Thúc đẩy liên kết để phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

pdf 14 trang Gia Huy 18/05/2022 2600
Bạn đang xem tài liệu "Thúc đẩy liên kết để phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_day_lien_ket_de_phat_trien_nganh_cong_nghiep_che_bien_c.pdf

Nội dung text: Thúc đẩy liên kết để phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

  1. THÚC ĐẨY LIÊN KẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN CHẾ TẠO TRONG BỐI CẢNH CÁC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI TS. Vũ Thị Thanh Huyền Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Trong những năm gần đây, Việt Nam đang ngày càng chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng với các khu vực và quốc gia trên thế giới. Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương toàn diện và tiến bộ (CPTPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định FTA với EU, với nhiều bên, quy mô rộng, mức độ cam kết cao, là những đột phá quan trọng của hội nhập quốc tế toàn diện của nước ta, đem đến nhiều tác động lớn cho các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chế tạo ( CN CBCT) – vốn à ngành đang có đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm vừa qua. Để tận d ng các cơ hội, cũng như đẩy lùi cách thách thức từ quá trình hội nhập, th c đẩy liên kết trong sản xuất, thương mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan trọng. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt Nam thời gian vừa qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về cơ hội, thách thức và giải pháp của ngành CN CBCT trong quá trình tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Từ khóa: Công nghiệp chế biến chế tạo (CN CBCT), liên kết, hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. 1. Đặt vấn đề Liên kết trong sản xuất được coi là một trong những nhân tố quan trọng để giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho ngành/ sản phẩm. Đặc biệt, đối với các ngành sản xuất CN chế biến, chế tạo, liên kết trong sản xuất có nghĩa quan trọng trong đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất, từ đó thúc đẩy việc tăng năng suất, hiệu quả cho ngành sản xuất và cho nền kinh tế. Mặc dù được đánh giá là ngành có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu và thu hút FDI, nhưng ngành CN CBCT Việt Nam thời gian qua vẫn trong tình trạng giá trị gia tăng thấp, sự tham gia thực chất của các DN nội địa Việt nam vẫn còn rất hạn chế. Những điều này đặt ra vấn đề cần xem xét một cách nghiêm túc về thực trạng liên kết trong hoạt động sản xuất CN CBCT Việt Nam thời gian qua, để đưa ra những giải pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của ngành CN CBCT Việt Nam những năm tiếp theo. 2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 2.1. Liên kết và vai trò của liên kết trong sản xuất công nghiệp a) Khái niệm về liên kết trong sản xuất công nghiệp Theo nghĩa hẹp, có thể đưa ra một định nghĩa giới hạn về liên kết giữa các dòng cung ứng, nguyên liệu thô, hàng hóa bán thành phẩm và linh phụ kiện hoặc hàng hóa 717
  2. thành phẩm; giữa các mối quan tâm thương mại. Nói cách khác, liên kết công nghiệp có thể xảy ra khi một hãng sản xuất mua các đầu vào để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc bán cho hãng sản xuất khác. Theo nghĩa rộng, liên kết công nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động hợp tác, bao gồm các luồng vật liệu và thông tin, giữa các yếu tố riêng biệt và các chức năng của hệ thống sản xuất. Liên kết sản xuất là một sự kết hợp các sản phẩm chảy từ các nhà máy, đến các nhà bán l , bán buôn, công chúng, cũng như các hãng sản xuất khác. (Stephen Mark Dobson (1984)[10]) Như vậy, khái niệm liên kết công nghiệp có những cách hiểu khác nhau, nhưng ít nhất, có thể được nhìn thấy theo cách sau:  Thứ nhất, liên kết quá trình. Điều này được xem là để mô tả sự chuyển động của hàng hóa giữa các công ty khác nhau như các giai đoạn trong quá trình sản xuất.  Thứ hai là một liên kết dịch vụ; và điều này đề cập đến việc cung cấp máy móc thiết bị và các bộ phận phụ trợ cũng như các yêu cầu sửa chữa và bảo trì khi được cung cấp bởi các công ty riêng biệt.  Thứ ba, liên kết tiếp thị liên quan đến những mối quan hệ với các công ty khác hỗ trợ việc bán và phân phối hàng hóa;  Thứ tư, các liên kết tài chính và thương mại mô tả mối quan hệ với các dịch vụ tài chính và tư vấn như ngân hàng, công ty bảo hiểm và môi giới chứng khoán Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tiếp cận liên kết theo nghĩa hẹp, chính là sự liên kết diễn ra trong quá trình sản xuất, mô tả sự chuyển động của các hàng hóa giữa các công ty khác nhau trong các giai đoạn của quá trình sản xuất. Như vậy, nội dung liên kết sẽ được thể hiện qua các khía cạnh như sau:  Thứ nhất, liên kết trong quá trình sản xuất giữa doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ với các doanh nghiệp lắp ráp, được thể hiện thông qua chỉ tiêu năng lực cung ứng của doanh nghiệp trong nước hay tỷ lệ nội địa hóa. Nếu năng lực đáp ứng trong nước càng lớn hay tỷ lệ nội địa hóa càng cao thì ngành CN CBCT càng phát triển, nâng cao được giá trị gia tăng và có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế.  Thứ hai, sự hình thành và phát triển của cụm, khu công nghiệp. Sự phát triển của các cụm ngành công nghiệp sẽ giúp các doanh nghiệp CN CBCT giảm chi phí sản xuất, tăng cường chuyên môn hóa, tăng sức mạnh thị trường.  Thứ ba, sự liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, các Hiệp hội, trung tâm hỗ trợ DN, cơ quan Quản l Nhà nước. Sự liên kết này càng chặt chẽ thì các doanh nghiệp CN CBCT càng có điều kiện phát triển nhanh và mạnh mẽ do nắm bắt được kịp thời các thông tin chính sách, cũng như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước để phát triển sản xuất và mở rộng thị trường. 718
  3. b) Vai trò của iên kết trong sản xuất và phát triển công nghiệp Do nghĩa quan trọng của vấn đề liên kết trong hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp trong nền kinh tế, đã có một số nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này trên thế giới và tại Việt Nam. Theo nghiên cứu của Khalid Nadvi và Stephanie Barrientos (2004)[11], các cụm công nghiệp, hoặc sự tập trung địa l của các doanh nghiệp và các đơn vị phụ trợ tham gia vào cùng lĩnh vực, có thể tạo ra nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp nhỏ. Mô hình cụm nhấn mạnh mối liên kết nội bộ, nhờ đó mà các lợi ích của cụm được tăng cường bởi sự hợp tác công ty địa phương, các tổ chức địa phương và vốn xã hội địa phương. Bằng chứng ngày càng tăng về các cụm doanh nghiệp nhỏ ở các nước đang phát triển cạnh tranh trên thị trường địa phương và toàn cầu đã thúc đẩy phần lớn sự nhiệt tình của chính sách trong việc thúc đẩy các cụm. Tương tự, theo nghiên cứu của Ana Colovic và Olivier Lamotte (2014) [9], các cụm có thể tạo thuận lợi cho việc quốc tế hóa các liên doanh quốc tế mới bằng cách cung cấp các nguồn lực, cơ hội kết nối mạng và tính hợp pháp để giúp họ tiếp cận thị trường toàn cầu và bằng cách tăng tốc độ quốc tế hóa; Còn theo Joynal Abdin (2016)[8], phát triển cụm được coi là một công cụ hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các cụm công nghiệp được coi là một trong những cơ chế hiệu quả nhất để thúc đẩy thu nhập và tăng trưởng việc làm, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, vừa và nhỏ. Các nước phát triển hoặc đang phát triển công nghiệp có chính sách riêng để phát triển cụm công nghiệp. Theo Nguyễn Đình Tài (2013)[4] , vai trò của liên kết trong hoạt động sản xuất CN và l thuyết về cụm CN được phát triển từ l thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter (1990). L thuyết này đã chỉ ra rằng, mỗi cụm liên kết ngành giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ, trong đó, các ngành công nghiệp được liên kết với nhau bởi dòng hàng hóa và dịch vụ. Các CLKN được hình thành từ sự tập trung cao độ các doanh nghiệp trong một số ngành và lĩnh vực có liên quan khá chặt chẽ với nhau, trong đó có liên quan chặt chẽ đến vai trò của các doanh nghiệp hỗ trợ. Sự lớn mạnh của một CLKN thường gắn liền với sự gia tăng và phát triển bền vững của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT). Một CLKN được hình thành sẽ tạo ra những yếu tố nền tảng nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua một số thành tố là: giúp DN có cơ hội tăng năng suất; thúc đẩy quá trình sáng tạo và đổi mới; tác động quan trọng đến việc hình thành các DN mới trong ngành hoặc trong các ngành có liên quan. Tương tự, theo Lê Minh Ngọc và Lê Huyền Trang (2011)[2] , CLKN tác động đến cạnh tranh và tạo ra lợi thế cạnh tranh theo 3 cách: Tăng năng suất của các DN nằm trong cụm liên kết thông qua cải thiện khả năng tiếp cận nhà cung cấp, kỹ năng và thông tin chuyên môn; điều chỉnh hướng đi và tốc độ của sáng tạo đến tăng trưởng năng suất trong tương lai; và thúc đẩy việc hình thành những cơ sở kinh doanh mới. Mặt khác, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Sơn (2015)[3] về cụm công nghiệp đã chỉ ra rằng, với sự tập trung về mặt địa l của các công ty và các tổ chức có liên quan, liên kết với nhau trong một lĩnh vực cụ thể, góp phần tăng cường tính kinh tế địa phương và đô thị hóa, tạo điều kiện cho tái cơ cấu công nghiệp, cũng như khuyến khích liên kết giữa các doanh 719
  4. nghiệp, cho ph p các nguồn lực công đầu tư tập trung hơn. Mặt khác, điều này cũng tạo cơ hội cho việc tích tụ thông tin, kiến thức; là những tiền đề cho việc cải tiến, đổi mới trong sản xuất và giảm chi phí giao dịch. Tương tự, theo Võ Trí Thành và các cộng sự[5], việc phát triển CLKN tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh (thông qua việc giảm giá thành sản xuất, chia s thông tin và các nguồn lực khác), đổi mới (công nghệ, quản l , ), phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương. Chính vì vậy, đến nay, trên thế giới có tới hơn 2.500 sáng kiến phát triển CLKN tại 75 nước thuộc tất cả trình độ phát triển khác nhau. Mối liên kết có thể được thể hiện trong quan hệ giữa các DN thuộc các thành phần kinh tế trong các ngành và quốc tế; giữa các DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN trong nước; giữa các DN lớn và DNNVV trong các KCN, CCN; giữa các DN và cơ quan QLNN, cơ quan hoạch định chính sách; giữa các DN sản xuất với các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu, các hiệp hội ngành hàng; 2.2. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới a) Khái niệm: Hiệp định thƣơng mại tự do (FTA) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do. Các Hiệp định thương mại tự do có thể được thực hiện giữa hai nước riêng l hoặc có thể đạt được giữa một khối thương mại và một quốc gia như Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Chi Lê, hoặc Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc. Thuật ngữ “thế hệ mới” hoàn toàn mang tính tương đối, được sử dụng để nói về các FTA có phạm vi toàn diện, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa, như: FTA Việt Nam-EU (EVFTA); Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP); các hiệp định thành lập EU; FTA Bắc Mỹ (NAFTA); Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR); các FTA ASEAN+1; FTA Australia-Hoa K (AUSFTA). Nếu so sánh với các hiệp định của WTO, thì các FTA ―thế hệ mới‖ chính là các hiệp định ―WTO cộng‖, với những nội dung trước đây từng bị từ chối, thì nay lại cần thiết phải chấp nhận, bởi bối cảnh thương mại quốc tế đã thay đổi. Như vậy, thuật ngữ “Hiệp định thƣơng mại tự do (FTA) thế hệ mới” được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các ―FTA truyền thống‖; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là ―phi truyền thống‖ như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư Các cơ hội và thách thức của Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (Hoàng Văn Cương (2019) [1]) bao gồm: Cơ hội: Thứ nhất, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu: Tự do hóa thương mại nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng có tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Những quy định trong các 720
  5. FTA này buộc nền kinh tế thành viên phải tái cấu trúc, mở ra những thị trường mới và tạo sức hút về hàng hóa. Thứ hai, đối với sản xuất trong nước: Việc tham gia các FTA thế hệ mới sẽ khiến cho nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm, từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất khẩu. Thứ ba, đối với môi trường kinh doanh: Việc tham gia các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP về các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật sau đường biên giới sẽ tạo điều kiện và động lực cơ hội để thay đổi, cải thiện chính sách và pháp luật theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Thứ tư, đối với thu hút đầu tư nước ngoài (FDI): Trong các FTA thế hệ mới đều có các cam kết đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường nhanh hơn. Các FTA thế hệ mới cũng có các quy định về phát triển bền vững, giúp hạn chế bớt những công nghệ lạc hậu và thúc đẩy phát triển các công nghệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường. Thách thức: Thứ nhất, thách thức về hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các nền kinh tế sẽ cần chủ động đổi mới để đáp ứng với yêu cầu đã cam kết trong các hiệp định tự do; đồng thời, các DN trong nước sẽ cần liên tục cập nhật các chính sách, quy định mới. Thứ hai, thách thức về sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết dẫn đến các hàng hóa sản xuất trong nước chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu, đồng thời các ngành sản xuất trong nước chịu tác động trực tiếp của những biến động trên thị trường hàng hóa quốc tế. Thứ ba, thách thức về dẫn dắt, định hướng dòng vốn FDI theo hướng nâng cao năng lực công nghiệp nội địa, thúc đẩy liên kết với DN trong nước. Thứ tư, các nguy cơ về bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động. Mức độ mở cửa cảng lớn thì các nền kinh tế càng chịu các tác động tiêu cực từ bên ngoài. 2.3. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu Phương pháp nghiên cứu: Để xem x t thực trạng liên kết của ngành CN CBCT trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tác giả sử dụng các phương pháp định tính bao gồm các phương pháp như thống kê mô tả, so sánh, đối chiếu để phân tích khái quát thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh của ngành CN CBCT Việt Nam; khái quát tình hình liên kết giữa DN CNHT với DN chính; từ đó, đưa ra các đánh giá về cơ hội và thách thức của ngành CN CBCT trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nguồn số liệu được sử dụng trong bài viết bao gồm các số liệu lấy chủ yếu từ nguồn Tổng cục Thống kê. 721
  6. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Khái quát quá trình tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của Việt Nam Việt Nam hiện nay đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA, cụ thể: Hiệp định CPTPP: Các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 65-95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế quan trong vòng 5-10 năm. Trong CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ số dòng thuế ở mức cao, theo đó: 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 4 khi Hiệp định có hiệu lực; 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11 khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định EVFTA: Các nội dung chính của Hiệp định, bao gồm: Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại; các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật trong thương mại, đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững; các vấn đề pháp lý, hợp tác và xây dựng năng lực. Bảng 1. Lộ trình xóa bỏ thuế quan một số ngành/ sản phẩm của EU dành cho Việt Nam Nhóm hàng công Cam kết thuế quan của EU dành cho Việt Nam nghiệp Dệt may 42,5% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực; Số còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm. Giày dép 37% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực; Số còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm. Gỗ và sản phẩm Khoảng 83% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp gỗ định có hiệu lực; Khoảng 17% còn lại (gồm ván dăm, ván sợi và gỗ dán, ) sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 5 năm. Máy vi tính, sản 74% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có phẩm điện tử và hiệu lực; linh kiện Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 5 năm. Một số sản Một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có phẩm khác hiệu lực ví dụ như sản phẩm nhựa, điện thoại các loại và linh kiện, túi xách, ví, vali, mũ, ô dù, Nguồn: Trung tâm WTO, trungtamwto.vn 722
  7. Trong EVFTA, Việt Nam và EU cam kết sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99% số dòng thuế trong khoảng thời gian 7 năm đối với EU và 10 năm đối với Việt Nam. Theo đó, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế, sau 3 năm là 58,7% số dòng thuế, sau 5 năm là 79,6% số dòng thuế, sau 7 năm là 91,8% số dòng thuế và sau 10 năm là 98,3% số dòng thuế. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn thuế xuất khẩu hàng hóa sang EU với lộ trình lên đến 15 năm. Bảng 2. Lộ trình cam kết cắt giảm thuế quan một số nhóm hàng hóa quan trọng của Việt Nam dành cho EU Nhóm hàng Cam kết thuế quan của Việt Nam dành cho EU Máy móc, thiết 61% dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có bị hiệu lực; Thuế nhập khẩu của số còn lại sẽ được đưa về 0% sau lộ trình tối đa 10 năm. Ô tô nguyên Ô tô phân phối lớn (trên 2500 cm3 với xe chạy dầu diesel, trên 3000 chiếc và linh cm3 đối với xe chạy xăng) sẽ có thuế nhập khẩu về 0% sau 9 năm; kiện, phụ tùng ô Các loại ô tô khác được áp dụng lộ trình cam kết giảm thuế trong vòng tô, xe máy 10 năm; Các loại phụ tùng ô tô sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau 7 năm; Xe máy thường và xe máy trên 150 cm3 sẽ có thuế nhập khẩu 0% sau lần lượt là 10 năm và 7 năm. Đồ uống có cồn Rượu vang và rượu mạnh sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau 7 năm; Lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu với bia là 10 năm. Dƣợc phẩm Khoảng 71% các sản phẩm dược từ EU sẽ có thuế nhập khẩu 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; Phần còn lại sẽ được xóa bỏ thuế quan theo lộ trình từ 5 đến 7 năm. Nguyên phụ liệu Khoảng 80% nhóm hàng này sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp dệt may, da giày định có hiệu lực; Phần còn lại sẽ được xóa bỏ thuế sau từ 3 đến 5 năm. Hóa chất và sản Khoảng 70% nhóm sản phẩm này sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp phẩm hóa chất định có hiệu lực; Phần còn lại sẽ có thuế suất 0% sau lộ trình tối đa là 7 năm. Nguồn: Trung tâm WTO, trungtamwto.vn 3.2. Khái quát thực trạng phát triển và tình hình liên kết trong ngành Công nghiệp chế biến chế tạo a) Khái quát tình hình phát triển ngành CN CBCT Việt Nam Trong những năm trở lại đây, CN CBCT uôn à ngành đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, à ngành có đóng góp hàng đầu trong tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong giai đoạn 723
  8. 2015 – 2019, ngành CN CBCT chiếm bình quân 15,15% GDP có xu hướng cao hơn so với giai đoạn 2010 – 2014 (13,22%) nhưng thấp hơn giai đoạn 2005 – 2010 (bình quân 17,9% GDP), tăng từ 13,69 % năm 2015 lên 16,48 % năm 2018. Khi xem x t về tốc độ tăng trưởng của các ngành, CN CBCT đang là ngành chiếm ưu thế. Trong 5 năm gần đây, ngành CN CBCT có tốc độ tăng trưởng cao trong nền kinh tế với mức tăng bình quân đạt 12,23 %/ năm, đứng vị trí thứ nhất. Điều này cho thấy vai trò tích cực của ngành CN CBCT đóng góp cho TTKT của Việt Nam. 20 15 10 5 0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 -5 -10 -15 -20 -25 Tổng số Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Công nghiệp và xây dựng Công nghiệp chế biến chế tạo Dịch vụ Nguồn: Tổng c c Thống kê, 2019 [6] Hình 1. Tốc độ tăng trưởng các ngành trong nền kinh tế Về chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số tiêu th ngành công nghiệp, Tổng số Công nghiệp chế biến, chế tạo 116 114 112 110 108 106 104 102 100 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Nguồn: Tổng c c Thống kê, 2019 [6] Hình 2. Chỉ số sản xuất công nghiệp ngành CN CBCT 724
  9. Công nghiệp chế biến, chế tạo hiện là ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp cao nhất trong số các ngành công nghiệp và cao hơn cả chỉ số sản xuất công nghiệp chung của toàn nền kinh tế. Năm 2019, chỉ số sản xuất ngành CN CBCT đạt 110,4% cao hơn mức chung của toàn ngành (109,1%); trong đó, một số ngành CN CBCT có chỉ số sản xuất cao như: sản xuất kim loại tăng 28,6%; khai thác quặng kim loại tăng 25,9%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 21%; in, sao ch p bản ghi các loại tăng 15,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 14,3%; Mặt khác, chỉ số tiêu thụ sản phẩm ngành CN CBCT tiếp tục tăng lên trong những năm gần đây, đến năm 2019, chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành đạt 109,5%, tập trung cao vào một số ngành như: sản xuất kim loại; sản xuất than cốc và sản phẩm dầu mở tinh chế; in, sao chép bản ghi; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; Về thu h t FDI và đóng góp cho xuất khẩu Trong số các ngành kinh tế, CN CBCT là ngành thu hút phần lớn vốn FDI và đóng góp chủ yếu vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tính đến hết năm 2018, ngành CN CBCT thu hút tới 57,5% tổng vốn FDI và 48,5 % số dự án (lũy kế các dự án còn hiệu lực) của toàn nền kinh tế. Trong năm 2019, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng k của các dự án đạt 12.093,1 triệu USD, chiếm 72,2% tổng vốn đăng k cấp mới. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là FDI vào Việt Nam chủ yếu là những ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn như: may mặc, giày dép. Các doanh nghiệp (DN) FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập từ nước ngoài nên giá trị gia tăng còn thấp (CIEM, 2017) và không tạo ra được mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, tính đến hết năm 2018, xuất khẩu ngành CN CBCT chiếm tới 93,2 % tổng giá trị xuất khẩu. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu bao gồm: hàng điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; giầy dép; hàng dệt may và nguyên phụ liệu của ngành dệt may; Bảng 3. Cơ cấu xuất khẩu theo ngành kinh tế Đơn vị: Triệu đô a Mỹ 2010 2015 2016 2017 2018 TỔNG SỐ 100 100 100 100 100 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 7.1 4.0 4.5 4.0 3.5 Khai khoáng 9.4 2.7 1.7 1.7 1.2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 82.6 92.5 93.3 93.7 93.2 Ngành khác 0.9 1.8 0.5 0.6 2.1 Nguồn: Tổng c c Thống kê, 2019 [6] 725
  10. Tuy nhiên, CN CBCT cũng hiện là ngành đang chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị nhập khẩu của nền kinh tế, chiếm tới 88,7% trong năm 2018. Điều này cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nhập khẩu trong hoạt động sản xuất của ngành CN CBCT. 3.2.1. Về tình hình liên kết trong ngành CN CBCT Về mối liên kết giữa DN CNHT và DN CN chính: Về cơ bản, sau hơn 30 năm phát triển, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI đang đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh. Bảng 4. Tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước của các nhà lắp ráp tại Việt Nam Lĩnh vực hạ nguồn Tỷ lệ % cung ứng trong nƣớc Xe máy 85-90% Ô tô 15-40% Sản xuất thiết bị đồng bộ 20% Sản xuất máy nông nghiệp, máy động lực 40-60% Sản xuất máy công nghiệp 40% Công nghiệp công nghệ cao 10% Nguồn: Bộ Công thương, 2017 Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất k m ) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nội địa. Về sự hình thành các c m CN, c m liên kết ngành (CLKN) Trong những năm qua, một số CLKN, cụm CNĐT cũng đã tồn tại và hiện hữu một cách tự nhiên. Chẳng hạn như: KCN Thăng Long (Nội Bài, Hà Nội) với sự tập trung của nhiều DN đến từ Nhật Bản, KCN này liên kết các DN lắp ráp cơ điện tử lớn như Canon, Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng linh kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei, Santomas, Yasufuku, ; Tại miền bắc, cụm CN bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang với sự tập trung nhiều các Tập đoàn đa quốc gia như Canon, Samsung, Nokia, LG, Panasonic, và nhiều doanh nghiệp vệ tinh, chủ yếu là DN FDI; trong đó, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò là DN chủ đạo để hình thành và phát triển các cụm ngành. Tại miền nam, hiện cũng đã bắt đầu hình thành cụm ngành công nghệ cao, đặc biệt là vi mạch điện tử và công nghệ thông tin ở TP Hồ Chí Minh; 726
  11. cụm ngành điện tử tại Bình Dương; Tuy nhiên, sự tham gia của DN CNHT nội địa vẫn còn rất hạn chế, thể hiện sự liên kết yếu giữa các DN nội địa với các công ty điện tử lớn, các tập đoàn đa quốc gia. Theo Võ Trí Thành và các cộng sự, dựa theo đánh giá của Mekong Economics (2011), các hạn chế của các CLKN Việt Nam được thể hiện trên các phương diện sau: (1) Các điều kiện về cầu: mức cầu trong nước thấp (để đạt hiệu quả kinh tế nhờ quy mô), Việt Nam chưa thực sự tham gia sâu để đáp ứng cầu của khu vực và thế giới; (2) Cạnh tranh và chiến lược ngành: thiếu các doanh nghiệp trong nước có sức cạnh tranh cao, tăng trưởng năng suất thấp, các mức thuế chưa đủ khuyến khích và không hợp l ; (3) Các điều kiện về nhân tố sản xuất (thiếu nguồn cung lao động lành nghề, chất lượng giáo dục công nghệ cao còn thấp, chất lượng kém của kết cấu hạ tầng ngoài KCN, thiếu kỹ năng quản lý hiệu quả và trình độ đổi mới công nghệ ); (4) Công nghiệp hỗ trợ và các ngành hàng liên quan: thiếu vắng các nguồn cung trong nước có chất lượng và giá r , thiếu hụt thông tin giữa các nhà cung cấp và các nhà lắp ráp. Về mối liên kết giữa DN với hệ thống hiệp hội, trung tâm hỗ trợ DN: theo đánh giá của CIEM (2016)[7], chính quyền địa phương đang vận hành trung tâm hỗ trợ DN và các trung tâm khuyến công tại mỗi một tỉnh, thành phố, tuy nhiên, nhận thức của các DN về sự tồn tại của những cơ sở này có thể rất thấp. Chính vì vậy, tần suất sử dụng các cơ sở này cũng rất thấp. Điều này thể hiện tính liên kết yếu giữa DN với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ DN. 3.3. Cơ hội và thách thức Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm vừa qua, ngành CN CBCT đã có những bước phát triển nhanh chóng, đã có những đóng góp đáng kể và được coi là động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI. Tuy nhiên, thực trạng quá trình phát triển của ngành cũng cho thấy một số hạn chế lớn còn tồn tại, đặc biệt là sự liên kết yếu trong quá trình sản xuất khiến ngành CN CBCT khó có thể nâng cao giá trị gia tăng và đóng góp thực chất hơn vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Những thành tựu và hạn chế của ngành đưa đến những cơ hội và thách thức trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cụ thể là: Một số cơ hội: Thứ nhất, thúc đẩy liên kết thông qua mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu. Trong những năm vừa qua, ngành CN CBCT Việt Nam liên tục là ngành có tỷ trọng và tốc độ kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, do đó, trong bối cảnh tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với việc cắt giảm thuế ở hầu hết các mặt hàng xuống 0 %, mức độ mở cửa sâu sắc và toàn diện hơn, ngành CN CBCT tiếp tục là ngành đứng trước những cơ hội lớn của việc mở rộng và thâm nhập các thị trường. Thông qua việc thúc đẩy việc liên kết sản xuất, thương mại với các đối tác tham gia hiệp định, ngành CN CBCT có nhiều cơ hội lớn để tham gia vào 727
  12. các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị với các nước thành viên, trong khu vực và toàn thế giới. Đặc biệt, với cam kết mở cửa thị trường trong EVFTA sẽ giúp mở rộng hơn nữa thị trường hàng xuất khẩu, nhất là những sản phẩm mà cả hai cùng có lợi thế như nông thủy sản, đồ gỗ, dệt may, giày d p của Việt Nam, máy móc, thiết bị, ô tô, xe máy, đồ uống có cồn của EU. Thứ hai, thúc đẩy liên kết sản xuất trong nước. Khi thuế suất giảm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như: Nguyên phụ liệu dệt may, chất d o, ngô, cao su, sẽ giảm, tạo điều kiện hạ giá thành, giảm chi phí sản xuất hàng CN xuất khẩu. Mặt khác, việc cắt giảm thuế quan sẽ khiến hàng hóa nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là các nước EU vào Việt Nam sẽ nhiều hơn do giá thành r , mẫu mã phong phú và đa dạng, tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Để ngành sản xuất trong nước có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường liên kết, hợp tác sản xuất, từ đó, nâng cao được sức cạnh tranh của sản xuất trong nước. Thứ ba, thúc đẩy liên kết với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI): Với các quy định trong các FTA thế hệ mới, các nhà đầu tư sẽ đầu tư chiều sâu vào thị trường Việt Nam, do đó, chất lượng đầu tư nước ngoài sẽ được cải thiện, tạo động lực cho phát triển nền kinh tế, tăng cường việc liên kết giữa DN FDI với các DN nội địa. Ví dụ: EVFTA sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư chất lượng cao của EU và các đối tác khác vào Việt Nam. Tính đến nay, các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng, tập trung nhiều nhất vào công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ. Một số thách thức đặt ra: Bên cạnh những tác động tích cực, việc thực hiện các FTA thế hệ mới đặt ra một số thách thức cho ngành CN CBCT Việt Nam, cụ thể: Thứ nhất, sức cạnh tranh của ngành CN CBCT Việt Nam hiện nay còn thấp. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết dẫn đến các hàng hóa sản xuất trong nước chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu, đồng thời các ngành sản xuất trong nước chịu tác động trực tiếp của những biến động trên thị trường hàng hóa quốc tế. Mặt khác, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công lắp ráp, nguyên phụ liệu đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu; Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu thấp, trong khi tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chậm được cải thiện, sự liên kết giữa DN nội địa với DN FDI còn yếu khiến cho việc tận dụng các cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trở nên khó khăn hơn. Thứ hai, đối với nhập khẩu, mặc dù việc ký kết FTA với nhiều đối tác song trong ngắn hạn, nhập khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các thị trường truyền thống (như Trung Quốc), do mức độ cam kết thuế sâu cũng như vị trí địa lý thuận lợi sẽ khiến cho vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc chưa thể giải quyết dứt điểm. Bên cạnh đó, việc cắt giảm thuế cũng 728
  13. tạo nhiều áp lực đến hoạt động của doanh nghiệp sản xuất CN CBCT trong nước do năng lực cung ứng của DN trong nước còn yếu. Thứ ba, có một số vấn đề đặt ra đối với dòng vốn FDI vào ngành CN CBCT Việt Nam: (i) Đóng góp của FDI trong việc nâng cao năng lực công nghiệp, còn hạn chế; (ii) Mối liên kết giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu kém; (iii) Các doanh nghiệp FDI chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công lắp ráp, thâm dụng lao động và ít có khả năng tạo tác động lan tỏa về mặt công nghệ; (iv) Khung pháp lý và chính sách mở cửa FDI, hội nhập kinh tế quốc tế tuy đã được cải thiện, song vẫn còn nhiều hạn chế trong quản lý, dẫn tới các vấn đề như ô nhiễm môi trường, chuyển giá, trốn thuế ; (iv) Dòng vốn liên thông hơn với quốc tế cũng khiến cho những nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động cũng đặt ra những thách thức trong việc xây dựng và thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô. 4. Kết luận và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy liên kết để phát triển ngành CN CBCT trong bối cảnh các Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới Như vậy, có thể thấy rằng, trong bối cảnh hội nhập và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, vấn đề liên kết có nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành CN CBCT tại Việt Nam. Trong những năm tiếp theo, ngành CN CBCT vẫn được coi là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để có thể tận dụng được những cơ hội và hạn chế những thách thức trong thực hiện cam kết của các FTA thế hệ mới, cần có những giải pháp để thúc đẩy liên kết trong ngành CN CBCT. Cụ thể là: Thứ nhất, các DN nội địa cần nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của DN FDI, các tập đoàn đa quốc gia, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó, nâng cao giá trị gia tăng cho toàn ngành CN CBCT. Để làm được điều này, giải pháp nỗ lực đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất sẽ có ý nghĩa lớn. Các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới, áp dụng tiến bộ công nghệ vào hoạt động sản xuất; tăng cường kết nối với các DN, tập đoàn đa quốc gia để học hỏi, tiếp thu công nghệ và quá trình tổ chức hoạt động sản xuất để tăng năng suất, giá trị gia tăng của sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong DN để nắm bắt tốt công nghệ, các thông tin về sản xuất, thị trường, Thứ hai, Chính phủ cũng cần có các chính sách để phát triển các khu, cụm ngành công nghiệp theo hướng chuyên sâu để tạo thành các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, từ đó, thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước và giữa DN nội địa với DN FDI, các tập đoàn đa quốc gia. Đồng thời, cần định hướng dòng vốn FDI theo hướng tăng cường liên kết với DN trong nước, tăng cường thu hút FDI vào các các ngành công nghiệp hỗ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa. Mặt khác, cần tăng cường sự phối hợp và liên kết giữa DN với các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức, trung tâm, hiệp hội hỗ trợ DN để có thể kịp thời trao đổi, cung cấp các 729
  14. thông tin, quy định liên quan đến việc thực thi các Hiệp định, các thông tin về thị trường, các thông tin về chính sách ưu đãi, chính sách hỗ trợ, cho doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Văn Cương (2019), Tác động của các Hiệp định thương mại thế hệ mới đến vấn đề ao động, việc làm ở Việt Nam 2. Lê Minh Ngọc và Lê Huyền Trang (2011), "Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển các cụm liên kết ngành tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập", Nghiên cứu kinh tế số 396, tr. 41-50. 3. Nguyễn Ngọc Sơn (2015), Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và ngành ngân hàng trong bối cảnh Hội nhập, Hà Nội. 4. Nguyễn Đình Tài (2013), Hình thành và phát triển c m liên kết ngành ở Việt Nam: Một lựa chọn chính sách, Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện quản lý kinh tế Trung Ương, truy cập ngày 20/7/2016-2016, tại trang web hoa-Hien-dai-hoa/Hinh-thanh-va-phat-trien-cum-lien-ket-nganh-o-Viet-Nam-Mot-so-lua- chon-chinh-sach.html. 5. Võ Trí Thành, "Phát triển mạng lưới cụm liên kết ngành ở Việt Nam". 6. Tổng cục Thống kê (2019), Niên giám thống kê 2018, chủ biên, NXB Thống Kê, Hà Nội. 7. Viện Nghiên cứu Mitsubishi và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2016), Báo cáo Nghiên cứu về nâng cao năng ực các Ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. 8. Joynal Abdin (2016), Government‟s ro e in industria c uster deve opment, truy cập ngày 4-9-2018, tại trang web cluster-development-md-joynal-abdin. 9. Ana Colovic và Olivier Lamotte (2014), "The role of formal industry clusters in the internationalization of new ventures", European Business Review. 26(5), tr. 449-470. 10. Stephen Mark Dobson (1984), An analysis of the role of linkages in peripheral area development: the case of devon and cornwall, Universit y of Exeter. 11. Khalid Nadvi và Stephanie Barrientos (2004), Industrial clusters and poverty reduction. 730