Tín ngưỡng phồn thực ở Nhật Bản - Một vài liên hệ với Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tín ngưỡng phồn thực ở Nhật Bản - Một vài liên hệ với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tin_nguong_phon_thuc_o_nhat_ban_mot_vai_lien_he_voi_viet_nam.pdf
Nội dung text: Tín ngưỡng phồn thực ở Nhật Bản - Một vài liên hệ với Việt Nam
- Tín ngưỡng phồn thực 51 Tín ngưỡng phồn thực ở Nhật Bản - Một vài liên hệ với Việt Nam Lưu Thị Thu Thủy(*) Tóm tắt: Giống như tín ngưỡng của nhiều dân tộc khác trên thế giới, người Nhật thờ đa thần nên các loại hình thờ cúng của họ khá phong phú, đa dạng. Trong tín ngưỡng nguyên thủy của những người Nhật Bản theo Thần đạo (Shinto - tôn giáo tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản), ngoài hai nhóm thờ chính là thờ nhân thần (thờ người) và thờ tự nhiên thần (thờ thiên nhiên), thì tục thờ động thực vật, thờ tự nhiên, thờ sinh thực khí (tín ngưỡng phồn thực) cũng rất phổ biến. Bài viết giới thiệu khái quát về tín ngưỡng phồn thực của người Nhật, qua đó có một vài liên hệ với tín ngưỡng phồn thực của người Việt. Từ khóa: Tín ngưỡng phồn thực, Sinh thực khí, Nghi lễ phồn thực, Vật thiêng, Ma thuật mô phỏng, Trò diễn dân gian Abstract: The Japanese, like many peoples in the world, believe in polytheistic religions which is indicated by their signifi cantly diverse types of worship. Based on the original ideas of Shinto (a Japanese folk religion), there are two main worship groups: human worship and nature worship. Among these, Linga and Yoni worship (fertility cult) is of the most popular. The article provides an overview of fertility cult in Japan in comparison with Vietnam. Keyword: Fertility Cult, Linga and Yoni, Fertility Rites, Spiritual Things, Simulation Wizardry, Folk Performance 1. Tín ngưỡng phồn thực ở Nhật Bản xuất con người để duy trì nòi giống về bản * Nguồn gốc, khái niệm chất giống nhau, đó là sự kết hợp của hai Duy trì sự sống và duy trì nòi giống là yếu tố khác loại (đất và trời, mẹ và cha). nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người. Trong cuộc sống, có khá nhiều mong Đối với văn hóa nông nghiệp, điều này càng muốn của con người không trở thành hiện đặc biệt quan trọng, để duy trì sự sống, con thực, nhất là khi người cổ đại chưa có người cần mùa màng tốt tươi, để duy trì nòi được nhiều lý giải từ góc độ khoa học, vì giống, con người cần sinh sôi. Hình thức vậy người ta sẽ phải tìm đến những thế sản xuất lúa gạo để duy trì sự sống và sản lực siêu nhiên, có quyền năng vô hạn. Đó cũng là nguồn gốc cho sự ra đời của tín (*) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội; Email: ngưỡng phồn thực (phồn: nhiều; thực: nảy luuthuthuy76@yahoo.com nở, sinh sôi).
- 52 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2018 Trong tiếng Nhật, tín ngưỡng phồn năng lượng thiêng sinh ra muôn loài, trong thực (多産信仰: tasan shinkō) còn được đó có cả loài người” và thờ cúng sinh thực gọi bằng các thuật ngữ như: Seishokuki khí là thờ cúng biểu tượng “thiêng liêng”, sūihai (生殖器崇拝/ Thờ sinh thực khí), biểu tượng của phồn thực và no ấm, biểu Oshime sama (おしめさま), Kankiten tượng sinh sôi nảy nở. Đây là quan niệm về (歓喜天/ Hoan Hỉ Thiên), Kinseisama (金 tín ngưỡng phồn thực ở Nhật Bản được đa 精様/ Kim Tinh Dạng), Kanamara sama số các học giả đồng thuận và sử dụng nhiều (金魔羅様/ Kim Ma La Dạng), Kanemaru trong các nghiên cứu sau này. Sama (金丸様/ Kim Hoàn Dạng), Inyoseki * Loại hình thờ cúng (陰陽石/ Đá Âm Dương), Sainokami Tín ngưỡng phồn thực tồn tại ở Nhật (さいの), Kasakami (瘡神/ Sang Thần), Bản trong suốt chiều dài lịch sử cho đến tận Ohokora sama (お祠様/ Từ Dạng), Abana ngày nay, được thể hiện ở hai dạng chính (穴場様/ Huyệt Trường Dạng), Tonbiiwa là: thờ sinh thực khí (thờ linh vật mô phỏng (とんび岩/ Đá bay), v.v (Sawadashi bộ phận sinh dục của nam - linga và của nữ Rosaku, 1921: 11). - yoni) và thờ hành vi giao phối. Ngoài ra, Việc thờ sinh thực khí của nam được tín ngưỡng phồn thực còn thể hiện qua các gọi là Dankonsūhai/ 男根崇拝, thờ sinh nghi lễ phồn thực trong một số lễ hội. thực khí của nữ gọi là Joinsūhai/女陰崇 Các linh vật sinh thực khí trong tín 拝, thờ chung cả hai được gọi là tasansūhai ngưỡng phồn thực của người Nhật được (Nishioka Hideo, 1961: 82-133). chế tác từ nhiều loại nguyên vật liệu khác Ở Nhật Bản, Nhật Bản thư kí nhau như đá, thiếc, đồng, vàng, gỗ, thậm (Nihonshoki/日本書紀) và Cổ sự kí (Kojiki/ chí từ vải , nhưng phần lớn được làm 古事記) có thể là những tài liệu đầu tiên đề bằng đá và gỗ. Tuy nhiên hiện nay, hầu cập đến tín ngưỡng phồn thực của người hết những linh vật này đều được làm bằng Nhật (tục thờ nữ thần và thờ tính nữ) (Yan kim loại. Ở Nhật Bản, chúng ta có thể Shaodang, Niwa Kaori, 2000: 67-90). gặp những linh vật này ở khắp nơi trong Theo quan điểm của Yonokichi (1917: các đền thờ, lễ hội, bảo tàng, ngã ba ngã 28), “Những hình thức nghi lễ để cầu mong tư đường, thậm chí là ở một góc trong sự sung túc, no đủ được gọi là nghi lễ phồn vườn nhà. Theo nghiên cứu của Hideki thực”. Quan điểm này cũng nhận được sự Hirokami, ngay từ thời kỳ trung thế ở Nhật đồng thuận của các nhà nghiên cứu khác Bản đã có khoảng 732 ngôi đền, chùa có như Sawadashi Rosaku (1921: 11), Sato thờ sinh thực khí (Hideki Horikami, 2002: Tetsuro (1995: 16), 40), trong đó có ba nhóm là đền thờ sinh Theo học giả người Anh Stephen thực khí nam, đền thờ sinh thực khí nữ, Turnbull (2005: 11-13), đặc trưng của tín đền thờ sinh thực khí của cả nam và nữ. ngưỡng phồn thực Nhật Bản cũng chính Các ngôi đền này nằm rải rác khắp đất là đặc trưng chung trong tín ngưỡng thờ nước Nhật Bản. Hình dạng, kích thước của sinh thực khí của nhiều dân tộc khác trên các sinh thực khí khá đa dạng, không theo thế giới. một quy chuẩn cụ thể, đôi khi chỉ là cột đá Ueda Kyosuke (1916: 27-41) khái nhỏ, có hình dáng tự nhiên, hình trụ đứng, quát: “Tín ngưỡng phồn thực trước hết biểu chưa qua bàn tay chế tác của con người hiện ở tục thờ sinh thực khí, biểu tượng của (Sato Tetsuro, 1995: 16).
- Tín ngưỡng phồn thực 53 Tín ngưỡng phồn thực của người Nhật Ma thuật mô phỏng là hình ảnh diễn tả còn gắn liền với tục thờ đá. Điều này được hoạt động sinh hoạt tính giao của nam và minh chứng qua nhiều di chỉ khảo cổ nằm nữ trên nhiều biểu trưng được thờ phụng. rải rác khắp đất nước Nhật Bản và một số Đôi khi, hoạt động mô phỏng này được nước ở khu vực Đông Nam Á. Tiêu biểu diễn lại bằng một số trò diễn trong nghi lễ cho tín ngưỡng này là tục thờ đá âm dương cầu cúng ở lễ hội Houne, lễ hội Kanamara. ở đền Onyoseki tỉnh Miyazaki. Tuy nhiên, tại từng địa phương, ma thuật Trong xã hội Nhật Bản cổ đại, biểu mô phỏng và hành thức của nó lại có những trưng cho tín ngưỡng phồn thực của người màu sắc khác nhau. Nhật là vật thiêng và ma thuật mô phỏng. * Một số lễ hội tiêu biểu Vật thiêng là cây cột đá dựng đứng, biểu Tín ngưỡng phồn thực và biểu hiện trưng của dương vật, tượng trưng cho sức của nó có thể được thấy rõ qua một số lễ khỏe sinh sản của nam giới. Giải thích cho hội như: lễ hội Kanamara đền Wakamiya biểu tượng vật thiêng, Alain Gheerbrant, Hachimangu (若宮八幡宮) thuộc thành Jean Chevalier và cộng sự (1997: 271) cho phố Kawasaki tỉnh Kanagawa phía Bắc rằng, đá gắn với biểu tượng dương vật, vì Tokyo; lễ hội Hōnen - thờ sinh thực khí vậy tại một số miền, biểu tượng đá dựng nam, hay còn có tên gọi khác là lễ hội đứng là nơi biểu diễn nghi lễ truy hoan của Hinoko tổ chức vào ngày 15/3 hàng năm tại người cổ đại. Quan niệm về đá - dương vật Tagatajin, một ngôi đền ở phía Bắc thành cũng gần với khái niệm cây - dương vật. phố Nagoya (Takahashi Hideo và Kasuga Do cả đá và cây đều có ý nghĩa tái sinh, Isei,1991: 22); lễ hội tỉnh Iwate, v.v có linh hồn như con người nên hai vật Lễ hội Kanamara vốn xuất phát từ một này được lựa chọn làm biểu trưng cho tín nghi lễ ăn mừng chiến thắng của người ngưỡng phồn thực ở nhiều nước trên thế Nhật xưa khi họ tiêu diệt được một con quỷ giới, trong đó có Nhật Bản. Nghiên cứu răng nanh chuyên cắn vào bộ phận sinh của Sato Tetsuro (1995) đã làm rõ ý nghĩa dục của nam giới. Trong lễ hội Kanamara, của việc thờ vật thiêng trong tín ngưỡng các thầy tu của Thần đạo sẽ dẫn đầu kiệu dân gian Nhật Bản, theo đó: Đá âm dương thứ nhất, họ rắc muối để tẩy uế trên khắp thờ ở đền Kosei daimyojin (魂生大明神), lộ trình hành lễ, những người đàn ông được xây dựng vào thời kỳ văn hóa Jōmon, khác khoác trên mình chiếc áo lễ hội, cùng chính là một trong những minh chứng rõ nhau khiêng một biểu tượng dương vật nét nhất cho tín ngưỡng phồn thực. Lễ lớn, làm bằng gỗ, dài khoảng 2,5 m, nặng hội tôn vinh sinh thực khí nam giới được khoảng 280 kg trên cây kiệu thứ hai và hô tổ chức hàng năm với những biểu tượng vang “hoh sho- hoh sho”. Vật thiêng được bằng đá được thờ ở Nagoya, Iwate và một rước trên một quãng đường dài từ đền số tỉnh vùng Đông Bắc cùng một số trò Shinmeisha (神明社) vào năm chẵn, năm diễn mang đậm tính dân gian trong lễ hội lẻ là đền Kumanosha (熊野神社) đến nơi ngày nay chính là dấu ấn còn sót lại của thờ chính theo kiểu Thần đạo là đền Tagata tín ngưỡng phồn thực cổ đại (Sato Tetsuro, Jinja (田県神社). Theo sau đoàn rước kiệu 1995: 42). Điều này cũng đã được đề cập là đoàn cờ phướn cùng một đoàn các thiếu trong nghiên cứu trước đó của Kunio nữ trẻ trong trang phục lễ hội nhảy múa các Yanigita (1933: 67-80). điệu múa truyền thống. Trước khi linh vật
- 54 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2018 được đưa vào đền thờ chính làm lễ, người đặt trong một không gian thiêng, có hàm ý ta sẽ tiến hành làm nghi lễ như một hình chỉ một vụ mùa bội thu. thức tẩy uế, sau đó linh vật được đưa vào Khác với lễ hội Hōnen (Hōnen trong trong đền thay thế cho linh vật cũ. tiếng Nhật nghĩa là năm thịnh vượng) Tuy nhiên, ngày nay đền Wakamiya rước linh vật là sinh thực khí nam còn có Hachimangu không chỉ là nơi tổ chức lễ một lễ hội khác mà linh vật là sinh thực hội tôn vinh tín ngưỡng dân gian của người khí nữ, được tổ chức tại đền Oagata Jinja. Nhật mà còn là nơi các cô gái mại dâm đến Linh vật hình quả trứng, tượng trưng cho cầu nguyện để tránh căn bệnh về đường bộ phận sinh dục nữ, có chu vi khoảng tình dục và những cặp vợ chồng hiếm 2,7m. muộn đến cầu khấn có con cái. Đây là một Tại một số đền, nơi thờ cả sinh thực nét ý nghĩa mới của lễ hội Kanamura trong khí của nam và nữ, sau lễ rước kiệu là lễ lòng xã hội hiện đại(*). hợp nhất của hai linh vật, sau đó các linh Ở lễ hội tỉnh Iwate, ngoài một biểu vật được đưa trở lại vị trí ban đầu khi lễ hội tượng sinh thực khí nam lớn bằng gỗ được kết thúc. rước, diễu hành khắp làng, còn có nhiều Nhìn chung, những nghi lễ và biểu biểu tượng khác nhỏ hơn được làm bằng tượng vật thiêng hay các lễ hội trong tín củ cải (Daikon). Những người đàn ông ngưỡng phồn thực của người Nhật không tham gia rước linh vật phải là những người chỉ mang những giá trị nghệ thuật mà khỏe mạnh, mặc bộ quần áo kimono màu còn phản ánh đậm nét một hình thức tín trắng hay bộ quần áo kiểu yukata trên có ngưỡng dân gian. Những trò diễn là nhằm in dòng chữ Omatsuri (お祭/lễ hội). Các biểu đạt lòng tin của người cổ đại vào thế cô gái trẻ tham gia rước kiệu mặc những giới hư ảo khi trình độ nhận thức nhiều bộ kimono sặc sỡ, tay cầm các biểu tượng mặt của họ còn thấp. Ngoài ra, nó còn nhỏ, các linh mục Shinto sẽ vừa đi vừa phản ánh một phần sinh hoạt cộng đồng đọc các lời cầu nguyện, ban phước lành cũng như đời sống tinh thần của người cho người tham gia lễ hội. Trong quá trình Nhật cổ. Qua những linh vật, nghệ thuật rước linh vật và đưa linh vật ra khỏi đền, mô phỏng, trò diễn trong các lễ hội liên những người khiêng kiệu sẽ xoay linh vật quan đến tín ngưỡng phồn thực của người theo nhiều kiểu, mô phỏng hoạt động tính Nhật, có thể thấy tín ngưỡng phồn thực dục của dương vật. Khi nghi lễ kết thúc, của người Nhật thuở nguyên sơ vốn gắn linh vật sẽ được đưa trở lại đền chính. bó chặt chẽ với nông nghiệp, là tín ngưỡng Ngoài ra khi rước linh vật, người ta còn cơ bản nhất của cư dân trồng trọt, nó rất tổ chức tế lễ và thực hiện các trò diễn, các phong phú và đã ảnh hưởng sâu đậm tới hoạt động mô phỏng tạo không khí cho lễ sinh hoạt xã hội ở công xã nông thôn Nhật hội, cầu mong cho một năm tốt lành, mùa Bản (Hideo Nishioka, 1956: 59-67). Tín màng bội thu. Tất cả các nghi thức đều ngưỡng phồn thực có ảnh hưởng sâu sắc được tổ chức trong một giờ nhất định và đến đời sống tâm linh của người Nhật, và đây là một trong ba tín ngưỡng quan trọng nhất của họ (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, (*) Phỏng vấn sâu một cư dân địa phương (thành phố Kawasaki, tỉnh Kanagawa) khi tác giả điều tra thực tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ tế tại Nhật Bản năm 2002. cúng tự nhiên).
- Tín ngưỡng phồn thực 55 2. Một vài liên hệ với tín ngưỡng phồn giải trí mà thông qua đó người dân còn gửi thực ở Việt Nam gắm mong ước về một năm mưa thuận gió Trong nền văn hóa dân gian Việt Nam, hòa, mùa màng, cây cối tốt tươi. tín ngưỡng phồn thực mang một ý nghĩa Các trò chơi, màn biểu diễn trong các thiêng liêng, gắn liền với cư dân nông lễ hội liên quan đến tín ngưỡng phồn thực nghiệp, với ước vọng mưa thuận gió hòa, thể hiện niềm tin của người xưa vào thế mùa màng ấm no. Với cư dân nông nghiệp giới hư ảo, thế giới tâm linh. Niềm tin ấy trồng lúa nước, các biểu tượng như âm - là nguồn gốc cho sự hình thành các tín dương, đất - trời, non - nước là những ngưỡng dân gian, những niềm tin đó cũng nhân tố chính để tạo nên sự sinh sôi nảy góp phần làm giàu có thêm đời sống tinh nở của vạn vật, tất cả hòa quyện giữa sinh thần của cộng đồng. khí tự nhiên để tồn tại, phát triển. Người Bên cạnh các lễ hội, tín ngưỡng phồn xưa quan niệm rằng, thông qua trực giác, thực của người Việt còn thể hiện cả trong năng lượng thiêng liêng được tích tụ trong hội họa mà đặc trưng là dòng tranh Đông tự nhiên hay bản thân mỗi con người Hồ ở Bắc Ninh. Rất nhiều bức tranh mang có khả năng chuyển sang vật nuôi hay sắc thái phồn thực như tranh đàn gà, đàn cây trồng. lợn, đàn cá, , thể hiện ước mong về một Người Việt xưa có quan niệm vạn vật cuộc sống viên mãn, sung túc. hữu linh nên đã thờ cúng rất nhiều vị thần. Có thể thấy, tín ngưỡng phồn thực Đặc biệt Việt Nam là đất nước nông nghiệp của người Nhật và người Việt có nhiều nên tín ngưỡng phồn thực của người Việt nét tương đồng. Trước hết, nó đều là biểu khá phong phú, họ thờ nhiều vị thần liên trưng cho nền văn minh nông nghiệp, là quan đến nông nghiệp ở trời, đất, sông, núi, khát vọng ấm no hạnh phúc, mùa màng mây, mưa, nước, nảy nở sinh sôi. Các biểu hiện của tín Tín ngưỡng phồn thực của người Việt ngưỡng phồn thực được thể hiện thông thể hiện qua các lễ hội diễn ra vào mùa xuân qua nghi lễ, hành thức, biểu trưng của một - mùa của sự sinh sôi nảy nở, hay vào đầu số lễ hội. Đặc biệt một số nghi lễ phồn mỗi mùa trồng cấy, xuống đồng. Ngoài ra, thực và thờ sinh thực khí đã được cách tín ngưỡng phồn thực của người Việt còn điệu hóa và nghệ thuật hóa như: tính giao được thể hiện qua một số nghi lễ trong lễ nam nữ được thể hiện qua điệu múa hoặc hội, hay các trò chơi dân gian được cách được cách điệu trong những hình thức trò điệu từ tín ngưỡng phồn thực như bắt trạch diễn. Những trò này vừa mang tính linh trong chum ở lễ hội làng Dưng (Quảng thiêng, vừa mang tính trần tục, với quan Bình), lễ hội rước pháo làng Đồng Kỵ, cờ niệm tạo vật muốn sinh sôi, phát triển người, hay trò đấu vật trong các lễ hội mùa cần phải có hành động cụ thể, để gợi mở xuân (Vũ Anh Tú, 2010: 35-40). Một sới vật những niềm tin vào sự may mắn mới, vào thông thường đều có hình tròn và đặt trong khả năng huyền bí của sự chuyển hóa từ một sân đình hình vuông, đây là biểu tượng những hành động tượng trưng thành hiện mang ý nghĩa sâu xa, hình tròn tượng trưng thực trong đời sống. cho trời và hình vuông là biểu tượng của đất, Ở cả Nhật Bản và Việt Nam, tín ngưỡng đó là tượng trưng của hai tính âm và dương. phồn thực có vai trò lớn đối với đời sống Trò chơi đấu vật không chỉ là một hình thức của người dân. Đối với người Việt xưa,
- 56 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2018 chiếc trống đồng là biểu tượng của quyền nhiều phía, từ cấp nhà nước cho đến mỗi lực, đồng thời cũng là biểu tượng toàn cá nhân diện cho tín ngưỡng phồn thực. Cách đánh trống, cầm chày đâm trên mặt trống được Tài liệu tham khảo khắc họa hết sức tinh tế cũng là hành động 1. Alain Gheerbrant, Jean Chevalier, mô phỏng cho hoạt động sinh sản. Trong Lưu Huy Khánh, Nguyễn Xuân Giao, khi đó ở Nhật Bản, những dấu ấn của linh Phạm Vinh Cư (1997), Từ điển Biểu vật (sinh thực khí) hiện diện khắp nơi, gắn tượng văn hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng, liền với đời sống sinh hoạt thường nhật Đà Nẵng. của người dân. Các lễ hội trong tín ngưỡng 2. 堀上英紀 (2002年), 生命科学からみ phồn thực cả ở Nhật Bản và Việt Nam hầu た生殖器崇拝,法政大学教養部,pp hết được tổ chức vào mùa xuân, thời điểm 17-44 (Hideki Horikami (2002), Thờ bắt đầu một năm mới, mùa của vạn vật sinh cúng sinh thực khí từ góc nhìn sinh mệnh sôi nảy nở. khoa học, Bộ môn giáo dục đại học Bên cạnh các điểm tương đồng, tín Hosei, tr.17-44), ngưỡng phồn thực của Việt Nam và Nhật ac.jp/bitstream/10114/3744/1/kyoyo Bản cũng có một số điểm khác biệt. Trong 113_horikami.pdf tín ngưỡng phồn thực của người Nhật, 3. 西岡秀雄 (1956年),性神大成 - 日本 số lượng đền, lễ hội, nghi thức, trò diễn における生殖崇拝の史的研究,妙技 dân gian liên quan đến thờ tính dương (bộ 出版,東京 (Hideo Nishioka (1956), phận sinh dục nam) mạnh hơn tính âm (bộ Nghiên cứu lịch sử thờ cúng phồn thực phận sinh dục nữ). Còn trong tín ngưỡng ở Nhật: Tính dục Taisei, Nxb. Myōgi phồn thực của người Việt, có sự hài hòa shuppan Tōkyō). hơn trong việc thờ cúng sinh thực khí nam 4. 柳田国男 (1933年),石神問答,石神問 và nữ. 答複製本頒布會,東京(Kunio 3. Kết luận Yanagita (1933), Hỏi đáp về thần đá, Có thể thấy, dù ở bất kỳ dạng thức nào, Nxb. Ishigamimondō fukuseibonhanpu dù mang tính thiêng hay trần tục thì tín kai, Tōkyō). ngưỡng phồn thực cũng đều in dấu đậm nét 5. 西岡秀雄 (1961年),日本性神史, trong đời sống văn hóa tinh thần của người 高橋書店,東京 (Nishioka Hideo Nhật Bản và người Việt Nam, được duy trì, (1961), Lịch sử vị thần sinh thực khí, gìn giữ cho đến ngày nay. Qua tín ngưỡng Nhà sách Takahashishoten, Tōkyō). phồn thực, chúng ta có thể phần nào hiểu rõ 6. 佐藤哲郎 (1995年),生殖信仰の系 hơn về tín ngưỡng dân gian giàu tính triết lý 譜,三書房,東京 (Sato Tetsuro (1995), nhân văn của hai đất nước Nhật Bản và Việt Phả hệ tín ngưỡng sinh thực khí, Nxb. Nam. Loại hình tín ngưỡng này không chỉ Sanshobo, Tōkyō). có giá trị đối với những người hướng theo 7. 澤田四郎 (1921年),日本生殖器崇拝 văn hóa tâm linh, mà còn có ý nghĩa với 概論,私刊本, pp 11 (Sawadashi Rosaku con người nói chung, bởi nó gắn liền với (1921), Khái lược về tục thờ sinh thực mong ước về sự sinh sôi, phát triển. Việc khí Nhật Bản, Tự xuất bản). bảo tồn, giữ gìn tín ngưỡng truyền thống 8. Stephen Turnbull (2015), Japan’s này là cần thiết, đòi hỏi sự quan tâm của Sexual Gods: Shrines, Roles and Rituals
- Tín ngưỡng phồn thực 57 of Procreation and Protection, Brill. 論考 日本古代文学の発生学研 9. 高橋秀雄,春日井正人編 (1991年), 究の構想に際して”,中央学院大 祭礼行事 愛知県,おうふう出版, 学人間 自然論叢, pp 67-90 (Yan 東京 (Takahashi Hideo và Kasuga Isei Shaodang, Niwa Kaori (2000), “Khảo (1991), Lễ hội tỉnh Aichi, Nxb. Obu, sát liên quan đến hủy bỏ và diễn giải Tokyo). tính văn học trong giáo trình văn họ c, 10. Vũ Anh Tú (2010), Tín ngưỡng phồn nghiên cứu liên quan đến tầm nhìn thực trong lễ hội dân gian người Việt ở của nghiên cứu về những phát sinh châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Chính trị quốc trong văn học cổ đại Nhật Bản”, Nhập gia, Hà Nội. môn sau đại học của đại học Chuo, 11. 田恭輔(1916年 ), 生殖器崇拝教の Tuyển tập những đánh giá tự nhiên, 話,慶応大学,東京 (Ueno Kyosuke tr. 67-90). (1916), Câu chuyện về tín ngưỡng 13. 出口米吉(1917年),日本生殖器崇 thờ sinh thực khí, Nxb. Đại học Keio, 拝概,慶応大学,東京 (Yonokichi Tōkyō). (1017), Truyền thuyết về tín ngưỡng 12. 厳招璗丹羽香 (2000年),“文学テキ phồn thực của người Nhật, Nxb. Đại ストの文学的読解と解約に関する học Keio, Tōkyō).