Thuận lợi và thách thức đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia hiệp định CPTPP

pdf 10 trang Gia Huy 18/05/2022 2650
Bạn đang xem tài liệu "Thuận lợi và thách thức đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia hiệp định CPTPP", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuan_loi_va_thach_thuc_doi_voi_he_thong_ngan_hang_thuong_ma.pdf

Nội dung text: Thuận lợi và thách thức đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia hiệp định CPTPP

  1. THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM KHI THAM GIA HIỆP ĐỊNH CPTPP PGS, TS. Nguyễn Thu Thuỷ Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, kí kết nhiều hiệp định quan trọng như FTA, CPTPP, AEC, Việc thực hiện các cam kết hội nhập này đã mở ra một giai đoạn mới trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Với vai trò là trung gian tài chính, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam tham gia rất tích cực vào quá trình hội nhập và đạt được những thành tựu đáng kích ệ. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội nhận được, nguy cơ bị thâu tóm, sáp nhập, mất lợi thế cạnh tranh ngay trên “sân nhà” còn rất lớn. Bài viết trên cơ sở tóm ược một số nội dung cơ bản của Hiệp định CPTPP iên quan đến ĩnh vực tài chính ngân hàng, phân tích thuận lợi và thách thức mà các NHTM Việt Nam đối diện khi tham gia Hiệp định CPTPP, từ đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển bền vững hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: Hội nhập quốc tế, Tài chính nga n hàng, CPTPP 1. Một số nét chính của Hiệp định CPTPP liên quan tới nh vực tài chính ngân hàng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP), còn được gọi là CPTPP11, là một trong những hiệp định thương mại lớn g bỏ các rào cản thương mại giữa 11 nền kinh tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. CPTPP kết hợp hầu hết các điều khoản đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) bằng cách tham chiếu, nhưng bị đình chỉ 22 điều khoản mà Hoa K cho rằng các quốc gia khác phản đối và hạ ngư ng cho việc ban hành để không cần sự tham gia của Hoa K . CPTPP gồm khoảng 8.000 trang được quy định trong phạm vi 30 chương. Các chương của Hiệp định chia thành ba nhóm chính: hàng hóa, dịch vụ và các vấn đề khác. Trong đó, nhóm dịch vụ bao gồm 5 chương: thương mại dịch vụ xuyên biên giới, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, viễn thông, nhập cảnh tạm thời cho người kinh doanh. CPTPP là một dạng FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao , do có mức độ cam kết tự do hóa cao nhất, với phạm vi bao trùm nhiều lĩnh vực nhất, tập trung đẩy mạnh tự do hóa không chỉ trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, mà còn đối với dịch vụ và đầu tư, trong đó có ngành dịch vụ tài chính. Nội dung cam kết về dịch vụ tài chính nằm trong chương thứ 11 trong tổng số 30 chương của Hiệp định. Giống như AEC hay các FTA khác, CPTPP đưa ra các qui định cốt lõi như: Đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, tiếp cận thị trường và một vài quy định cụ thể về việc cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới. Theo nội dung kết thúc đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch vụ của một nước CPTPP có thể cung cấp 784
  2. dịch vụ tài chính tại thị trường của nước tham gia CPTPP khác, nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được ph p cung cấp dịch vụ đó. Các nước thành viên của CPTPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số qui tắc trong phụ lục đính kèm theo CPTPP và phù hợp với điều kiện của từng nước, gồm: (i) Các biện pháp hiện hành quy định bên tham gia phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất k biện pháp chế tài nào khác trong tương lai cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này; (ii) Các biện pháp và chính sách qui định bên tham gia có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai. Các nước tham gia CPTPP cũng đặt ra các nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan trọng của các quy trình thủ tục pháp l nhằm khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm của các nhà cung cấp được cấp ph p và các quy trình để đạt được mục tiêu này. Ngoài ra, Hiệp định CPTPP cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về quan l danh mục đầu tư, dịch vụ th thanh toán điện tử và chuyển giao thông tin để phục vụ mục đích xử l dữ liệu. Điểm khác biệt của CPTPP so với các FTA khác là việc nhấn mạnh khả năng quản l đối với các tổ chức và thị trường tài chính, các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng, các biện pháp thúc đẩy sự ổn định tài chính và sự toàn vẹn của hệ thống tài chính bao gồm các ngoại lệ thận trọng và các ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử nhằm theo đuổi các chính sách tiền tệ hoặc các chính sách cụ thể khác. Như vậy, đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính trong CPTPP, mặc dù yêu cầu cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng, các nước trong CPTPP có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Tuy nhiên, CPTPP cũng đề cập đến các trường hợp ngoại lệ trong việc bảo hộ quyền tự chủ của các nhà quản l tài chính của các nước tham gia CPTPP, trong đó họ sẽ được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình, bao gồm: những qui định ngoại lệ mà các quốc gia thành viên xem x t một cách thận trọng và những quy định ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ hay các chính sách khác. CPTPP cũng có thể tạo sức p đối với một số quốc gia thành viên trong việc cải cách thể chế, thúc đẩy cạnh tranh, giải quyết và ứng phó với các thách thức mới. Như vậy, các cam kết thuọ c chu o ng dịch vụ tài chính của Hiẹ p định CPTPP tạo ra 3 thành tố co bản hu ớng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị tru ờng dịch vụ tài chính nga n hàng ở Viẹ t Nam gồm: (i) Mở rọ ng cam kết về mở cửa thị tru ờng đi kèm với co chế minh bạch hóa tạo co họ i tiếp cạ n thị tru ờng tốt ho n cho các nhà đầu tu nu ớc ngoài; (ii) Áp dụng co chế bảo họ đầu tu nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tu ; (iii) Đảm bảo kho ng gian chính sách để thực hiẹ n các biẹ n pháp quản l thạ n trọng nhằm xa y dựng mọ t nền tài chính vĩ mo ổn định. Theo dự báo về tác động kinh tế của Hiệp định CPTPP, thì các nước tham gia vào CPTTP sẽ góp phần làm tăng thêm 1,1% GDP; tính đến thời điểm 2030 với thêm giả định 785
  3. tăng năng suất không đáng kể, CPTPP sẽ có tác dụng làm GDP tăng thêm 3,5% (Ousmane Dione, 2018, Báo cáo Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định CPTPP). Trong thời gian qua, với vai trò là trung gian tài chính, các NHTM Việt Nam tham gia rất tích cực vào quá trình hội nhập và thực thi các cam kết trong Hiệp định CPTPP. Bên cạnh những thuận lợi, các NHTM Việt Nam cũng phải đối diện với không ít các thách thức. 2. Thuận lợi và thách thức của hệ thống NHTM Viẹ t Nam khi thực thi Hiệp định CPTPP 2.1 Thuận lợi Một à, môi trường kinh tế vĩ mô thuận ợi Tăng trưởng kinh tế, sự hỗ trợ của chính phủ đối với phát triển lĩnh vực tài chính ngân hàng là tiền đề quan trọng đẩy mạnh sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam. Trong nhiều năm qua, GDP của Việt Nam có mức tăng trưởng cao, đạt bình quân khoảng 7% trong giai đoạn 2010- 2019. Mức tăng trưởng ổn định này, cùng với tỷ lệ lạm pháp ở mức thấp 3,5%-4%, dự kiến đến năm 2025, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 4.688 USD (Theo dự báo của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, 2018). Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, thu nhập bình quân đầu người tăng, kết hợp với niềm tin của dân chúng vào hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng được nâng cao, sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của các NHTM được dễ dàng, góp phần làm tăng sự vững mạnh và an toàn của hệ thống. Hai à, hành ang pháp ý về kinh doanh dịch v ngân hàng đang từng bước được thực hiện theo chuẩn quốc tế Base II Để tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống tổ chức tín dụng chủ động hội nhập, về phía cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã không ngừng nỗ lực, củng cố quan hẹ hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế. Đồng thời, đã tiến hành bổ sung và ban hành nhiều va n bản pháp luạ t trong lĩnh vực nga n hàng theo hu ớng minh bạch hóa, tua n thủ các nguye n tắc thị tru ờng, các tho ng lẹ , chuẩn mực quốc tế và đạ c biẹ t là các cam kết quốc tế. Các co ng cụ chính sách tiền tệ đu ợc thể hiẹ n đồng bọ , linh hoạt, đáp ứng đu ợc nhu cầu thanh khoản của thị tru ờng tiền tẹ , đảm bảo ổn định hoạt đọ ng của hệ thống NHTM. Co chế tỷ giá vạ n hành linh hoạt, gắn kết chạ t chẽ với điều hành lãi suất, có biẹ n pháp hài hòa giữa biẹ n pháp hành chính và co chế thị tru ờng. Khuo n khổ pháp l về các chuẩn mực an toàn của hệ thống ngân hàng đã đu ợc cải thiẹ n đáng kể, tiến gần ho n tho ng lẹ và chuẩn mực quốc tế, tạo nền tảng cho hệ thống ngân hàng hoạt đọ ng an toàn ho n và thúc đẩy co cấu lại theo các mục tie u định hu ớng đề ra. Ba à, hạ tầng tài chính không ngừng được cải thiện, đáp ứng yêu cầu về khả năng kết nối trong hội nhập quốc tế về ĩnh vực tài chính – ngân hàng Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống thanh toán và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế không ngừng được nâng cấp và cải thiện, hạ tầng thanh toán điện tử liên ngân hàng đã được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, hiện đã kết nối các tổ chức tín dụng trên phạm vi toàn quốc, đáp ứng yêu cầu thanh toán tức thì, xử l giao dịch chính xác an toàn và bảo mật. Ngoài ra, việc tham gia vào hệ thống thanh toán khu vực 786
  4. ASEAN, đã thúc đẩy việc triển khai kết nối các hệ thống thanh toán bán l trong khu vực của các NHTM Việt Nam. Bốn à, các sản phẩm dịch v nga n hàng ngày càng đa dạng và phong ph , có giá trị gia ta ng cao, dựa tre n nền tảng co ng nghẹ và hẹ thống thanh toán hiẹ n đại theo tie u chuẩn quốc tế; mạng ưới kênh phân phối đa dạng, hoạt động rộng khắp Tre n co sở tích cực ứng dụng co ng nghẹ tho ng tin hiẹ n đại, đáp ứng các tie u chuẩn quốc tế, hệ thống NHTM Việt Nam đã kho ng ngừng na ng cao cả về số lu ợng, chất lu ợng, dịch vụ và tiẹ n ích nga n hàng, sản phẩm dịch vụ nga n hàng ngày càng đa dạng và phong phú, chất lu ợng tiẹ n ích dịch vụ đu ợc cải thiẹ n rõ rẹ t. Nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng đã bắt nhịp trình đọ tie n tiến thế giới, các ke nh pha n phối dịch vụ có bu ớc phát triển tích cực, tạo điều kiẹ n cho dân chúng và doanh nghiẹ p tiếp cạ n dịch vụ nga n hàng hiện đại ngày càng thuạ n tiẹ n và dễ dàng ho n. Bên cạnh đó, với quy mô mạng lưới giao dịch lên tới hàng trăm, hàng nghìn chi nhánh, phòng giao dịch, kênh phân phối dịch vụ của các NHTM Việt Nam đã và đang len lỏi vào khắp các các khu vực dân cư trên tất cả 63 tỉnh thành cả nước. Đây là một lợi thế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn so với các ngân hàng nước ngoài. Năm à, hẹ thống NHTM đã được co cấu ại theo hướng chủ đọ ng, tích cực họ i nhạ p với nền kinh tế khu vực và thế giới Chủ đọ ng từng bu ớc họ i nhạ p quốc tế và thực hiẹ n các cam kết CPTPP, hẹ thống NHTM Viẹ t Nam đã, đang đu ợc co cấu lại theo hu ớng giảm về số lu ợng, cụ thể: 3 NHTM được NHNN mua lại với giá 0 đồng, 7 NHTM được sáp nhập vào các ngân hàng khác có tình hình tài chính lành mạnh và kết quả kinh doanh ổn định hơn. Như vậy, tính đến ngày 31/12/2019, Việt Nam có 7 NHTM Nhà nước (bao gồm 3 NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn cổ phần), 28 NHTM cổ phần, 02 NH liên doanh, 9 NH 100% vốn nước ngoài và 49 chi nhánh NH nước ngoài (Bảng 1). Bảng 1. Số lượng NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 Loại hình 2010 2015 2016 2017 2018 2019 NHTM Nhà nước(*) 5 7 7 7 7 7 NHTM cổ phần 37 28 28 28 28 28 NH liên doanh 5 3 2 2 2 2 NH 100% vốn NN 5 5 8 8 9 9 Chi nhánh NHNN 48 50 51 49 49 49 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (*) Bao gồm cả NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ Thông qua hoạt động tái cơ cấu, quy mo vốn, tài sản, chất lu ợng hoạt đọ ng của các NHTM Việt Nam đã đu ợc ta ng le n đáng kể. Cụ thể quy mô tài sản có của 3 nhóm NHTM đã tăng 8,98%, từ 10.555.022 tỷ đồng năm 2018 lên 11.503.390 tỷ đồng vào năm 2019, trong đó nhóm NHTM Nhà nước có tốc độ tăng 6,13%, đạt 5.161.715 tỷ đồng, nhóm NHTM Cổ phần 787
  5. tăng 10,56%, đạt 5.035.857 tỷ đồng và nhóm các NH Liên doanh và NH 100% vốn nước ngoài tăng 14,89%, đạt 1.305.818 tỷ đồng (Xem bảng 2); các NHTM Việt Nam đã áp dụng các mô hình quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, triển khai hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, sắp xếp lại mô hình theo khối dọc, thành lập khối quản trị rủi ro, chủ động triển khai các biện pháp xử l nợ xấu, từ đó góp phần làm lành mạnh hóa tài chính trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Bảng 2. Quy mô vốn và tài sản của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2018 - 2019 Đơn vị: Tỷ đồng 2018 2019 Loại hình Vốn Vốn tự Tổng tài sản Vốn điều Vốn tự Tổng tài điều lệ có có lệ có sản có NHTM Nhà nước 147.892 268.602 4.863.578 155.153 324.444 5.161.715 NHTM Cổ phần 267.223 338.182 4.554.863 281.092 365.473 5.035.857 NHLD và NH 100% vốn nước 113.484 162.862 1.136.581 120.770 181.966 1.305.818 ngoài Tổng 528.599 769.646 10.555.022 557.015 871.883 11.503.390 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.2. ột số khó khăn, thách thức Một à, qui mô vốn còn nhỏ bé, nguy cơ bị mất thị phần bởi các nga n hàng nước ngoài Năng lực tài chính của hệ thống NHTM Việt Nam đã được cải thiện song vẫn còn non k m hơn so với khu vực và quốc tế. Vốn điều lệ tuy đã tăng mạnh so với trước đây nhưng khả năng huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế thấp, nhất là vốn trung và hạn, hầu hết các NHTM Việt Nam đều chưa có chiến lược kinh doanh hợp l để vươn ra thị trường quốc tế. Quy mô vốn của các NHTM Việt Nam chỉ vào khoảng từ 150 triệu USD đến 1,8 tỷ USD, khoảng cách này rất xa so với mức trung bình ở các nước trong khu vực (Nga n hàng Mitsubishi UFJ có số vốn le n đến 1.770 tỷ USD, hay United Overseas Bank của Singapore có số vốn le n tới 13,4 tỷ SGD). Điều này cản trở các NHTM Việt Nam trong việc mở rộng quy mô và đặc biệt là ứng dụng công nghệ để phát triển các sản phẩm mới, hiện đại. Bên cạnh đó quy mô vốn nhỏ cũng hạn chế khả năng cho vay của các NHTM trong nước đối với các nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp lớn như các tập đoàn, Tổng công ty, dẫn đến nguy cơ các NHTM Việt Nam sẽ không cạnh tranh được và mất dần thị trường vào tay các ngân hàng nước ngoài. Hai à, các tỷ ệ an toàn hoạt động theo quy định thực chất không đảm bảo Mức độ an toàn của một ngân hàng có thể được phản ánh qua hệ số sử dụng vốn (tỷ lệ cho vay trên huy động) và hệ số an toàn vốn tối thiểu – CAR. Đây là các chỉ tiêu quan trọng 788
  6. liên quan chặt chẽ đến an toàn thanh khoản của các NHTM và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định việc áp dụng Basel II của hệ thống NHTM Việt Nam (Thông tư 41/2016/TT- NHNN có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 yêu cầu các tổ chức tín dụng phải đảm bảo CAR theo Basel II, tối thiểu là 8%). Theo số liệu công bố chính thức của các ngân hàng, hẹ số CAR của hầu hết các NHTM Viẹ t Nam đều đạt tre n 9%. Cụ thể, đến cuối tháng 2/2019, hệ số CAR của toàn hệ thống là 11,8%, trong đó CAR của nhóm NHTM Nhà nước là 9,42% và nhóm NHTM cổ phần là 10,76%; đến tháng 12/2019, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống là 12,21%, trong đó, CAR của NHTM Nhà nước ở mức 10,55% thấp nhất hệ thống, CAR của NHTM cổ phần đạt 10,63% giảm so với mức 10,81% cuối tháng 9/2019. Tuy nhiên, trên thực tế, loại trừ các ngân hàng yếu k m và các ngân hàng được NHNN mua 0 đồng, một số NHTM đầu tư trái phiếu ch o lẫn nhau, làm ―cải thiện ảo‖ hệ số CAR, nhiều NHTM phân loại nợ không đúng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận, tác động giảm hệ số CAR [7]. Nguồn: [7] Chỉ số ROE mạ c dù đang tiẹ m cạ n dần với các nước trong khu vực, nhưng do cách phân loại nợ hiện nay nên các NHTM Việt Nam cũng chu a tính hết các chi phí trích lạ p dự phòng rủi ro đầy đủ theo tie u chuẩn quốc tế (bảng 3).[7] Bảng 3. Một số chỉ tiêu tài chính của hệ thống NHTM Việt Nam năm 2019 Tỷ lệ vốn ngắn hạn Loại hình CAR ROA ROE cho vay trung và dài hạn NHTM Nhà nước 10,55 0,72 13,46 29,69 NHTM Cổ phần 10,63 0,79 10,29 30,99 NHLD và NH 100% 24,44 0,96 6,51 - vốn nước ngoài Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 789
  7. Ba là, viẹ c mở “room” cho nhà đầu tu nu ớc ngoài gia sẽ ta ng các hoạt đọ ng đầu tu chéo, sở hữu chéo cổ phần và sức ép bị tha u tóm, chi phối cũng ta ng le n Hiện nay, theo các cam kết quốc tế trong CPTPP và FTA, các tổ chức tài chính nước ngoài có thể tham gia thị trường Việt Nam theo các hình thức: Văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cũng theo quy định hiện hành, tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các NHTM cổ phần Việt Nam không quá 30% vốn điều lệ, trong đó sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược không quá 20%, của nhà đầu tư cá nhân không quá 5% và của tổ chức không quá 15% (Điều 7, Nghị định 01/2014/NĐ-CP). Việc nới tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài giúp các NHTM trong nước có thể dễ dàng tiếp nhận luồng vốn đầu tư từ nước ngoài, nhưng đây lại là sức p bị thâu tóm và sau đó là thôn tính các NHTM trong nước hoặc thực hiện các thương vụ M&A ngân hàng. Và như vậy, nếu các NHTM Việt Nam thực hiện quản trị hoat động không tốt thì khả năng bị thâu tóm bởi các ngân hàng nước ngoài là khó tránh khỏi. Mặt khác, với cam kết nới room cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng các hoạt động đầu tư ch o giữa các NHTM với nhau hoặc giữa NHTM với các tập đoàn kinh tế lớn, dẫn tới vấn đề sở hữu ch o lẫn nhau dưới nhiều hình thức, điều này sẽ gây ra tình trạng vô hiệu hóa các quy định về an toàn vốn của tổ chức tín dụng, gây nên hiện tượng tăng vốn ảo trong các ngân hàng. Và bản thân các NHTM có thể chuyển hóa nợ xấu thành ―tài sản có‖ khác thông qua các công ty con, công ty liên kết từ đó vô hiệu hóa các quy định về trích lập dự phòng rủi ro của NHNN. (Lê Thị Kim Nhung, 2016) Bốn à, công nghệ ngân hàng còn yếu kém Theo WB, chỉ số công nghệ của NHTM Việt Nam chỉ đạt 0,47%; trong khi Thái Lan và Indonexia là 1,07; Malaysia là 1,08 và Singapore là 1,96. Do vốn ít, năng lực tài chính còn hạn chế, nên một số ngân hàng không dễ thực hiện đầu tư để có được nền tảng công nghệ hiện đại. Công nghệ hiện nay của các NHTM Việt Nam chủ yếu phục vụ cho việc kết nối cục bộ trong cùng hệ thống một ngân hàng. Việc kết nối liên ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến khả năng chia s công nghệ và phân tán rủi ro còn thấp, vừa gây lãng phí, vừa hạn chế tiện ích sử dụng của khách hàng. Điều này đã làm giảm lợi thế cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài. Năm à, trình độ nhân ực trong ngành ngân hàng chưa cao Hội nhập quốc tế đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có nguồn nhân lực không chỉ có chuyên môn cao về nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế, được trang bị đầy đủ những kiến thức và kĩ năng nghiên cứu, phân tích và dự báo biến động của thị trường, khai thác và sử dụng đu ợc các tiến bọ khoa học kỹ thuạ t, co ng nghẹ cao, Tuy nhiên, nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam bị đánh giá là thiếu chuyên nghiệp so 790
  8. với các ngân hàng nước ngoài. Việt Nam đang thực sự khan hiếm các chuyên gia tài chính tầm c quốc tế, có năng lực để đối phó với những tình huống phức tạp trong kinh doanh. Bên cạnh đó, là hiện tượng ―chảy máu chất xám‖, nếu các NHTM Việt Nam không có chính sách và biện pháp giữ chân nhân tài thì vấn đề dịch chuyển nhân lực chất lượng cao từ các NHTM trong nước sang các ngân hàng nước ngoài sẽ tất yếu diễn ra. Đây là một thách thức rất lớn của hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, một thác thức nữa đặt ra đối với các NHTM Việt Nam là vấn đề quản trị rủi ro. Trong khi nhiều ngân hàng thuộc các nước thành viên CPTPP đang ở giai đoạn cuối của việc áp dụng hệ thống quản trị rủi ro theo Basel II và tiện cận dần với Basel III thì đến nay Việt Nam chỉ có 21 NHTM áp dụng Thông tư 41 trước và đúng thời hạn từ ngày 01/01/2020. Điều này đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải thực sự nỗ lực nâng cấp chuẩn mực quản trị, hướng đến thông lệ quốc tế tốt hơn để đủ năng lực và tự tin tham gia vào Hiệp định CPTTP. 3. Một số khuyến nghị và đề xuất Từ việc phân tích thuận lợi và thách thức trên có thể thấy rằng, các NHTM Viẹ t Nam cần phải khắc phục hạn chế, vượt qua những thách thức từ chính nọ i tại, tiếp tục tái co cấu, na ng cao na ng lực cạnh tranh, tự đứng vững và phát triển trong môi trường hội nhập. Để đạt mục tie u đó, theo chúng tôi trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp ở cả tầm vĩ mô và vi mô cụ thể như sau: Về phía các cơ quan quản lý Một là, xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ổn định và bền vững Sự ổn định của chính sách tiền tệ, sẽ đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế. Không có những biến động lớn về giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát sẽ làm tăng niềm tin dân chúng và của người kinh doanh vào thể chế kinh tế hiện hành. Bởi vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục nâng cao tính minh bạch và nhất quán trong chính sách can thiệp của NHNN và Chính phủ nhằm điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng hướng tới mục tiêu ổn định. Hai là, giảm sự can thiệp của Nhà Nước vào hoạt động ngân hàng đồng thời yêu cầu các ngân hàng phải minh bạch trong kinh doanh Sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, sẽ làm giảm tính chủ động và hiệu quả trong hoạt động. Bởi vậy trong thời gian tới, Nhà Nước nên hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái. Đối với NHTM Nhà nước, cần tiếp tục giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lí, giúp ngân hàng tăng năng lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh, năng lực quản lý và quyền tự chủ quyết định của các ngân hàng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện công tác thanh tra giám sát hoạt động của các NHTM, nâng cao vai trò, chất lượng thanh tra trong toàn hệ thống, đẩy mạnh việc thực hiện kiểm toán 791
  9. nội bộ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Ba là, hệ thống các quy định an toàn cần được liên t c nâng cao tính minh bạch, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Về phía các ngân hàng thương mại Thứ nhất, na ng cao na ng ực tài chính Các NHTM Viẹ t Nam cần phải có lọ trình tăng vốn điều lệ phù hợp và đưa ra phương án kinh doanh phù hợp với số vốn tăng lên, tránh việc đầu tư không có hiệu quả. Việc ta ng quy mo vốn sẽ cải thiẹ n hẹ số an toàn vốn theo tie u chuẩn Basel II. Ta ng vốn điều lệ là điều kiẹ n để đạt đu ợc sự phát triển nhờ quy mo , đáp ứng ye u cầu họ i nhạ p ngày càng sa u rọ ng và đủ tiềm lực tài chính lớn để có thể ứng phó với những bất ổn của mo i tru ờng kinh doanh quốc tế. Thư hai, hoàn thiện quy trình và nâng cao năng ực quản trị rủi ro Hoàn thiện quy trình và nâng cao năng lực quản trị rủi ro là hoạt động có vai trò quan trọng trong phát triển an toàn của mỗi ngân hàng cũng như toàn hệ thống. Theo chúng tôi, mỗi ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy trình quản lý rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Phát triển và hoàn thiện hệ thống báo cáo quản lý nội bộ và hệ thống kế toán quản lý nhằm hỗ trợ công tác quản lý kinh doanh, ứng dụng hiệu quả các hệ thống thông tin quản lý trong việc hỗ trợ ra quyết định cũng như tăng cường vai trò điều hành kinh doanh, kiểm soát và quản lý rủi ro của ngân hàng. Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa quản trị rủi ro tín dụng - quản trị rủi ro thị trường và quản trị rủi ro hoạt động trong quản trị tài sản Nợ - Có. Xây dựng hệ thống định danh, quản lí khách hàng/nhóm khách hàng liên quan để bảo đảm tuân thủ các giới hạn an toàn theo quy định của pháp luật. Thứ ba, nâng cao chất ượng nguồn nhân lực Để đáp ứng tốt ye u cầu cạnh tranh trong điều kiẹ n họ i nhạ p, cần phải có mọ t đọ i ngũ nha n sự ổn định, đảm bảo cả về chất và lu ợng, nhất là nha n sự quản l . Trong bối cảnh cạnh tranh về nguồn nha n lực ngày càng gay gắt và đứng tru ớc tình trạng ―chảy máu chất xám‖, các NHTM Viẹ t Nam cần chú trọng chú trọng co ng tác đào tạo bồi du ng nguồn nha n lực mọ t cách toàn diẹ n, từng bu ớc na ng cao chất lu ợng nha n lực mọ t cách đồng đều và vững chắc theo hu ớng chuye n sa u, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chương trình đào tạo nhằm nâng cao kĩ năng quản lý và nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, đồng thời có chính sách thu hút nha n tài tho ng qua chế đọ đãi ngọ hợp l . Ngoài ra, các NHTM Viẹ t Nam cần đẩy mạnh hợp tác với các NHTM, các định chế tài chính có uy tín trong khu vực, đồng thời có hoạt đọ ng xúc tiến mở rọ ng kinh doanh tại thị tru ờng nu ớc ngoài. Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế về lĩnh vực tài chính – ngân hàng ngày càng sâu rộng, viẹ c nhạ n diẹ n mọ t cách rõ n t những thuận lợi và thách thức của họ i 792
  10. nhạ p, sẽ giúp các nhà quản l nga n hàng, các co quan hoạch định chính sách chủ đọ ng, cẩn trọng và tự tin đối đầu với thách thức. Với các khuyến nghị trên đây, sẽ giúp các cơ quan quản lý tập trung vào củng cố năng lực quản lí, hoàn thiện cơ chế giám sát, giữ vững trật tự kỉ cương trên thị trường, cũng đồng thời là việc các NHTM tự hoàn thiện để thích ứng với môi trường mới, khẳng định vị thế quan trọng của mình đối với sự phát triển chung nền kinh tế./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ousmane Dione, 2018, Báo cáo Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định CPTPP 2. Lê Thị Kim Nhung (2016), ―Cơ hội và thách thức đối với các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu và AEC và TPP” đăng trên Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: ―Hoạt động tài chính quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập mới‖, Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế quốc dân tháng 6/2016. 3. Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia: ―Áp d ng Basel II trong quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam: Cơ hội, thách thức và lộ trình thực hiện‖, Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế quốc dân tháng 12/2017. 4. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (2016), Thông tư 41/2016/TT-NHNN Quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016. 5. Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị định 01/2014/NĐ-CP Về việc Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của Tổ chức tín d ng Việt Nam, ban hành ngày 03 tháng 01 năm 2014. 6. 7. 8. 9. vuc-ngan-hang-viet-nam 10. ệp định CPTPP – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 11. ngan-hang 793