSDLĐ ra xa khỏi quá trình TLTT NDN. Thứ hai, các cán bộ công đoàn tham gia thương lượng không muốn làm hỏng mối quan hệ giữa mình và NSDLĐ.
- 3.1. Lựa chọn nhóm các doanh nghiệp tham gia – vai trò của các hiệp hội Trong giai đoạn đầu của thí điểm thỏa ước nhóm doanh nghiệp (2015-2016), cách tiếp cận của phía công đoàn là thực hiện khảo sát các doanh nghiệp trước khi bắt đầu quá trình thương lượng. Ở giai đoạn này, công đoàn thương lượng với từng doanh nghiệp đã chọn. Không có hiệp hội hay cơ chế nào điều phối nhóm NSDLĐ tham gia. Cuối cùng, một số doanh nghiệp quyết định không tham gia nên thỏa ước sẽ chỉ được ký kết giữa các doanh nghiệp còn lại. Ví dụ, Nhóm thí điểm tại Quận 12 – TP. HCM đã khảo sát 10 doanh nghiệp may mặc và cuối cùng chỉ có 4 doanh nghiệp ký kết thỏa ước nhóm doanh nghiệp. Cách tiếp cận “giảm dần” này tiếp tục được sử dụng trong giai đoạn hai (2018-2019) thực hiện thỏa ước trong ngành du lịch của Đà Nẵng. LĐLĐ Đà Nẵng đã lên danh sách 20 công ty trước khi bắt đầu quá trình thuyết phục. • Cuối cùng có 10 doanh nghiệp tham gia thỏa ước, trong đó có 4 doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa ước ở giai đoạn đầu. • LĐLĐ Hạ Long cũng khởi động quá trình thương lượng với 42 doanh nghiệp nhưng cuối cùng chỉ ký kết được thỏa ước với 20 doanh nghiệp. • LĐLĐ Huyện Văn Lâm, Hưng Yên làm việc với 7 doanh nghiệp may, và 5 trong số này ký kết tham gia thỏa ước. Giai đoạn thứ hai của thí điểm thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp của Dự án NIRF lại áp dụng cách tiếp cận “mở rộng” từ khâu lựa chọn các nhóm doanh nghiệp. Khi áp dụng cách tiếp cận mới này, các công đoàn thương lượng với các nhóm NSDLĐ nòng cốt, rồi dần dần mở rộng ra nhóm lớn hơn có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một địa bàn và ngành nghề. Ví dụ, Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng bắt đầu thương lượng với nhóm 5 doanhnghiệp đã tham gia vào thỏa ước nhóm doanh nghiệp năm 2016. Sau đó quá trình thương lượng Hướng tới cách tiếp cận bền vững 25 mở rộng ra 13 doanh nghiệp và cuối cùng 19 doanh nghiệp đồng ý ký kết thỏa ước nhóm Một cán bộ công đoàn tham gia thương lượng nhấn mạnh rằng, phương châm của công lần 2 tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ. đoàn Việt Nam là “công đoàn đứng cùng phía với NSDLĐ”. Cuối cùng nhưng cũng không Tương tự, TƯ NDN tại Bình Dương bắt đầu có 5 doanh nghiệp chế biến gỗ tham gia, cuối kém phần quan trọng, bên cạnh việc thuyết phục và đáp ứng, hầu hết các cán bộ công cùng có 16 doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Gỗ Bình Dương (BIFA). đoàn cấp trên đều không có sự hỗ trợ nền tảng mạnh mẽ từ cơ sở, đặc biệt là từ các cán bộ cơ sở và đoàn viên công đoàn. Khi NLĐ không tham gia sát sao vào quá trình thương Quá trình mở rộng của các doanh nghiệp được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của hiệp hội lượng, các cán bộ công đoàn tham gia thương lượng sẽ mất đi đáng kể sức mạnh thương doanh nghiệp địa phương. lượng để có thể sử dụng tới bất kỳ hành động quyết đoán nào. • Tại Hải Phòng, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Khu Công nghiệp Tràng Duệ tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình thương lượng với Công đoàn Khu Công nghiệp Hải Bước 4: Thương lượng nhóm doanh nghiệp Phòng, và sau đó gây ảnh hưởng khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia Trong hầu hết các thí điểm, phần lớn các thỏa thuận diễn ra trong quá trình thương vào thỏa ước. lượng với từng bên NSDLĐ, còn phiên thương lượng nhóm doanh nghiệp nếu có diễn • Trong khi đó, tại Bình Dương, BIFA tham gia vào quá trình thương lượng với LĐLĐ tỉnh ra chủ yếu được coi là một phiên đồng thuận chính thức về nội dung thỏa ước. Tuy Bình Dương vào hai tháng cuối cùng, và nhờ đó một số lượng lớn hơn các doanh nhiên cũng có một vài ngoại lệ, ví dụ: trong trường hợp của Bình Dương, quá trình nghiệp chế biến gỗ đã được thuyết phục tham gia ký kết thỏa ước. thương lượng thực sự chỉ bắt đầu khi BIFA đại diện cho các thành viên của mình thương lượng với LĐLĐ Bình Dương, xảy ra khoảng hai tháng trước khi ký kết thỏa ước. LĐLĐ Đà Nẵng cũng thảo luận với hiệp hội du lịch địa phương song song với quá trình thương 3.2. Quá trình thương lượng và chiến lược được công đoàn lượng với từng doanh nghiệp. Và công đoàn KCN Hải Phòng cũng bắt đầu thương lượng sử dụng với người đứng đầu Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại KCN Tràng Duệ chỉ trong Về cơ bản, tất cả các thí điểm TƯ NDN đều đi theo một quá trình 5 bước, mặc dù mỗi công khoảng một tuần trước khi ký kết thỏa ước. Tuy nhiên, thương lượng với người đứng đầu đoàn có thể có những chiến thuật riêng trong từng bước. hiệp hội cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định những điều khoản chính và Bước 1: Chuẩn bị phạm vi bao phủ của thỏa ước. Ở bước đầu tiên, công đoàn thực hiện khảo sát các doanh nghiệp mục tiêu và thu Bước 5: Ký kết thỏa ước và mở rộng thỏa ước thập những yêu cầu của người lao động. Dựa trên các phần công việc chuẩn bị, công Khi công đoàn cấp trên kết thúc quá trình thương lượng với hiệp hội doanh đoàn sẽ xây dựng dự thảo thỏa ước và dùng dự thảo này khi bắt đầu thương lượng với nghiệp/NSDLĐ, thỏa ước được chia sẻ với các công đoàn tại doanh nghiệp và NLĐ để doanh nghiệp. lấy ý kiến đồng thuận. Theo khảo sát các công đoàn tại doanh nghiệp, cách lấy ý kiến NLĐ Công đoàn thực hiện khảo sát theo hai cách: phổ biến nhất là lấy ý kiến thông qua tổ trưởng tổ công đoàn (Hình 4). Tổ trưởng sẽ phát các bản photo thỏa ước để NLĐ đọc và cho ý kiến, và ký tên nếu đồng ý. Tuy nhiên, có một số trường hợp trong đó NLĐ không được tham vấn trước khi ký kết thỏa ước chính thức, đặc biệt là thời điểm kết thúc thương lượng và quá trình ký kết diễn ra quá ngắn. Hình 4 CĐCS tham vấn ý kiến NLĐ về TƯ NDN Đơn vị tính: % Các cuộc họp 31.0 Thông qua tổ trưởng tổ công đoàn 79.3 Bảng tin của công đoàn 41.4
- 26 Thỏa ước lao động tập thể Nhóm Doanh nghiệp Việc ký kết TƯ NDN đã thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp khác cùng ngành muốn tham gia. Ví dụ, Đà Nẵng đang có kế hoạch mở rộng thỏa ước ngành du lịch tới hơn 20 doanh nghiệp. Tại Quảng Ninh, có thêm 8 doanh nghiệp tham gia vào thỏa ước NDN trong ngành du lịch, nâng tổng số NSDLĐ tham gia lên 28 doanh nghiệp. Công đoàn KCN Hải Phòng cũng nhận được sự quan tâm từ các doanh nghiệp trong KCN Tràng Duệ mong muốn tham gia thỏa ước. 3.5. Tác động của TƯ NDN Phần này sẽ trình bày các kết quả khảo sát định lượng đối với NSDLĐ và công đoàn tham gia vào các TƯ NDN tại Hải Phòng, Đà Nẵng và Bình Dương. Kết quả khảo sát cần được rà soát kỹ lưỡng do vẫn bộc lộ một số thiếu sót. Thứ nhất, đánh giá tác động của TƯ NDN chủ yếu được đưa ra dựa trên những nhận định chủ quan của NSDLĐ và cán bộ công đoàn, do không có doanh nghiệp tham gia nào thực hiện đo lường các tác động này một cách khoa học. Thứ hai, việc công đoàn dẫn dắt thực hiện khảo sát này lại do các cấp quản lý doanh nghiệp chỉ đạo: 82.7% số chủ tịch công đoàn của các doanh nghiệp tham gia thỏa ước đều là quản lý bộ phận hoặc quản lý cấp cao hơn (ví dụ, phó tổng giám đốc) - và 68% số thành viên ban chấp hành công đoàn đều là quản lý hoặc cán bộ văn phòng. Thứ ba, nhà nghiên cứu không có cơ hội phỏng vấn NLĐ trong diện bao phủ của TƯ NDN (trừ một số trường hợp ngoại lệ tại Đà Nẵng). Bởi vậy, trong phần này, các kết quả khảo sát định lượng được đưa ra cần được kiểm tra chéo với nội dung phỏng vấn sâu với NSDLĐ, cán bộ công đoàn và đại diện các hiệp hội. Tác động của TƯ NDN tới người lao động Khảo sát cho thấy rằng, nhìn chung các CĐCS đều có đánh giá tích cực về tác động của TƯ NDN tới điều kiện làm việc và quan hệ lao động (Hình 6 và Hình 7). Hơn một nửa các cán bộ công đoàn trả lời phỏng vấn nhận thấy TƯ NĐN mang lại những cải thiện đáng kể tới lương và điều kiện làm việc của NLĐ. Cũng cần chú ý rằng một nửa số công đoàn có đánh giá tích cực này đều nằm trong nhóm tham gia vào TƯ NDN tại KCN Tràng Duệ. Gần 40% số công đoàn tham gia trả lời phỏng vấn – với một nửa số này là các công đoàn trong thỏa ước NDN ngành gỗ tại Bình Dương, nhận thấy rằng TƯ NDN mang lại những cải thiện rất nhỏ. Cụ thể, 10.3% số công đoàn cho rằng TƯ NDN không mang lại cải thiện gì. Những doanh nghiệp này về cơ bản đã trả lương cho NLĐ cao hơn mức thương lượng trong TƯ NDN.
- Hướng tới cách tiếp cận bền vững 27 3.3. Các vấn đề thương lượng Trợ cấp không trả bằng tiền mặt Nhóm vấn đề này tập trung vào các điều khoản về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi Nhóm nghiên cứu chia các vấn đề thương lượng trong TƯ NDN thành 4 nhóm: (i) lương cũng như các điều kiện hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp. Ví dụ, thỏa ước tại KCN và các khoản phụ cấp lương; (ii) thưởng và các trợ cấp trả bằng tiền mặt; (iii) các trợ cấp Tràng Duệ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia có ít nhất 1 tuần làm việc 40 giờ trong khác không trả bằng tiền mặt; và (iv) các vấn đề của NSDLĐ. một tháng, hay dành từ 1 tới 3 ngày cho NLĐ nghỉ hè. Thỏa ước trong ngành gỗ tại Bình Lương và các khoản phụ cấp lương Dương cũng khuyến khích doanh nghiệp dành ra 1 tiếng mỗi quý để cán bộ công đoàn tại doanh nghiệp tổ chức gặp mặt NLĐ. Cả hai thỏa ước tại Hạ Long và KCN Tràng Duệ đều Đây là nhóm các vấn đề thương lượng quan trọng nhất trong bất kỳ TƯLĐTT nào. Nhóm đưa ra thời hạn mà ban giám đốc phải trả lời các yêu cầu và khiếu nại của công đoàn. này bao gồm lương cơ bản và các khoản ngoài lương, như phụ cấp chuyên cần và thâm niên cũng cần được tính cộng vào khi đóng bảo hiểm xã hội. Thương lượng về nhóm vấn Các vấn đề của NSDLĐ đề này có thể là phạm vi khó nhất đối với cả NSDLĐ và công đoàn. Đối với NSDLĐ, do mức Thương lượng là một quá trình vừa cho đi vừa nhận lại, trong đó NSDLĐ cam kết mang đóng bảo hiểm xã hội cao, NSDLĐ thường không sẵn sàng thương lượng hay cam kết lại những điều kiện thuận lợi cho NLĐ và công đoàn, nhưng đồng thời cũng mong muốn tăng lương và phụ cấp ngoài lương. Một NSDLĐ cho biết: “Tôi sẵn sàng tăng lương cho NLĐ đạt được những lợi ích nhất đinh. Nếu không thấy được những lợi ích rõ rệt, NSDLĐ khó nhưng vấn đề là mức đóng BHXH rất cao. Thà tôi để tiền đó tăng phúc lợi cho NLĐ còn hơn để có thể sẵn sàng tham gia thỏa ước và đồng ý mang lại những điều kiện thuận lợi cho NLĐ. đóng BHXH” (Phỏng vấn tháng 8 năm 2019). Tuy nhiên, phần lớn các TƯ NDN đều không có nhiều điều khoản giải quyết thực chất Để thương lượng lương được với NSDLĐ, được các vấn đề của NSDLĐ. Các cuộc phỏng vấn NSDLĐ cho thấy NSDLĐ mong muốn công đoàn cần có những lý lẽ thuyết Chủ tịch một LĐLĐ cấp huyện khi đưa những vấn đề sau vào thỏa ước: phục và có căn cứ vững chắc. Tuy nhiên, được hỏi cho biết “Chúng tôi muốn • Các doanh nghiệp tham gia sẽ cam kết tránh dùng tới những hình thức tranh giành công đoàn hiện đang thiếu những hướng thương lượng lương nhưng không có lao động của nhau; dẫn tiền lương có thông tin đáng tin cậy, nguồn thông tin tham khảo đáng tin cũng như thông tin về chi phí sinh sống cậy về mức tiền lương trung bình • Nếu các doanh nghiệp tham gia chưa có thỏa ước cấp doanh nghiệp, có thể dùng theo địa phương làm nền tảng khi hoặc mức sống trung bình trong TƯNDN để thay thế; huyện để đặt mức nền khi thương thương lượng về lương. • Công đoàn sẽ không tổ chức đình công trong thời gian TƯ NDN có hiệu lực nếu lượng với chủ sử dụng lao động. NSDLĐ tuân thủ đúng các điều khoản trong thỏa ước. Do vậy, một số công đoàn quyết định rời Không có căn cứ thì không thể nào khỏi nhóm tham gia thỏa ước hoặc chỉ cố thuyết phục họ chấp thuận đề xuất duy trì mức lương cam kết cao hơn lương của mình được”. tối thiểu không đáng kể. Nhìn chung, 3.5. Tác động của TƯ NDN trong số các TƯ NDN, NSDLĐ đều cam kết trả cao hơn mức lương tối thiểu theo luật định Phần này sẽ trình bày các kết quả khảo sát định lượng đối với NSDLĐ và công đoàn tham từ 2% tới 5% - cũng là mức mà trên thực tế họ đã trả từ trước khi tham gia thỏa ước. gia vào các TƯ NDN tại Hải Phòng, Đà Nẵng và Bình Dương. Kết quả khảo sát cần được rà soát kỹ lưỡng do vẫn bộc lộ một số thiếu sót. Thưởng và trợ cấp tiền mặt Thứ nhất, đánh giá tác động của TƯ NDN chủ yếu được đưa ra dựa trên những nhận Các khoản này bao gồm tiền ăn ca, thưởng Tết, thưởng doanh số, trợ cấp phúc lợi, trợ cấp định chủ quan của NSDLĐ và cán bộ công đoàn, do không có doanh nghiệp tham gia nào đi lại, v.v dựa trên kết quả công việc của NLĐ và những nhu cầu cụ thể khác, và không thực hiện đo lường các tác động này một cách khoa học. bị tính vào phần đóng BHXH. NSDLĐ nói chung sẵn sàng trả các khoản tiền trong nhóm Thứ hai, việc công đoàn dẫn dắt thực hiện khảo sát này lại do các cấp quản lý doanh này hơn, đặc biệt là trả các trợ cấp có liên quan tới kết quả công việc của NLĐ. Một số nghiệp chỉ đạo: 82.7% số chủ tịch công đoàn của các doanh nghiệp tham gia thỏa ước khoản trợ cấp đáng kể trong nhóm các vấn đề này gồm có: trợ cấp hàng tháng cho phụ đều là quản lý bộ phận hoặc quản lý cấp cao hơn (ví dụ, phó tổng giám đốc) - và 68% số nữ khi tới kỳ kinh nguyệt 50.000 VND/tháng (Văn Lâm), trợ cấp đi lại (Tràng Duệ và Hạ thành viên ban chấp hành công đoàn đều là quản lý hoặc cán bộ văn phòng. Long), bữa ăn ca từ 17.000đ tới 21.000đ/người/ngày, hay trợ cấp cho NLĐ khó khăn và quà tặng vào những dịp đặc biệt (tất cả các thỏa ước đều có điều khoản này). Thứ ba, nhà nghiên cứu không có cơ hội phỏng vấn NLĐ trong diện bao phủ của TƯ NDN (trừ một số trường hợp ngoại lệ tại Đà Nẵng). Bởi vậy, trong phần này, các kết quả khảo sát định lượng được đưa ra cần được kiểm tra chéo với nội dung phỏng vấn sâu với NSDLĐ, cán bộ công đoàn và đại diện các hiệp hội. Tác động của TƯ NDN tới người lao động Khảo sát cho thấy rằng, nhìn chung các CĐCS đều có đánh giá tích cực về tác động của TƯ NDN tới điều kiện làm việc và quan hệ lao động (Hình 6 và Hình 7). Hơn một nửa các cán bộ công đoàn trả lời phỏng vấn nhận thấy TƯ NĐN mang lại những cải thiện đáng kể tới lương và điều kiện làm việc của NLĐ. Cũng cần chú ý rằng một nửa số công đoàn có đánh giá tích cực này đều nằm trong nhóm tham gia vào TƯ NDN tại KCN Tràng Duệ. Gần 40% số công đoàn tham gia trả lời phỏng vấn – với một nửa số này là các công đoàn trong thỏa ước NDN ngành gỗ tại Bình Dương, nhận thấy rằng TƯ NDN mang lại những cải thiện rất nhỏ. Cụ thể, 10.3% số công đoàn cho rằng TƯ NDN không mang lại cải thiện gì. Những doanh nghiệp này về cơ bản đã trả lương cho NLĐ cao hơn mức thương lượng trong TƯ NDN.