Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trường Đại học sư phạm kỹ thuật Nam Định

pdf 211 trang Gia Huy 18/05/2022 2250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trường Đại học sư phạm kỹ thuật Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_kinh_te_vi_mo_truong_dai_hoc_su_pham_ky_thuat_nam.pdf

Nội dung text: Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trường Đại học sư phạm kỹ thuật Nam Định

  1. Bài giảng Kinh tế vĩ mô CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ Các vấn đề về kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái chúng ta có thể nhận đƣợc. Mỗi thứ chúng ta nhận đƣợc bị hạn chế bởi thời gian và thu nhập hiện có. Kết quả là mọi ngƣời luôn có những mong muốn không đƣợc thỏa mãn. Cái mà tổng thể xã hội có thể nhận đƣợc bị giới hạn bởi các nguồn lực sản xuất mà chúng ta có thể sử dụng. Tƣơng tự nhƣ gia đình thì một xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Một xã hội cần phải quyết định cái gì cần phải làm và ai sẽ làm việc đó. Cần phải có một số ngƣời sản xuất thực phẩm, một số ngƣời khác sản xuất quần áo và cũng cần một số ngƣời khác thiết kế phần mềm máy tính. Một khi xã hội đã phân bổ đƣợc mọi ngƣời vào những ngành nghề khác nhau, nó cũng phân bổ sản lƣợng hàng hóa và dịch vụ mà họ đã sản xuất ra. Nó sẽ quyết định ai sẽ ăn trứng, cá, thịt, rau; nó sẽ quyết định ai sẽ có xe ô tô riêng để đi và ai sẽ phải sử dụng xe buýt. 1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM TRONG KINH TẾ HỌC 1.1.1. Kinh tế học Kinh tế học là môn khoa học ra đời cách đây hơn hai thế kỷ. Từ đó đến nay kinh tế học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, do đó cũng đã xuất hiện khá nhiều các định nghĩa về kinh tế học. Một số khái niệm về kinh tế học đƣợc nhiều nhà kinh tế hiện nay sử dụng: (1). Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu những lựa chọn của cá nhân và xã hội về cách thức sử dụng nguồn tài nguyên có hạn. (2). Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu hoạt động của con ngƣời trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. (3). Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu việc lựa chọn cách sử dụng hợp lý nhất các nguồn lực để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn cao nhất nhu cầu cho mọi thành viên trong xã hội. Việc quản lý nguồn lực xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm, nghĩa là xã hội có các nguồn lực hạn chế (tài nguyên thiên nhiên, đất đai, ) và vì thế không thể sản xuất mọi hàng hóa và dịch vụ mà mọi ngƣời mong muốn (tƣơng tự nhƣ một hộ gia đình không thể đáp ứng mọi mong muốn của tất cả mọi ngƣời). Do vậy, kinh tế học nghiên cứu quyết định của con người và xã hội về những lựa chọn để đáp ứng nhu cầu trong hiện tại cũng như trong tương lai. Những lựa chọn này đƣợc biểu hiện thành những hiện tƣợng kinh tế. Kinh tế học nghiên cứu hiện tƣợng này trên hai góc độ: - Góc độ bộ phận: hộ gia đình, doanh nghiệp, thị trƣờng, (kinh tế vi mô) Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 1
  2. Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Góc độ toàn bộ nền kinh tế (kinh tế vĩ mô) 1.1.2. Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô - Kinh tế vi mô: Kinh tế vi mô là một bộ phận của kinh tế học; nó nghiên cứu, phân tích quyết định của các đơn vị kinh tế riêng lẻ nhƣ doanh nghiệp, hộ gia đình. Do vậy, kinh tế học vi mô nghiên cứu và phân tích các vấn đề kinh tế cụ thể nhƣ: cung, cầu hàng hóa; tiêu dùng cá nhân; sản xuất, chi phí, giá cả, lợi nhuận; cạnh tranh, độc quyền; - Kinh tế vĩ mô: Kinh tế vĩ mô là một bộ phận của kinh tế học; nó nghiên cứu, phân tích quyết định của một quốc gia. Nó quan tâm tới mục tiêu kinh tế chung của một nền kinh tế tổng thể. Do vậy, kinh tế vĩ mô nghiên cứu và phân tích các vấn đề chung của toàn bộ nền kinh tế nhƣ: tổng sản phẩm, thu nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp, đầu tƣ, tiết kiệm, Nguyên tắc cơ bản nhất của kinh tế vi mô là các hộ gia đình và doanh nghiệp “tối đa hóa” – tức là họ tìm cách hành động hợp lý cho phép đạt đƣợc mục tiêu đề ra trong điều kiện có những giới hạn nhất định. Trong kinh tế học vi mô, các hộ gia đình ra quyết định mua hàng hóa sao cho tối đa hóa mức độ thỏa mãn của mình – điều mà các nhà kinh tế gọi là lợi ích và các doanh nghiệp đƣa ra quyết định sản xuất nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì các vấn đề kinh tế mà kinh tế vĩ mô nghiên cứu phát sinh từ tác động qua lại giữa nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp, nên kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi nghiên cứu nền kinh tế với tƣ cách một tổng thể, chúng ta phải xem xét quyết định của các chủ thể kinh tế cá biệt. Ví dụ: để hiểu đƣợc yếu tố nào quyết định tổng mức chi tiêu của ngƣời tiêu dùng, chúng ta cần phải biết về cách thức một gia đình quyết định về mức chi tiêu hiện tại và tiết kiệm bao nhiêu cho tƣơng lai. Để hiểu đƣợc yếu tố nào quyết định tổng chi tiêu cho đầu tƣ, chúng ta cần phải biết cách thức một doanh nghiệp quyết định có nên xây dựng một nhà máy mới hay không. Do vậy, trong quản lý kinh tế cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phƣơng diện: vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề kinh tế vi mô nhƣ tăng sản lƣợng của doanh nghiệp mà không có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc thì không thể phát triển kinh tế một cách ổn định, bình đẳng, tạo môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.3. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc - Kinh tế học thực chứng: Là một cách tiếp cận của kinh tế học, nó nghiên cứu và mô tả các hiện tƣợng kinh tế xã hội một cách khách quan và khoa học. Dù chính kiến của con ngƣời có khác nhau nhƣng hiện tƣợng đó vẫn diễn ra đúng nhƣ quy luật Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 2
  3. Bài giảng Kinh tế vĩ mô khách quan. Ở một chừng mực nào đó, ngƣời ta có thể coi nó nhƣ một môn khoa học tự nhiên. Nói ngắn gọn thì kinh tế học thực chứng là mô tả và phân tích các sự kiện, hiện tƣợng, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Nó trả lời câu hỏi “là bao nhiêu? là gì? nhƣ thế nào?” - Kinh tế học chuẩn tắc: Là một cách tiếp cận của kinh tế học liên quan đến quan điểm đạo lý, chính trị của một quốc gia. Nó đƣa ra những lời chỉ dẫn, khuyến nghị dựa trên cơ sở đánh giá theo tiêu chuẩn cá nhân. Các nhà kinh tế luôn tìm cách đánh giá xem thế giới kinh tế vận hành nhƣ thế nào. Để theo đuổi mục tiêu này, họ phân biệt hai câu hỏi: thế giới là gì? Thế giới cần phải nhƣ thế nào? Ví dụ: Chẳng hạn, có hai nhà kinh tế học đang bàn về luật tiền lƣơng tối thiểu. Bạn có thể nghe thấy họ nói những điều sau: Ông A: Luật tiền lƣơng tối thiểu gây ra thất nghiệp. Ông B: Chính phủ cần tăng tiền lƣơng tối thiểu. Tạm thời chúng ta chƣa bàn đến việc có đồng ý với các nhận định trên hay không, mà chú ý rằng A và B đang khác nhau ở điều mà họ tìm cách làm. Ông A đang nói nhƣ một nhà khoa học: ông đang khẳng định phƣơng thức vận hành của thế giới. Ông B đang nói nhƣ một nhà tƣ vấn: ông khẳng định điều mà ông muốn làm để thay đổi thế giới. Nhìn chung, các nhận định về thế giới bao gồm hai loại. Một loại có tính thực chứng nhƣ nhận định của ông A. Các nhận định thực chứng mang tính chất mô tả. Chúng khẳng định thế giới là nhƣ thế nào. Loại thứ hai có tính chuẩn tắc nhƣ nhận định của ông B. Các nhận định chuẩn tắc có tính chất khuyến nghị. Chúng khẳng định thế giới cần phải nhƣ thế nào. Sự khác biệt then chốt giữa nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc là ở chỗ chúng ta đánh giá tính chân thực của nó nhƣ thế nào. Về nguyên tắc, chúng ta có thể xác nhận hoặc bác bỏ nhận định thực chứng bằng cách xem xét bằng chứng thực tế. Một nhà kinh tế có thể đánh giá nhận định của ông A bằng cách phân tích số liệu về những thay đổi trong tiền lƣơng thực tế và những thay đổi theo thời gian của thất nghiệp. Ngƣợc lại, việc đánh giá nhận định chuẩn tắc liên quan đến cả các giá trị và thực tế. Không thể đánh giá nhận định của ông B chỉ bằng cách sử dụng số liệu. Việc quyết định xem chính sách nào là tốt và chính sách nào chƣa tốt không phải là một vấn đề thuần túy khoa học. Nó còn gắn với quan điểm của chúng ta về đạo đức, tôn giáo và triết lý chính trị. Tuy nhiên, nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc có mối quan hệ với nhau. Quan điểm thực chứng về cách vận hành thế giới ảnh hƣởng tới quan điểm chuẩn tắc về việc những chính sách nào là đáng mong muốn. Nếu nhận định của ông A Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 3
  4. Bài giảng Kinh tế vĩ mô rằng tiền lƣơng tối thiểu gây ra thất nghiệp đúng, nó có thể dẫn đến việc từ bỏ kết luận của ông B là Chính phủ cần tăng tiền lƣơng tối thiểu. Do vậy, khi nghiên cứu kinh tế học cần phải luôn luôn nhớ tới sự phân biệt giữa nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc. 1.1.4. Những đặc trƣng cơ bản của kinh tế học 1.1.4.1. Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối với nhu cầu kinh tế xã hội Đây là đặc trƣng kinh tế cơ bản gắn liền với tiền đề nghiên cứu và phát triển của môn kinh tế học. Không thể sản xuất một loại hàng hoá nào đó để thoả mãn đầy đủ mọi nhu cầu của con ngƣời đƣợc.Vì nhu cầu thì đa dạng, còn nguồn lực thì hữu hạn do đó cần phải cân đối, lựa chọn. 1.1.4.2. Tính hợp lý của kinh tế học Đặc trƣng này thể hiện ở chỗ, khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên các giả thiết hợp lý nhất định và diễn biến của sự kiện kinh tế này. Tuy nhiên, cần lƣu ý rằng tính hợp lý chỉ có tính chất tƣơng đối vì nó phụ thuộc vào điều kiện môi trƣờng của sự kiện kinh tế. Ví dụ 1: Muốn phân tích hành vi ngƣời tiêu dùng muốn mua thứ gì? số lƣợng là bao nhiêu? thì kinh tế học giả định họ tìm cách mua đƣợc nhiều hàng hoá dịch vụ nhất trong số thu nhập hạn chế của mình. Ví dụ 2: Để phân tích xem doanh nghiệp sẽ sản xuất cái gì, bao nhiêu? bằng cách nào? có thể giả định rằng doanh nghiệp sẽ tìm cách tối đa hoá lợi nhuận trong giới hạn nguồn lực của doanh nghiệp. 1.1.4.3. Kinh tế học là một bộ môn nghiên cứu mặt lượng Với đặc trƣng này kinh tế học thể hiện kết quả nghiên cứu kinh tế bằng các con số có tầm quan trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động chỉ nhận định nó tăng lên hay giảm đi thì chƣa đủ mà phải thấy đƣợc sự biến đổi của nó nhƣ thế nào? là bao nhiêu? Ví dụ: Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp A năm N khả quan là chƣa đủ, chƣa thấy đƣợc điều gì mà khả quan nhƣ thế nào? Phải đƣợc lƣợng hoá thông qua các chỉ tiêu kinh tế nhƣ: doanh thu tăng 20% so với năm N-1 với mức tăng 400 tỷ đồng; lợi nhuận tăng 22% so với năm N-1, mức tăng tăng là 150 tỷ đồng, 1.1.4.4. Tính toàn diện và tính tổng hợp Đặc trƣng này của kinh tế học là khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ với các hoạt động, sự kiện kinh tế khác trên phƣơng diện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 4
  5. Bài giảng Kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế thậm chí có những sự kiện phải đặt trong mối quan hệ quốc tế. Ví dụ: “Trong giai đoạn 2000- 2005 nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trƣởng cao và ổn định”. Để có cơ sở của nhận định này nhà nghiên cứu phải có số liệu lý giải, chứng minh điều đó là tốc độ tăng trƣởng bình quân hàng năm của Việt Nam là 7%, lạm phát từ 6-8%/ năm, và tốc độ tăng trƣởng của các nƣớc khác trong khu vực và trên thế giới. 1.1.4.5. Kết quả nghiên cứu của kinh tế học chỉ xác định được ở mức trung bình Vì các kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau ảnh hƣởng tới chỉ tiêu kinh tế nghiên cứu, trong đó có rất nhiều yếu tố chỉ có thể xác định đƣợc xu hƣớng ảnh hƣởng mà không thể xác định đƣợc mức độ ảnh hƣởng. 1.1.5. Tổ chức kinh tế của nền kinh tế hỗn hợp 1.1.5.1. Ba vấn đề cơ bản của một nền kinh tế Tất cả các nền kinh tế quốc dân, trong mọi giai đoạn phát triển đều phải thực hiện ba vấn đề cơ bản sau: - Sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ nào? Số lƣợng bao nhiêu? Cơ sở của vấn đề này là sự khan hiếm các nguồn lực so với nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu mà của bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần phải giải quyết là giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần thiết và tăng cƣờng đến mức tối đa những sản phẩm cần thiết. - Các hàng hoá và dịch vụ đƣợc sản xuất ra nhƣ thế nào? Việc giải quyết đúng đắn vấn đề này thông thƣờng đồng nghĩa với việc sử dụng số lƣợng đầu vào ít nhất để sản xuất ra số lƣợng sản phẩm đầu ra nhất định. - Hàng hoá và dịch vụ đƣợc sản xuất ra cho ai? Hay sản phẩm quốc dân đƣợc phân phối thế nào cho các thành viên trong xã hội. Ba vấn đề nêu trên là những vấn đề mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải thực hiện, bất kể hình thức hay trình độ phát triển của nó nhƣ thế nào. Tất cả các vấn đề này đều mang tính lựa chọn, vì các nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm đều khan hiếm. Cơ sở cho sự lựa chọn này là: - Tồn tại các cách sử dụng khác nhau các nguồn lực trong việc sản xuất ra các sản phẩm khác nhau. Ví dụ: sản xuất sản phẩm dệt may cần đầu vào là lao động ngành dệt may, máy may, vải, sợi, ; còn sản xuất ô tô cần lao động ngành cơ khí chế tạo, thép, cao su - Tồn tại các phƣơng pháp khác nhau để sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Ví dụ cũng là may mặc nhƣng phƣơng pháp thủ công khác với tự động hoá. - Tồn tại các phƣơng pháp khác nhau để phân phối hàng hoá và thu nhập cho các Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 5
  6. Bài giảng Kinh tế vĩ mô thành viên trong xã hội. Ví dụ: tham gia sản xuất ra sản phẩm, ngƣời lao động nhận đƣợc tiền công tiền lƣơng; doanh nghiệp nhận đƣợc lợi nhuận, Nhà nƣớc thu đƣợc các khoản thuế. Các thành viên trong xã hội nhận đƣợc bao nhiêu là do cơ chế phân phối ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia. Những cách thức để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản trên trong một nƣớc cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào lịch sử, hệ tƣ tƣởng, và chính sách kinh tế của quốc gia này. 1.1.5.2. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp Các hệ thống kinh tế khác nhau có những cách tổ chức kinh tế khác nhau để thực hiện ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Lịch sử phát triển của loài ngƣời cho thấy có các kiểu tổ chức sau: (1) Nền kinh tế tập quán truyền thống: kiểu tổ chức này tồn tại dƣới thời công xã nguyên thuỷ. Trong xã hội này, các vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất nhƣ thế nào? phân phối cho ai? đƣợc quyết định theo tập quán truyền thống từ thế hệ trƣớc sang thế hệ sau, tự cung, tự cấp; cần cái gì thì sản xuất cái đó bằng tƣ liệu sản xuất của chính mình, không cần trao đổi. (2) Nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hoá tập trung): là nền kinh tế giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đều do Nhà nƣớc quyết định, cân đối. Việc sản xuất cái gì? sản xuất nhƣ thế nào? phân phối cho ai đều đƣợc thực hiện theo kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nƣớc. (3) Nền kinh tế thị trƣờng: trong nền kinh tế ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất nhƣ thế nào? sản xuất cho ai? đƣợc thực hiện thông qua cơ chế thị trƣờng, do thị trƣờng quyết định. Trong đó các cá nhân ngƣời tiêu dùng, và các doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trên thị trƣờng để xác định một hệ thống giá cả, thị trƣờng, lợi nhuận, thu nhập, (4) Nền kinh tế hỗn hợp: các hệ thống kinh tế hiện nay không mang những hình thức kinh tế thuần tuý nhƣ thị trƣờng, chỉ huy hay tự nhiên, mà là sự kết hợp các nhân tố của các loại hình kinh tế. Và nền kinh tế đó gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế hỗn hợp các thể chế công cộng và tƣ nhân đều có vai trò kiểm soát kinh tế. Thông qua bàn tay “vô hình” của thị trƣờng và bàn tay “hữu hình” của Chính phủ, các nhà kinh tế chia các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp thành 4 nhóm, nhằm giải thích hành vi và phƣơng thức thực hiện các chức năng chủ yếu của từng nhóm. Các nhóm này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một hệ thống kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trƣờng sẽ xác định giá cả và sản lƣợng trong nhiều lĩnh vực còn Chính phủ sẽ điều tiết thị trƣờng thông qua thuế, chi tiêu của Chính phủ, luật pháp, Mô hình kinh tế hỗn hợp của từng nƣớc có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế, và đối với thị trƣờng. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 6
  7. Bài giảng Kinh tế vĩ mô a. Người tiêu dùng cuối cùng Ngƣời tiêu dùng cuối cùng là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng của họ. Ví dụ: mua lƣơng thực, thực phẩm để ăn, mua quần áo để mặc, Ngƣời tiêu dùng cuối cùng có ảnh hƣởng rất lớn đến việc quyết định sản xuất cái gì trong nền kinh tế vì họ mua và tiêu dùng phần lớn các sản phẩm của nền kinh tế. Hành vi mua của ngƣời tiêu dùng bị thúc đẩy bởi một số yếu tố chung nào đó và ngƣời ta có thế dự đoán với mức độ tin cậy nhất định. Yếu tố cơ bản trong yếu tố chung đó là ngƣời tiêu dùng muốn thoả mãn tối đa nhu cầu của họ với thu nhập hạn chế. b. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp là ngƣời sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho xã hội, mục đích của họ khi thực hiện ba vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất nhƣ thế nào? Sản xuất cho ai? là thu đƣợc lợi nhuận cao nhất trong giới hạn nguồn lực của mình. c. Chính phủ Trong nền kinh tế hỗn hợp Chính phủ đồng thời vừa là ngƣời sản xuất và vừa là ngƣời tiêu dùng nhiều hàng hoá, dịch vụ. Chính phủ tiêu dùng phục vụ vai trò quản lý điều hành của Chính phủ. Chính phủ là ngƣời sản xuất cũng giống nhƣ doanh nghiệp tƣ nhân, nhƣng nó phức tạp hơn nhiều bởi vai trò quản lý kinh tế của Chính phủ và có thể phác hoạ thông qua 3 chức năng chủ yếu sau: (1) Chức năng hiệu quả - Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có hiệu quả, sản xuất phát triển thì Nhà nƣớc phải đƣa ra các đạo luật nhƣ là chống độc quyền, chống ép giá, - Để hạn chế tác động từ bên ngoài thì Chính phủ, cần phải đặt ra các luật lệ ngăn chặn các tác động tiêu cực nhƣ: ô nhiễm môi trƣờng, huỷ hoại tài nguyên, (2) Chức năng công bằng Trong nền kinh tế thị trƣờng hàng hoá đƣợc phân phối cho ngƣời có nhiều tiền mua nhất chứ không phải cho ngƣời có nhu cầu lớn nhất. Do vậy, để bảo đảm sự công bằng trong xã hội, thì Chính phủ phải đƣa ra các chính sách phân phối lại thu nhập. Ví dụ nhƣ hệ thống thuế thu nhập, bảo hiểm, trợ cấp, (3) Chức năng ổn định Chính phủ còn phải thực hiện chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì sự ổn định kinh tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tƣ bản cho thấy có thời kỳ tăng trƣởng thì lạm phát tăng vọt, trong thời kỳ suy thoái nặng nề thì thất nghiệp lại cao dẫn đến những sự thăng trầm của chu kỳ kinh tế. Chính phủ có thể sử dụng các chính sách, công cụ của mình để tác động đến sản lƣợng và việc làm, làm giảm bớt các dao động của chu kỳ kinh doanh. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 7
  8. Bài giảng Kinh tế vĩ mô d. Người nước ngoài Các cá nhân, doanh nghiệp, Chính phủ nƣớc ngoài tác động đến các hoạt động kinh tế diễn ra ở một nƣớc thông qua việc mua bán hàng hoá và dịch vụ, vay mƣợn, viện trợ và đầu tƣ nƣớc ngoài. Trong một số nƣớc có nền kinh tế mở thì ngƣời nƣớc ngoài có vai trò khá quan trọng. 1.1.6. Một số khái niệm cơ bản của kinh tế học 1.1.6.1. Yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất, chi phí cơ hội a. Các yếu tố sản xuất Yếu tố sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất và đƣợc phân chia thành 3 nhóm: (1). Đất đai và tài nguyên thiên nhiên: bao gồm toàn bộ đất dùng cho canh tác, xây dựng nhà ở, đƣờng sá, các loại nhiên liệu, khoáng sản, cây cối, (2). Lao động: là năng lực của con ngƣời đƣợc sử dụng theo một mức độ nhất định trong quá trình sản xuất. Ngƣời ta đo lƣờng lao động bằng thời gian của lao động đƣợc sử dụng trong quá trình sản xuất. (3) Tƣ bản: là máy móc, nhà xƣởng, đƣợc sản xuất ra rồi sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Việc tích luỹ các hàng hoá tƣ bản trong nền kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của sản xuất. b. Giới hạn khả năng sản xuất Khi xem xét một nền kinh tế với số lƣợng các yếu tố sản xuất và trình độ công nghệ cho trƣớc, khi quyết định sản xuất cái gì? sản xuất nhƣ thế nào? nền kinh tế phải lựa chọn xem các yếu tố hạn chế này đƣợc phân phối nhƣ thế nào giữa rất nhiều các hàng hoá khác nhau đƣợc sản xuất ra. Để đơn giản, giả sử rằng toàn bộ nguồn lực của nền kinh tế chỉ tập trung vào sản xuất 2 loại hàng hoá là thức ăn và quần áo. Để sử dụng hết nguồn lực của nền kinh tế, thì có thể có các cách lựa chọn tổ hợp thức ăn và quần áo trong bảng 1.1 sau đây để sản xuất. Bảng 1.1 Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau Khả năng Lƣơng thực (tấn) Quần áo (ngàn bộ) A 0 7,5 B 1 7 C 2 6 D 3 4,5 E 4 2,5 F 5 0 Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 8
  9. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta đƣợc đƣờng giới hạn khả năng sản xuất. Quần áo A B 7,5 N C 6 D 4,5 M 3 E 1, 5 F 0 1 2 3 4 5 Lƣơng thực Hình 1.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất Phƣơng án lựa chọn A là phƣơng án toàn bộ nguồn lực chỉ sản xuất quần áo, tại đây số lƣợng quần áo đƣợc sản xuất ra là nhiều nhất, còn thực phẩm bằng 0. Tại phƣơng án F toàn bộ nguồn lực chỉ tập trung sản xuất lƣơng thực và thực phẩm bằng 5 là nhiều nhất còn quần áo bằng không. Dọc theo đƣờng cong từ phƣơng án A đến phƣơng án F thì quần áo giảm đi và lƣơng thực tăng lên. Phƣơng án sản xuất A, B, C, D, E, F là những phƣơng án có hiệu quả vì sử dụng hết nguồn lực, và tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra là quần áo thì phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra là lƣơng thực. Phƣơng án M là phƣơng án sản xuất không có hiệu quả vì chƣa sử dụng hết nguồn lực và tại M muốn tăng quần áo thì không cần phải cắt giảm lƣơng thực vì còn nguồn lực. Phƣơng án N là phƣơng án không thể đạt đƣợc của nền kinh tế trong hiện tại vì xã hội không đủ nguồn lực. Vậy đƣờng giới hạn khả năng sản xuất là một đƣờng biểu diễn tập hợp tất cả các phƣơng án sản xuất có hiệu quả; phƣơng án sản xuất có hiệu quả là phƣơng án mà tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra nào dó thì buộc phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra khác. Trong một khoảng thời gian nhất định, mỗi một nền kinh tế có một đƣờng giới hạn khả năng sản xuất. Khi các yếu tố sản xuất thay đổi thì đƣờng giới hạn khả năng sản xuất cũng thay đổi theo. Nếu nguồn lực đƣợc mở rộng thì đƣờng giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển sang bên phải, khi nguồn lực sản xuất bị thu hẹp lại thì đƣờng giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển về phía bên trái. c. Chi phí cơ hội Trong một giới hạn nguồn lực, tại một thời điểm có thể có nhiều phƣơng án để Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 9
  10. Bài giảng Kinh tế vĩ mô lựa chọn đó là các cơ hội có thể có. Khi chúng ta lựa chọn một phƣơng án và tiến hành thực hiện theo phƣơng án đó thì sẽ có các phƣơng án khác, cơ hội khác bị bỏ qua. Trong các cơ hội bị bỏ qua cơ hội nào mang lại thu nhập lớn nhất, cơ hội đó chính là chi phí cơ hội của phƣơng án đã lựa chọn. Vậy chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất của các phương án bị bỏ lỡ. Ví dụ: một ngƣời có lƣợng tiền là 100 triệu đồng, ngƣời này có các cơ hội sử dụng số tiền này là: Phƣơng án 1: tiết kiệm để ở gia đình và thu nhập tăng thêm bằng 0; phƣơng án 2: gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, thu nhập tăng thêm 6 triệu đồng; phƣơng án 3: sử dụng tiền để mua trái phiếu, thu nhập trái phiếu là 8 triệu đồng; phƣơng án 4: góp vốn kinh doanh dự kiến cuối năm thu đƣợc 10 triệu đồng lợi nhuận. Ngƣời này chọn phƣơng án 2 là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, vậy các phƣơng án bị bỏ qua là phƣơng án 1, 3, 4. Chi phí cơ hội của việc lựa chọn phƣơng án 2 là phƣơng án 4 với chi phí là 10 triệu đồng. 1.1.6.2. Quy luật lợi ích cận biên giảm dần và quy luật chi phí cận biên tăng dần - Quy luật lợi ích cận biên giảm dần đƣợc phát biểu nhƣ sau: số lƣợng sản phẩm đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm nếu liên tiếp bỏ thêm từng đơn vị yếu tố đầu vào biến đổi nào đó với các yếu tố đầu vào khác chƣa thay đổi. - Quy luật chi phí cận biên tăng dần đƣợc phát biểu nhƣ sau: để có thêm một số bằng nhau về một mặt hàng nào đó thì xã hội phải hi sinh ngày càng nhiều số lƣợng mặt hàng khác. 1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN 1.2.1. Tổng sản lƣợng của nền kinh tế Nhìn chung các nhà kinh tế đánh giá hoạt động kinh tế vĩ mô bằng cách nhìn vào một vài biến số trọng yếu, trong đó biến số quan trọng nhất là tổng sản phẩm quốc nội (GDP). GDP là thƣớc đo theo giá trị thị trƣờng của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng đƣợc sản xuất tại một nƣớc trong một năm. Có hai cách tính toán GDP: GDP danh nghĩa đƣợc xác định theo giá hiện hành và GDP thực tế đƣợc xác định theo giá cố định hay giá gốc. Vì giá không thay đổi nên GDP thực tế biến động từ năm này sang năm khác chỉ do sự thay đổi của lƣợng hàng. Nên khi muốn biết GDP của một quốc gia tăng hoặc giảm qua thời gian, ngƣời ta so sánh GDP thực tế giữa các năm. Sự biến động của GDP thực tế là một thƣớc đo hiện có tốt nhất về qui mô và tăng trƣởng của mức sản lƣợng bởi vì GDP thực tế không chịu ảnh hƣởng của sự biến động giá cả, nó đƣợc xem nhƣ mạch đập đƣợc giám sát chặt chẽ của nền kinh tế quốc dân. Khi các nhà kinh tế nói về tăng trƣởng của nền kinh tế, họ phản ánh tốc độ tăng trƣởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 10
  11. Bài giảng Kinh tế vĩ mô bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực tế từ thời kỳ này sang thời kỳ khác. Mặc dù tốc độ tăng trƣởng thƣờng mang giá trị dƣơng trong dài hạn, nhƣng sự tăng trƣởng này có thể không ổn định giữa các năm. Trên thực tế GDP có thể giảm trong một số trƣờng hợp. Những biến động ngắn hạn của GDP đƣợc gọi là chu kỳ kinh doanh. Hiểu biết về chu kỳ kinh doanh là một mục tiêu chính của kinh tế vĩ mô. Tại sao các chu kỳ kinh doanh lại xuất hiện? Các lực lƣợng kinh tế nào lại gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản xuất, các lực lƣợng nào dẫn đến khôi phục kinh tế? Liệu các chính sách của Chính phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế hay không. Đây là vấn đề lớn đã đƣợc đƣa ra và ít nhất đã đƣợc giải đáp một phần bởi kinh tế vĩ mô hiện đại. 1.2.2. Thất nghiệp Trong dân số có một bộ phận đƣợc gọi là lực lƣợng lao động bao gồm những ngƣời đang làm việc và những ngƣời thất nghiệp. Mục tiêu quan trọng tiếp theo của kinh tế vĩ mô là giải quyết việc làm nhiều đồng nghĩa với thất nghiệp thấp. Tỷ lệ thất nghiệp đo lƣờng số ngƣời không có việc làm và đang tích cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với lực lƣợng lao động. Biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp liên quan đến những dao động theo chu kỳ kinh doanh. Những thời kỳ sản lƣợng giảm thƣờng đi kèm với tăng thất nghiệp và ngƣợc lại. 1.2.3. Lạm phát Biến số then chốt thứ ba mà các nhà kinh tế quan tâm đó là lạm phát. Lạm phát là tình trạng mức giá trung bình (mức giá chung) của nền kinh tế tăng lên trong một khoảng thời gian nhất định. Các nhà kinh tế đo lƣờng lạm phát bằng tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát phản ánh phần trăm tăng thêm hay giảm bớt của giá cả ở một thời điểm nào đó so với thời điểm trƣớc (hay tỷ lệ phần trăm thay đổi của chỉ số giá cả - thƣờng là chỉ số CPI). Chỉ số giá cả là tỷ lệ so sánh giữa số tiền phải trả để mua một giỏ hàng hoá trong một năm hoặc một thời kỳ và số tiền phải trả để mua giỏ hàng hoá đó vào năm gốc hoặc thời kỳ gốc. Trong thời kỳ nền kinh tế có lạm phát, tiền tệ bị mất giá. Giá trị của tiền tệ giảm dần theo cùng một tỷ lệ với tỷ lệ lạm phát (tỷ lệ lạm phát cao thì tiền mất giá nhanh, tỷ lệ lạm phát thấp thì tiền mất giá chậm hơn). Lạm phát có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Nƣớc nào có tỷ lệ lạm phát cao thì đồng tiền nƣớc đó sẽ bị giảm giá so với đồng tiền nƣớc khác. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 11
  12. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 1.2.4. Cán cân thƣơng mại Vấn đề quan trọng thứ tƣ mà kinh tế vĩ mô xem xét là cán cân thƣơng mại. Tầm quan trọng của cán cân thƣơng mại là gì và điều gì qui định sự biến động của nó trong ngắn hạn và dài hạn? Nhìn chung, khi một nƣớc nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngoài so với xuất khẩu, nƣớc đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền nƣớc ngoài, hoặc giảm tài sản quốc tế. Ngƣợc lại, khi một nƣớc có xuất khẩu ròng, thì nƣớc đó sẽ tích tụ tài sản của thế giới bên ngoài. Nhƣ vậy, nghiên cứu của chúng ta về mất cân bằng thƣơng mại liên quan chặt với dòng chu chuyển vốn quốc tế. 1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ VĨ MÔ 1.3.1. Đối tƣợng Kinh tế vĩ mô nghiên cứu các biến số then chốt của nền kinh tế nhƣ: tổng sản lƣợng của nền kinh tế, mức giá chung, việc làm và thất nghiệp, cán cân thƣơng mại. Kinh tế vĩ mô tìm cách đƣa ra lời giải đáp cho các câu hỏi quan trọng nhƣ điều gì quyết định các biến số kinh tế trên và tại sao chúng lại thay đổi theo thời gian. Kinh tế vĩ mô có mối quan tâm đặc biệt đối với chính sách. Rất nhiều phân tích trong kinh tế vĩ mô sẽ tập trung xem xét xem các chính sách của Chính phủ ảnh hƣởng tới các biến số kinh tế vĩ mô nhƣ thế nào. Ví dụ: chính sách đó có thể tác động đến sản lƣợng và việc làm của nền kinh tế đến mức nào? Lạm phát xảy ra do các chính sách không phù hợp của Chính phủ đến mức nào? Những chính sách nào sẽ là tối ƣu nhằm làm cho các biến số kinh tế vĩ mô vận động nhƣ mong muốn của Chính phủ? Có nên nỗ lực để đạt đƣợc cân bằng thƣơng mại hay không? 1.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Có thể khái quát phƣơng pháp luận nghiên cứu của kinh tế học thông qua 4 giai đoạn nhƣ sau: 1.3.2.1. Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế các nhà kinh tế thường dùng phương pháp quan sát. Vì các hiện tƣợng kinh tế hết sức phức tạp, thƣờng xuyên biến động, chịu ảnh hƣởng của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, các quan hệ kinh tế rất vô hình, mà chúng ta chỉ có thể suy đoán thông qua các biểu hiện bên ngoài thị trƣờng của nó Ví dụ: Muốn nghiên cứu về lạm phát của thời kỳ nào đó thì phải quan sát sự thay đổi giá cả của tất cả các hàng hoá, dịch vụ đang đƣợc giao dịch trên thị trƣờng của thời kỳ đó. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 12
  13. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 1.3.2.2. Thu thập các số liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu Ví dụ: Muốn biết lạm phát hiện nay là bao nhiêu, đã phải là nguy cơ chƣa thì cần phải có số liệu, căn cứ ban đầu để phân tích. Số liệu để tiến hành nghiên cứu lạm phát là số liệu về nền kinh tế tăng trƣởng hay suy thoái, mức giá cả chung của các hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế, 1.3.2.3. Tiến hành phân tích với các phương pháp phân tích thích hợp Mỗi một sự kiện kinh tế, mỗi một chỉ tiêu kinh tế sẽ có cách phân tích khác nhau, có thể dùng phƣơng pháp phân tích này hay phƣơng pháp phân tích khác, hoặc kết hợp của một số phƣơng pháp phân tích. Kinh tế học ngoài những phƣơng pháp của các khoa học kinh tế nói chung, thì kinh tế học sử dụng các phƣơng pháp phân tích đặc thù. Đó là những phƣơng pháp trừu tƣợng hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định các nhân tố này) để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa các biến số cơ bản liên quan trực tiếp tới sự kiện nghiên cứu. Ví dụ: phƣơng pháp thống kê, mô hình toán, kinh tế lƣợng, phƣơng pháp cân bằng tổng thể và cân bằng bộ phận, 1.3.2.4. Rút ra các kết luận Đối chiếu với thực tế, phát hiện ra điểm bất hợp lý, đề ra các giả thiết mới rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế. Quá trình này lặp đi lắp lại đến khi nào kết quả rút ra sát thực với thực tế, khi đó quá trình nghiên cứu mới kết thúc. 1.4. MỤC TIÊU VÀ CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ Kinh tế vĩ mô có tầm quan trọng đặc biệt vì nhiều lý do: sự thành công hay thất bại của nền kinh tế mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động kinh tế vĩ mô; Chính phủ có thể tác động đến hoạt động của nền kinh tế bằng các chính sách điều tiết vĩ mô; các chính sách kinh tế vĩ mô chiếm vị trí nổi bật trong các chƣơng trình, thậm chí là trong cƣơng lĩnh của những đảng phái trong xã hội, 1.4.1. Mục tiêu Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nƣớc thƣờng đƣợc đánh giá theo 3 dấu hiệu chủ yếu: ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách nhƣ lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn. Tăng trƣởng kinh tế đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn, có liên quan đến việc phát triển kinh tế. Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế. Để có thể đạt đƣợc những điều này, các chính sách kinh tế vĩ mô phải hƣớng tới các mục tiêu cụ thể là: sản lượng, công ăn việc làm, ổn định giá cả và kinh tế đối ngoại. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 13
  14. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 1.4.1.1 Mục tiêu định tính Trên góc độ điều hành kinh tế vĩ mô, có hai mục tiêu mang tính định tính cơ bản đƣợc hầu hết Chính phủ các nƣớc quan tâm đó là mục tiêu ổn định và tăng trƣởng. a. Mục tiêu ổn định Ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách, làm giảm bớt dao động của chu kỳ kinh doanh để tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều. Nhƣợc điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trƣờng là tự động tạo ra các chu kỳ kinh doanh (sản lƣợng thực tế dao động lên xuống xoay quanh trục sản lƣợng tiềm năng), nền kinh tế luôn có xu hƣớng không ổn định. Khi nền kinh tế ở trạng thái phát triển nóng (sản lƣợng thực tế cao hơn sản lƣợng tiềm năng) thì đi kèm theo nó là mức thất nghiệp thấp, lạm phát cao và ngƣợc lại, khi nền kinh tế ở trạng thái suy thoái (sản lƣợng thực tế thấp hơn sản lƣợng tiềm năng) thì mức thất nghiệp cao và lạm phát thấp. Khoảng cách giữa sản lƣợng thực tế và sản lƣợng tiềm năng đƣợc gọi là chênh lệch sản lƣợng. Chênh lệch này càng lớn thì hai thái cực thất nghiệp và lạm phát cũng càng nghiêm trọng. Vì vậy, để đạt đƣợc mục tiêu ổn định cần phải phấn đấu sao cho sản lƣợng đƣợc duy trì ở mức sản lƣợng tiềm năng để tránh đƣợc tình trạng lạm phát cao và thất nghiệp nhiều. b. Mục tiêu tăng trưởng Để thực hiện mục tiêu này nghĩa là tốc độ tăng sản lượng của nền kinh tế đạt ở mức cao nhất. Một nền kinh tế phát triển ổn định chƣa chắc đã có đƣợc một tốc độ tăng trƣởng nhanh. Một nƣớc có tốc độ tăng trƣởng chậm thì có nguy cơ tụt hậu và nếu có tốc độ tăng trƣởng nhanh thì có thể có khả năng đuổi kịp và vƣợt các nƣớc đi trƣớc. Vì vậy, mục tiêu tăng trƣởng là mục tiêu thứ hai sau mục tiêu ổn định. Vấn đề đặt ra là muốn có đƣợc tăng trƣởng thì cần phải có chính sách thúc đẩy quá trình tạo vốn, tăng năng suất lao động nhằm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và tăng nhanh sản lƣợng tiềm năng. *So sánh hai mục tiêu tăng trưởng và ổn định Trong ngắn hạn, với một mức sản lƣợng tiềm năng cho trƣớc, nền kinh tế cần phải giảm bớt sự chênh lệch giữa sản lƣợng thực tế so với sản lƣợng tiềm năng. Nói cách khác, cần phải hạn chế đến mức thấp nhất dao động của chu kỳ kinh doanh thì ổn định là mục tiêu đƣợc đặt lên hàng đầu. Trong khi đó, để cho đất nƣớc tiến kịp với các quốc gia khác đòi hỏi sản lƣợng tiềm năng phải tăng nhanh, từ đó thúc đẩy sản lƣợng thực tế tăng theo. Vì vậy, tăng trƣởng là mục tiêu đƣợc đặc biệt quan tâm của nền kinh tế trong dài hạn. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 14
  15. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Tóm lại, theo tiêu thức thời gian, mục tiêu ổn định thường xét trong ngắn hạn còn mục tiêu tăng trưởng được đặt ra trong dài hạn. 1.4.1.2 Mục tiêu định lượng Mục tiêu kinh tế vĩ mô cũng có thể đƣợc diễn đạt thông qua các chỉ tiêu mang tính định lƣợng. Khi đo lƣờng mức độ thành công của một nền kinh tế, các nhà kinh tế thƣờng căn cứ vào một số chỉ tiêu kinh tế trọng yếu sau: a. Mục tiêu sản lượng - Sản lƣợng tiềm năng hay mức sản lƣợng tự nhiên (Y*) của nền kinh tế là mức sản lƣợng tƣơng ứng với các nguồn lực (vốn tài sản, lao động, đất đai ) mà nền kinh tế có đƣợc. - Sản lƣợng thực tế (Y) là sản lƣợng đƣợc sản xuất ra trên cơ sở sử dụng thực tế các nguồn lực đã có. Khi các nguồn lực không đƣợc sử dụng hết, Y Y* nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng, lạm phát có nguy cơ bùng nổ. Mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh tế là cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà nhân dân mong muốn. Ngày nay, thƣớc đo cuối cùng để đánh giá thành công của một quốc gia là khả năng tạo ra mức sản lƣợng thực tế cao, tƣơng ứng với mức sản lƣợng tiềm năng của đất nƣớc. Y Sản lƣợng tiềm năng Y* Nóng Sản lƣợng thực tế Y Cân bằng Suy thoái Năm Hình 1.2. Sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng b. Mục tiêu công ăn việc làm Một trong những thành tựu kinh tế vĩ mô mà bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm là đạt đƣợc tỷ lệ ngƣời lao động có công ăn việc làm cao hay thể hiện thông qua tỷ lệ Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 15
  16. Bài giảng Kinh tế vĩ mô thất nghiệp thấp. Trong thực tế cuộc sống, ai cũng muốn có thể tìm đƣợc việc làm với mức thu nhập cao để đảm bảo cuộc sống cho mình và gia đình. Thực tế ngày nay cho thấy mục tiêu đảm bảo việc làm đầy đủ cho tất cả ngƣời lao động là rất khó thực hiện vì tỷ lệ lao động có việc làm không chỉ đơn thuần là mục tiêu kinh tế. Vấn đề việc làm còn là một vấn đề xã hội hết sức nóng bỏng vì hậu quả của việc thất nghiệp là hàng loạt những vấn đề về tâm lý, đạo đức xã hội, c. Mục tiêu ổn định giá cả Mục tiêu ổn định giá cả trong điều kiện thị trƣờng tự do khác hơn so với các mục tiêu liên quan đến sản lƣợng và công ăn việc làm. Ổn định giá cả nghĩa là làm sao cho giá cả không tăng cũng không giảm quá nhanh. Nó đƣợc thể hiện thông qua tỷ lệ lạm phát và mục tiêu là tỷ lệ này gần nhƣ bằng không. Trong điều kiện thị trƣờng tự do, không thể áp đặt một tập hợp giá cả hoàn toàn cứng nhắc bởi vì điều đó làm thay đổi cấu trúc thị trƣờng và làm cho việc phân bổ các đầu vào và các hàng hóa, dịch vụ trở nên không hiệu quả. Nhƣ vậy, việc tìm kiếm một phƣơng tiện quy định mức giá cả linh hoạt tất yếu phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhỏ. Có thể coi đó là cách tốt nhất cho phép hệ thống giá cả hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Nói chung, hầu hết các quốc gia đều tìm kiếm một cách dung hòa giữa việc định giá theo thị trƣờng tự do với xu hƣớng tăng lên dần của giá cả, coi đó là phƣơng thức tốt nhất để hệ thống giá hoạt động một cách có hiệu quả. d. Mục tiêu kinh tế đối ngoại Trong xu hƣớng của nền kinh tế thế giới hiện nay, mọi quốc gia đều xây dựng chiến lƣợc phát triển kinh tế theo hƣớng mở cửa với thế giới bên ngoài. Các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; cho vay hoặc vay tiền của ngƣời nƣớc ngoài, sử dụng những phát minh, sáng chế của nƣớc ngoài hoặc truyền bá những phát minh, sáng chế của nƣớc mình cho phía nƣớc ngoài, đang trở thành những nội dung quan trọng liên quan đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Để đạt đƣợc thành tựu to lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì mọi quốc gia đều phải phấn đấu nhằm đạt các mục tiêu: - Ổn định tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với các ngoại tệ của các quốc gia là đối tác kinh tế của mình. - Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, thông qua việc cân bằng cán cân thƣơng mại quốc tế và quan hệ tín dụng quốc tế. Những mất cân đối về quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ gây tác hại lớn về kinh tế và chính trị cho đất nƣớc. Vì vậy, giảm mức độ mất cân đối kinh tế đối ngoại là mối quan tâm chủ yếu của các nhà hoạch định chính sách kinh tế. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 16
  17. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 1.4.2. Công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô Để đạt đƣợc những mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Chính phủ có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau, mỗi chính sách lại có các công cụ riêng biệt. Dƣới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà Chính phủ các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng thƣờng sử dụng. 1.4.2.1. Chính sách tài khóa Chính sách tài khóa là chính sách kinh tế vĩ mô lớn đầu tiên, đƣợc sử dụng để điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để hƣớng nền kinh tế vào mức sản lƣợng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khóa có hai công cụ chủ yếu là: thuế và chi tiêu Chính phủ. - Chi tiêu Chính phủ: ảnh hƣởng trực tiếp đến quy mô của chi tiêu công cộng, từ đó có thể ảnh hƣởng trực tiếp đến tổng cầu và sản lƣợng. - Thuế có vai trò then chốt là: + Việc đánh thuế thu nhập (ví dụ nhƣ thuế thu nhập cá nhân) sẽ làm giảm thu nhập từ dân cƣ với việc để lại phần thu nhập có thể sử dụng ít hơn sau khi đã dùng thuế để điều tiết, từ đó làm giảm mức chi tiêu của khu vực tƣ nhân. + Do thuế tác động đến thu nhập của khu vực tƣ nhân, từ đó cũng tác động tới đầu tƣ và mức sản lƣợng tiềm năng. 1.4.2.2. Chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý vĩ mô của Chính phủ về tiền tệ do Ngân hàng Nhà nƣớc chịu trách nhiệm. Chính sách tiền tệ nhằm theo đuổi mục tiêu cơ bản là: ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đồng nội tệ trên cơ sở kiểm soát đƣợc giá cả, cân bằng tỷ giá hối đoái, thúc đẩy đầu tƣ, hƣớng nền kinh tế của đất nƣớc vào mức sản lƣợng và việc làm nhƣ mong muốn. Chính sách tiền tệ sử dụng hai công cụ chủ yếu là: - Lượng tiền cung ứng: bao gồm việc điều chỉnh khối lƣợng tiền tệ cung ứng thêm cũng nhƣ khối lƣợng tiền đã có sẵn trong lƣu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng nói chung, không gây nên tình trạng thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lƣu thông. - Lãi suất: Ngân hàng Nhà nƣớc quy định các mức lãi suất cơ bản, từ đó tác động đến lãi suất của các NHTM, vì vậy tác động đầu tƣ của khu vực tƣ nhân và tác động đến tổng cầu cũng nhƣ sản lƣợng của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 17
  18. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 1.4.2.3. Chính sách thu nhập Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp mà Chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền lƣơng, giá cả để kiềm chế lạm phát và thiết lập công bằng trong xã hội. Chính sách thu nhập sử dụng nhiều loại công cụ, có tính chất cứng rắn nhƣ: hệ thống giá, tiền lương tối thiểu. Nó là những chỉ dẫn chung để ấn định tiền lƣơng và giá cả, những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi của giá cả và tiền lƣơng, Ngoài ra, nó có những công cụ mềm dẻo hơn nhƣ việc hƣớng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập, 1.4.2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại Trong một nền kinh tế mở cửa thì chính sách kinh tế đối ngoại là một chính sách kinh tế nhằm ổn định tỷ giá hối đoái và giữ cho cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt ở mức có thể chấp nhận đƣợc. Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ và biện pháp nhằm giữ cho thị trƣờng hối đoái cân bằng, áp đặt chính sách kiểm soát ngoại thƣơng nhƣ: hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu để tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu. * Chú ý: Kinh tế vĩ mô bao gồm sự lựa chọn giữa những mục tiêu trung tâm có thể thay thế lẫn nhau. Một nƣớc không thể cùng một lúc đạt đƣợc mức độ tối ƣu cho mọi mục tiêu lựa chọn. Chẳng hạn không thể cùng lúc vừa có mức tăng trƣởng cao mà lại có mức lạm phát thấp. Trong thời kỳ suy thoái, nền kinh tế phải trải qua tỷ lệ thất nghiệp cao và mức sản lƣợng thực tế thấp. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 18
  19. Bài giảng Kinh tế vĩ mô BÀI ĐỌC THÊM TẠI SAO PHẢI NGHIÊN CỨU KINH TẾ VĨ MÔ? Tại sao thu nhập hiện nay lại cao hơn mức năm 1990 và tại sao vào năm 1990 lại cao hơn mức 1900? Tại sao một số nƣớc có tỷ lệ lạm phát cao, trong khi một số nƣớc khác lại duy trì đƣợc giá cả ổn định? Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng suy thoái và khủng hoảng – tức là thời kỳ thu nhập giảm và thất nghiệp tăng – và nhà nƣớc có thể áp dụng những chính sách nào để giảm bớt tần suất và tính nghiêm trọng của chúng? Kinh tế vĩ mô – bộ môn khoa học nghiên cứu nền kinh tế với tƣ cách một tổng thể sẽ tìm cách giải đáp những vấn đề này và nhiều vấn đề có liên quan. Để đánh giá tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô, bạn chỉ cần đọc báo, nghe đài, xem ti vi hoặc vào các trang mạng kinh tế. Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng hàng ngày đều thông tin về chiều hƣớng phát triển của nền kinh tế. Chẳng hạn: chỉ số giá tiêu dùng tăng, tiền lƣơng tối thiểu vùng tăng 10% Tất cả các vấn đề kinh tế vĩ mô đều đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta. Khi dự báo nhu cầu về sản phẩm của mình, các doanh nghiệp phải phán đoán xem thu nhập của ngƣời tiêu dùng tăng nhanh đến mức nào. Ngƣời về hƣu sống bằng thu nhập cố định thƣờng băn khoăn về tốc độ tăng giá. Những ngƣời thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm hi vọng nền kinh tế phục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm lao động. Tất cả chúng ta đều bị ảnh hƣởng bởi thực trạng của nền kinh tế. Các sự kiện kinh tế cũng đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Vào những năm 50, 60, hầu hết các nƣớc công nghiệp phát triển đều duy trì tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng tiền của họ với nhau và với đồng tiền của các nƣớc khác. Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định này sụp đổ vào những năm 70 và thời đại của chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt bắt đầu. Việt Nam nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu và thanh toán cho số hàng nhập khẩu dôi ra này bằng cách vay rất nhiều trên thị trƣờng tài chính thế giới. Các nhà kinh tế vĩ mô tìm cách lý giải hoạt động của nền kinh tế với tƣ cách tổng thể. Họ thu thập số liệu về thu nhập, giá cả và nhiều biến số kinh tế khác từ các thời kỳ và các quốc gia khác nhau. Sau đó, họ tìm cách xây dựng những lý thuyết tổng quát, góp phần giải thích các số liệu này. Mục tiêu của chúng ta trong việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô không chỉ dừng lại ở việc lý giải các biến cố kinh tế mà còn nhằm đánh giá các chính sách kinh tế. Các công cụ của chính sách có thể tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế - bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực – giúp chúng ta có thể đánh giá đƣợc hiệu quả của các chính sách kinh tế mà nhà nƣớc đang áp dụng. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 19
  20. Bài giảng Kinh tế vĩ mô NỘI DUNG ÔN TẬP A. CÂU HỎI TỰ LUẬN 1. Kinh tế học chia thành hai phân ngành gì? Hãy cho biết mỗi phân ngành nghiên cứu những vấn đề gì? 2. Hãy cho biết những biến số then chốt đƣợc nghiên cứu trong kinh tế học vĩ mô. 3. Sự khác nhau giữa nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc là gì? Nêu ví dụ cho mỗi loại nhận định. 4. Chủ đề nào sau đây thuộc về kinh tế vĩ mô hoặc kinh tế vi mô: - Quyết định của một hộ gia đình về việc tiết kiệm bao nhiêu thu nhập. - Ảnh hƣởng của các quy định mà nhà nƣớc áp dụng cho khí thải của ô tô. - Ảnh hƣởng của mức tiết kiệm quốc gia cao hơn đối với tăng trƣởng kinh tế. - Quyết định của một doanh nghiệp về việc thuê bao nhiêu công nhân. - Mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát vả những thay đổi trong cung ứng tiền tệ. 5. Hãy phân loại những nhận định sau thành nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc: - Xã hội phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. - Việc cắt giảm tỷ lệ tăng cung tiền sẽ làm giảm tỷ lệ lạm phát. - Ngân hàng nhà nƣớc cần giảm lƣợng tiền cung ứng. - Xã hội cần yêu cầu ngƣời nhận phúc lợi xã hội tìm việc làm. - Mức thuế thu nhập thấp hơn khuyến khích mọi ngƣời làm việc nhiều hơn. B. CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM 6. Kinh tế học có thể định nghĩa là: a. Cách làm tăng lƣợng tiền của gia đình b. Cách kiếm tiền ở thị trƣờng chứng khoán c. Giải thích các số liệu khan hiếm d. Cách sử dụng tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra các hàng hóa, dịch vụ và phân bổ các hàng hóa, dịch vụ này cho các cá nhân trong xã hội 7. Kinh tế vĩ mô nghiên cứu: a. Mức sản lƣợng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. b. Mức giá chung và tỷ lệ lạm phát. c. Tỷ lệ thất nghiệp và cán cân thanh toán với nƣớc ngoài. d. Tất cả các điều trên 8. Vấn đề nào sau đây đƣợc nghiên cứu trong kinh tế vĩ mô? a. Chính sách tài khóa b. Chính sách tiền tệ c. Lạm phát Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 20
  21. Bài giảng Kinh tế vĩ mô d. Tất cả các đáp án trên 9. Nhận định nào sau đây có tính chuẩn tắc? a. Phát hành nhiều tiền sẽ gây ra lạm phát b. Ngƣời lao động làm việc tích cực hơn nếu tiền lƣơng cao hơn c. Nhà nƣớc cần cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp d. Thâm hụt ngân sách lớn làm cho tốc độ tăng trƣởng kinh tế chậm lại 10. Nhận định nào sau đây có tính thực chứng? a. Cắt giảm trợ cấp thất nghiệp làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên b. Nên cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp vì nó gây mất ổn định xã hội c. Nên cắt giảm tỷ lệ lạm phát vì nó làm giảm thu nhập của ngƣời dân d. Cần tăng trợ cấp cho các trƣờng đại học vì tƣơng lai của đất nƣớc 11. Khi thực hiện chính sách tài khóa, Chính phủ có thể có các công cụ sau: a. Giá cả và tiền lƣơng b. Tỷ giá hối đoái c. Thuế và chi tiêu Chính phủ d. Thuế quan và hạn ngạch 12. Các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là: a. Tỷ lệ thất nghiệp thấp b. Giá cả ổn định c. Tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững d. Tất cả các mục tiêu trên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 21
  22. Bài giảng Kinh tế vĩ mô CHƢƠNG 2: HẠCH TOÁN TỔNG SẢN PHẨM QUỐC DÂN Khi bạn tốt nghiệp và bắt đầu đi tìm việc làm, khả năng tìm đƣợc việc làm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hiện tại. Trong một số năm, các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế mở rộng sản xuất hàng hóa, dịch vụ và việc làm tăng, bạn dễ dàng tìm đƣợc việc làm. Một số năm khác, các doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất, việc làm giảm và bạn mất nhiều thời gian mới tìm đƣợc việc làm tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả sinh viên tốt nghiệp đại học đều muốn gia nhập lực lƣợng lao động vào năm hoạt động kinh tế mở rộng chứ không phải khi nền kinh tế đang rơi vào suy thoái. Do điều kiện của toàn nền kinh tế ảnh hƣởng sâu sắc đến tất cả chúng ta nên những thay đổi trong điều kiện kinh tế thƣờng đƣợc thông báo rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Trên thực tế, rất hiếm khi chúng ta cầm một tờ báo lên mà không nhìn thấy số liệu thống kê mới về nền kinh tế. Số liệu thống kê có thể phản ánh tổng thu nhập của mọi ngƣời trong nền kinh tế (GDP hoặc GNP), tốc độ tăng giá bình quân (lạm phát), phần trăm lực lƣợng lao động không có việc làm (thất nghiệp), sự mất cân bằng trong hoạt động thƣơng mại giữa Việt Nam và các nƣớc khác trên thế giới (thâm hụt thƣơng mại). Tất cả các số liệu thống kê này là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Thay vì đề cập đến hộ gia đình hay doanh nghiệp riêng lẻ, chúng cho ta biết điều gì đó về toàn bộ nền kinh tế. Nền kinh tế với tƣ cách là một tổng thể chẳng qua chỉ là tập hợp của rất nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp tƣơng tác với nhau trên nhiều thị trƣờng. Nếu phải đánh giá một ngƣời có hoạt động kinh tế tốt không, có thể đầu tiên phải nhìn vào thu nhập của họ. Một ngƣời có thu nhập cao dễ dàng mua đƣợc những hàng hóa thiết yếu và sang trọng cho cuộc sống. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những ngƣời có thu nhập cao đƣợc hƣởng thụ mức sống cao – nhà ở sang trọng hơn, chăm sóc sức khỏe tốt hơn, Tƣơng tự nhƣ vậy, để đánh giá nền kinh tế của một quốc gia hoạt động có tốt không, ngƣời ta thƣờng nhìn vào tổng thu nhập mà mọi ngƣời trong nền kinh tế đó kiếm đƣợc. Đó chính là các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). 2.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC ĐO LƢỜNG SẢN LƢỢNG QUỐC GIA Khái niệm “sản lƣợng quốc gia” ở đây nhằm đề cập đến toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ đƣợc dùng để đo lƣờng mức sản xuất của một nƣớc. Mức sản xuất của một nƣớc có thể đƣợc hiểu theo hai nghĩa: một là mức sản xuất do công dân nƣớc đó tạo ra; hai là mức sản xuất đƣợc tạo ra trên lãnh thổ nƣớc đó. Khi đo lƣờng mức sản xuất, phải dựa trên một quan điểm về sản xuất cho trƣớc, từ quan điểm đó mới xây dựng các chỉ tiêu tính toán nhằm phản ánh khả năng sản xuất mà nền kinh tế đạt đƣợc trong một thời gian Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 22
  23. Bài giảng Kinh tế vĩ mô nhất định. Vì vậy trƣớc khi nghiên cứu cách tính các chỉ tiêu đo lƣờng sản lƣợng quốc gia, chúng ta cần tìm hiểu quan điểm sản xuất mà các quốc gia đã chọn lựa. 2.1.1. Các quan điểm về sản xuất Trong kinh tế học, khái niệm sản xuất đã đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Xét theo lịch sử thì lúc đầu khái niệm này đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp và phiến diện. Sau đó dần dần đƣợc mở rộng ra, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. - Vào thế kỷ 16, F.Quesnay (phái Trọng nông) đã chính thức đƣa ra khái niệm về sản xuất. Ông cho rằng sản xuất là tạo ra “sản lƣợng thuần tăng”. Đó là lƣợng sản phẩm tăng thêm so với lƣợng nguyên liệu ban đầu đƣợc đƣa vào sản xuất. Nhƣng theo quan điểm này khi đo lƣờng sản lƣợng quốc gia chỉ tính phần sản lƣợng thuần tăng của ngành nông nghiệp. - Đến thế kỷ 18, Adam Smith – ngƣời dẫn đầu trƣờng phái cổ điển đƣa ra khái niệm khác về sản xuất. Theo ông sản xuất là sáng tạo ra các sản phẩm vật chất. Đó là những sản phẩm hữu hình, có thể nhìn thấy, chạm vào đƣợc. Theo quan điểm này lại chƣa tính đến những ngành nhƣ thƣơng nghiệp, giao thông vận tải, bƣu điện - Vào thế kỷ 19 Karl Marx lại mở rộng hơn nữa quan điểm về sản xuất của Adam Smith. Theo Marx thì sản xuất bao gồm toàn bộ sản phẩm hữu hình (do các ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp, công nghiệp, xây dựng, khai khoáng tạo ra) và một phần của sản phẩm vô hình (do thƣơng nghiệp, giao thông vận tải, bƣu điện tạo ra tuy nhiên chỉ tính những chi phí phục vụ cho hoạt động sản xuất còn phục vụ cho hoạt động tiêu dùng thì phải loại ra) Quan điểm của Marx là cơ sở để tính sản lƣợng quốc gia ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây và đƣợc gọi là hệ thống sản xuất vật chất, viết tắt là MPS (Material Production System) Ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa, việc đo lƣờng sản lƣợng quốc gia dựa trên quan điểm rộng rãi hơn về sản xuất. Ngƣời ta cho rằng sản xuất là tạo ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ có ích cho xã hội. Nhƣ vậy sản lƣợng quốc gia theo quan điểm này bao gồm toàn bộ những sản phẩm hữu hình và vô hình mà nền kinh tế tạo ra trong mọt thời gian nào đó. Ngày nay, cách tính này đã đƣợc Liên Hợp quốc chính thức công nhận nhƣ một hệ thống đo lƣờng quốc tế , đƣợc gọi là hệ thống tài khoản quốc gia, viết tắt là SNA (System of National Accounts). 2.1.2. Tổng quan về các chỉ tiêu trong SNA Trong SNA có 7 chỉ tiêu phản ánh các khía cạnh khác nhau về kết quả sản xuất, về mức thu nhập mà nền kinh tế đạt đƣợc trong vòng một năm. Đó là: - Tổng sản phẩm quốc dân (GNP – Gross National Product) - Tổng sản phẩm quốc dân (GNP – Gross Domestic Product) Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 23
  24. Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Sản phẩm quốc dân ròng (NNP – Net National Product) - Sản phẩm quốc nội ròng (NNP – Net Domestic Product) - Thu nhập quốc dân (NI – National Income) - trong chƣơng sau ký hiệu là Y - Thu nhập cá nhân (PI – Personal Income) - Thu nhập khả dụng (DI – Dispossable Income) – trong chƣơng sau ký hiệu là YD * Các chỉ tiêu trên đƣợc chia làm 2 nhóm: - Nhóm chỉ tiêu theo lãnh thổ một nƣớc. Nhóm này có hai chỉ tiêu là GDP và NDP. Hai chỉ tiêu này nhằm đo lƣờng mức sản xuất trên lãnh thổ một nƣớc, bất kể các sản phẩm đƣợc tạo ra bởi công dân nƣớc đó hay công dân nƣớc khác. - Nhóm chỉ tiêu tính theo quyền sở hữu của công dân một nƣớc, bao gồm: GNP, NNP, NI, PI, DI. Chúng đo lƣờng mức sản xuất do công dân một nƣớc tạo ra, có thể trên lãnh thổ nƣớc đó hoặc lãnh thổ nƣớc khác. Các chỉ tiêu đƣợc xếp thứ tự từ lớn đến nhỏ nhƣ sau: Theo quyền sở hữu GNP NNP NI PI DI Theo lãnh thổ GDP NDP Về mặt cơ cấu giá trị, có sự giống nhau giữa GNP và GDP, giữa NNP và NDP. Sự giống nhau này sẽ đƣợc nhận thức sau khi hiểu rõ ý nghĩa và phƣơng pháp tính toán chúng. Trong hệ thống các chỉ tiêu trên, GDP và GNP là hai chỉ tiêu cơ bản nhất dùng để đánh giá thành quả kinh tế một nƣớc. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về hai chỉ tiêu này. 2.2. TỔNG QUAN VỀ HAI CHỈ TIÊU TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI (GDP) VÀ TỔNG SẢN PHẨM QUỐC DÂN (GNP) 2.2.1. Khái niệm - Tổng sản phẩm quốc nội(GDP) là giá trị thị trƣờng của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng đƣợc sản xuất ra trong phạm vi một nƣớc trong một thời kỳ nhất định (thƣờng là một năm). - Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là giá trị thị trƣờng của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân một nƣớc sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định (thƣờng là một năm). - Hàng hóa, dịch vụ trung gian (sản phẩm trung gian): là hàng hóa, dịch vụ đƣợc dùng làm đầu vào để sản xuất ra sản phẩm khác và đƣợc sử dụng hết trong quá trình sản xuất đó. Ví dụ: điện dùng để chạy máy dệt, bột mỳ dùng làm bánh, - Hàng hóa, dịch vụ cuối cùng (sản phẩm cuối cùng): là những hàng hóa, dịch vụ đƣợc ngƣời sử dụng cuối cùng mua. Nó là những sản phẩm còn lại ngoài sản phẩm trung gian. Ví dụ: máy móc, nhà xƣởng, bánh kẹo, thuốc men. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 24
  25. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Toàn bộ giá trị của sản phẩm trung gian sẽ đƣợc chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm mới. Mỗi sản phẩm đều có thể đóng vai trò là sản phẩm trung gian hoặc sản phẩm cuối cùng tùy mục đích sử dụng của con ngƣời. Ví dụ: Cá tƣơi, điện, để làm thành cá đóng hộp thì phần cá và điện đó là sản phẩm trung gian. Nếu cá tƣơi và điện đƣợc dùng để nấu ăn hoặc dùng để xuất khẩu thì phần cá và điện đó là sản phẩm cuối cùng. Chúng ta cùng xem xét từng cụm từ trong khái niệm GDP. - GDP là giá trị thị trường Có lẽ bạn có thể thấy “bạn không thể so sánh táo với cam” nhƣng GDP lại làm nhƣ vậy. GDP cộng rất nhiều loại sản phẩm thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị hoạt động kinh tế. Để làm đƣợc điều này, nó phải sử dụng giá trị thị trƣờng. Do giá thị trƣờng biểu thị số tiền mà mọi ngƣời sẵn sàng chi trả cho các hàng hóa khác nhau nên nó phản ánh giá trị của các hàng hóa này. Nếu giá của một quả cam bằng hai lần giá một quả táo, thì một quả cam đóng góp vào GDP gấp hai lần giá trị đóng góp của một quả táo. - Tất cả GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ, nó bao gồm tất cả hàng hóa đƣợc sản xuất ra trong nền kinh tế và đƣợc bán hợp pháp trên các thị trƣờng. GDP tính toán giá thị trƣờng không chỉ của táo và cam mà còn của lê, nho, sách, phim ảnh, dịch vụ cắt tóc, chăm sóc y tế, GDP còn bao gồm cả giá trị thị trƣờng của dịch vụ nhà ở do khối lƣợng nhà ở hiện có của nền kinh tế cung cấp. Đối với các căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng tính đƣợc giá trị này – tiền thuê nhà đúng bằng chi tiêu của ngƣời thuê nhà và thu nhập của chủ nhà. Tuy nhiên, có nhiều ngƣời sống trong chính căn nhà của họ và do vậy không phải trả tiền thuê nhà. Chính phủ hạch toán những ngôi nhà do chủ sở hữu sử dụng vào GDP bằng cách ƣớc tính giá trị cho thuê của chúng. Nghĩa là, GDP đƣợc tính dựa trên giả định cho rằng ngƣời chủ sở hữu trả tiền thuê nhà cho chính họ, do vậy tiền thuê nhà nằm trong cả chi tiêu lẫn thu nhập của họ. Tuy nhiên, có một số sản phẩm mà GDP bỏ sót do việc tính toán chúng quá khó khăn. GDP không tính những sản phẩm đƣợc sản xuất và bán ra trong nền kinh tế ngầm. Ví dụ nhƣ những sản phẩm bất hợp pháp. Nó cũng không tính đƣợc những sản phẩm đƣợc sản xuất và tiêu dùng trong gia đình, và do vậy không bao giờ đƣợc đƣa ra ngoài thị trƣờng. Những loại rau quả mua tại các quầy rau là một phần GDP song rau quả trồng trong vƣờn nhà bạn mà bạn dùng để nấu ăn thì lại không nằm trong GDP. Những thiếu sót này của GDP đôi khi có thể dẫn đến những kết quả kỳ quặc. Ví dụ khi Lan trả tiền thuê Hòa cắt cỏ cho cô, giao dịch này là một phần của GDP. Nếu Lan cƣới Hòa thì tình hình sẽ thay đổi. Mặc dù Hòa vẫn tiếp tục chăm sóc bãi cỏ cho Lan nhƣng giá trị của hoạt động cắt cỏ giờ đây đã bị đƣa ra khỏi GDP, bởi Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 25
  26. Bài giảng Kinh tế vĩ mô vì dịch vụ của Hòa không đƣợc bán trên thị trƣờng nữa. Do vậy, khi Lan và Hòa cƣới nhau, GDP giảm. - Hàng hóa và dịch vụ GDP bao gồm cả những hàng hóa hữu hình (thực phẩm, quần áo, ôtô, ) và những dịch vụ vô hình (cắt tóc, lau nhà, khám bệnh, ). Khi bạn mua một chiếc đĩa CD do một nhóm nhạc bạn yêu thích thực hiện thì điều này có nghĩa là bạn mua một hàng hóa và giá mua nằm trong GDP. Khi bạn trả tiền để nghe một buổi ca nhạc cũng của nhóm nhạc đó, thì có nghĩa là bạn mua một dịch vụ và giá vé cũng nằm trong GDP. - Cuối cùng Nếu công ty Pamper sản xuất giấy, sau đó giấy đƣợc công ty Thanh Lan sử dụng để làm thiệp chúc mừng thì giấy đó đƣợc gọi là hàng hóa trung gian, còn thiệp chúc mừng đƣợc gọi là hàng hóa cuối cùng. GDP chỉ bao gồm những hàng hóa cuối cùng. Lý do là giá trị của những hàng hóa trung gian đã đƣợc tính vào trong giá cả của hàng hóa cuối cùng. Việc cộng giá trị thị trƣờng của giấy với giá trị thị trƣờng của thiệp sẽ dẫn đến sự tính trùng. Nghĩa là, giá trị của giấy đƣợc tính hai lần. - Được sản xuất ra GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ đƣợc sản xuất ra trong thời kỳ hiện tại. Nó không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa đƣợc sản xuất trong quá khứ. Khi công ty Vidamico sản xuất và bán chiếc ôtô mới thì giá trị của chiếc xe đó đƣợc tính vào GDP. Khi ngƣời nào đó bán chiếc ôtô đã qua sử dụng cho ngƣời khác, thì giá trị của chiếc ôtô đã qua sử dụng đó không nằm trong GDP. - Trong phạm vi một nước GDP tính toán giá trị sản xuất trong phạm vi địa lý của một nƣớc. Khi một công dân Nga làm việc tạm thời ở Việt Nam, thì giá trị sản xuất của anh ta là bộ phận cấu thành GDP của Việt Nam. Khi một công dân Việt Nam làm việc ở Nhật thì GDP của anh ta không nằm trong GDP của Việt Nam (nó là một phần trong GDP của Nhật). Do vậy, các sản phẩm đƣợc đƣa vào GDP của một quốc gia khi chúng đƣợc sản xuất ra trên lãnh thổ của quốc gia đó bất kể nhà sản xuất có quốc tịch nƣớc nào. - Trong một thời kỳ nhất định GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể. Khoảng thời gian này thƣờng là một năm hoặc một quý (3 tháng). GDP phản ánh lƣợng thu nhập và chi tiêu trong thời kỳ đó. 2.2.2. Mối liên hệ giữa hai chỉ tiêu GDP và GNP GNP và GDP đều là chỉ tiêu đo lƣờng tổng sản phẩm cuối cùng của một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ. GNP thống kê sản phẩm đƣợc sản xuất ra của một quốc gia trên cơ sở nguồn lực, nghĩa là tính theo ngƣời dân quốc gia đó. Ngƣời dân quốc gia Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 26
  27. Bài giảng Kinh tế vĩ mô đó dù sinh sống ở đâu trong nƣớc hay nƣớc ngoài tạo ra hàng hoá và dịch vụ thì đều đƣợc tính vào GNP của quốc gia đó. Còn GDP thống kê sản phẩm đƣợc sản xuất ra của một quốc gia tính trên phạm vi lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó, dù đó là ngƣời trong nƣớc hay ngƣời nƣớc ngoài, là doanh nghiệp trong nƣớc hay doanh nghiệp thuộc sở hữu của ngƣời nƣớc ngoài. Vậy GNP và GDP khác nhau phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà ngƣời dân quốc gia đó sản xuất ra ở nƣớc ngoài và phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà ngƣời nƣớc ngoài sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó. Phần này đƣợc gọi là thu nhập ròng từ tài sản ở nƣớc ngoài bằng chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và dịch vụ mà ngƣời dân quốc gia đó sản xuất ra ở nƣớc ngoài trừ đi phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà ngƣời nƣớc ngoài sản xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó. Khi đề cập đến thu nhập của một nền kinh tế (ví dụ là quốc gia X), sẽ có thể bao gồm 3 nguồn: A: giá trị do công dân nƣớc X tạo ra trên lãnh thổ nƣớc X. B: giá trị do công dân nƣớc X tạo ra trên lãnh thổ nƣớc khác. C: giá trị do công dân nƣớc khác tạo ra trên lãnh thổ nƣớc X. Trong đó: - Thu nhập A: là giá trị đƣợc tạo ra từ quá trình sản xuất với nguồn lực bản địa và sở hữu bản địa của quốc gia X. - Thu nhập B: là thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu hay còn gọi là giá trị hàng hóa, dịch vụ mà ngƣời dân sản xuất ra ở nƣớc ngoài. Gồm: tiền công của những ngƣời đi lao động ở nƣớc ngoài, lợi nhuận do đầu tƣ vốn ra nƣớc ngoài, thu nhập do bán hay cho thuê bản quyền ở nƣớc ngoài. - Thu nhập C: là thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu hay còn gọi giá trị hàng hóa, dịch vụ mà ngƣời nƣớc ngoài sản xuất ở trong nƣớc. Gồm: tiền công của những những ngƣời nƣớc ngoài đến làm việc trong nƣớc, thu nhập từ việc sở hữu vốn, bản quyền của ngƣời nƣớc ngoài đầu tƣ vào trong nƣớc. Thành phần cấu thành nên GDP và GNP: GDP = A + C → GNP = GDP + (B – C) GNP = A + B Hay Thu nhập từ các Thu nhập từ các yếu GNP = GDP + – ( yếu tố xuất khẩu tố nhập khẩu ) Thu nhập ròng từ nước ngoài (NIA – Net Income from Aboard) Hiệu số giữa thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu và thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu đƣợc gọi là thu nhập ròng từ nƣớc ngoài. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 27
  28. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Thu nhập từ các Thu nhập từ các yếu NIA = – = B - C yếu tố xuất khẩu tố nhập khẩu → GNP = GDP + NIA (2.1) Nếu NIA > 0 thì GNP > GDP: thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu lớn hơn thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu, thực tế này thƣờng xảy ra đối với các nƣớc phát triển. Nếu NIA < 0 thì GNP < GDP: thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu nhỏ hơn thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu, tình trạng này thƣờng xảy ra với những nƣớc kém phát triển. 2.2.3. GDP thực tế, GDP danh nghĩa và chỉ số điều chỉnh GDP 2.2.3.1. GDP thực tế và GDP danh nghĩa Nhƣ chúng ta đã thấy, GDP phản ánh tổng giá trị của các hàng hóa, dịch vụ trên tất cả các thị trƣờng của nền kinh tế. Chúng ta cùng tìm hiểu về hai thuật ngữ: GDP danh nghĩa (Nominal GDP – GDPn) và GDP thực tế (Real GDP – GDPr). GDP danh nghĩa là tổng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ tính theo thời giá hiện hành hay là tổng của lƣợng hàng hóa và dịch vụ đƣợc sản xuất ra trong một năm nhân với giá của các hàng hóa và dịch vụ ấy trong năm đó. GDP danh nghĩa đƣợc thể hiện dƣới dạng công thức nhƣ sau: n t t t GDP n = Σ q ip i (2.2) i =1 Trong đó: i: hàng hóa cuối cùng thứ i với i = 1, 2, 3, ,n. t: năm tính toán. q: lƣợng hàng hóa, dịch vụ, qi: lƣợng của hàng hóa thứ i p: giá hàng hóa, dịch vụ, pi: giá của hàng hóa thứ i Nếu tổng chi tiêu tăng từ năm này qua năm khác thì một trong hai điều sau đây phải đúng: (1) nền kinh tế đang sản xuất ra sản lƣợng hàng hóa, dịch vụ lớn hơn, hoặc (2) hàng hóa, dịch vụ đƣợc bán với giá cao hơn. Bởi vậy, GDP danh nghĩa không cho chúng ta biết chi tiết sự gia tăng của nó chủ yếu là do sự tăng lên về giá hay sự tăng lên về lƣợng của hàng hóa, dịch vụ tạo ra trong nền kinh tế. Nghiên cứu sự biến động kinh tế theo thời gian, các nhà kinh tế muốn tách riêng hai ảnh hƣởng này. Cụ thể là họ muốn có một chỉ tiêu về tổng lƣợng hàng hóa, dịch vụ nền kinh tế sản xuất ra mà không bị ảnh hƣởng bởi sự biến động giá cả của những hàng hóa, dịch vụ đó. Để thực hiện điều này, các nhà kinh tế sử dụng một chỉ tiêu đƣợc gọi là GDP thực tế. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 28
  29. Bài giảng Kinh tế vĩ mô GDP thực tế là giá trị sản lượng hàng hóa, dịch vụ hiện hành của nền kinh tế được tính theo mức giá cố định của năm cơ sở hay là tổng của lƣợng hàng hóa, dịch vụ đƣợc sản xuất ra trong một năm nhân với giá cố định của hàng hóa, dịch vụ đó trong năm cơ sở (năm gốc). GDP thực tế đƣợc thể hiện dƣới dạng công thức nhƣ sau: n t t 0 GDP r = Σ q ip i (2.3) i =1 Với giả định t = 0 ở năm cơ sở hay năm gốc. Thông qua việc đánh giá sản lƣợng hiện hành theo các mức giá quá khứ cố định, GDP thực tế cho biết sản lƣợng hàng hóa, dịch vụ nói chung của nền kinh tế thay đổi nhƣ thế nào theo thời gian. Để phân biệt giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế, chúng ta cần tìm cách tách những thay đổi GDP danh nghĩa do giá thay đổi ra khỏi những thay đổi xuất phát từ lƣợng thay đổi. Cách tốt nhất để làm việc đó là xét một ví dụ đơn giản. Giả sử chúng ta đánh giá lƣợng nƣớc mắm sản xuất ra năm 2013 theo giá nƣớc mắm năm 1994. Sau đó chúng ta đem so sánh giá trị sản lƣợng nƣớc mắm năm 2013 với giá trị sản lƣợng nƣớc mắm năm 1994. Ở đây chỉ có lƣợng là khác nhau vì chúng ta đã định giá chuẩn cho cả hai năm bằng cách dùng giá năm 1994. Chúng ta có thể lặp lại công việc tính toán này cho tất cả các năm cần quan tâm bằng việc nhân lƣợng nƣớc mắm ở mỗi năm với giá nƣớc mắm năm 1994. Năm 1994 đƣợc biết tới là năm cơ sở (năm gốc). Tƣơng tự nhƣ đã làm với nƣớc mắm ở phần trên, chúng ta tiến hành tính toán đối với tất cả các hàng hóa sản xuất ra trong nền kinh tế. Chúng ta lấy lƣợng của tất cả hàng hóa cuối cùng ở một năm cụ thể nào đó nhân với giá của chúng ở năm cơ sở và cộng các giá trị tính đƣợc với nhau. Kết quả thu đƣợc là GDP thực tế hay GDP theo giá cố định. Khái niệm này đôi khi cũng đƣợc gọi là GDP đã hiệu chỉnh lạm phát vì đã loại trừ ảnh hƣởng của thay đổi giá cả thông qua việc dùng giá cố định của năm cơ sở cho các năm khác. Đối với mỗi sản phẩm riêng lẻ, lƣợng của năm 2013 có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn lƣợng sản phẩm đó ở năm 1994 nhƣng khi chúng ta tính GDP thực tế, chúng ta thu đƣợc một chỉ tiêu cho biết liệu tổng sản lƣợng của nền kinh tế tăng lên hay giảm xuống. Chúng ta dùng năm 1994 là năm cơ sở trong ví dụ bởi vì các bài báo và số liệu thống kê về GDP của Việt Nam đang áp dụng năm 1994 là năm cơ sở. Tổng cục thống kê thỉnh thoảng có thay đổi năm cơ sở, trƣớc đó là năm 1990 là năm cơ sở để tính các thống kê về GDP, chi tiêu và thu nhập của nền kinh tế. Mục tiêu tính toán GDP của chúng ta là để nắm bắt đƣợc hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Do GDP thực tế phản ánh lƣợng hàng hóa, dịch vụ đƣợc tạo ra Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 29
  30. Bài giảng Kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế nên nó cũng cho biết khả năng thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn của ngƣời dân trong nền kinh tế. Chính vì vậy mà GDP thực tế là chỉ tiêu đánh giá phúc lợi kinh tế tốt hơn so với GDP danh nghĩa. Sau khi đã loại trừ ảnh hƣởng của biến đổi giá, các nhà kinh tế tính tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế (GDP growth rate – g), là tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực tế từ thời kỳ/năm này so với thời kỳ/năm trƣớc. GDPt - GDPt-1 t r r x 100% (2.4) g = t-1 GDP r 2.2.3.2. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator – DGDP) Chỉ số điều chỉnh GDP đo lƣờng mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hóa, dịch vụ đƣợc tính trong GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP đƣợc tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá của năm cơ sở. Chỉ số điều chỉnh GDP ở những năm sau phản ánh sự gia tăng của GDP danh nghĩa so với năm gốc, nó chỉ cho biết sự thay đổi sản lƣợng do giá thay đổi chứ không cho biết sự gia tăng của GDP thực tế. Do GDP danh nghĩa và GDP thực tế năm cơ sở bằng nhau nên chỉ số điều chỉnh GDP năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi, chúng thƣờng đƣợc thể hiện là 100% thay vì 1. Do vậy, tỷ số giữa giá trị của GDP danh nghĩa và GDP thực tế đƣợc nhân với 100%. Công thức tính chỉ số điều chỉnh GDP nhƣ sau: t GDP n t D GDP = x 100% (2.5) t GDP r Chúng ta có thể minh họa những điều đã đƣợc đề cập ở trên bằng một ví dụ đơn giản, đó là nghiên cứu một nền kinh tế tƣởng tƣợng chỉ sản xuất hai hàng hóa cuối cùng là gạo và nƣớc mắm. Chúng ta tìm hiểu xem để tính toán các chỉ tiêu về GDP danh nghĩa và thực tế (GDPn, GDPr), chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và tỷ lệ tăng trƣởng GDP hay tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế hàng năm (g). Gạo Nƣớc mắm Chỉ tiêu (nghìn) Năm Giá Lƣợng Giá Lƣợng GDP GDP D (nghìn/kg) (kg) (nghìn/lít) (lít) n r GDP 2011 13 1000 17 180 16.060 16.060 100 2012 14 1200 17,5 190 20.125 18.830 106,87 2013 15 1350 18 210 24.030 21.120 113,78 Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 30
  31. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 2013 2012 GDP r - GDP r g2013 = x 100% 2012 GDP r 21.120 - 18.830 = x 100% 18.830 = 12,16% 2.2.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô Các quốc gia luôn tìm cách đo lƣờng kết quả hoạt động của mình trong mỗi thời kỳ nhất định. Thành tựu kinh tế của một quốc gia, phản ánh quốc gia đó sản xuất ra đƣợc bao nhiêu sản phẩm, nó đã sử dụng các yếu tố sản xuất của mình đến mức độ nào để tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân của quốc gia mình. Chỉ tiêu GNP và GDP là những thƣớc đo tốt về thành tựu kinh tế của một quốc gia. Ngân hàng thế giới hay quỹ tiền tệ quốc tế cũng nhƣ các nhà kinh tế thƣờng sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuất của các nƣớc khác nhau trên thế giới. Sau khi tính chuyển số liệu GNP và GDP tính bằng các đồng tiền khác nhau của các nƣớc và đồng đô la Mỹ. Sự tính chuyển đó thông qua tỷ giá hối đoái chính thức giữa các nƣớc và đồng Đô la Mỹ. GNP và GDP thƣờng đƣợc sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lƣợng của một đất nƣớc trong các thời gian khác nhau. Trong trƣờng hợp này ngƣời ta thƣờng tính GNP hoặc GDP thực tế nhằm loại trừ sự biến động về giá cả. Các chỉ tiêu GNP, GDP còn đƣợc sử dụng để phân tích sự thay đổi mức sống dân cƣ. Để làm việc đó ngƣời ta thƣờng tính GNP, GDP bình quân đầu ngƣời. GDP bình quân đầu ngƣời = GDP/ tổng dân số GNP bình quân đầu ngƣời = GNP/ tổng dân số Nhƣ vậy, mức sống dân cƣ của một nƣớc phụ thuộc vào số lƣợng hàng hoá đƣợc sản xuất ra và quy mô dân số của quốc gia đó. Sự thay đổi về GDP, GNP bình quân đầu ngƣời phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và năng suất lao động. Mức sống của dân cƣ của một nƣớc phụ thuộc vào đất nƣớc đó giải quyết vấn đề dân số trong mối quan hệ với năng suất lao động nhƣ thế nào. Vì GNP bao gồm GDP và phần thu nhập ròng từ tài sản ở nƣớc ngoài nên GNP bình quân đầu ngƣời là thƣớc đo tốt hơn nếu xét theo khía cạnh số lƣợng hàng hoá và dịch vụ mà mỗi ngƣời dân quốc gia đó có thể mua đƣợc. Còn GDP bình quân đầu ngƣời là thƣớc đo tốt hơn về số lƣợng hàng hoá và dịch vụ đƣợc sản xuất ra tính bình quân cho một ngƣời dân. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 31
  32. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Các Chính phủ của các nƣớc trên thế giới đều phải dựa vào số liệu về GDP và GNP để xây dựng các kế hoạch, chiến lƣợc phát triển cho nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. 2.3. PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GDP 2.3.1. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô Chúng ta cùng hình dung một nền kinh tế chỉ sản xuất một loại hàng hóa duy nhất là bánh mỳ từ một đầu vào duy nhất là lao động. Hình 2.1 minh họa tất cả các giao dịch kinh tế xảy ra giữa hộ gia đình và doanh nghiệp trong nền kinh tế này. Thị trƣờng hàng hóa Chi tiêu Hộ gia đình Doanh nghiệp Thu nhập Thị trƣờng yếu tố sản xuất Hình 2.1: Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô Nhánh ngoài của hình 2.1 biểu thị luồng chu chuyển của hàng hóa và yếu tố đầu vào (lao động). Hộ gia đình bán sức lao động cho doanh nghiệp, doanh nghiệp sử dụng sức lao động của công nhân để sản xuất hàng hóa, sau đó bán cho hộ gia đình. Bởi vậy, luồng lao động chảy từ hộ gia đình sang doanh nghiệp và luồng hàng hóa chảy từ doanh nghiệp sang hộ gia đình. Nhánh trong của hình 2.1 biểu thị các luồng tiền tƣơng ứng. Hộ gia đình mua hàng hóa của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng một phần doanh thu bán hàng để trả tiền lƣơng cho công nhân. Phần còn lại là lợi nhuận của chủ doanh nghiệp (bản thân ngƣời chủ cũng là bộ phận của khu vực hộ gia đình). Cho nên, luồng chi tiêu mua hàng hóa chảy từ hộ gia đình sang doanh nghiệp, còn thu nhập dƣới dạng tiền lƣơng và lợi nhuận chảy từ doanh nghiệp sang hộ gia đình. GDP phản ánh các luồng tiền trong nền kinh tế. Chúng ta có thể tính nó theo hai cách: - GDP là tổng thu nhập thu đƣợc từ quá trình sản xuất hàng hóa. Nó bằng tổng tiền lƣơng và lợi nhuận (tức vòng chu chuyển tiền ở phần dƣới của hình 2.1) (Phƣơng pháp xác định GDP theo luồng thu nhập hay phƣơng pháp chi phí) Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 32
  33. Bài giảng Kinh tế vĩ mô - GDP cũng bằng tổng chi tiêu để mua hàng hóa (tức vòng chu chuyển tiền phần trên cùng của hình 2.1) (Phƣơng pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm hay phƣơng pháp chi tiêu) Nhƣ vậy, chúng ta có thể xem xét luồng tiền chảy từ doanh nghiệp sang hộ gia đình hoặc luồng tiền chuyển từ hộ gia đình sang doanh nghiệp. Tổng mức chi tiêu và tổng thu nhập của nền kinh tế phải bằng nhau vì mỗi giao dịch đều bao gồm hai bên mua và bán. Theo nguyên tắc, chi tiêu của ngƣời mua để mua sản phẩm bằng thu nhập của ngƣời bán sản phẩm. Bởi vậy, mọi giao dịch ảnh hƣởng tới chi tiêu phải tác động tới thu nhập và mọi giao dịch ảnh hƣởng tới thu nhập phải tác động tới chi tiêu. Ví dụ nếu doanh nghiệp sản xuất bán thêm một chiếc hàng hóa cho hộ gia đình, thì rõ ràng giao dịch này làm tăng tổng chi tiêu về hàng hóa, nhƣng nó cũng tác động nhƣ vậy tới tổng thu nhập. Nếu doanh nghiệp sản xuất thêm một hàng hóa mà không thuê thêm lao động thì lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên. Nếu doanh nghiệp sản xuất thêm hàng hóa bằng cách thuê thêm lao động, tiền lƣơng sẽ tăng lên. Trong cả hai trƣờng hợp, chi tiêu và thu nhập đều tăng một lƣợng nhƣ nhau. Trong một nền kinh tế giả định chỉ sản xuất hàng hóa, chúng ta có thể tính toán GDP đơn giản bằng cách cộng các khoản chi tiêu để mua hàng hóa lại với nhau, nhƣng vì nền kinh tế lớn và phức tạp, cho nên việc cộng tất cả các khoản chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ lại với nhau bao gồm rất nhiều khoản mục. Cụ thể, các hộ gia đình không chi tiêu toàn bộ thu nhập của mình. Họ nộp một phần thu nhập cho Chính phủ dƣới dạng thuế, cũng nhƣ tiết kiệm và đầu tƣ một phần thu nhập để sử dụng trong tƣơng lai. Ngoài ra, các hộ gia đình không mua tất cả các hàng hóa, dịch vụ đƣợc sản xuất ra trong nền kinh tế. Một số hàng hóa, dịch vụ đƣợc Chính phủ mua, một số khác đƣợc các doanh nghiệp mua, vì họ dự kiến trong tƣơng lai sẽ sử dụng chúng vào việc sản xuất ra sản phẩm của riêng họ. Tuy nhiên, bất kể gia đình, doanh nghiệp hay Chính phủ mua một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó, thì giao dịch đó vẫn có bên mua và bên bán. Do vậy, khi xem xét nền kinh tế với tƣ cách một tổng thể thì chi tiêu và thu nhập vẫn luôn bằng nhau. 2.3.2. Phƣơng pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm (Phƣơng pháp chi tiêu) Theo phƣơng pháp luồng sản phẩm, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trƣờng của các hàng hóa, dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp, Chính phủ mua và khoản xuất khẩu ròng đƣợc thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, thƣờng là một năm. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn các yếu tố cấu thành GDP theo phƣơng pháp luồng sản phẩm (Phƣơng pháp chi tiêu): Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 33
  34. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 2.3.2.1. Tiêu dùng của hộ gia đình (C) Tiêu dùng của hộ gia đình bao gồm tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của hộ gia đình mua trên thị trƣờng để chi dùng phục vụ đời sống hàng ngày. Nhƣ vậy GDP chỉ bao gồm những sản phẩm đƣợc giao dịch trên thị trƣờng, còn các sản phẩm mà các hộ gia đình tự sản xuất để sử dụng thì bị bỏ sót không thể tập hợp đƣợc. Chú ý: GDP chỉ bao gồm hàng hoá mới đƣợc sản xuất và bán ra. Hàng hoá mới là hàng hoá lần đầu tiên đƣợc giao dịch, mua bán trên thị trƣờng. 2.3.2.2. Đầu tư (I) Đầu tƣ bao gồm các hàng hóa đƣợc mua để dùng trong tƣơng lai. Đầu tƣ chính là việc giảm tiêu dùng hiện tại, có tác dụng tái sản xuất mở rộng để tăng tiêu dùng trong tƣơng lai. Đầu tƣ đƣợc chia thành: đầu tƣ cố định vào kinh doanh, đầu tƣ cố định vào nhà ở và đầu tƣ vào hàng tồn kho. Đầu tƣ cố định vào kinh doanh là việc mua sắm nhà máy và thiết bị mới của doanh nghiệp. Đầu tƣ cố định vào nhà ở là việc mua nhà mới của hộ gia đình và ngƣời cho thuê nhà. Đầu tƣ vào hàng tồn kho là mức tăng tồn kho hàng hóa của doanh nghiệp (nếu hàng tồn kho giảm xuống, đầu tƣ vào hàng tồn kho mang dấu âm). Hàng tồn kho là những hàng hóa đƣợc giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Thực chất của hàng tồn kho là một loại tài sản lƣu động. Nó là những vật liệu hay đầu vào của sản xuất sẽ đƣợc sử dụng trong chu kỳ sản xuất tiếp theo, hoặc các thành phẩm chờ để bán trong thời gian tới. Do chúng sẽ đƣợc tiêu thụ trong tƣơng lai nên khi tính GDP, chúng đƣợc xếp vào khoản mục đầu tƣ. Cần phân biệt khái niệm tổng đầu tƣ và đầu tƣ ròng.Tổng đầu tƣ là giá trị các tƣ liệu lao động chƣa trừ đi phần đã hao mòn trong quá trình sản xuất. Đầu tƣ ròng bằng tổng đầu tƣ trừ đi khấu hao tài sản cố định. Trong tính toán GDP, chúng ta tính tổng đầu tƣ chứ không phải đầu tƣ ròng. 2.3.2.3. Chi tiêu của Chính phủ (G) Chi tiêu của Chính phủ là những hàng hóa và dịch vụ mà Chính phủ, chính quyền địa phƣơng mua. Chính phủ là một tác nhân kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế. Hàng năm các khoản chi tiêu của Chính phủ cho khu vực hành chính sự nghiệp của mình, chi tiêu cho xây dựng các cơ sở kết cấu hạ tầng vật chất cho nền kinh tế, xã hội và chi tiêu cho sự nghiệp phúc lợi xã hội rất lớn. Phần lớn các khoản chi tiêu này của Chính phủ đều đƣợc tính vào GDP. Song phải lƣu ý, khi tính cần phải loại trừ ra: Thứ nhất, những khoản thanh toán chuyển nhƣợng xã hội, ký hiệu là Tr bao gồm: bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho những ngƣời già cô đơn, ngƣời tàn tật, trẻ em không nơi Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 34
  35. Bài giảng Kinh tế vĩ mô nƣơng tựa, những ngƣời thuộc diện trợ cấp thất nghiệp, ngƣời có công với cách mạng Những khoản đã chi này lại không tƣơng ứng với loại hàng hoá, dịch vụ nào mới đƣợc sản xuất ra trong nền kinh tế. Do đó không đóng góp gì vào GDP, nên không đƣợc tính. Thứ hai, chi tiêu của nhà nƣớc đƣợc tạo nguồn chủ yếu từ thuế (Tax), gồm hai loại cơ bản: - Thuế gián thu (Te): là loại thuế gián tiếp tác động vào thu nhập, đối tƣợng chịu thuế và đối tƣợng nộp thuế là riêng biệt (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt ) - Thuế trực thu (Td): là loại thuế trực tiếp tác động vào thu nhập, đối tƣợng chịu thuế và đối tƣợng nộp thuế là một (thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức ) Song khi tính GDP theo cung trên, tức là theo phƣơng pháp luồng sản phẩm chƣa cần điều chỉnh gì về thuế vì trên thị trƣờng những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã đƣợc tính thuế vào giá cả dƣới hình thức thuế gián thu đánh vào hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng. 2.3.2.4. Xuất khẩu ròng (NX = X – IM) Xuất khẩu ròng tính đến quan hệ buôn bán với các nƣớc khác. Xuất khẩu ròng là giá trị hàng hóa, dịch vụ đƣợc xuất khẩu sang các nƣớc khác (xuất khẩu – X) trừ đi giá trị hàng hóa, dịch vụ mà ngƣời nƣớc ngoài cung cấp cho nƣớc ta (nhập khẩu – IM). Từ ròng thể hiện nhập khẩu đã đƣợc khấu trừ khỏi xuất khẩu. Việc khấu trừ này đƣợc thực hiện bởi vì nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đã nằm trong những thành tố khác của GDP. Ví dụ: một hộ gia đình mua một chiếc ôtô trị giá 500 triệu của doanh nghiệp General Motors, một nhà sản xuất ôtô của Mỹ. Giao dịch này làm tăng tiêu dùng một lƣợng là 500 triệu bởi vì khoản chi tiêu để mua chiếc xe này là một thành tố chi tiêu của ngƣời tiêu dùng. Nó cũng làm giảm xuất khẩu ròng đi 500 triệu bởi vì nó là hàng nhập khẩu. Nói cách khác, xuất khẩu ròng bao gồm các hàng hóa và dịch vụ đƣợc sản xuất ra ở nƣớc ngoài (với dấu âm), bởi vì những hàng hóa và dịch vụ này đã nằm trong tiêu dùng, đầu tƣ và chi tiêu của Chính phủ (với dấu dƣơng). Do vậy, khi hộ gia đình, doanh nghiệp hay Chính phủ mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ nƣớc ngoài, thì khoản chi tiêu đó làm giảm xuất khẩu ròng – song nó cũng làm tăng tiêu dùng, đầu tƣ hoặc chi tiêu của Chính phủ, nên nó hoàn toàn không ảnh hƣởng đến GDP. Mặt khác, xuất khẩu ròng biểu thị phần chi tiêu ròng của nƣớc ngoài để mua hàng hóa, dịch vụ của nƣớc ta và làm tăng thu nhập của các nhà sản xuất trong nƣớc. Nhƣ vậy, công thức chung để xác định GDP theo phƣơng pháp luồng sản phẩm (chi tiêu) nhƣ sau: GDP = C + I + G + NX (2.6) Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 35
  36. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 2.3.3. Phƣơng pháp xác định GDP theo thu nhập (Phƣơng pháp chi phí) Chúng ta đã xem xét vòng chu chuyển dƣới của sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô tại hình 2.1, GDP đƣợc tính theo giá trị sản phẩm đầu ra. Bây giờ, chúng ta xem xét GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất mà các doanh nghiệp phải thanh toán nhƣ tiền lƣơng cho lao động, tiền trả lãi vốn vay, tiền thuê nhà, đất đai và lợi nhuận – thu nhập của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán các khoản chi phí. - Tiền lƣơng (w): là phần thu nhập nhận đƣợc của ngƣời lao động và đồng thời là chi phí của doanh nghiệp. - Tiền trả lãi vốn vay (lãi suất – i): là thu nhập nhận đƣợc do cho vay tính theo mức lãi suất nhất định. Nếu nhà doanh nghiệp có vốn không phải đi vay thì họ tự trả lãi suất (i) cho mình. - Tiền thuê nhà, đất (r): là khoản thu nhập có đƣợc do cho thuê đất đai, nhà cửa và các loại tài sản khác. Thực chất nó bao gồm hai phần, một là khấu hao tài sản cho thuê và hai là lợi tức của chủ sở hữu tài sản. Nếu nhà doanh nghiệp có các tài sản này bỏ vào kinh doanh thì khi hạch toán chi phí – lợi ích, họ cũng tự trả cho mình giống nhƣ một chủ sở hữu có tài sản cho thuê. - Lợi nhuận (Pr): là khoản thu nhập còn lại do bán sản phẩm sau khi đã thanh toán tất cả các chi phí sản xuất. Đối với nền kinh tế giản đơn (nền kinh tế chỉ bao gồm hộ gia đình và doanh nghiệp chƣa tính tới khấu hao), GDP đƣợc tính theo yếu tố chi phí sản xuất nhƣ sau: GDP = w + i + r + Pr Đối với nền kinh tế mở (có yếu tố Chính phủ và khu vực nƣớc ngoài), GDP tính theo yếu tố chi phí sản xuất cần có hai điều chỉnh: + GDP tính theo yếu tố chi phí sản xuất chƣa tính đến khoản thuế mà Chính phủ đánh vào hàng hóa tiêu dùng thu qua doanh nghiệp. Đó là thuế gián thu (Te). + GDP tính theo yếu tố chi phí sản xuất chƣa tính đến hao mòn tài sản cố định. Vì hao mòn tài sản cố định không tƣơng ứng với khoản thu nhập nào của hộ gia đình. Chi phí khấu hao tài sản cố định phát sinh, các doanh nghiệp phải bù đắp các hao mòn bộ phận hay toàn bộ tài sản cố định. Do đó, khi tính GDP, ta phải thêm vào công thức phần thuế gián thu (Te) và khấu hao tài sản cố định (De). GDP = w + i + r + Pr + Te + De (2.7) Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 36
  37. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 2.3.4. Phƣơng pháp tính GDP theo giá trị gia tăng GDP là tổng giá trị của hàng hóa và dịch vụ cuối cùng đƣợc sản xuất ra, GDP không tính các hàng hóa là các sản phẩm trung gian – những sản phẩm đƣợc sử dụng để sản xuất ra hàng hóa khác. Để hàng hóa cuối cùng đến tay ngƣời tiêu dùng, chúng phải trải qua nhiều công đoạn, mỗi công đoạn thì các doanh nghiệp chỉ đóng góp một phần giá trị của mình để tạo ra một hàng hóa hoặc dịch vụ hoàn chỉnh. Vì vậy, khi tính GDP theo cung dƣới – phƣơng pháp thu nhập (hoặc chi phí) cần thận trọng để tránh tính trùng. Để tránh điều này, các nhà thống kê đƣa ra khái niệm: Giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp bằng giá trị sản lượng của nó trừ đi giá trị hàng hóa và dịch vụ đầu vào đã được dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng đó. Để tính GDP theo phƣơng pháp giá trị gia tăng, chúng ta tiến hành qua hai bƣớc: Bước 1: Tính giá trị gia tăng của từng ngành hay từng thành phần kinh tế. Giá trị gia tăng = Giá trị sản xuất – Chi phí trung gian Trong đó: + Giá trị sản xuất: là toàn bộ giá trị sản lƣợng của doanh nghiệp tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thƣờng là một năm. + Chi phí trung gian: toàn bộ chi phí hàng hóa và dịch vụ đầu vào mà doanh nghiệp sử dụng để sản xuất ra sản phẩm của mình trong một thời kỳ nhất định, thƣờng là một năm. Bước 2: Tính tổng sản phẩm quốc nội theo công thức: GDP = Tổng giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế. → GDP = Σ VAi (i =1,2,3 n) (2.8) Trong đó: VAi: giá trị tăng thêm của các doanh nghiệp trong ngành i n: số lƣợng ngành trong nền kinh tế Đối với một nền kinh tế với tƣ cách một tổng thể, tổng giá trị gia tăng phải bằng giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Việc áp dụng phƣơng pháp giá trị gia tăng có khả năng tránh đƣợc tính trùng, có nghĩa là loại trừ đƣợc chi phí trung gian trong báo cáo thu nhập của ngƣời nông dân, ngƣời chế biến nông sản và ngƣời bán sản phẩm đó. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, chỉ tiêu GDP đƣợc tính đồng thời theo cả ba phƣơng pháp. Về mặt lý thuyết thì cả ba phƣơng pháp này đều cho kết quả nhƣ nhau. Nhƣng trên thực tế thì mỗi phƣơng pháp dựa trên nguồn thông tin khác nhau, cho nên giữa chúng thƣờng có sai số gọi là sai số thống kê. Ở Việt Nam phƣơng pháp sản xuất (phƣơng pháp VA) đƣợc coi là phƣơng pháp cơ bản và nó đƣợc dùng làm căn cứ để Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 37
  38. Bài giảng Kinh tế vĩ mô kiểm tra, chỉnh lý kết quả tính từ hai phƣơng pháp chi phí và phƣơng pháp chi tiêu. Phần sai số thống kê không quá 2% là chấp nhận đƣợc. 2.4. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG (CPI) 2.4.1. Khái niệm Chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa, dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tƣơng đối phản ánh xu thế và mức độ biến động của giá bán lẻ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ tiêu dùng trong sinh hoạt của dân cƣ và các hộ gia đình. Bởi vậy, nó đƣợc dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí sinh hoạt theo thời gian. Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng nghĩa là mức giá trung bình tăng. Kết quả là ngƣời tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để có thể mua đƣợc một lƣợng hàng hóa, dịch vụ nhƣ cũ nhằm duy trì mức sống trƣớc đó của họ. Ở Việt Nam, hàng tháng, tổng cục thống kê tính toán và công bố những số liệu mới về CPI. Trên cơ sở những con số thống kê này, các nhà phân tích nhanh chóng đƣa ra những bình luận về nguyên nhân thay đổi giá cả và đồng thời dự báo triển vọng thay đổi giá cả trong tƣơng lai trên các mặt báo hàng ngày hoặc đƣa lên ti vi. 2.4.2. Xây dựng chỉ số giá tiêu dùng Bây giờ chúng ta tìm hiểu xem các nhà thống kê kinh tế tính CPI nhƣ thế nào? Trƣớc hết, để xây dựng chỉ số giá tiêu dùng, các nhà thống kê kinh tế chọn năm cơ sở (năm gốc). Tiếp đó, họ tiến hành các cuộc điều tra tiêu dùng trên khắp các vùng của đất nƣớc để xác định “giỏ hàng hóa” điển hình mà dân cƣ mua trong năm cơ sở. Hiện nay, giỏ hàng đặc trƣng để tính CPI của Việt Nam đƣợc hình thành bởi 10 nhóm hàng cấp 1; 34 nhóm hàng cấp 2 và 86 nhóm hàng cấp 3. CPI và xu thế biến động của mức giá hàng tiêu dùng đƣợc tính toán nhƣ thế nào? Để biết một cách chính xác chúng ta tiến hành theo các bƣớc cụ thể nhƣ sau: t Bước 1: Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng hóa cho năm cơ sở, q i với t biểu thị năm hay thời kỳ thứ t, t = 0 ở năm cơ sở i: hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ hàng hóa. Ví dụ: giả sử năm cơ sở là năm 2011, giỏ hàng hóa tiêu dùng điển hình chỉ bao gồm 2 mặt hàng là gạo và nƣớc mắm với lƣợng hàng mua tƣơng ứng là 10kg gạo và 5 lít nƣớc mắm. Chúng ta cố định giỏ hàng này cho các năm tiếp theo vì mục đích của chúng ta là xác định ảnh hƣởng của những thay đổi giá đến chi phí giỏ hàng ở các năm khác nhau. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 38
  39. Bài giảng Kinh tế vĩ mô t Bước 2: Xác định giá của từng mặt hàng trong giỏ hàng cố định cho các năm, p i. Giá gạo Giá nƣớc mắm Năm (nghìn/kg) (nghìn/lít) 2011 13 15 2012 14 17 2013 15 22 Bước 3: Tính chi phí mua giỏ hàng cố định theo giá thay đổi ở các năm. Chi phí cho giỏ hàng của mỗi năm đƣợc tính bằng cách nhân giá của từng mặt hàng của năm tƣơng ứng với lƣợng cố định của các mặt hàng ấy ở năm cơ sở và sau đó cộng các giá trị tìm đƣợc với nhau. Do chỉ có giá các mặt hàng thay đổi qua các năm nên: t 0 Chi phí giỏ hàng ở năm t = Σ p i q i Bước 4: Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các năm. Sau khi có số liệu về chi phí cho giỏ hàng của từng năm, chúng ta có thể tính CPI, đó là một chỉ số. Cũng nhƣ chỉ số điều chỉnh GDP, để tiện lợi, các nhà thống kê kinh tế thƣờng thể hiện giá trị của chỉ số ở năm cơ sở là 100% thay vì 1. CPI của một năm/thời kỳ nào đó chính là tỷ số giữa giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm đó và giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm cơ sở nhân với 100. Công thức tính CPI đƣợc xác định nhƣ sau: t 0 Σ p i q i CPIt = x 100% (2.9) 0 0 Σ p i q i Bước 5: Tính tỷ lệ lạm phát. Đây là công việc cuối cùng của chúng ta để hiểu đƣợc ứng dụng của CPI trong phân tích kinh tế, cụ thể là tiêu dùng CPI để tính tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung. Do vậy, tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi của mức giá chung so với thời kỳ trƣớc đó. Tỷ lệ lạm phát đƣợc xác định theo công thức sau: CPIt - CPIt-1 Tỷ lệ lạm phátt = x 100% (2.10) CPIt-1 Giá gạo Giá nƣớc mắm Chi tiêu Tỷ lệ lạm phát Năm CPI (nghìn/kg) (nghìn/lít) (nghìn) (%/năm) 2011 13 15 205 100 2012 14 17 225 109,76 9,76 2013 15 22 260 126,83 15,55 Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 39
  40. Bài giảng Kinh tế vĩ mô 2.4.3. So sánh chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng Điểm giống nhau cơ bản của cả hai chỉ số là đo lƣờng mức giá chung của nền kinh tế và đều đƣợc các nhà hoạch định chính sách quan tâm, sử dụng vào việc hoạch định các chính sách kinh tế và xã hội. Đƣơng nhiên, hai chỉ số này có những khác biệt nhất định vì chúng đƣợc xây dựng và sử dụng những điều kiện không đồng nhất với nhau. Điểm khác biệt thứ nhất, chỉ số điều chỉnh GDP đo lƣờng mức giá trung bình của tất cả các hàng hóa, dịch vụ cuối cùng đƣợc sản xuất ra trong nƣớc, trong khi CPI đo lƣờng mức giá trung bình của mọi hàng hóa, dịch vụ mà một hộ gia đình/ngƣời tiêu dùng điển hình tiêu dùng. Nhƣ vậy, có hàng hóa là một bộ phận của GDP nhƣng không thuộc về giỏ hàng hóa do ngƣời tiêu dùng điển hình mua, ví dụ nhƣ xe tăng quân sự. Giả sử có sự tăng giá đối với mặt hàng này do chi phí đầu vào tăng lên thì sự gia tăng giá cả này chỉ đƣợc phản ánh ở chỉ số điều chỉnh GDP mà không đƣợc phản ánh trong CPI. Chúng ta xét thêm một ví dụ khác: hàng SAMSUNG của Hàn Quốc nên nó thuộc GDP của Hàn Quốc chứ không thuộc GDP của Việt Nam. Do nhiều ngƣời tiêu dùng của Việt Nam mua tivi SAMSUNG sản xuất tại Hàn Quốc nhập khẩu vào Việt Nam nên ti vi SAMSUNG là một bộ phận của giỏ hàng tiêu dùng điển hình của Việt Nam. Ở đây sự tăng giá của hàng tiêu dùng nhập khẩu, nhƣ tivi SAMSUNG, đƣợc phản ánh trong CPI nhƣng không đƣợc tính đến trong chỉ số điều chỉnh GDP. Sự khác biệt thứ nhất này đặc biệt quan trọng khi giá dầu thay đổi. Mặc dù Việt Nam đã sản xuất đƣợc dầu nhƣng hầu hết lƣợng dầu mà chúng ta đang sử dụng là nhập từ nƣớc ngoài. Do vậy, dầu và các sản phẩm dầu mỏ nhƣ xăng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong chi tiêu của ngƣời tiêu dùng so với GDP. Khi giá dầu tăng, chỉ số giá tiêu dùng tăng nhiều hơn mức gia tăng của chỉ số điều chỉnh GDP. Bên cạnh đó, chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng CPI còn phân biệt nhau ở một khía cạnh khác, đó là làm sao quy quyền số cho các giá cả khác nhau để thu đƣợc một con số duy nhất về mức giá chung. Chỉ số giá tiêu dùng so sánh giá của một giỏ hàng hóa, dịch vụ cố định ở năm tính toán với giá của giỏ hàng hóa đó ở năm cơ sở. Giỏ hàng tiêu dùng thỉnh thoảng mới đƣợc tổng cục thống kê thay đổi, do đó, nó thƣờng đƣợc giữ cố định cho nhiều năm. Trong khi đó, chỉ số điều chỉnh GDP so sánh giá của những hàng hóa, dịch vụ đƣợc sản xuất ra trong năm hiện hành với giá của những hàng hóa ấy trong năm cơ sở. Vì vậy, nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng để tính chỉ số điều chỉnh GDP tự động thay đổi theo thời gian. Khi tất cả giá cả đều thay đổi theo cùng tỷ lệ thì sự khác biệt này là không quan trọng, song nếu giá cả của những hàng hóa, dịch vụ khác nhau không thay đổi theo cùng tỷ lệ, việc gán quyền số cho các giá cả khác nhau tác động mạnh tới tỷ lệ lạm phát. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 40
  41. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Chính những khác biệt giữa hai chỉ số này đã giải thích tại sao có sự chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số điều chỉnh GDP và tỷ lệ lạm phát tính theo CPI. Nhìn chung hai chỉ số này biến động cùng chiều ở hầu hết các năm mặc dù CPI dao động mạnh hơn và đôi khi có lúc ngƣợc chiều nhau (đối với Việt Nam là năm 2003). Do chi tiêu cho lƣơng thực, thực phẩm chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu của giỏ hàng tiêu dùng nên tốc độ tăng trƣởng của ngành sản xuất lƣơng thực, thực phẩm và sự biến động của giá hàng lƣơng thực, thực phẩm có tác động lớn tới tỷ lệ lạm phát tính theo CPI. Tuy nhiên, trong 3 ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, ngành nông nghiệp chỉ tạo ra hơn 20% GDP nên tác động của những dao động ở giá hàng nông sản nói chung đối với chỉ số điều chỉnh GDP không lớn nhƣ chúng tác động tới CPI. Chỉ số điều chỉnh GDP Chỉ số giá tiêu dùng CPI - Phản ánh giá của tất cả các hàng hóa, - Phản ánh giá của các loại hàng hóa, dịch dịch vụ sản xuất ra trong năm/thời kỳ. vụ mà ngƣời tiêu dùng điển hình mua. - Chỉ phản ánh giá của các hàng hóa, - Bao gồm cả giá của những hàng hóa, dịch dịch vụ sản xuất trong nƣớc. vụ nhập khẩu mà ngƣời tiêu dùng mua. - Tính theo cơ cấu hàng hóa, dịch vụ - Tính theo cơ cấu hàng hóa, dịch vụ điển thực tế của từng năm hình, cố định chung cho tất cả các năm. 2.4.4. Những vấn đề phát sinh khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng Tới thời điểm này chúng ta đã biết cách tính và nội dung của chỉ tiêu phản ánh mức giá chung của nền kinh tế là chỉ số giá tiêu dùng. Mục tiêu chủ yếu của CPI đƣợc xem xét ở đây là để đo lƣờng lạm phát và ứng dụng của nó trong thực tiễn kinh tế. Ví dụ Chính phủ sử dụng CPI để xác định hƣớng dẫn điều chỉnh chi phí sinh hoạt và ngành ngân hàng sử dụng CPI để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền cho vay. Song liệu CPI có phải là một thƣớc đo lạm phát tốt không? Liệu CPI tăng 9,5 phần trăm có nghĩa là chi phí sinh hoạt đã tăng lên 9,5 phần trăm không? Bất kể những nỗ lực tính toán của các nhà thống kê kinh tế thực tế vẫn cho thấy rằng CPI chƣa phải là một thƣớc đo hoàn hảo. Có ba nguồn chủ yếu tạo ra những sai lệch về các chỉ báo lạm phát là: Lệch do hàng hóa mới, lệch do chất lƣợng hàng hóa thay đổi – đƣợc cải thiện và lệch thay thế. Có thể nhìn nhận khái quát về các nguồn sai lệch nhƣ sau: - Lệch do hàng hóa mới Hàng hóa mới luôn xuất hiện thay thế hàng hóa cũ. Hàng hóa mới xuất hiện tạo cho ngƣời tiêu dùng có sự lựa chọn đa dạng hơn, điều này cũng có nghĩa là mỗi một đồng trở nên có giá trị hơn. Tuy nhiên, vì CPI đƣợc tính dựa trên một giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định, không tính đến hàng hóa mới đƣợc ngƣời tiêu dùng mua nên nó Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 41
  42. Bài giảng Kinh tế vĩ mô không phản ánh đƣợc sự thay đổi về sức mua của đồng tiền trong đó. Ví dụ, máy tính đã thế chỗ máy chữ, ấm đun sôi nƣớc siêu tốc dùng nhiệt điện thế chỗ cho chiếc ấm nhôm đun bằng chất đốt cổ truyền. Nếu so sánh mức giá của năm N với mức giá của năm cơ sở chúng ta so sánh giá máy chữ văn phòng và ấm đun nƣớc bằng nhôm dùng phổ biến trong năm cơ sở với giá chiếc máy tính và giá chiếc ấm đun sôi nƣớc siêu tốc dùng điện của năm N. Do giá của máy tính cao hơn của chiếc máy chữ và giá ấm điện cao hơn giá chiếc ấm nhôm thông thƣờng nên chúng ta thấy rằng sự xuất hiện của hàng hóa mới đẩy mức giá dự toán lệch lên trên. - Lệch do chất lƣợng thay đổi Hầu hết các hàng hóa và dịch vụ đều kinh qua sự cải thiện chất lƣợng không ngừng theo thời gian. Khi chất lƣợng hàng tiêu dùng tăng thì giá trị của đồng tiền cũng tăng theo. Đƣơng nhiên nếu chất lƣợng hàng hóa nào đó thuộc giỏ hàng tiêu dùng giảm liên tục trong khi giá của hàng hóa ấy không thay đổi thì giá trị của đồng tiền cũng giảm đi. Trên thực tế, chất lƣợng của đài, vô tuyến, các dụng cụ sinh hoạt gia đình nói chung, sách giáo khoa, máy tính các loại cao hơn ở năm sau so với năm trƣớc. Cải thiện chất lƣợng thƣờng đồng nghĩa với sự tăng lên của giá cả. Song những sự gia tăng giá cả nhƣ vậy không phải là lạm phát. Ví dụ, giả sự giá một chiếc quạt treo tƣờng ở năm N cao hơn giá chiếc quạt treo tƣờng ở năm N-1 là 10% do nhà máy sản xuất quạt cải tiến lắp thêm bộ phận lọc không khí i-on. Nếu nhƣ điều chỉnh theo chất lƣợng thay đổi thì giá chiếc quạt đó vẫn không đổi. Nhƣng khi tính vào CPI thì giá của chiếc quạt sẽ đƣợc tính nhƣ là nó đã tăng lên 10%. - Lệch thay thế Thay đổi của CPI đo lƣờng phần trăm thay đổi giá cả của một giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định. Mặc dù giá hàng hóa và dịch vụ thay đổi từ năm này qua năm khác song không phải giá của mọi hàng hóa thay đổi theo cùng một tỷ lệ nhƣ nhau. Một số hàng hóa có giá tăng nhanh hơn những hàng hóa khác. Chính những thay đổi về giá tƣơng đối này khiến ngƣời tiêu dùng tìm đến những mặt hàng có giá tăng chậm hơn hay rẻ hơn tƣơng đối thay vì tiêu dùng đúng nhƣ cơ cấu của giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định trƣớc đây. Ví dụ, giả sử trong năm cơ sở cá rẻ hơn thịt (giá của 2kg cá bằng giá của 1 kg thịt) nên ngƣời tiêu dùng mua nhiều cá hơn thịt. Khi hình thành giỏ hàng tiêu dùng các nhà thống kê kinh tế đã đƣa cá vào giỏ hàng nhiều hơn thịt. Nếu ở năm sau đó do điều kiện thời tiết bất lợi và chi phí đầu vào cao nguồn cá đánh bắt và nuôi thả giảm làm cá đắt hơn thịt (giá của 1 kg cá bằng giá của 1,5 kg thịt) ngƣời tiêu dùng phản ứng đối với sự thay đổi giá này bằng cách mua nhiều thịt hơn cá do con ngƣời phản ứng với các kích thích. Kiểu thay thế hàng hóa rẻ hơn cho hàng hóa đắt hơn này đã không đƣợc tính đến trong CPI. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 42
  43. Bài giảng Kinh tế vĩ mô Nhƣ vậy, chúng ta thấy các yếu tố trên góp phần làm cho chi phí sinh hoạt tăng thêm quá nhiều từ năm này so với năm trƣớc đó. Để giảm bớt những vấn đề về sai lệch Tổng cục thống kê đã định kỳ ra soát và sửa đổi bổ sung giỏ hàng dùng tính CPI. 2.5. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỈ TIÊU TRONG HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA (SNA) - Sản phẩm quốc nội ròng (NDP): phản ánh lƣợng giá trị mới sáng tạo, đƣợc sản xuất ra trong phạm vi một quốc gia. Sản phẩm quốc nội ròng là phần GDP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. NDP = GDP – De (2.11) - Sản phẩm quốc dân ròng (NNP): phản ánh lƣợng giá trị mới sáng tạo, do công dân một nƣớc sản xuất ra. Sản phẩm quốc dân ròng là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. NNP = GNP – De (2.12) Chúng ta đã biết các các tƣ liệu lao động, máy móc trang thiết bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Sau khi tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp phải bù đắp ngay phần hao mòn này. Nguồn bù đắp này không phải là thu nhập của cá nhân hay xã hội, nó không tham gia vào quá trình phân phối cho các thành viên trong xã hội. - Thu nhập quốc dân (NI): phản ánh mức thu nhập mà công dân một nƣớc có đƣợc sau khi trừ đi thuế gián thu NI = NNP – Te = GNP – De – Te (2.13) - Thu nhập cá nhân (PI): phản ánh phần thu nhập thực sự đƣợc phân chia cho các cá nhân trong xã hội. Không phải mọi thu nhập kiếm đƣợc trong một năm nào đó đều đƣợc thanh toán trong cùng năm. Ví dụ, cổ tức công ty có thể không đƣợc trả trong năm mà nó đƣợc tạo ra. Có một số khoản thanh toán khác lại không hề đƣợc tạo ra nhƣ thanh toán chuyển khoản. Do vậy, để có thƣớc đo thu nhập đƣợc chi trả, chúng ta điều chỉnh NI bằng cách cộng thêm các khoản thu nhập nhận đƣợc nhƣng không phải tự kiếm đƣợc, và trừ đi các khoản thu nhập kiếm đƣợc nhƣng chƣa đƣợc chi trả trong thời kỳ đó. PI = NI – Pr* + Tr (2.14) Trong đó: Pr* lợi nhuận giữ lại và các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định 43