Nghiên cứu ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội

pdf 19 trang Gia Huy 18/05/2022 1600
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_y_dinh_khoi_nghiep_xa_hoi_cua_sinh_vien_khoi_ngan.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội

  1. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 NGHIÊN CỨU Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI RESEARCHING ON ECONOMIC STUDENT’S SOCIAL ENTREPRENEURSHIP INTENTIONS IN HANOI Th.S. Trịnh Thị Nhuần - ThS. Nguyễn Đắc Thành Trường Đại học Thương mại thanhnhuanqtdn@tmu.edu.vn Tóm tắt Trong nghiên cứu này, tác giả đề cập đến các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp xã hội (social entrepreneurship) của sinh viên. Nghiên cứu được thực hiện khảo sát đối với 1505 sinh viên đang theo học tại các 4 trường kinh tế trên địa bàn Hà Nội gồm: Đại học Thương Mại, đại học Kinh Tế Quốc Dân, đại học Ngoại Thương và đại học Đại Nam. Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến, kết quả đã chỉ ra rằng yếu tố kinh nghiệm làm việc là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tích cực đến ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên. Tiếp theo sau đó là yếu tố nhận thức về sự hỗ trợ xã hội có tác động lớn thứ hai, thứ ba là yếu tố giáo dục khởi nghiệp xã hội trong trường đại học, cuối cùng là yếu tố nghĩa vụ đạo đức là cũng tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên Kết quả nghiên cứu này thực sự hữu ích trong việc cải thiện nhận thức và thúc đẩy ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên bằng việc tăng cường các giải pháp hỗ trợ sinh viên tích lũy kinh nghiệm thực tế, nâng cao kiến thức và kỹ năng từ các khóa đào tạo về khởi nghiệp và khởi nghiệp xã hội; các hoạt động tình nguyện và tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn cần được sinh viên trang bị cũng như cần có sự ủng hộ từ phía gia đình, cộng đồng. Từ khóa: khởi nghiệp , khởi nghiệp xã hội, khởi nghiệp tạo tác động xã hội, ý định khởi nghiệp của sinh viên, ý định khởi nghiệp Abtract In this study, the author mentioned factors influencing students’ intention of social entrepreneurship. The study surveyed 1505 students studying at four economic universitie s in Hanoi, including: T huong Mai University, National Economics University, Foreign Trade University and Dai Nam University. By using multivariate regression analysis, the results have shown that the factor of work experience is the most important factor that positively influences students’ intention of social entrepreneurship. Followed by the factor of awareness of social support having the second biggest impact, the third factor of social entrepreneurship education in universities, and the last factor of moral obligation. factors that positively impact students’ intention of social entrepreneurship This research result is really helpful in improving awareness and boosting students’ social entrepreneurship intension by enhancing solutions that help students gain practical experience, 615
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 improve knowledge and skills from entrepreneurship and social entrepreneurship training; volunteer activities; Participate in more social activities as well as need support from family and community. Keyword: entrepreneurship, social entrepreneurship, social entrepreneurship intention of students , social entrepreneurship intention 1. Đặt vấn đề Khởi nghiệp xã hội (KNXH) đang là một lĩnh vực nhận được nhiều sự quan tâm của cá nhân nhà đầu tư, doanh nghiệp, cộng đồng cũng như các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực học thuật trong và ngoài nước. KNXH là việc áp dụng các phương thức sáng tạo và định hướng thị trường nhằm giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của vấn đề xã hội và môi trường, từ đó tạo sự thay đổi mang tính hệ thống và cung cấp giải pháp phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam ngày càng cao, tạo ra những nguồn lực mới, cơ hội mới đồng thời chúng ta cũng đang phải đối mặt với những vấn đề xã hội như y tế, biến đổi khí hậu, giáo dục, nông nghiệp, người yếu thế Vì vậy, KNXH là phương thức tối ưu để có thể giải quyết triệt để những vấn đề xã hội trên. Theo một báo cáo của Global Social Entrepreneurship Network - Mạng lưới Khởi nghiệp Xã hội toàn cầu, 5 quốc gia Mỹ, Canada, Anh, Singapore, và Israel là những nước thành công trong việc kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội gắn liền với mô hình kinh doanh của doanh nghiệp. Việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam không còn mới nhưng những xu hướng khởi nghiệp xã hội trong nước lại đang có nhiều thay đổi theo sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ Các doanh nhân, nhà khởi nghiệp trẻ và nhà sáng lập startup ngày càng lựa chọn các hướng khởi nghiệp xã hội đi vào giải quyết những vấn đề khó như ô nhiễm môi trường, thực phẩm sạch, phân bón hữu cơ, phát triển bền vững. Song số lượng những doanh nghiệp đi theo hướng tiếp cận này vẫn chưa nhiều. Cụ thể, ở Việt Nam hầu hết những người có nhu cầu khởi nghiệp đều nghiêng về mục tiêu tạo ra giá trị lợi nhuận nhiều hơn là nghiêng về mục tiêu xã hội và phong trào KNXH còn chưa được phát triển mạnh tại Việt Nam. Minh chứng, theo báo cáo của UNDP Việt Nam, Trường Đại học kinh tế quốc dân (2018), tính đến thời điểm năm 2018, DNXH đã đăng ký theo luật doanh nghiệp 2014 chỉ có 80 doanh nghiệp; DNXH được ghi nhận (đây là những trường hợp không đăng ký là DNXH theo luật DN 2014, nhưng được công nhận bởi các tổ chức hỗ trợ, hoặc tự nhận mình là DNXH) chỉ có 1000 doanh nghiệp. Đây là những con số khá khiêm tốn về sự quan tâm của những nhà khởi nghiệp đối với loại hình DNXH. Ngoài ra, ở khía cạnh học thuật, các nghiên cứu về khởi nghiệp xã hội còn khá khiêm tốn, nhất là bối cảnh tại Việt Nam. Hiện mới chỉ có một số công trình được nghiên cứu và công bố do Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, Hội đồng Anh, tổ chức CSIP, CIEM tập trung vào nghiên cứu các khái niệm, đặc điểm, các thuận lợi và thách thức của doanh nghiêp xã hội, thực trạng doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam cũng như định hướng phát triển, các vấn đề pháp lý và việc đưa nội dung doanh nghiệp xã hội vào giáo dục khởi nghiệp. Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện về ý định KNXH của sinh viên. Do đó, đây là khoảng trống cần phát triển, bởi muốn nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ hơn nữa làn sóng KNXH ở Việt Nam, 616
  3. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 học tập xu hướng các quốc gia phát triển thì thực sự cần thiết phải thúc đẩy các hoạt động đào tạo, ươm tạo, ươm mầm, truyền cảm hứng về KNXH. Đặc biệt là thế hệ sinh viên – những chủ nhân tương lai của đất nước, cần được ươm tạo và giáo dục tinh thần cũng như kiến thức KNXH giúp các em có hành trang vững chắc hơn, đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước. Xuất phát từ tầm quan trọng của KNXH cùng những khoảng trống cần được bổ sung về khía cạnh học thuật, nghiên cứu này đề cập đến những yếu tố tác động tới ý định KNXH của sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội và mức độ tác động của các biến số trong mô hình nghiên cứu. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị và giải pháp thúc đẩy tinh thần và ý định KNXH của sinh viên bằng các nỗ lực từ sinh viên, giảng viên, trường đại học và các tổ chức xã hội. 2. Phát triển mô hình nghiên cứuvà các giả thuyết nghiên cứu Ý định khởi nghiệp đề cập đến định hướng tinh thần của một người, và định hướng đó dẫn dắt người đó từ việc ấp ủ ý tưởng đến việc thực hiện các ý tưởng kinh doanh mới lạ (Bird, 1988) hay đó là mong muốn cá nhân của bạn khi được tham gia vào việc tạo lập một doanh nghiệp mới (Peng et al., 2013). Đó là một hình thức của niềm tin trong việc thành lập một doanh nghiệp trong tương lai (Thompson, 2009) . Khi được áp dụng trong bối cảnh KNXH, ý định KNXH đề cập đến niềm tin và mong muốn thành lập một doanh nghiệp xã hội (DNXH) (Tran and Von Korflesch, 2016). Tại Việt Nam, loại hình DNXH được chính thức đưa vào điều 10 Luật doanh nghiệp 2014 (Quốc Hội, 2014), theo đó DNXH phải đáp ứng các tiêu chí sau đây: a) Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định tại Luật doanh nghiệp. b) Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. c) Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Tại Việt Nam hiện nay, theo nghiên cứu được chỉ ra của UNDP, CSIE (2018), cụm từ doanh nghiệp tạo tác động xã hội (SIB ) được sử dụng phù hợp hơn, bởi hiện nay có nhiều doanh nghiệp được thành lập nhằm nghiêng về giải quyết mục tiêu xã hội nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên đăng ký là doanh nghiệp thường mà không đăng ký là loại hình DNXH theo đúng như Luật doanh nghiệp năm 2014. Theo đó: Doanh nghiệp trong khối SIB có thể được hiểu là khái niệm DNXH theo cách tiếp cận mở rộng hơn. SIB có các đặc điểm sau: “ có thể là tổ chức hoặc doanh nghiệp; kinh doanh là nguồn thu nhập chính; có mục tiêu xã hội và/hoặc mục tiêu môi trường rõ ràng; hướng tới sự cân bằng trong việc tạo ra giá trị: tạo tác động tích cực lên xã hội đồng thời duy trì tài chính bền vững” . Với cách tiếp cận như trên, nhóm nghiên cứu muốn đề cập đến ý định KNXH theo cách hiểu dựa trên nghiên cứu của UNDP Việt Nam, không chỉ giới hạn là người khởi nghiệp thành lập DNXH theo đúng khái niệm Luật doanh nghiệp 2014, rộng hơn là doanh nghiệp tạo tác động xã hội. Trong nghiên cứu này, có thể hiểu “Ý định KNXH đề cập đến niềm tin và mong muốn thành lập một tổ chức hoặc doanh nghiệp mà tổ chức/doanh nghiệp đó có kinh doanh là nguồn thu nhập chính, có mục tiêu xã hội/ hoặc mục tiêu môi trường rõ ràng, hướng tới sự cân bằng về giá trị xã hội và giá trị tài chính, hoặc nghiêng về mục tiêu xã hội”. 617
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Mô hình nghiên cứu đề xuất : Hình 1: Mô hình nghiên cứu 2.1. Sự đồng cảm và ý định khởi nghiệp xã hội Trong mô hình nghiên cứu của Mair and Noboa (2006), yếu tố sự đồng cảm được đề xuất như là thái độ chung của một người hướng tới hành vi kinh doanh vì xã hội, do đó giải quyết yếu tố đầu tiên của lý thuyết Ajzen (1991) hành vi có kế hoạch (TPB). Bởi vì đây là hình ảnh đại diện cho thái độ về hành vi (ATB), đặc biệt là ATB phản ảnh “một nhận thức của cá nhân về kết quả của một hành vi và mức độ mà một cá nhân đó có đánh giá thuận lợi khi thực hiện hành vi của mình”. Mặt khác, yếu tố sự đồng cảm phản ánh thái độ đối với một người hơn là hành vi. Thông thường sự đồng cảm được hiểu là khả năng của cá nhân đó khi tưởng tượng và đặt vai trò về cảm giác của người khác (Preston và các cộng sự, 2007), hoặc là một xu hướng để đáp lại với người khác dựa trên trạng thái tinh thần, tình cảm (Mehrabian & Epstein, 1972), hoặc là sự từ bi (Goetz, Keltner, & Simon-Thomas, 2010). Đã có nhiều cuộc thử nghiệm và các nghiên cứu trước đây về sự đồng cảm đã được thực hiện, kết quả cho thấy rằng những người tham gia đọc các tình huống chứa đầy tính từ đồng cảm cao (ví dụ: đáng thương, cảm động ) có nhiều khả năng phát triển ý định tình nguyện so với những người tham gia đọc tình huống chỉ sử dụng những ngôn ngữ thực tế ((Batson, Early, & Salvarani, 1997). Do đó, sự đồng cảm thường được xác định là một yếu tố dự đoán trực quan về ý định KNXH của các nhà nghiên cứu như London (2010), Dees (2012), Groch và các cộng sự (2012), Miller và các cộng sự (2012) và Wood (2012). Điều này cũng đã được chứng minh bằng các sáng kiến KNXH như sáng kiến về sự đồng cảm Ashoka (Ashoka 2014). Trong bối cảnh nghiên cứu về KNXH, nhóm nghiên cứu quan tâm đến sự đồng cảm nhận thức (khả năng đánh giá một người khác về trạng thái cảm xúc), và sự đồng cảm về mặt cảm xúc (tức là xu hướng phản ứng với trạng thái cảm xúc của người khác). Một yếu tố khác của sự đồng cảm về mặt cảm xúc đó chính là “mối quan tâm thấu cảm” (Zahn Waxler & Radke-Yarrow, 1990) được định nghĩa 618
  5. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 là một phản ứng về mặt cảm xúc của lòng trắc ẩn và mối quan tâm gây ra bởi việc chứng kiến về nhu cầu hay khó khăn mà một người khác đang cần (Niezink, Siero, Dijkstra, Buunk, và Barelds, 2012). Do đó, giả thuyết sau đây có thể được rút ra: Giả thuyết 1 (H 1): Sự đồng cảm có liên quan tích cực đến ý định KNXH. 2.2. Nghĩa vụ đạo đức và ý định khởi nghiệp xã hội Sự hình thành ý định trong lý thuyết về hành vi có kế hoạch được suy đoán dựa trên ảnh hưởng của các chuẩn mực chủ quan nhận thức (Ajzen, 1991). Đây là những niềm tin chuẩn mực nhận thức về những người trong một môi trường của các cá nhân cũng được gọi là các tiêu chuẩn giáo dục (Cialdini, Reno, & Kallgren, 1990). Họ được dự đoán là có tác động đến xã hội những người mà có thể giúp củng cố thêm hoặc làm giảm bớt các ý định (Schlaegel & Koenig, 2014). Do đó, các tiêu chuẩn chủ quan đại diện cho niềm tin cá nhân của một người về hành vi được mong đợi và chấp nhận (Forster & Grichnik, 2013). Các giá trị về mặt niềm tin đạo đức đã được chỉ ra rằng nó đóng những vai trò quan trọng quyết định đến hành vi của một người (Kaiser, 2006) và Rivis, Sheeran và Armitage (2009). Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi coi các tiêu chuẩn đạo đức là một nền tảng khác của lý thuyết về KNXH. Trong những nghiên cứu trước, Bornstein (1996), Hemingway (2005), Koe Hwee Nga và Shamuganathan (2010) và Yiu và các cộng sự (2014) đều xác định giá trị đạo đức cá nhân là một đức tính thiết yếu của hầu hết doanh nhân xã hội. Mair và Noboa (2006) cũng đề xuất yếu tố về giá trị đạo đức (Kohlberg, 1981) là yếu tố đại diện cho các chuẩn mực xã hội. Việc sử dụng mô hình Kohlberg của Mair và Noboa (2006) đã bị Hockerts (2017) chỉ trích vì hai lý do. Thứ nhất, nó có xu hướng đo lường lý do tại sao một người cảm thấy có nghĩa vụ về mặt đạo đức nhưng không phải là phạm vi của nghĩa vụ đó. Thứ hai, hệ thống phân cấp của Kohlberg, cho thấy các nguyên tắc đạo đức tự chọn là hình thức đánh giá đạo đức cao nhất, trái với quan điểm của TPB, rằng ý định được hình thành bởi nhận thức về các chuẩn mực xã hội bên ngoài. (Hockerts, 2017), do đó, dựa trên Haines et al. (2008) người xác định một niềm tin về nghĩa vụ đạo đức như được định vị giữa hành vi phán xét đạo đức và hình thành các ý định đạo đức. Do đó, nghiên cứu này sẽ sử dụng nhận thức rằng các chuẩn mực xã hội ngụ ý một nghĩa vụ đạo đức nhằm giúp đỡ những người ngoài lề xã hội như một thước đo cho biến thứ hai hơn là các giai đoạn phán xét đạo đức của Kohlberg. Từ đó giả thuyết sau đây có thể được rút ra: Giả thuyết 2 (H 2): Một nhận thức rằng các chuẩn mực xã hội ngụ ý nghĩa vụ đạo đức để giúp đỡ những người ngoài lề xã hội có liên quan tích cực tới ý định KNXH 2.3. Năng lực của bản thân về các hoạt động xã hội và ý định khởi nghiệp xã hội Trong mô hình nghiên cứu của Mair và Noboa (2006) năng lực bản thân được xem như là một thước đo về nhận thức kiểm soát hành vi bên trong (PBC) mà họ đưa ra giả thuyết là yếu tố quyết định phù hợp với ý định trong nghiên cứu của lý thuyết Ajzen (1991). Năng lực bản thân đề cập đến sự đánh giá cá nhân của riêng mình, khả năng có thể thực hiện thành công đối với các hành vi dự định của bản thân (Hockerts, 2017). Các nghiên cứu của một số học giả đã chỉ ra rằng năng lực bản thân trở thành tiền đề quan trọng của các hành vi, hoạt động mang tính thiện nguyện và đóng góp cho xã hội như hiến máu 619
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 (Giles, McClenahan, Cairns, & Mallet, 2004) cũng như hành vi kinh doanh (Zhao, Seibert, & Hills, 2005). Theo Bandura (2006), đo lường năng lực bản thân sẽ là những gợi ý quan trọng và là câu hỏi chính trong bối cảnh nghiên cứu về KNXH. Cho rằng nhiều thách thức xã hội khá nan giải, đó là điều không có gì đáng ngạc nhiên bởi niềm tin mạnh mẽ, sự tự tin vào năng lực của bản thân đã được lý thuyết hóa thành một lý thuyết dự đoán về ý định KNXH (Mair và Noboa, 2006; Smith và Woodworth, 2012). Trong bài viết này, năng lực bản thân của doanh nhân xã hội (năng lực hoạt động xã hội) được hiểu là một người tin rằng cá nhân họ có thể đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Từ đó, giả thuyết sau đây được rút ra: Giả thuyết 3 (H 3): Năng lực hoạt động xã hội của bản thân có liên quan tích cực đến ý định KNXH 2.4. Nhận thức về sự hỗ trợ xã hội và ý định khởi nghiệp xã hội Dựa trên lý thuyết của Ajzen (2002), cấu trúc thứ tư trong mô hình Mair và Noboa (2006) đó là một người có khả năng nhận thức được về những vấn đề bên ngoài, kiểm soát bên ngoài là một tiền đề quan trọng của các ý định. Điều này đề cập đến niềm tin của một người về mức độ phù hợp bối cảnh của hành vi đối với ý chí của cá nhân. Mair và Noboa đưa ra giả thuyết điều này được xác định bởi một cá nhân mong đợi nhận được sự hỗ trợ từ môi trường xung quanh. Có thể phỏng đoán rằng một doanh nhân xã hội có thể mong đợi nhận được tài trợ hoặc các hình thức hỗ trợ khác từ môi trường của mình hay không? Bởi sự hỗ trợ từ môi trường xung quanh như sự ủng hộ của người thân, bạn bè hay thu thút được các nhà đầu tư sẽ hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nhân xã hội. Trong bối cảnh này, các hệ thống và mạng lưới hỗ trợ như Ashoka có thể đóng vai trò quan trọng (Meyskens, Robb-Post, Stamp, Carsrud, & Reynolds, 2010; Ruttmann, 2012). Từ đó, giả thuyết sau đây có thể được rút ra. Giả thuyết 4 (H 4): Nhận thức về sự hỗ trợ xã hội có liên quan tích cực đến ý định KNXH. 2.5. Kinh nghiệm và ý định khởi nghiệp xã hội Nghiên cứu này được dựa trên nghiên cứu của mô hình Hockert (2017) và là sản phẩm mở rộng mô hình của Mair và Noboa (2006) thông qua việc đưa kinh nghiệm trước đây với các vấn đề xã hội như là một yếu tố dự đoán về ý định KNXH. Ví dụ, một loạt các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra kinh nghiệm kinh doanh trước đó từ phía gia đình (Carr & Sequeira, 2007; Chlosta, Patzelt, Klein, & Dormann, 2012) hoặc kinh nghiệm làm việc trước đó (Kautonen, Luoto, & Tornikoski, 2010) là yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng kinh nghiệm trước đó cũng dự đoán các hành vi, hoạt động hỗ trợ xã hội như tham gia vào một chương trình tái chế (Vining & Ebreo, 1989). Kinh nghiệm phục vụ cộng đồng trước đây cũng đã được chỉ ra là một dự đoán của các khóa học đạo đức đều có tác động trên những người tham gia. Các kiến thức ưu tiên về các vấn đề xã hội cũng đã được Ernst (2018) tìm thấy để dự đoán đối với ý định KNXH cũng như nhận thức kiểm soát hành vi. Hơn nữa, Yiu và các cộng sự đã chỉ ra rằng các doanh nhân tư nhân có nhiều khả năng được thúc đẩy để tham gia các hoạt động từ thiện như hỗ trợ người nghèo, các chương trình giảm nghèo nếu như họ có kinh nghiệm cá nhân trước đó (ví dụ như các cơ hội giáo dục về thất nghiệp, khó khăn và nghèo đói ở nông thôn). Để phục vụ cho mục tiêu của nghiên cứu này, kinh nghiệm trước đây được đo lường là kinh nghiệm thực tế làm việc của một người với các tổ chức, lĩnh vực xã hội khác nhau. Người ta cho rằng những kinh nghiệm như vậy tạo ra sự quen thuộc với hàng loạt các vấn đề mà doanh 620
  7. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 nghiệp xã hội nhắm đến và giải quyết. Và chính những kinh nghiệm xã hội này là yếu tố tác động đến ý định cho các cá nhân muốn giải quyết những vấn đề là hoàn toàn có khả năng. Vì lý do này, mô hình được thử nghiệm trong nghiên cứu này được mở rộng bằng các giả thuyết sau đây: Giả thuyết 5 (H 5): Kinh nghiệm trước đây với các tổ chức xã hội có liên quan tích cực đến ý định KNXH. 2.6. Sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học và ý định KNXH Trong nghiên cứu của Kai Hockerts (2017) đã mở rộng thêm nghiên cứu trong mô hình của Mair và Noboa (2006) bằng cách thêm số lượng các khóa học tự chọn kinh doanh xã hội được chọn bởi sinh viên như là một biến đại diện cho ý định KNXH. Các khóa học về kinh doanh xã hội là còn tương đối mới, chưa tồn tại trong chương trình đào tạo của các trường đại học. Một giả thuyết khác trong các tình huống như vậy là đối với những trường hợp sinh viên có ý định KNXH thường bổ sung bằng cách tham gia các hoạt động mang tính trách nhiệm xã hội cao tại các tổ chức, doanh nghiệp (CSR) Dựa trên những nghiên cứu trước đó, nhóm nghiên cứu đã mạnh dạn đề xuất yếu tố các hoạt động hỗ trợ KNXH trong trường đại học sẽ tác động tích cực đến ý định KNXH của sinh viên. Các hoạt động hỗ trợ ở đây liên quan đến sự sẵn sàng và sự quan tâm của nhà trường đến các hoạt động khuyến khích KNXH, cung cấp thông tin về KNXH cho sinh viên hay các hoạt động phong trào, các hoạt động ngoại khóa về KNXH. Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất giả thuyết 6: Sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp xã hội (KNXH). 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Thang đo và thiết kế bảng câu hỏi Thang đo 6 biến số chính được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng tập trung chủ yếu từ nghiên cứu của Mair và Noboa (2006); Kai Hockerts (2017). Bảng câu hỏi được thiết kế bao gồm 2 phần: Phần 1 gồm 27 câu hỏi liên quan tới 7 biến số chính của mô hình nghiên cứu. Mỗi mục hỏi được đánh giá trên thang đo Likert 7 điểm với 1 là “hoàn toàn không đồng ý”, tới 7 là “hoàn toàn đồng ý”. Phần 2 là các câu hỏi liên quan đến thông tin cá nhân của sinh viên như sinh viên năm thứ mấy, ngành học, điểm tích lũy trung bình, nghề nghiệp của cha/ mẹ, kinh nghiệm đi làm thêm 3.2. Đối tượng và mẫu điều tra Thông thường gợi ý cho phân tích nhân tố khám phá, tỉ lệ mẫu so với biến trong mô hình (variable) được sử dụng để quyết định kích cỡ mẫu. Tỉ lệ mẫu trên biến gợi ý tỉ lệ quan sát tối thiểu trên biến số là 5:1, nhưng tỉ lệ 15:1 hoặc 20:1 thì ưu tiên hơn (Hair và các tác giả, 2018). Điều này nghĩa là mặc dù tỉ lệ 5 : 1 dường như dễ theo, nhà nghiên cứu nên xem xét tỉ lệ cao hơn như 15:1 hoặc 20:1 khi xác định kích thước mẫu cho nghiên cứu. Cho nên trong nghiên cứu này tác giả dựa trên tỉ lệ cao nhất là 20:1, với 7 biến (variables) thì kích thước mẫu mà nghiên cứu này ước tính là 20 *7 = 1400 (quan sát). Trong thực tế, với việc tiếp cận sinh viên thông qua phát phiếu trên lớp học, tác giả đã tiến hành phát phiếu điều tra tới 1505 sinh viên, trong đó thu được 1427 phiếu sử dụng được, 78 phiếu bị loại do không đảm bảo các yêu cầu trong nghiên cứu, tất cả các phiếu thu được bằng bản cứng. Như vậy, số lượng phiếu đạt được là 1427 phiếu là thỏa mãn với mục tiêu ban đầu đề ra. 621
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Về đối tượng điều tra, do điều kiện hạn chế về tài chính, nguồn lực để tiến hành điều tra đến tất cả các trường đại học, do đó việc tiến hành thu thập dữ liệu của nhóm hướng nhiều đến sự thuận tiện trong nghiên cứu, tập trung vào đối với sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội bao gồm bốn trường là Đại học Thương Mại, đại học Kinh tế quốc dân, đại học Ngoại Thương và đại học Đại Nam. Nhóm nghiên cứu lựa chọn 4 trường đại học này vì trong khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội thì 3 trường đại học gồm trường Đại học Thương Mại, đại học kinh tế Quốc Dân và đại học Ngoại Thương là ba trường công lập có thương hiệu và bề dày đào tạo nằm trong top các trường đào tạo về khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Trường Đại học Đại Nam là trường dân lập thu hút được nhiều sinh viên theo khối ngành kinh tế trong những năm gần đây. Như vậy, việc chọn cả trường công lập và dân lập nhằm giúp nghiên cứu được đa dạng mọi đối tượng sinh viên. Mẫu sinh viên được lựa chọn đa phần là sinh viên năm thứ 3 (75,1%), 22,5% là sinh viên năm thứ 2, và một lượng nhỏ sinh viên năm 4 (2,4%), vì ở thời điểm này sinh viên năm 4 đang làm tốt nghiệp nên nhóm nghiên cứu khó tiếp cận được các em. Việc lựa chọn sinh viên năm thứ 2 và thứ 3 các chuyên ngành nói trên là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Bởi sinh viên đang theo học hiện nay ở 4 trường thì đa phần các em theo học theo tiến độ nhanh là rất lớn, cho nên kể cả đang là sinh viên năm thứ 2, các em cũng đã được học những môn học cơ sở ngành và chuyên ngành về kinh tế và quản trị kinh doanh và vì vậy các em sinh viên đều có những kiến thức, kỹ năng nhất định về kinh doanh và có những định hình nghề nghiệp nhất định cho tương lai sau khi ra trường. 3.3. Phân tích dữ liệu Sau khi lọc và làm sạch dữ liệu, tác giả tiến hành 3 bước phân tích chính. Bước một là phân tích thống kê mô tả đối với các câu hỏi về thông tin cá nhân của sinh viên để xác định các đặc điểm của mẫu điều tra thu được. Bước 2, tác giả tiến hành phân tích EFA và phân tích độ tin cậy nhằm kiểm định sơ bộ thang đo, xác định các nhân tố chính, hệ số tải của từng nhân tố và mức tin cậy của thang đo (Cronbach’alpha). Cuối cùng là phân tích mô hình hồi quy đa biến nhằm kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố biến độc lập tác động đến biến phụ thuộc ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên. Đây chính là phân tích quan trọng nhất của nghiên cứu này. Các phân tích đều được thực hiện trên phần mềm SPSS 20. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Đặc điểm mẫu điều tra Bảng 1: Thống kê mô tả mẫu điều tra STT Thông tin mẫu Tần suất (số người) Tỷ lệ (%) 1 Sinh viên năm 1427 100% Năm 2 321 22,5 Năm 3 1072 75,1 Năm 4 34 2,4 2 Giới tính 1427 100% Nam 335 23,5 Nữ 1092 76,5 622
  9. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 3 Kinh nghiệm làm việc của bạn 1427 100% Chưa có kinh nghiệm làm việc 207 14,5% Làm việc bán thời gian tại doanh nghiệp 560 39,2% Việc làm sinh viên thời vụ (thời hạn ngắn) 449 31,5% Làm việc tự do tại nhà 140 9,8% Kinh nghiệm khác . 71 5% 5 Khoa đang theo học 1427 100% Quản trị kinh doanh 441 30,9 Marketing 248 17,4 Kinh tế- Kinh doanh quốc tế 78 5,5 Tài chính ngân hàng 39 2,7 Thương mại điện tử 111 7,8 Kinh tế- Luật 4 0,3 Quản trị nhân lực 91 6,4 Khoa khác (khách sạn du lịch, thương mại quốc tế ) 415 29,1 6 Đã được đào tạo về khởi nghiệp 1427 100% Chưa được đào tạo về khởi nghiệp 1110 77,8 Đã được đào tạo về khởi nghiệp (chính khóa hoặc ngắn hạn) 317 22,2 7 Sinh viên trường Đại học 1427 100 Đại học Thương mại 994 69,7 Đại học Đại Nam 53 3,7 Đại học Kinh tế quốc dân 188 13,2 Đại học Ngoại Thương 192 13,5 Nguồn: Kết quả chạy dữ liệu Tỷ lệ sinh viên phân bổ khác nhau ở các trường và các khoa là do cách tiếp cận nghiên cứu của nhóm nghiên cứu hướng đến sự thuận tiện. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu không có mục đích so sánh giữa các trường, khoa hay chuyên ngành ở đây. Mức độ sinh viên đi làm thêm hoặc làm bán thời gian hiện nay tương đối lớn, vì chỉ có 14,5% là chưa có kinh nghiệm làm việc. Ngoài ra, việc được học các khóa đào tạo chính khóa hoặc ngắn hạn về khởi nghiệp đối với sinh viên còn thấp, có 22,2% tỷ lệ sinh viên tham gia khảo sát cho rằng đã được đào tạo về khởi nghiệp. 4.2. Kiểm định thang đo 4.2.1. Phân tích nhân tố khám phá EFA và độ tin cậy Cronbach-Alpha Tác giả tiến hành phân tích nhân tố khám phá EFA và độ tin cậy Cronbach-Alpha nhằm kiểm định sơ bộ thang đo. Bảng dưới đây trình bày kết quả cuối cùng đạt được. Phân tích nhân tố đối với 27 mục hỏi về các giá trị sự đồng cảm, nghĩa vụ đạo đức, năng lực hoạt động xã hội, nhận thức về sự hỗ trợ xã hội, kinh nghiệm trước đó, giáo dục khởi sự KDXH trong trường học và ý định khởi sự KDXH. 623
  10. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Đình Thọ (2012): “Trong phân tích nhân tố EFA, khi sử dụng phép quay vuông góc thì không được đưa biến phụ thuộc vào chung với biến độc lập vào cùng lúc để thực hiện EFA. Bởi khi sử dụng phép quay vuông góc, các nhân tố phải không có mối quan hệ tương quan với nhau, nghĩa là không có sự định nghĩa độc lập với phụ thuộc. Do vậy, nếu chúng ta sử dụng phép quay Varimax hay bất kỳ phép quay vuông góc nào thì cần phân tích EFA riêng giữa độc lập và phụ thuộc, không được đưa tất cả 2 nhóm biến này vào phân tích chung một lần”. Vì vậy, trong nghiên cứu này với việc thực hiện phân tích nhân tố khám phá EFA, nhóm nghiên cứu đã phân tích EFA riêng giữa biến độc lập gồm: sự đồng cảm, nghĩa vụ đạo đức, năng lực hoạt động xã hội của bản thân, nhận thức về sự hỗ trợ xã hội, kinh nghiệm trước đó, sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học và biến phụ thuộc ý định KNXH. Bảng 2. KMO và Thang đo Bartlett Kaiser-Meyer-Olkin Bartlett’s Test of Measure of Sampling Approx. Chi-Square Sig Sphericity - df Adequacy 0,864 14643,253 210 ,000 Nguồn: Kết quả chạy dữ liệu Thực hiện phân tích EFA: tác giả tiến hành phân tích thành phần chính, với phép quay varimax. Kết quả cho thấy: Chỉ số KMO = 0,864 >0.5; giá trị kiểm định Bartlett’s Test sig = ,000 đây là điều kiện đủ để phân tích nhân tố là phù hợp với tập dữ liệu nghiên cứu. Kết quả tổng phương sai trích là 71,471% > 50%, cho thấy mô hình EFA là phù hợp. Như vậy, với 6 nhân tố biến độc lập thì các nhân tố này được trích cô đọng được 71,471% và bị thất thoát mất 28,529% của các biến quan sát. Bảng 3: Tổng hợp hệ số tải nhân tố và hệ số tin cậy alpha Thang đo các Hệ số tin cậy khái niệm nghiên cứu Biến quan sát Hệ số tải nhân tố Cronbach alpha EDU1 0,873 Sự hỗ trợ KNXH trong EDU2 0,860 trường đại học EDU3 0,814 0,901 EDU4 0,800 EDU5 0,790 EMP1 0,784 Sự đồng cảm EMP2 0,769 0,806 EMP3 0,765 EMP4 0,711 EXP1 0,865 Kinh nghiệm trước đó EXP2 0,859 0,852 EXP3 0,847 624
  11. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Nhận thức về sự SUP1 0,840 hỗ trợ xã hội SUP2 0,801 0,883 SUP3 0,790 MOB2 0,781 Nghĩa vụ đạo đức MOB3 0,851 0,831 MOB4 0,743 Năng lực hoạt động xã SEF1 0,822 hội SEF2 0,801 0,759 SEF3 0,610 SEI1 0,853 Ý định KNXH SEI2 0,851 0,775 SEI4 0,848 SEI5 0,786 Bài nghiên cứu tiến hành kiểm định độ tin cậy thang đo với điều kiện các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,4 sẽ bị loại và hệ số Cronbach’s alpha lớn hơn 0,6 (Hair et al., 2010) . Kết quả cho thấy, chỉ số Cronbach’s alpha của cả 7 thang đo đều lớn hơn 0,7 và hệ số tương quan biến tổng đa số đều đạt lớn hơn 0,4 ngoại trừ trường hợp đối với thang đo “ý định KNXH”, duy chỉ có một mục hỏi “Tôi không có dự định khởi sự một doanh nghiệp xã hội” bị loại do không đạt các tiêu chí độ tin cậy vì có hệ số tương quan biến tổng = 0,184 <0,4. Như vậy, đây là những kết quả đạt được ở mức đáng tin cậy. 4.2.2. Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu với phân tích hồi quy đa biến Để kiểm định mối liên hệ giữa các giá trị biến độc lập và ý định KNXH của sinh viên Đại học Thương Mại, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích hồi quy đa biến, theo đó: Phương trình hồi quy: Y = β0 + β1 X1 + β2 X2 + β3 X3 + + βnXn + ei Biến phụ thuộc : Ý định khởi nghiệp xã hội Biến độc lập: 6 nhân tố được hình thành từ các kiểm định trên bao gồm: sự đồng cảm, nghĩa vụ đạo đức, năng lực hoạt động xã hội, nhận thức về sự hỗ trợ xã hội, kinh nghiệm trước đó, giáo dục KNXH trong trường đại học. Kết quả phân tích được trình bày trong các bảng sau: Bảng 4: Hệ số R2 về sự phù hợp của mô hình Tóm tắt mô hình Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 1 0,612 0,375 0,372 0,92191 (Nguồn: kết quả chạy dữ liệu điều tra) Kết quả R bình phương hiệu chỉnh – phản ánh mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập lên 625
  12. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 biến phụ thuộc. Như vậy, với 6 biến độc lập được đưa vào mô hình có ảnh hưởng đến 37,5% sự thay đổi của biến phụ thuộc “ý định KNXH của sinh viên”. Đây tuy chưa phải là mức cao nhất nhưng đã giải thích được 1/3 các tác động, điều đó là khá quan trọng trong kết quả nghiên cứu. Bảng 5: Kiểm định ANOVA về sự phù hợp của mô hình ANOVAa Model Sum of Squares df Mean Square F Sig. 1 Regression 723,842 6 120,640 141,944 0,000 Residual 1206,881 1420 0,850 Total 1930,722 1426 (Nguồn: kết quả chạy dữ liệu điều tra) Từ bảng 7 và bảng 8, kết quả điều tra cho thấy ý nghĩa của các yếu tố trong mô hình nghiên cứu và các phương pháp phân tích dữ liệu trong việc giải thích mối quan hệ giữa các biến độc lâp và ý định KNXH của sinh viên với chỉ số Adjusted R Square = R2 adjusted = 0,372. Như vậy, tất cả các biến độc lập này giải thích được 37,2% ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên. Đây tuy chưa phải là mức cao nhất nhưng đã giải thích được 1/3 các tác động, điều đó là khá quan trọng. Giá trị Sig của kiểm định F là Sig = 0,000 < 0,05, như vậy mô hình hồi quy tuyến tính được xây dựng trên tập mẫu phù hợp với tổng thể. Bảng 6: Mối quan hệ giữa giá trị biến độc lập và ý định KNXH của sinh viên Mô hình Hệ số hồi quy chưa Hệ số Beta t Sig. chuẩn hóa đã chuẩn hóa B Std. Error (Constant) 0,257 0,198 1,297 0,195 F1: EDU: Sự hỗ trợ KNXH 0,185 0,023 0,186 8,058 0,000 trong trường đại học F2: EMP: Sự đồng cảm -0,009 0,35 -0,006 -0,249 0,804 F3: EXP: Kinh nghiệm trước 0,327 0,019 0,389 17,311 0,000 đó F4: SUP: Nhận thức về sự hỗ 0,220 0,029 0,195 7,658 0,000 trợ xã hội F5: MOB: Nghĩa vụ đạo đức 0,100 0,027 0,094 3,734 0,000 F6: SEF: Năng lực hoạt động 0,020 0,034 0,015 0,581 0,561 xã hội Nguồn: Kết quả chạy dữ liệu Dựa vào kết quả nghiên cứu trên cho thấy được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố biến độc lập đến ý định KNXH của sinh viên. Với các hệ số hồi quy Sig của các biến độc lập nhỏ hơn 626
  13. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 hoặc bằng 0,05, thì các biến này có ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc. Do đó, có 4 yếu tố tác động đến ý định KNXH của sinh viên bao gồm: nghĩa vụ đạo đức, nhận thức về sự hỗ trợ xã hội, kinh nghiệm trước đó, sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học. Mặc dù, sự đồng cảm được chỉ ra trong mẫu nghiên cứu này có tác động tiêu cực, nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đến ý định KNXH. Ngoài ra, năng lực hoạt động xã hội cũng không có ý nghĩa thống kê trong mẫu nghiên cứu này. Phương trình hồi quy thể hiện mối liên hệ của các biến độc lập và ý định KNXH như sau: Y = 0,257 + 0,185 F1 + 0,327 F3 + 0,220 F4 +0,100 F5 + ei 5. Thảo luận và kiến nghị Kết quả kiểm định các giả thuyết được tổng hợp trong bảng dưới đây, trong đó có 4 giả thuyết được khẳng định và có 2 giả thuyết không được khẳng định. Bảng 7: Kết quả kiểm định các giả thuyết Giả thuyết Nội dung Kết quả H1 Sự đồng cảm có liên quan tích cực đến ý định KNXH Không đạt H2 Một nhận thức rằng các chuẩn mực xã hội ngụ ý nghĩa vụ Đạt đạo đức để giúp đỡ những người ngoài lề xã hội có liên quan tích cực tới ý định KNXH H3 Năng lực hoạt động xã hội của bản thân có liên quan tích Không đạt cực đến ý định KNXH H4 Nhận thức về sự hỗ trợ xã hội có liên quan tích cực đến ý Đạt định KNXH H5 Kinh nghiệm trước đây với các tổ chức xã hội có liên quan Đạt tích cực đến ý định KNXH. H6 Sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học có tác động tích cực Đạt đến ý định KNXH Theo kết quả nghiên cứu ở trên, “kinh nghiệm làm việc trước đó với các tổ chức xã hội” là yếu tố quan trọng nhất tác động tích cực đến ý định KNXH của sinh viên với hệ số tác động beta là 0,389. Điều này có nghĩa là những sinh viên có nhiều kinh nghiệm làm việc trước đó với các tổ chức xã hội hơn thì có ý định KNXH cao hơn so với những sinh viên chưa hoặc có ít kinh nghiệm hơn. Tiếp theo sau là “yếu tố nhận thức về sự hỗ trợ xã hội” (với hệ số beta tác động là 0,195). Như vậy, nếu một sinh viên cho rằng họ có thể nhận được nhiều sự ủng hộ hơn từ phía mọi người xung quanh hoặc có thể thu hút được các nhà đầu tư trong việc thành lập một tổ chức/ doanh nghiệp tạo tác động xã hội/ giải quyết các vấn đề xã hội thì họ có ý định KNXH cao hơn so với những người nhận thức rằng mình không được hỗ trợ hoặc không sẵn lòng nhận được hỗ trợ từ xã hội. Yếu tố “Sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học ” có mức độ tác động lớn thứ ba (với hệ 627
  14. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 số beta tác động là 0,186). Nếu một sinh viên nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các hoạt động trong trường đại học như nhà trường có các hoạt động khuyến khích KNXH, nhà trường thực sự quan tâm đến KNXH của sinh viên, cung cấp các thông tin về KNXH cho sinh viên hay tổ chức các buổi hội thảo, ngoại khóa về KNXH, hay các khóa học về KNXH thì ý định KNXH của những sinh viên này là cao hơn so với những sinh viên không nhận được sự hỗ trợ như vậy. Cuối cùng là yếu tố “nghĩa vụ đạo đức” với hệ số tác động là 0,094. Khi một người nhận thấy những bản thân họ cần có trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức cao đối với các vấn đề của xã hội thì người đó có ý định KNXH cao hơn so với người khác. Cả bốn yếu tố trên đều tác động tích cực đến ý định KNXH của sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Tác động có ý nghĩa thống kê của biến số này phù hợp với nghiên cứu trước đó của Hnockert (2017) và các nghiên cứu trước đó. Vì các nghiên cứu trước đây đều khẳng định chắc chắn rằng những người có kinh nghiệm trước đây với các vấn đề xã hội có xu hướng và ý định khởi nghiệp xã hội cao hơn so với những người khác (H5). Về các yếu tố “sự đồng cảm” và thang đo “năng lực hoạt động xã hội” không có ý nghĩa thống kê trong mẫu nghiên cứu này. Các phát hiện liên quan đến sự đồng cảm hiện nay cũng còn tồn tại nhiều kết quả nghiên cứu mâu thuẫn nhau. Forster và Grichnik (2013) thấy rằng sự đồng cảm có tác động tích cực đến ý định thực hiện các hoạt động kinh doanh tạo giá trị xã hội. Tuy nhiên, Ernst (2011), đã thực sự kết luận rằng sự đồng cảm có tác động tiêu cực ảnh hưởng đến thái độ của người trả lời đối với việc bắt đầu một doanh nghiệp xã hội. Điều này cho thấy rằng kết quả hỗn hợp từ nghiên cứu này liên quan đến sự đồng cảm kêu gọi các nghiên cứu sâu hơn về tác động của sự đồng cảm đến ý định khởi nghiệp xã hội. Từ những kết quả nghiên cứu trên đây, tác giả xin đề xuất một số gợi ý và khuyến nghị nhằm thúc đẩy tinh thần và ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên. Ở góc độ người học mỗi sinh viên cần tăng cường khả năng tự học, chủ động trau dồi kiến thức và kỹ năng về KNXH, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động thiện nguyện nhằm tăng kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội. Sinh viên cũng cần chủ động tích lũy kinh nghiệm như đi làm thêm, làm partime tại các tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là làm việc với các tổ chức, doanh nghiệp xã hội nhằm nâng cao kinh nghiệm cho bản thân. Ở góc độ giảng viên, để góp phần nâng cao ý định KNXH của các bạn sinh viên, bản thân người giảng viên cần đẩy mạnh hơn vai trò của mình. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên có thể đan xen trong những học phần có liên quan đến KNXH ( ví dụ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, quản trị học, quản trị chiến lược, quản trị rủi ro, văn hóa kinh doanh, trách nhiệm xã hội ) bằng cách giới thiệu các câu chuyện, những tình huống, những doanh nhân xã hội điển hình nhằm truyền cảm hứng cho sinh viên và kích thích sinh viên sáng tạo và đổi mới vì xã hội Giảng viên có thể lồng ghép và cung cấp các điển hình doanh nhân xã hội cũng như những tác động tích cực mà các DNXH mang lại cho cộng đồng, xã hội nhằm lan tỏa tới sinh viên. Giới trẻ hiện nay bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những điều tốt đẹp và vĩ đại trong cuộc sống, hãy là người giúp các em nhận ra những điều tốt đẹp từ những doanh nhân xã hội để các em học hỏi và nỗ lực theo đuổi những hình mẫu lý tưởng đó. Mỗi giảng viên sẽ là người có sự tác động không nhỏ, dần dần hướng cho sinh viên có sự hứng thú nhiều hơn đối với các doanh nghiệp, hay tổ chức xã hội để 628
  15. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 giúp sinh viên hình thành ý chí tự thân lập nghiệp và mang lại nhiều giá trị cho xã hội ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Ở góc độ các trường đại học, cần tăng cường các hoạt động hỗ trợ cũng như đào tạo về khởi nghiệp và sáng tạo xã hội. Trước tiên, các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường các hoạt động khuyến khích sinh viên KNXH, thực sự quan tâm tới các hoạt động khởi nghiệp và sáng tạo xã hội của sinh viên. Bên cạnh đó, nhà trường cần hỗ trợ sinh viên cập nhật các thông tin về các chương trình cũng như các hoạt động KNXH của sinh viên cũng như tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, ngoại khóa về KNXH cho các em. Các khóa học chính quy hay ngắn hạn về KNXH cũng cần được triển khai trong các trường đại học. Ví dụ, nội dung về KNXH có thể xem xét và cân nhắc như là một chương của học phần khởi nghiệp hoặc là một học phần tự chọn trong đào tạo khởi nghiệp. Bởi những kiến thức về khởi nghiệp và khởi nghiệp xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nền tảng kiến thức và năng lực KNXH cho sinh viên. Nhà trường cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức khác để thực hiện những hoạt động đào tạo, ươm tạo tài năng KNXH, một cách hiệu quả. Ngoài ra, tăng cường hoạt động của các đoàn, hội sinh viên trong việc thúc đẩy đổi mới và sáng tạo xã hội, cần tăng cường các hoạt động ươm tạo tài năng kinh doanh theo hướng tác động xã hội trong các trường đại học. Cuối cùng, sự nhận thức về sự hỗ trợ xã hội đóng vai trò quan trọng tác động đến nhận thức KNXH của các bạn sinh viên. Mỗi sinh viên cần nhận được sự hỗ trợ về vật chất cũng như tinh thần nhiều hơn cho KNXH từ phía gia đình, bạn bè, người thân, các doanh nghiệp đối tác, các tổ chức xã hội, nhà tài trợ và cả cộng đồng nhằm thúc đẩy tinh thần KNXH. Nhà nước cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp xã hội để có hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát triển; bên cạnh các trường đại học, nhiều tổ chức khác trong cộng đồng như các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, cũng cần tham gia vào quá trình đào tạo, phổ biến rộng rãi kiến thức cũng như định hình giúp các cá nhân phát huy sở thích làm việc vì xã hội; các tổ chức trong cộng đồng cần tích cực tham gia hỗ trợ cho các trường đại học trong đào tạo, nghiên cứu và ươm tạo tài năng, đặc biệt là các tổ chức như Hội đồng Anh, CSIP, SPARKS, các doanh nghiệp xã hội, các tổ chức thiện nguyện, 6. Kết luận Nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp xã hội của sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Kết quả cho thấy có 4 nhân tố tác động tích cực đến ý định KNXH của sinh viên bao gồm: kinh nghiệm làm việc, sự hỗ trợ KNXH trong trường đại học, nhận thức về sự hỗ trợ xã hội và nghĩa vụ đạo đức. Các yếu tố “sự đồng cảm” và “năng lực hoạt động xã hội của bản thân” không có tác động đến ý định KNXH của sinh viên. Hai yếu tố này được chỉ ra trong một số nghiên cứu trước là có sự mâu thuẫn. Do đó, cần có thêm nhiều nghiên cứu tiếp theo trong tương lai để khẳng định sự tác động của hai nhân tố này đến ý định KNXH của sinh viên. Từ những kết quả nghiên cứu này, tác giả đề xuất một số kiến nghị và trao đổi đối với người học, giảng viên, trường đại học và các tổ chức xã hội nhằm nâng cao tinh thần và ý định KNXH đối với sinh viên giúp thúc đẩy nhân rộng mô hình các doanh nghiệp tạo tác động xã hội, vì một nền kinh tế phát triển bền vững. 629
  16. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Bên cạnh những thành công đạt được của nghiên cứu, bài viết còn một số hạn chế có liên quan đến tới mẫu nghiên cứu. Việc lựa chọn sinh viên của một số khoa tại 4 trường đại học lớn trong đào tạo khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội vì sự thuận tiện trong nghiên cứu, có thể dẫn đến kết quả nghiên cứu chưa mang tính đại diện cho toàn bộ sinh viên khối ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Ngoài ra, thuật ngữ “khởi nghiệp xã hội” còn khá mới mẻ và chưa được sinh viên am hiểu dẫn đến một số câu trả lời của sinh viên có thể giảm độ tin cậy và ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu chung của công trình nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO AJZEN, I. 1991. The theory of planned behavior. Organizational behavior and human de - cision processes, 50 , 179-211. AJZEN, I. 2002. Perceived behavioral control, selfefficacy, locus of control, and the the - ory of planned behavior 1. Journal of applied social psychology, 32 , 665-683. BÁO KHỞI NGHIỆP 2018. Phát triển xu hướng khởi nghiệp xã hội tại Việt Nam. BIRD, B. 1988. Implementing entrepreneurial ideas: The case for intention. Academy of management Review, 13 , 442-453. CIALDINI,R.B., RENO, R.R., & KALLGREN, C. A. (1990). A focus theory of normative conduct: Recycling the concept of norms to reduce littering in public places. Journal of Person - ality and Social Psychology, 58 (6), 1015–1026. ERNST, K. 2018. Heart over mind–An empirical analysis of social entrepreneurial inten - tion formation on the basis of the theory of planned behaviour. Universität Wuppertal, Fakultät für Wirtschaftswissenschaft/Schumpeter . FORSTER, F. & GRICHNIK, D. (2013). Why social entrepreneurs act - The intention for - mation of corporate volunteers. Journal of Social Entrepreneurship , 4(2), 153–181. HAIR, J. F., BLACK, W. C., BABIN, B. J., & ANDERSON, R. E. (2018). Multivariate Data Analysis (8th ed.). United Kingdom: Cengage Learning. HOCKERTS, K. 2017. Determinants of social entrepreneurial intentions. Entrepreneurship Theory and Practice, 41 , 105-130. GOETZ, J.L., KELTNER, D., & SIMON-THOMAS, E. (2010). Compassion: An evolu - tionary analysis and empirical review. Psychological Bulletin , 136 (3), 351–374 Batson, Early, & Salvarani, 1997 . KAISER, F.G. (2006). A moral extension of the theory of planned behavior: Norms and anticipated feelings of regret in conservationism. Personality and Individual Differences , 41 (1), 71–81. KAUTONEN, T., LUOTO, S., & TORNIKOSKI, E. T. (2011). Influence of work history on entrepreneurial intentions in “prime age” and ‘third age”: a preliminary study. International Small Business Journal , 28 (6), 583–601. 630
  17. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 KAUTONEN, T., VAN GELDEREN, M., & FINK, M. (2015). Robustness of the theory of planned behavior in predicting entrepreneurial intentions and actions. Entrepreneurship Theory and Practice , 39 (3), 655–674. KOE HWEE NGA, J. & SHAMUGANATHAN, G. (2010). The influence of personality traits and demographic factors on social entrepreneurship start up intentions. Journal of Business Ethics , 95 (2), 259–282. KOHLBERG, L. (1981). The philosophy of moral development: Moral stages and the idea of justice . New York: HarperCollins. LONDON, M. (2010). Understanding Social Advocacy: An Integrative Model of Motiva - tion, Strategy, and Persistence in Support of Corporate Social Responsibility and Social Entre - preneurship. Journal of Management Development, 29 (3), 224 –245. MAIR, J. & NOBOA, E. 2006. Social entrepreneurship: How intentions to create a social venture are formed. Social entrepreneurship. Springer. MEHRABIAN, A., & EPSTEIN, N. (1972). A measure of emotional empathy. Journal of Personality , 40 (4), 525–543 MILLER, T.L, GRIMES, M.G., MCMULLEAN, J.S., & VOGUS, T.J. (2012). Venturing for others with heart and head: How compassion encourages social entrepreneurship. Academy of Management Review , 37 (4), 616-640. NGỌC MAI. 2017. Khởi nghiệp xã hội vì sao chưa phát triển [Online]. Available: [Accessed 2020]. PENG, Z., LU, G. & KANG, H. 2013. Entrepreneurial intentions and its influencing fac - tors: A survey of the university students in Xi’an China. Creative education, 3, 95. QUỐC HỘI 2014. Luật Doanh nghiệp In: 13, Q. H. K. (ed.) 68/2014/QH13. Hà Nội. RIVIS, A., SHEERAN, P., & ARMITAGE, C.J. (2009). Expanding the affective and nor - mative components of the theory of planned behavior: A meta-analysis of anticipated affect and moral norms. Journal of Applied Social Psychology , 39 (12), 2985–3019. SCHLAEGEL, C.& KOENIG, M. (2014). Determinants of entrepreneurial intent: A meta- analytic test and integration of competing models. Entrepreneurship Theory and Practice , 38 (2), 291–332. THOMPSON, E. R. 2009. Individual entrepreneurial intent: Construct clarification and development of an internationally reliable metric. Entrepreneurship theory and practice, 33 , 669-694. TRAN, A. T. & VON KORFLESCH, H. 2016. A conceptual model of social entrepreneurial intention based on the social cognitive career theory. Asia Pacific Journal of Innovation and En - trepreneurship . UNDP, Đại học kinh tế quốc dân (2018), “Thúc đẩy Phát triển khu vực doanh nghiệp tạo tác động xã hội tại Việt Nam”, Nhà xuất bản Công Thương. 631
  18. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 VINING, J. & EBREO, A. (1989). An evaluation of the public response to a community recycling education program. Society & Natural Resources , 2(1), 23–36. WOOD, S. (2012). Prone to Progress: Using Personality to Identify Supporters of Innova - tive Social Entrepreneurship. Journal of Public Policy and Marketing, 31 (1), 129 –141. PHỤ LỤC Thang đo các biến số của nghiên cứu Biến số (variable) Các mục hỏi (Items) Nguồn 1. Ý định khởi Trong tương lai, tôi dự định tham gia vào việc thành lập một Mair và Noboa nghiệp xã hội tổ chức nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. (2006); Kai Hockerts (2017) 2. Sự đồng cảm Tôi thấy đồng cảm với những người bị thiệt thòi Mair và Noboa Khi nghĩ về những người có hoàn cảnh khó khăn, tôi cố gắng (2006); đặt mình vào vị trí của họ Kai Hockerts Tôi cảm thấy thương cảm với những người ngoài lề xã hội (2017) Khi gặp người có hoàn cảnh khó khăn, tôi cảm thấy muốn giúp đỡ họ 3. Nghĩa vụ đạo Tôi cảm thấy trách nhiệm cần giúp đỡ những người kém may Mair và Noboa đức mắn hơn mình (2006); Giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn nên là một Kai Hockerts nguyên tắc của xã hội (2017)) Công bằng xã hội đòi hỏi chúng ta phải giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình. Chúng ta có nghĩa vụ về mặt đạo đức để giúp đỡ những người thiệt thòi trong xã hội 4. Năng lực hoạt Tôi tin rằng cá nhân tôi có thể đóng góp để giải quyết các thách Mair và Noboa động xã hội thức xã hội nếu tôi đặt tâm trí vào đó (2006) ; Tôi tin mình có thể tìm ra cách để giúp giải quyết các vấn đề Kai Hockerts mà xã hội đang phải đối mặt (2017)) Giải quyết các vấn đề xã hội là điều mà mỗi chúng ta có thể đóng góp 5. Nhận thức về Mọi người sẽ ủng hộ tôi nếu tôi muốn thành lập một tổ chức Mair và Noboa sự hỗ trợ xã hội để giúp đỡ những người bị thiệt thòi trong xã hội (2006) ; Nếu tôi có kế hoạch giải quyết một vấn đề xã hội quan trọng, Kai Hockerts mọi người sẽ ủng hộ tôi (2017)) Có thể thu hút các nhà đầu tư cho tổ chức muốn giải quyết các vấn đề xã hội 632
  19. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 6. Kinh nghiệm Tôi có một số kinh nghiệm làm việc với các vấn đề xã hội Kai Hockerts trước đó Tôi đã tham gia nhiều hoạt động tình nguyện hoặc làm việc (2017) với các tổ chức xã hội Tôi biết rất nhiều về các tổ chức xã hội 7. Sự hỗ trợ Trường tôi có các hoạt động khuyến khích khởi nghiệp xã hội Kai Hockerts KNXH trong Trường tôi thực sự quan tâm tới khởi nghiệp xã hội của sinh (2017) trường đại học viên Trường tôi cung cấp các thông tin về khởi nghiệp xã hội cho sinh viên Trường tôi tổ chức các buổi hội thảo, nói chuyện, ngoại khoá về KNXH Trường tôi cung cấp các khoá học về khởi nghiệp xã hội 633