Tinh thần phật giáo trong nền hội họa Myanmar (từ buổi đầu đến thế kỷ xix)

pdf 6 trang Gia Huy 22/05/2022 2040
Bạn đang xem tài liệu "Tinh thần phật giáo trong nền hội họa Myanmar (từ buổi đầu đến thế kỷ xix)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftinh_than_phat_giao_trong_nen_hoi_hoa_myanmar_tu_buoi_dau_de.pdf

Nội dung text: Tinh thần phật giáo trong nền hội họa Myanmar (từ buổi đầu đến thế kỷ xix)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Tạp chí Khoa học số 35 (12-2018) TINH THẦN PHẬT GIÁO TRONG NỀN HỘI HỌA MYANMAR (TỪ BUỔI ĐẦU ĐẾN THẾ KỶ XIX) y Lê Trương Ánh Ngọc(*) Tĩm tắt Phật giáo được xem là quốc giáo ở Myanmar. Với tinh thần hịa hợp thích ứng của Phật giáo, nĩ đã nhanh chĩng trở thành một nhân tố quan trọng, và là một nét đặc trưng của văn hĩa truyền thống Myanmar, biểu hiện cụ thể trong lối sống của nhân dân, văn học, kịch truyền thống, kiến trúc và hội họa. Các chủ đề về Phật giáo đã được các nghệ sĩ tài hoa khai thác và thể hiện trong các sản phẩm hội họa của Myanmar sơ khai. Việc sử dụng những đề tài Phật giáo trong hội họa là một cách thể hiện sự tơn trọng khơng chỉ của các họa sĩ, đĩ cịn là của tất cả người dân Myanmar chân chất dành cho Đức Phật - bậc giác ngộ tồn năng. Từ khĩa: Phật giáo, Myanmar, hội họa, buổi đầu, thế kỷ XIX. 1. Đặt vấn đề khi Đứ c Phậ t giá c ngộ đượ c cấ t giữ trong bả o thá p Phật giáo được xem là suối nguồn tâm linh nay là chù a Shwedagon - chù a và ng Shwedagon. của rất nhiều quốc gia ở châu Á như: Ấn Độ, Trung Từ thế kỷ V - XI, Phậ t giá o phát triển mạnh Quốc, Nhật Bản, Cambodia, Lào, Việt Nam, ở Hạ Miế n. Nhiều bia ký viế t bằ ng tiếng Pali tìm và Myanmar. Ở Myanmar, Phật giáo được xem thấ y tạ i Hmawza, trong đĩ cĩ hai bia và ng đề u là quốc giáo. Với người dân Myanmar, Phật giáo khắ c dị ng chữ Pali, bắ t đầ u vớ i câu Ye dhamma- khơng đơn thuần là một tơn giáo, một niềm tin, hetuppabhava - Vạ n phá p tù y duyên, đã cho thấ y mà nĩ cịn được biểu hiện ở cách sống của họ. Họ Phật giáo Nam Tơng bắ t đầu phát triển ở H ạ Miế n suy nghĩ, hành động tất cả đều tốt lên một tinh và o thế k ỷ thứ VI [8, tr. 101] .Từ thế k ỷ V đế n thế thần Phật giáo Theravada chân chính với hơn 2.500 kỷ X, Phật giáo Nam Tơng tồ n tạ i và phá t triể n rự c năm ngự trị. rỡ ở Prome; nhưng đế n thế k ỷ XI, sắ c dân Thá i ở Tinh thần và văn hĩa Phật giáo đã cĩ một sự Nancho (Nam Chiếu), lúc bấy giờ đã chiếm cứ vùng ảnh hưởng sâu sắc trong nền văn hĩa Myanmar Tây và Tây Bắc Vân Nam, bị áp lực người Hán dồn truyền thống, cụ thể như: văn học, điêu khắc, kiến é p, trà n xuố ng miền Nam, tiế n chiếm Pyu vào năm trúc, kịch truyền thống và hội họa. Nền hội họa 832. Lị ch sử Phậ t giá o Miế n Điệ n bướ c sang mộ t Myanmar sơ kỳ (từ buổi đầu đến thế kỷ XIX) với giai đoạ n mớ i: đĩ là sự xâm chiế m củ a Phậ t giá o các chủ đề mang một màu sắc đặc trưng tơn giáo Nam Tơng từ Thaton và o Thượ ng Miế n - Pagan. - Phật giáo. Khi xem xét, tìm hiểu các tác phẩm Thế kỉ XI - XIII, Phật giáo Tiểu thừa phát triển hội họa Myanmar trong giai đoạn này, một lần nữa mạnh ở Pagan. Sự tiếp nhận Phật giáo Nguyên Thủy khẳng định, tinh thần Phật giáo hịa quyện một cách vào thành phố Pagan vào thế kỷ XI, nhờ một Tỳ hài hịa trong nền văn hĩa Myanmar truyền thống kheo tên là Sun Shin Arahan [3, tr. 45]. Nhờ sự hộ và hiện đại. trì Phật giáo của vua Anawrahta, Phật giáo đã đạt 2. Quá trình du nhập của Phật giáo vào được những thành tựu rực rỡ, nổi bật là xây dựng Myanmar (từ buổi đầu du nhập đến thế kỷ XIX) thành phố Pagan bất tử với vơ vàn những tháp và Phật giáo đã truyền đến Hạ Miến vào thời vua chùa Phật giáo. Mộ t đặ c điểm quan trọ ng củ a Phậ t Ashoka, ba thế k ỷ trướ c cơng nguyên [8, tr. 98]. giá o Nam Tơng ở Miế n Điệ n trong giai đoạ n nà y Hai bộ s ử Dipavamsa (Tiể u sử ) và Mahavamsa là sự liên hệ đặ c biệ t vớ i Phậ t giá o Sri Lanka. Cuố i (Đạ i sử ) của Sri Lanka đã đề c ậ p đế n sự kiệ n nà y và đượ c cá c họ c giả phương Tây chấ p nhậ n. Dấu thế k ỷ XIII, Pagan bắ t đầ u suy yế u và chấ m dứ t tích là bà n chân Đứ c Phậ t ở sơng Nammada gần sự t ồ n tạ i củ a triề u đạ i nà y và o năm 1287 trướ c với núi Saccabandha, di vậ t tĩ c ở Yangon ngay sau sự xâm lăng củ a người Mơng Cổ - Hố t Tấ t Liệ t. Khi đĩ trung tâm Phậ t giá o từ Thượ ng Miế n lạ i chuyể n về H ạ Miế n vớ i sự y ể m trợ c ủ a cá c Tiể u (*) Trường Đại học An Giang. vương Hạ Miế n. 78
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Tạp chí Khoa học số 35 (12-2018) Thế kỉ XIII - XVII, Phật giáo Miến Điện bành ở phía Đơng, cả lãnh thổ phía Tây và Đơng được án trướ ng mạ nh mẽ t ạ i Hạ Miế n, quố c vương xứ Mơn ngữ bởi những rặng núi. Từ thế kỷ II, văn hĩa Hindu tí ch cự c hộ đạo và duy trì mối liên hệ m ậ t thiế t vớ i đã cĩ sự ảnh hưởng sớm nhất đến nền nghệ thuật Phậ t giá o Sri Lanka. Phật giáo trong giai đoạn này ở vương quốc Pyu và đến thế kỷ VIII thì văn hĩa cĩ những lúc thăng trầm khác nhau, nhưng đến cuối Phật giáo mới được du nhập vào. Miến Điện là một triều đại, Phật giáo bước vào giai đoạn suy thối. quốc gia Phật giáo, Ấn Độ là quê hương của Thái Thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển năng động tử Siddathta - người trở thành Đức Phật Gautama; trong lịch sử Phật giáo ở Miến Điện. Các bản văn do vậy sự trao đổi thuộc về văn hĩa với Ấn Độ đã tự tiế ng Pali đượ c dịch sang ngơn ngữ Miế n, tạo phát triển một cách nhanh chĩng hơn Trung Quốc ra sự phát triển vượt bậc trong việc nghiên cứu Vi ở phía Tây lãnh thổ. Cũng cĩ thể vì khơng thể vượt Diệu Pháp [3, tr. 101]. qua những dãy núi chia cắt Miến Điện với Trung Trả i qua cá c triề u vua Tharawaddy - Min Quốc, trong khi đĩ Ấn Độ sẽ dễ dàng hơn cho việc (1837-1846), Pagan - Min (1846-1852) và Mindon xuơi thuyền băng qua vịnh Bengal. (1852-1877) với sự xâm lược của thực dân Anh, Những quốc gia đầu tiên ở Miến Điện là một thời đại lịch sử đã kết thúc: Phật giáo Nguyên vương quốc Pyu và vương quốc Rakhine trên bờ Thủy được phát triển tại Miến Điện trong hơn hai biển phía Tây, hai nền văn minh đã phát triển thành thiên niên kỷ phả i đứng trước nguy cơ bị đe dọ a và cơng nhanh chĩng trong cùng thời gian. Tuy nhiên, tấ n cơng bở i mộ t tơn giá o mớ i - Thiên Chú a giá o. vì khơng thể vượt qua những rặng núi, họ khơng 3. Tinh thần Phật giáo trong nền hội họa trao đổi nhiều về thương mại và văn hĩa lẫn nhau. Myanmar (từ buổi đầu đến thế kỷ XIX) Người Pyu, là một trong những tổ tiên của Nền nghệ thuật Miến Điện được xây dựng trên người Miến Điện ngày nay, tộc người chính, đã sự tơn kính với Đức Phật ngay khi được hình thành. xây dựng những thành phố vĩ đại như Srikhetera, Xa xưa, những bức tranh sớm nhất cịn lưu lại là Tagaung, Beikthano, và Halin Gyi. Những tài liệu những bức tranh thời đại Neolithic (thời đại đồ đá này đã xác nhận trong vương quốc Pyu cả nam cũ) ở hang Padalin thuộc quốc gia Shan. Mười đến và nữ khi đến 7 tuổi phải cạo đầu và trở thành mười hai bức tranh to bằng bàn chân trên sàn trong tu sĩ trong các chùa tăng và chùa ni. Đến khi 20 một hang động mơ tả mặt trời, hai bàn tay, cá, hai tuổi, những người này khơng mong muốn bước đơi bị và bê, dê, bị rừng, những con heo rừng, và vào cuộc sống của tăng đồn thì cĩ thể trở về voi. Sơn là đất sét đỏ trộn với mỡ động vật. Màu đời sống thế tục. Cả nam và nữ đều mặc quần áo sắc mặt trời chiếu rọi trần nhà; những con vật được làm từ cotton, thay vì quần áo dệt từ lụa. Họ tìm mơ tả trong sự chắc chắn, mạnh mẽ, mang đến một kiếm niềm vui trong âm nhạc và khiêu vũ, và sử cảm giác của sự cử động và năng lượng. Sự hài hịa dụng đa dạng các loại nhạc cụ bao gồm đàn hạc là sự tao nhã. Cĩ phải mặt trời là biểu tượng của 14 dây, đàn lia 14 dây, đàn bầu sáo, kết hợp với thần thánh? Cĩ phải những con vật được vẽ trong nhiều loại trống. sự hy vọng rằng người thợ săn sẽ gia tăng sức mạnh Những hình ảnh về Đức Phật được tìm thấy để chiến thắng chúng? Hay là người nghệ sĩ đang trong sản phẩm của người thợ rập nổi bạc với nghĩ về những con người được sinh ra sau khi họ những mảnh vàng khối nhỏ thể hiện kỹ thuật cao qua đời, và ai cĩ thể muốn nhìn thấy tổ tiên của họ của những người đam mê với cơng việc này. Những trong cái hồn tồn? vịng hạt nhỏ hơn đầu que diêm được trang trí với Đã từ lâu, khơng cĩ cách nào để cĩ thể hiểu những hình ảnh rất tỉ mỉ, hình ảnh chim và động được ý nghĩa của những bức tranh được truyền tải; vật chỉ lớn hơn 5mm được khắc một cách tinh tế, chỉ khi nghệ thuật tơn giáo và nền văn học được đây được xem như những bùa hộ mệnh. Số bùa hộ sáng lập, kể từ đĩ chúng ta mới biết về sự tồn tại của mệnh bằng vàng khối và vịng hạt với những thiết chúng đến ngày nay, nhưng tất cả là một sự mơ hồ. kế hiện đại duyên dáng thanh nhã được tìm thấy ở Những bức tranh sớm nhất ở châu Á được cho cửa hàng của người Pháp trong những cuộc khai rằng ở Ấn Độ và Trung Quốc. Miến Điện nằm giữa quật ở Srikhetera. Mã não được mài với những hình hai quốc gia này, Ấn Độ ở phía Tây và Trung Quốc dáng động vật hoặc giũa từ “Om” trong những chi 79
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Tạp chí Khoa học số 35 (12-2018) tiết nhỏ. Những ví dụ về kỹ thuật rất giỏi của người ơng đã nhận xét như thế, khi ơng nhìn thấy 7 tượng thợ được thể hiện trong những hạt mã não rất dày cĩ kích thước như con người bằng vàng và được và chiều dài cỡ ngĩn tay, được khoan rất đẹp mà đeo đồ trang sức. chỉ những sợi tơ mỏng nhất mới cĩ thể xuyên qua Năm 1622, Fra. Marique là một vị khách mời được: khơng con người hiện đại nào cĩ thể tưởng tại buổi lễ đăng quang của vua Thiri Thu Dhamma tượng cơng cụ gì đã được sử dụng. Khơng cĩ những Raza (1622-1638) và nhìn nhà vua mang trang sức phát hiện cịn lưu lại của những tàn tích nghệ thuật sáng chĩi với những viên hồng ngọc, ngọc trai quý như là tranh vẽ, bản khắc, giấy vẽ hoặc vải. hiếm vơ giá và ngai vàng của nhà vua cũng được Vương quốc Pyu bị tàn phá vào thế kỷ IX với bao phủ nhiều lớp ngọc. Nhiều cuộc chiến tranh sức mạnh của vương quốc Nancho thuộc Vân Nam, xảy ra đã lấy đi những báu vật của vùng đất này. Trung Quốc ngày nay và để lại nền văn hĩa của Một số ít người Pyu đã trốn thốt trong sự họ thời điểm vua Anawrahta đã thành lập đế quốc xâm lược của người Nancho bằng vũ lực đã cai trị Pagan thế kỷ XI. những vùng đất gần Pagan, sau đĩ họ đã liên minh Dọc theo bờ biển nhỏ hẹp phía Tây, một với người Miến vốn đã cai trị trước đĩ. Những ngơi vương quốc của những cư dân biển gọi là Rakhine làng của họ chỉ thuộc về một vương quốc do đĩ đã đã phát triển một cách ổn định cùng thời gian với hình thành nên một vương quốc hùng mạnh ở đây vương quốc Pyu. Họ cũng là những tín đồ Phật dưới sự cai trị của vua Anawrahta (1044-1077) đã giáo nhiệt thành và những phế tích cịn lại của thành lập nên đế quốc Miến Điện vào thế kỷ XI. vương quốc là những bằng chứng đủ lớn cho sự Những bức tranh vẽ tường thời kỳ Pagan đã kính yêu đối với Đức Phật. Bao gồm những ngơi thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hĩa Ấn chùa tráng lệ, tượng điêu khắc bằng đồng được Độ trên cả đường nét và dáng điệu. Cả những vị nữ làm tinh xảo. Sự khắc nghiệt của thời tiết đã làm thần của đạo Bà La Mơn và Phật giáo Đại Thừa cĩ hư hoại tồn bộ những tranh vẽ. Chỉ duy nhất thể được nhìn thấy trong những hình ảnh của Phật những ngơi đền được xây dựng bằng đá vững chãi giáo Tiểu Thừa ở đền Abeyadana ở Pagan, được như những pháo đài cịn tồn tại. Những hành lang xây dựng thế kỷ XI. xoắn ốc chạy sâu vào lãnh thổ, những bức tường Nghề thủ cơng tiếp tục phát triển một cách với những hình ảnh chạm khắc thể hiện các vị nhanh chĩng từ thời kỳ Pagan với sự xuất hiện gốm vua, hồng hậu, quý tộc, những người bình dân sứ sơn mài, được cho là nhập khẩu từ các quốc gia đang làm việc, chơi đùa và thi đấu thể thao, như của người Shan và trước đĩ thơng qua các biên là những hình ảnh trong câu chuyện về cuộc đời giới phía Tây từ Trung Quốc. Khơng cĩ gì ngạc của Đức Phật. Những bia đá được xây dựng trong nhiên, những hình ảnh được khắc trên những gốm những ngơi đền của người Rakhine cịn lưu lại sơn mài đến ngày nay đều hướng đến những chủ danh sách các vị vua, nhưng lại cĩ rất ít thơng tin đề về tơn giáo. Cả những tranh vẽ tường và những về cuộc sống của họ. motip trang trí trên đồ thủ cơng từ những thế kỷ Linh mục người Bồ Đào Nha Fra Manirique, đầu được chế tác với những đường nét thể hiện ở một nhà ngoại giao từ thuộc địa của Bồ Đào Nha những quốc gia châu Á khác, mà khơng thấy quy ở Goa, người đã sống ở thành phố Mrauk Oo vào luật xa gần hay bĩng đổ. thế kỷ XVII, đã ghi nhận sự giàu cĩ của vùng đất Tranh màu nước được làm bằng đất, quặng và này một cách chi tiết. Trong chuyến viếng thăm của cây cỏ. Những người họa sĩ tiên phong chỉ sử dụng ơng ta đến cung điện hồng gia, ơng nĩi ơng ta đã những màu cơ bản là đen, trắng, đỏ và vàng. Màu băng qua một hội trường với những bức tường gỗ trắng lấy từ đá vơi hay bột talc, màu đỏ từ đất sét đàn hương, bước vào một sảnh đường được biết đỏ, màu vàng từ thư hồng, màu đen từ bồ hĩng như “Ngơi nhà vàng” nơi mà những ơ cửa được lị đốt, đỏ tươi từ thủy ngân, xanh dương từ cây làm bằng vàng, và trần nhà được bao phủ những chàm, xanh lá từ đồng sulphate. Trộn các màu này dây leo với những trái lớn, tất cả được bao phủ với nhau sẽ tạo ra một chất keo giống như sáp của bằng vàng. Đây cĩ thể là căn phịng thể hiện sự cây Tamar và kết hợp với những màu cĩ độ sáng tơn trọng đối với những vị tổ tiên trong hồng tộc, như đỏ, tím, cam và mật của động vật. 80
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Tạp chí Khoa học số 35 (12-2018) Những bức tranh vẽ tường sớm thì hầu hết đẹp mặc dù chúng khơng được bảo tồn hay phục thể hiện một tone màu tối, nhưng sau đĩ màu sắc hồi như là ở đền Lawka Hteik - pan, Pahtotha Mya, trở nên sáng hơn. Chúng khơng phải là những bức Abeyadana, Sulamuni, chùa Paya Thonzu, đền bích họa truyền thống của châu Âu; tuy nhiên, trong Nandamanya, Nagayon, Thanbula, và tu viện U những chiều hướng thì bức tranh khơng được đặt Pali Thein. Những tranh tường thế kỷ XIX trong vào bề mặt khi vơi vữa cịn ẩm ướt. Những bức tu viện Ananda Oke Kyaung gần đền Ananda đã tranh tường đã được làm sau đĩ khi lớp thạch cao cho thấy những hình ảnh vui chơi giải trí của con trên tường khơ đi. Một vài bức tường đầu tiên được người trong cuộc sống thế tục. bao phủ bằng vải, đây là bước quan trọng và sau đĩ Hầu hết những tranh vẽ tường thú vị của được sơn. Chẳng hạn như chùa Sulay Gon ở Nam đầu thời kỳ Pagan cĩ thể được tìm thấy ở hang làng Wet - kyi In. Tất cả các mảng tường được phủ Kyansitha Umin ở Nyaung Oo, thị trấn bãi bồi kín vải trước khi sơn được trải lên. gần Pagan. Kyansitha (1084 - 1112) là một vị vua Vào năm 1984, một đội các nhà khảo cổ học vĩ đại khác, là người kế vị ngai vàng trong bảy đang làm việc ở một ngơi đền nhỏ thì một cơng năm ngay sau sự ra đi của vua Anawrahta. Nhà nhân kéo ra một tấm vải cuộn trịn bên trong là vua đã xây dựng nhiều ngơi chùa tuyệt đẹp, trong một cánh tay bị gãy của một pho tượng Phật. Thật đĩ cĩ Ananda. khơng may tấm vải dễ dàng bị rách thành nhiều Kyansittha Umin cũng là một người được tán mảnh nhưng những mảnh vụn đã được tập hợp lại dương và tự hào. Trong số các tranh vẽ tường đã một cách cẩn thận và gởi đến Rome để phục hồi. thể hiện hình ảnh những nhạc cơng, vũ cơng với Nĩ được gởi trả về vào năm 1988 và được trưng những cử động khỏe mạnh dứt khốc. Những chi bày ở bảo tàng Pagan. Tấm vải, cĩ thể được sản tiết của những người vui vẻ sau cơn say khơng phải xuất vào thế kỷ XII, chiều rộng 81.5cm và chiều là trường phái truyền thống nhưng đã được vẽ một dài 136cm đã được phủ nhẹ một lớp đất sét hay cách đầy tự hào và sáng tạo đĩ là một sản phẩm thạch cao. Năm tầng ơ cửa thể hiện những cảnh của Picasso. Đến thế kỷ XIII, trường phái lập thể trong câu chuyện Jataka. Trong những sự phân chia đã xuất hiện như một xu hướng hiện đại kéo dài hình, những tư thế duyên dáng và những bĩng mờ gần 900 năm. trong những gam màu sáng chĩi, giúp gợi nhớ lại Sau thời đại Pagan là thời kỳ Pinya và Inwa, những bức tranh vẽ trên giấy papyrus của người hai thời đại này khơng cĩ thành tựu đáng kể về hội Ai Cập cổ đại. Những bức tranh đã sử dụng thần họa và văn chương nhưng kiến trúc thì khác hẳn. sa, realgar, sơn mài, than, thổ hồng, đất son đỏ, Do sự xâm lược của người Shan trong thế kỷ XIV, và thư hồng. Cĩ lẽ nĩ đã được để vào bên trong những tranh vẽ trở nên kém mềm mại trong phong những hình ảnh như một sự cho phép. Đây là ví dụ cách. Các đường nét trên gương mặt mang một sớm nhất cho nghệ thuật vẽ trên vải. hình thức khơng tự nhiên và tồn tại cho đến ngày Khi Pagan sụp đổ trước sự xâm lược của nay trong hình ảnh của Đức Phật được tạo ra trong Kublai Khan vào năm 1277, người Mơng Cổ khơng vương quốc Shan, hai chân mày cong đối xứng ở lại để sinh sống trên lãnh thổ nhưng nĩ cũng đã và cặp mắt to. Những khuơn mặt trịn với những đánh dấu sự kết thúc của đế quốc Miến Điện đầu hàm vuơng, một bên má đầy đặn hơn bên cịn lại. tiên và sức mạnh của Pagan. Những người Mogol Những nhà phân tích nghĩ rằng điều này cĩ nghĩa đã đặt cai trị một cách yếu ớt trong sự lựa chọn là sự thể hiện hình ảnh một lá trầu khơng trên một của họ về những người Shan hay người Miến, là bên má. Một vài học giả suy đốn rằng việc ăn những người thích hợp cho một quốc gia độc lập. trầu của người Miến Điện đã hình thành vào thời Họ đã từ bỏ Pagan và thành lập những triều đại gian này, và đĩ như là một thĩi quen đã tồn tại lâu mới ở miền Bắc. dài trong cung điện. Những thân hình kém duyên Việc bảo tồn và phục hồi tốt nhất các bức dáng, khơng cịn những đường cong trong tư thế tranh vẽ tường trong thời đại Pagan cĩ thể được tri - banga: họ được vẽ trong tư thế ngồi hay đứng tìm thấy ở đền Myingaba Gubyakkyi. Những ngơi với lưng thẳng. Nhiều màu sắc được sử dụng hơn, đền khác cũng cĩ những bức tranh vẽ tường tuyệt đặc biệt là màu đỏ và xanh lá cây, điều này được 81
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Tạp chí Khoa học số 35 (12-2018) tìm thấy trong những bức tranh ở đền hang Lawka hồn tồn Miến Điện. ở Sagaing. Nghệ thuật của thời đại Konbaung một lần nữa Những tranh vẽ tường giữa thời kỳ này cũng thể hiện sự thay đổi đáng kể. Những tư thế kém được phát hiện ở đền hang Po Win Taung ở thị trấn mềm mại trước đây đã được thay thế với những Monywa và chùa Ratna Theingu gần làng Myauk chi tiết thư thái thời kỳ Inwa, miêu tả những người Myay ở khu hành chính Paleik. Khơng lâu sau đĩ bình dân, những nhà sư, người trưởng thành và trẻ vào thời đại Pinya cũng tìm thấy những tranh vẽ con về cuộc sống hàng ngày của họ. tường ở chùa Aung Myay Lawka - làng Chaung Oo; Những sáng tác và trình bày, khái niệm về chùa Yoke Son và Lawkan Aung Myay - làng Kin nhận thức cao, hầu hết là quan điểm về mắt chim Bun, đều ở thị trấn Monywa; chùa Shinpin Sakyo trong những hình ảnh tìm thấy nhiều trong thời ở Salay và nhiều những ngơi chùa nhỏ khác rải rác gian đầu vương triều Konbaung kéo dài đến thế kỷ ở vùng Thượng và Trung Miến Điện. XIX, khi mà những người viếng thăm ở phương Đế quốc Miến Điện thứ hai, được xây dựng Tây giới thiệu về khái niệm viễn cảnh. Thế nên, vào thế kỷ XVI, thủ đơ là Toungoo, ngày nay là một khoảng cách trong hội họa truyền thống đã được thị trấn nhỏ cách Pagan về phía Đơng Bắc gần 250 thể hiện thay thế bằng những chi tiết và vật thể km, và sau đĩ được dời về Bago ở vùng đồng bằng được sắp xếp thành những lớp với vị trí thấp nhất phía Nam. Hồng đế Tabinshwehti (1531 - 1551) so với bề mặt, gần nhất với người xem và những là người đặt nền mĩng đầu tiên của đế quốc, và vị trí cao hơn cũng như khoảng cách xa hơn. Các đến người em rể của hồng đế - Bayinnaung (1551 ơ cửa cao chiếu rọi bầu trời rải rác những áng mây -1581) đã thành cơng trong việc thành lập đế quốc đang bay trên thiên đàng. Cây, bụi rậm, hay dịng này. Trong suốt thời đại đĩ, văn học, âm nhạc và suối đã phân chia bối cảnh từ hình ảnh tiếp theo thơ ca đã phát triển một cách nhanh chĩng nhưng khi cần thiết. khơng cĩ một sự ghi nhận nào về hội họa. Cung Chẳng hạn, những bức tranh ở đền Taung điện của vua Bayinaung, tuy nhiên, là một sự ấn Thaman Kyauk Taw Gyi của Amarapura cũng như tượng và cực kỳ tráng lệ. Thậm chí hầu hết mọi là những bức tranh đầy màu sắc ở chùa Shwe Gu ngĩc ngách thấp cũng sáng chĩi, được ghi chú Ni gần Monywa và đền Po Kala gần Mandalay. trong những bản ghi chép hiện đại. Bayinaung Một số những bức tranh tuyệt đẹp khác của thế kỷ qua đời sau 30 năm trị trì, vương quốc đã suy yếu XIX cũng được tìm thấy một cách kỳ lạ ở Pagan, do sự cai trị yếu ớt của những người kế nhiệm U Pali Thein và một tu viện bằng gạch nhỏ gần ơng. Con trai của Bayinaung, vua Nanda Bayin đền Ananda. (1581 - 1599) được xem là một con người khơn Vào thế kỷ XVIII, sách tranh gấp gọi là ngoan cũng như cĩ cái nhìn tốt đẹp và kỹ năng parabeik đã trở nên phổ biến trong cung điện. Tuy tuyệt vời về nghệ thuật. Ơng ta đã tạo nên hình ảnh nhiên, tranh vẽ của Miến Điện tiếp tục phát triển của Ngũ Trí Như Lai bằng sáp là đặc trưng của vẻ với sự khác biệt so với nền hội họa Trung Quốc, đẹp vì thế ơng nổi tiếng trong lịch sử như Người Nhật Bản hay Hàn Quốc. Cĩ thể do những họa sĩ hiến tặng Ngũ Trí Như Lai. Miến Điện khơng cĩ loại giấy tốt hay là do truyền Đế chế Miến Điện thứ ba đươc hình thành thống vẽ tranh tường trang trí trên tơ lụa. Tơ lụa vào năm 1752 do vua Alaungpaya (1752 - 1760) ở được sử dụng duy nhất để làm y phục, với những vùng Thượng Miến với thủ đơ đầu tiên ở Shwebo. cuộn tơ được nhập khẩu từ Trung Quốc, bởi vì sản Ơng là người đứng đầu làng Moke Hsoe, ơng đã xuất tơ lụa đồng nghĩa là giết chết những con tằm, tập hợp những ngơi làng dưới quyền lực của ơng để điều mà những Phật tử trong cộng đồng ngày nay làm cuộc cách mạng chống lại sự cai trị của người cũng do dự khi làm. Shan ở vùng Thượng Miến. Vương triều Konbaung Miến Điện cũng khơng sử dụng cọ trong ghi do ơng thành lập tồn tại qua 11 triều đại và được chép, vì thế sự mượt mà và sạch sẽ của những chiếc xem là nền quân chủ cuối cùng ở Miến Điện. Vào cọ khơng trở thành một lĩnh vực của chuyên gia. năm 1885, trong suốt triều đại của người cháu trai Sự thể hiện nét bút một cách điêu luyện của người vĩ đại của ơng - vua Thibaw người Anh đã thơn tính Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc trong những 82
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Tạp chí Khoa học số 35 (12-2018) bản thư pháp tuyệt đẹp đã ảnh hưởng nhiều đến kỹ cách hồn tồn cho những kiến trúc tơn giáo, hay năng của những họa sĩ trong cách cầm cọ của họ tạo ra xung quanh những chủ đề về tơn giáo. Tinh ở những quốc gia này. Người Miến Điện đã viết thần Phật giáo đã bao trùm những tác phẩm nghệ trên lá cọ bằng bút trâm trước khi sử dụng giấy, vì thuật hội họa Myanmar: chùa, tháp, tranh vẽ tường, thế thư pháp khơng cĩ cơ hội trở thành một hình thư pháp, tượng Phật, bùa hộ mệnh, Đây khơng thức hội họa trong cùng mức độ của những ngơn chỉ là một phương tiện cơ bản trong cách thể hiện ngữ khác ở châu Á. sự tơn kính với Đức Phật về những lời giáo huấn Chỉ cĩ hai hình thức thư pháp trong nghệ thuật của Ngài cho hịa bình, lịng tốt và tình thương, mà là những từ được khắc trên đá, hay những giáo đĩ cịn là cách thể hiện những đặc trưng cơ bản nhất lý tơn giáo được mạ vàng trên gỗ sơn mài. Bình trong nền văn hĩa truyền thống Myanmar. Vượt lên thường những từ của người Miến cơ bản là trịn trên sự thay đổi của thời gian và khơng gian, sự nhưng nội dung tơn giáo trên gỗ sơn mài phẳng là hiện đại trong tư duy và lối sống; kể từ những nền những từ với các cạnh lớn hơn và gĩc hình vuơng, văn minh sớm nhất cho đến tận ngày nay, hình thức rất giống hạt me. Cách viết thư pháp này vì thế bày tỏ lịng tơn kính ký ức về Đức Phật được duy trì được gọi là “viết hạt trái me”. hầu như khơng thay đổi trong suốt chiều dài lịch sử 4. Kết luận và trong đời sống thường nhật của người Myanmar Nhìn chung, nghệ thuật đã được sử dụng một thơng qua nghệ thuật và bằng nghệ thuật./. Tài liệu tham khảo [1]. Lieut & General Sir Arthur Phayee (1883), History of Burma including Burma proper, Pegu, Taungu, Tenasserim, and ArakanII, London, Teubner & co, Ludgate Hill. [2]. Roger Bischoff (1998), Buddhism in Myanmar - A short history, Buddha Dharma Education Association Inc. [3]. Ian Harris (2007), Buddhism - Power and political order, Routledge Taylor & Francis Group, London & New York. [4]. G.H. Harvey (2000), History of Burma, Asian Educational Services. [5]. Trương Sĩ Hù ng, Cao Xuân Phổ , Huy Thơng & Phạ m Thị Vinh (2003), Mấ y tí n ngưỡ ng tơn giá o Đơng Nam Á , NXB Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh. [6]. Khin Maung Nyunt, U Sen Myo Min & MA Thanegi (2006), Myanmar - From worship to self imaging, Published by Education Publishing House, Vietnam. [7]. Jerrold Schecter (1965), The new face of Buddha - Buddhism and political power in southeast Asia, John Wealtherhill, Tokyo. [8]. Trầ n Quang Thuậ n (2008), Phậ t giá o Miế n Điệ n , NXB Tơn giáo, Hà Nội. [9]. Trầ n Quang Thuậ n (2008), Phậ t giá o Nam Tơng tạ i Đơng Nam Á, NXB Tơn giáo, Hà Nội. BUDDHIST SPIRIT IN THE MYNAMAR PAINTING (From the beginning to the 19th century) Summary Buddhism is considered the national religion in Myanamr. With its harmony and adaptation, Buddhism quickly became an important factor and a prominant feature of Myanmar’s traditional culture, specifi cally found in the people’s life style, literature, traditional drama, architecture, and painting. Buddhist themes were used and expressed in the early Myanmar paintings by talented artists. These Buddhist themes in painting were one way to show respect from both artists and the Myanmar people towards Buddha - the enlightened and almighty Figure. Keywords: Buddhism, Myanmar, painting, beginning, 19th century. Ngày nhận bài: 16/8/2018; Ngày nhận lại: 10/12/2018; Ngày duyệt đăng: 27/12/2018. 83