Bài giảng Ngân hàng thương mại - Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn

pdf 24 trang Gia Huy 24/05/2022 1220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngân hàng thương mại - Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_ngan_hang_thuong_mai_bai_2_nghiep_vu_tao_von.pdf

Nội dung text: Bài giảng Ngân hàng thương mại - Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn

  1. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn BÀI 2: NGHIỆP VỤ TẠO VỐN Nội dung Nghiệp vụ huy động vốn. Vốn tự có. Mục tiêu Thời lượng Sau khi học xong bài này, học viên sẽ: 8 tiết Hiểu được hoạt động huy động là gì và có vị trí như thế nào đối với NHTM. Hiểu được các sản phẩm huy động vốn và các nhân tố ảnh hưởng tới huy động của ngân hàng thương mại. Hiểu được các phương pháp định giá huy động của ngân hàng thương mại. Xác định và lựa chọn được các phương pháp tạo vốn tự có của một ngân hàng thương mại. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 23
  2. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP Tình huống Từ ngày 10/8, Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (Vietbank) thông báo thay đổi lãi suất huy động VND ở tất cả các kỳ hạn và áp dụng trên toàn hệ thống. Mức lãi suất tăng mạnh nhất lần này được điều chỉnh tăng 0,35%/năm ở các kỳ hạn từ 12 – 36 tháng và tăng từ 0,1% – 0,25%/năm ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tuần đến 9 tháng. Cùng với việc tăng lãi suất, Vietbank áp dụng chính sách lãi suất cộng: Khách hàng gửi tiền trên 1 tỷ đồng được cộng thưởng lãi suất lên tới 0,25%, thưởng 0,22% đối với số tiền gửi 200 – 500 triệu đồng, thưởng 0,10% lãi suất đối với số tiền gửi từ 50 – 100 triệu đồng. Cũng trong sáng nay, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB) quyết định tăng lãi suất huy động cả VND, USD và EUR. Trong các ngày 6 và 7/8, một loạt ngân hàng thương mại khác như OCB, SHB, HDBank cũng lần lượt có quyết định tăng lãi suất huy động VND, tập trung ở các kỳ hạn ngắn. Nguồn: suat/126/3045834.epi Câu hỏi 1. Để tăng khả năng huy động, ngân hàng sử dụng biện pháp nào là nhanh nhất? 2. Ngân hàng xác định lãi suất huy động dựa trên những cơ sở nào ? 24 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  3. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn 2.1. Nghiệp vụ huy động vốn 2.1.1. Khái niệm, vai trò của huy động vốn 2.1.1.1. Khái niệm Theo cách nói truyền thống, một ngân hàng có hai lĩnh vực kinh doanh chủ yếu: Huy động vốn và lựa chọn các tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn vốn huy động được. Các ngân hàng luôn nỗ lực để tạo ra lợi nhuận từ hai lĩnh vực kinh doanh này. Huy động vốn là hoạt động thu hút tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế thông qua các hình thức tiết kiệm định kỳ, phát hành giấy tờ có giá và các hình thức khác để tạo nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là một hoạt động cơ bản nhằm tạo ra tiền để cho các hoạt động còn lại của ngân hàng : Nó quyết định đến quy mô, phạm vi hoạt động và quy mô mở rộng tín dụng của ngân hàng. Nó quyết định đến khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo hoạt động cho ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt nó quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế mở cửa như hiện nay. Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại, chúng ta thấy rằng nghiệp vụ huy động vốn được phản ánh bên phần tài sản nợ. Do đó, huy động vốn còn được gọi là nghiệp vụ tài sản Nợ. Nguồn vốn huy động bao gồm những đặc điểm sau: Quy mô của nguồn vốn huy động rất lớn so với các nguồn vốn khác. Thông thường, vốn huy động chiếm 70-80% tổng nguồn vốn là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng thương mại. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, và phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn để chi trả trước hạn. Vì vậy, ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào hoạt động kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Đây là nguồn vốn phải dự trữ bắt buộc nên chi phí cho nguồn vốn này thường cao hơn so với các nguồn vốn khác. Ngoài ra, các ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi cũng làm cho chi phí huy động cao hơn. Nguồn vốn này thường nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế như lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ tiêu dùng, và nhiều nhân tố khác. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 25
  4. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Đặc biệt sự thay đổi nguồn vốn huy động ngắn hạn sẽ làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. 2.1.1.2. Vai trò của huy động vốn Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mạng lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Không có nghiệp vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại khi được cấp phép thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định, tuy nhiên vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này ngân hàng phải huy động vốn từ khách hàng. Do vậy, nghiệp vụ huy động vốn có vai trò rất quan trọng với các đối tượng sau: Đối với nền kinh tế o Huy động vốn có vai trò khuyến khích tiết kiệm bằng các biện pháp thu hút và huy động vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau trên một mạng lưới chi nhánh rộng khắp. o Huy động vốn còn giúp cho nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập trung về một mối, thuận tiện cho việc phân phối lại chúng, tránh tình trạng người thừa vốn thì không sử dụng, người cần vốn thì lại không có. Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy động vốn giúp cho nó phát triển nhịp nhàng và hiệu quả hơn. Đối với ngân hàng o Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng thương mại sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Huy động vốn càng nhiều thì ngân hàng càng có khả năng cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng cũng như làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. o Mặt khác, thông qua nghiệp huy động vốn, ngân hàng thương mại có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó ngân hàng thương mại có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Như vậy, chỉ với nguồn vốn huy động ngân hàng mới thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng – chức năng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời cũng là cơ sở để ngân hàng thực hiện các chức năng khác. Có thể nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết yếu tố đầu vào của ngân hàng. 26 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  5. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Đối với khách hàng o Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. o Nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất giữ và tích trữ vốn tạm thời nhàn rỗi. o Nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. 2.1.2. Các hình thức huy động vốn 2.1.2.1. Nghiệp vụ huy động tiền gửi Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Huy động vốn bằng tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền mà chủ sở hữu của khoản tiền này có thể rút tiền hoặc trả cho đối tác kinh doanh của họ bằng hình thức phát séc. Ở những nước có hệ thống ngân hàng phát triển hoạt động dựa trên công nghệ cao, thì việc rút tiền từ tài khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc thực hiện qua các máy rút tiền tự động ATM được lắp đặt rộng rãi. Đối với khách hàng, việc gửi tiền vào tài khoản này với mục đích chủ yếu là thanh toán và chi trả cho các hoạt động kinh doanh, các hoạt động dịch vụ phát sinh một cách thường xuyên. Nên việc dễ dàng chuyển nhượng, dễ dàng thanh toán được xem là yếu tố rất quan trọng, còn việc hưởng lãi đối với khoản tiền gửi này chỉ là thứ yếu. Do đó, loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi theo yêu cầu, nó không đem lại lợi tức cao cho người gửi. Ngược lại, đối với NHTM thì đây lại là một khoản vốn huy động với mức chi phí thấp nhất trong tất cả các khoản vốn huy động được. Ngân hàng chỉ phải bỏ ra những khoản chi phí nhỏ về quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì nó cũng rất nhỏ) bù lại là được sử dụng một phần lớn làm vốn kinh doanh. Tuy nhiên, vốn tiền gửi không kỳ hạn lại là khoản vốn có sự biến động nhiều nhất, số dư của khoản vốn này tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của người gửi tiền. Do vậy, NHTM chỉ có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn này khi và chỉ khi đưa ra được các dự đoán về sự biến động số dư trên tài khoản tiền gửi này một cách chính xác. Huy động vốn bằng tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm Khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là hai loại tiền gửi có tính ổn định hơn, chi phí huy động và quản lý cao hơn, hơn nữa hai loại tiền gửi này lại có độ nhạy cảm cao về lãi suất nên trong quá trình huy động cũng có những điểm khác biệt. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 27
  6. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Huy động tiền gửi có kỳ hạn Đây là loại tiền gửi trong đó đã có sự thoả thuận giữa người gửi tiền và Ngân hàng về lãi suất và thời hạn rút tiền. Về cơ bản, các khoản tiền gửi này thường có kỳ hạn tương đối dài và không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Chính vì vậy, mức lãi suất đối với loại tiền gửi này có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của khách hàng với Ngân hàng. Đối với các khoản tiền gửi có lãi suất linh hoạt, khách hàng có thể rút tiền trước hạn định với những khoản phạt đáng kể (được hưởng lãi thấp hơn quy định). Ở Việt Nam, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiếth kiệm c ỉ có sự phân biệt rất nhỏ là ở chủ thể: o Tiền gửi có kỳ hạn thường áp dụng cho các khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế; o Tiền gửi tiết kiệm thường được dùng cho khách hàng là dân cư. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách thu hút khách hàng nhằm mở rộng quy mô từng loại tiền gửi. Huy động tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm từ lâu đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các NHTM. Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng tương đối trong cơ cấu tiền gửi vào Ngân hàng. Ví dụ: Tiền gửi tiết kiệm tại các NHTM Việt Nam chiếm khoảng 60% - 70% tổng tiền gửi, còn ở Mỹ là khoảng 25%. Lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài hơn. Ngân hàng thường dùng nguồn vốn có tính ổn định cao này để đầu tư các dự án dài hạn nhưng phụ thuộc rất lớn vào đặc tính về dân số – xã hội, tình hình kinh tế xã hội, đặc biệt là thu nhập của dân cư, do đó các ngân hàng áp dụng mọi biện pháp để nâng cao uy tín và danh tiếng của ngân hàng mình nhằm lôi kéo nhiều khách hàng gửi tiền tiết kiệm nhất. Tiền gửi tiết kiệm thường có 2 loại: o Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn . Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế dành riêng cho đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu sinh lời và an toàn nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. . Đối với khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lời. . Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên 28 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  7. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, ngân hàng thường trả lãi suất thấp cho loại tiền gửi này. . Mặc dù, số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng thường không lớn nhưng nếu ngân hàng thu hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động qua hình thức tiền gửi này có thể trở nên lớn đáng kể. o Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lời và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối tượng chủ yếu của loại tiền gửi này là: . Các khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lời và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. . Các khách hàng cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Đa số khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, viên chức, hưu trí. Mục tiêu quan trọng của họ khi lựa chọn hình thức này là lợi tức có được theo định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối tượng khách hàng này. Đây là loại tiền gửi được rút ra sau một thời hạn nhất định. Tuy vậy, khách hàng có nhu cầu rút tiền trước hạn cũng có thể được đáp ứng với điều kiện được hưởng lãi suất thấp (thường bằng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn) hoặc thậm chí không được hưởng lãi. Các ngân hàng có thể áp dụng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thông thường (người gửi chỉ được hưởng lãi trong từng thời kỳ) và có thể áp dụng tiền gửi tiết kiệm có thưởng kèm theo lãi để khuyến khích nhân dân gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Đối với khách hàng, mục đích gửi tiền của họ là an toàn và hưởng lãi, khách hàng đã xác định trước và có kế hoạch chi tiêu cụ thể trong tương lai với khoản tiền này. Đối với ngân hàng, đây là tài khoản có số dư ít biến động nhất trong các loại tài khoản tiền gửi và nó là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng. 2.1.2.2. Phát hành giấy tờ có giá Giấy tờ có giá là chứng nhận của ngân hàng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa ngân hàng và người mua. Kỳ phiếu ngân hàng Kỳ phiếu ngân hàng là chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn ngắn, có lãi suất tương ứng với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi trước hoặc sau. Kỳ phiếu được ngân hàng phát hành từng đợt và có thời hạn linh hoạt, phong phú. Nhằm mục đích FIN504_Bai 2_v1.0011107212 29
  8. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn huy động vốn trong dân cư, đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư sản xuất, cho một số chương trình, dự án kinh tế hoặc kinh doanh của ngân hàng. Kỳ phiếu có đặc điểm là tính ổn định, tính tập trung và lãi suất cao hơn so với tiền gửi có kỳ hạn, và được phép mua bán, chuyển nhượng, chiết khấu, do vậy ngân hàng có thể chủ động về mặt thời gian và tính ổn định cho nguồn vốn cũng như việc xác định nguồn vốn mà ngân hàng cần xem xét. Đồng thời ngân hàng cũng phải có chính sách huy động vốn linh hoạt để đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh ngắn hạn cũng như dài hạn. Phát hành trái phiếu ngân hàng Ở các nước phát triển Trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm, Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu, Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn. Ở Việt Nam Theo Quyết định số 212/QĐ/NH1 ngày 22/9/1995 của Thống đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thì trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua (hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định. Trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận. Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng (nơi mua trái phiếu). Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát hành và thường có quy định mệnh giá tối thiểu (Ví dụ: 50.000 đồng). Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu. 30 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  9. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn, người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau: o Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh của đơn vị được quản lý có hiệu quả. o Có phương án kinh doanh cụ thể. o Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định. o Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép NHNN về việc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật. Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao, đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại một NHTM. Bằng công cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia. Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi (CD) là công cụ vay nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gửi có kỳ hạn. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi rất đa dạng, lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được ngân hàng ấn định dựa trên lãi suất cạnh tranh của thị trường tiền tệ, tình trạng tài chính của người phát hành và thời hạn của chứng chỉ. Sự khác biệt chủ yếu giữa chứng chỉ tiền gửi và các khoản tiền gửi có kỳ hạn là chúng có thể chuyển nhượng và mệnh giá được thống nhất theo một mức giá chuẩn. Điều này thể hiện rõ sự phát triển của một công cụ đã được chuyên môn hóa nhằm mở rộng nguồn vốn mới. Việc xuất hiện chứng chỉ tiền gửi cho phép các ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động mà không phải phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng. Khả năng chuyển nhượng tạo nên sự hấp dẫn hơn nhiều cho chứng chỉ tiền gửi so với các hình thức huy động vốn khác, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể thích ứng với môi trường cạnh tranh mới. CD có lãi suất cố định Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời điểm phát hành. Chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến hạn. Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến hạn. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 31
  10. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn CD trả lãi kỳ hạn Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần. Những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. CD chuyển tiếp liên tục Đây là một seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp đồng mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết hạn. CD loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi. 2.1.2.3. Huy động vốn qua đi vay Các khoản vốn vay ngày càng chiếm tỷ trọng cũng như vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà còn mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các danh mục trong tài sản nợ. Vốn vay của ngân hàng có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu vẫn bao gồm những nguồn cơ bản sau: Vay từ ngân hàng Trung ương Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều cho phép NHTM và các tổ chức tài chính khác trong nước mình được phép vay tiền từ NHTƯ trong những trường hợp cấp thiết như: Thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt về vốn. Tuy nhiên để giữ ổn định giá trị đồng bản tệ cũng như ngăn chặn sự lạm dụng của các NHTM trong việc vay vốn, NHTƯ thường không muốn cho các NHTM vay quá nhiều, khi đó nó có thể nâng mức lãi suất chiết khấu, lãi suất phạt lên cao hoặc đưa ra những điều kiện vay mà hiếm NHTM nào có thể chịu được. Vay từ các tổ chức tín dụng khác Cũng giống như trên, trong quá trình hoạt động của mình có những lúc NHTM phải đối đầu với những tình huống khó khăn về tài chính như: Thiếu hụt dự trữ bắt buộc, mất khả năng thanh toán những khoản tiền lớn và để tránh nguy cơ mất khách hàng, bảo đảm uy tín cho Ngân hàng thì giải pháp tốt nhất là đi vay. NHTM có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau và một trong số đó là đi vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ trong và ngoài nước. Việc vay mượn vốn giữa các NHTM, giữa NHTM với các tổ chức tín dụng khác được diễn ra liên tục trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên trong bảng cân đối tài sản. Mặt khác, nó còn đảm bảo cho ngân hàng có những mối quan hệ tốt với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống, đồng thời tạo ra cơ hội cho các ngân hàng giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình kinh doanh. Ở Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ các NHTM khác, tổ chức tín dụng và từ nước ngoài. 32 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  11. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn o Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, là “người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM. Thông thường, các NHTM chỉ được vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt. o Vay từ các NHTM và tổ chức tín dụng khác: Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các công ty Bảo hiểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh dựa trên nguyên tắc: . Các NHTM phải hoạt động hợp pháp; . Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng; . Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHNN; Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay. o Vay từ nước ngoài Các khoản vay từ ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải qua NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng. 2.1.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn của NHTM 2.1.3.1. Các yếu tố khách quan Yếu tố pháp lý Các hoạt động của ngân hàng cũng như bất kỳ ngành nghề kinh doanh nào đều chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật. Hoạt động huy động vốn cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Hoạt động huy động vốn chịu sự tác động trực tiếp của các bộ Luật như Luật các tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng nhà nước, các văn bản về pháp lý ngân hàng, chính sách tài chính tiền tệ, chính sách tỷ giá, đầu tư trong đó quy định về việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của ngân hàng, tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu nhằm đảm bảo an toàn, sự bình đẳng FIN504_Bai 2_v1.0011107212 33
  12. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, tăng khả năng tự bảo vệ trước cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập. Yếu tố chính trị Tình hình chính trị ổn định hay bất ổn, chính sách ngoại giao mở rộng hay thắt chặt và các quan hệ hợp tác song phương, đa phương đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng thương mại, trong đó có công tác huy động vốn. Chính trị ổn định, chính sách ngoại giao mở rộng kích thích đầu tư nước ngoài, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước có nền kinh tế phát triển tạo cơ hội thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính lớn như IMF, WB, ADB, ngân hàng đầu tư Bắc Âu, quỹ OPEC từ đó đem lại cho ngân hàng nhiều thời cơ và thách thức mới. Yếu tố kinh tế Động thái của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng, tích trữ vàng, ngoại hối hay đầu tư vào tài sản khác. o Trong điều kiện kinh tế bất ổn, giá cả và sức mua của tiền tệ biến động phức tạp, lạm phát xảy ra, người dân có xu hướng tích trữ vàng, mua các ngoại tệ hoặc các dạng tài sản khác như buôn bán bất động sản, các tài sản quý giá nhằm mục đích an toàn tài sản. o Ngược lại, nền kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát hợp lý thì người dân có cái nhìn khả quan hơn và có xu hướng gửi tiền vào ngân hàng làm cho nguồn vốn trong ngân hàng thương mại tăng lên. Yếu tố văn hoá – Xã hội Các yếu tố thói quen, tập quán, tâm lý cũng ảnh hưởng phần nào đến hoạt động huy động vốn. Chính vì vậy, các ngân hàng cần quan tâm đến các hoạt động marketing, quảng cáo, tuyên truyền giúp người dân hiểu đúng và hiểu sâu hơn nữa về vai trò và chức năng của ngân hàng. 2.1.3.2. Các yếu tố chủ quan Uy tín của ngân hàng o Người dân thường chọn những ngân hàng có uy tín tốt để gửi tiền hay sử dụng các dịch vụ với mong muốn an toàn và tiện lợi nhất, thậm chí, họ còn phải chịu lãi tiền gửi thấp hơn các ngân hàng khác. o Các tổ chức tín dụng sẽ chấp nhận cho vay các ngân hàng có danh tiếng, uy tín tốt, luôn kinh doanh có lãi vì họ có khả năng trả được nợ đúng hạn, do đó không làm gián đoạn đến việc sử dụng vốn của tổ chức mình. Vì vậy, các ngân hàng cần chú trọng hơn nữa đến nâng cao uy tín, hoạt động lâu dài thông qua quy mô hoạt động, trình độ quản lý, công nghệ, tài sản của ngân hàng Lãi suất huy động vốn o Lãi suất là mối quan tâm hàng đầu khi một cá nhân hoặc một tổ chức kinh tế nào đó muốn gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vì người có tiền muốn đem gửi ngân hàng, trước tiên họ sẽ so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn, kế đến mới là vấn đề an toàn tiền gửi cũng như các 34 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  13. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng. Nếu khách hàng đánh giá các ngân hàng có cùng một hệ số an toàn và các dịch vụ tiện ích như nhau thì họ sẽ chọn ngân hàng nào có lãi suất huy động cao hơn để gửi. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền kinh tế, lĩnh vực có lợi cao bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư, và người tham gia đầu tư luôn muốn làm thế nào để mình thu được lợi nhuận cao nhất. o Hơn nữa, lãi suất còn là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến quy mô của nguồn vốn huy động. Thế nhưng, không phải lãi suất huy động nào cũng giống nhau, thông thường lãi suất tiết kiệm có ảnh hưởng nhiều hơn cả. . Người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lợi của dòng tiền đầu tư vào tiết kiệm so với đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản từ đó đưa ra quyết định có nên gửi vào ngân hàng hay không, gửi bao nhiêu và gửi theo hình thức nào. . Ngược lại, đối với các tổ chức kinh tế thì lãi suất huy động lại có ảnh hưởng ít hơn vì phần lớn các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng đều với mục đích thanh toán là chính. Do đó, nguồn tiền huy động này chịu ảnh hưởng nhiều bởi kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng cũng như khả năng thanh toán và cho vay vì lượng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế luôn luân chuyển và biến động theo nhu cầu thanh toán. Như vậy, để thực hiện cơ chế lãi suất huy động hợp lý tức là vừa thu hút được vốn, vừa đảm bảo sức cạnh tranh thì các NHTM phải thường xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên thị trường và ngay trên địa bàn hoạt động để có các quyết định điều chỉnh kịp thời, phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường và đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần quan tâm đến lãi suất kho bạc, bởi vì trên thực tế kho bạc thường phát hành tín phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại. Các hình thức huy động vốn Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau, có người vì mục đích bảo đảm an toàn, có người gửi để lấy lãi tiêu xài hàng tháng, có người gửi tiền vào ngân hàng để đồng vốn ngày càng được sinh sôi, nảy nở Vì thế, họ có những hình thức gửi tiền cũng như lĩnh lãi khác nhau, có thể là 3, 6, 9 tháng hoặc lâu hơn. Do vậy, để có thể huy động được nhiều vốn trong dân cư, các ngân hàng thương mại phải đưa ra các hình thức huy động đa dạng. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 35
  14. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Khi có nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo nhiều cơ hội cho người gửi lựa chọn, đáp ứng những yêu cầu khắt khe, thoả mãn được mong muốn của họ. Mỗi khách hàng đều tìm cho mình cách phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng, bảo đảm có hiệu quả nhất với nguồn vốn của mình. Điều này đồng nghĩa với số lượng người gửi tăng lên và số tiền được gửi vào ngân hàng cũng tăng theo tỷ lệ thuận, kéo theo sự giảm xuống của chi phí huy động vốn. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn sẽ làm cho công việc quản lý cũng như chi phí quản lý huy động vốn của ngân hàng sẽ tăng lên, đòi hỏi NHTM phải tìm được cho mình những mô hình quản lý vốn hợp lý, tiết kiệm chi phí huy động nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc huy động vốn chung là: nguồn vốn có tính ổn định càng cao thì lãi suất huy động cũng phải cao. 2.1.3.3. Các dịch vụ cung ứng Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện ngân hàng có các dịch vụ ngân hàng qua thư tín, hệ thống chi nhánh tự động làm việc 24/24 giờ và các dịch vụ khác được cải tiến, nguồn thu của ngân hàng đảm bảo sẽ tăng lên. 2.1.3.4. Các nhân tố khác Hoạt động huy động vốn của NHTM còn chịu tác động của nhiều nhân tố khác và một trong số những nhân tố đó là hoạt động marketing ngân hàng. Hoạt động marketing ngân hàng sẽ có tác dụng gây sự chú ý cho khách hàng về hình ảnh của ngân hàng để khách hàng có sự so sánh và chọn lựa trước khi quyết định tham gia giao dịch với ngân hàng. Mặt khác, không phải ai cũng thông hiểu hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng nh ư các chính sách khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng, đặc biệt là đối với những khách hàng có trình độ học vấn chưa cao và những khách hàng mới lần đầu đến ngân hàng gửi tiền. Với hoạt động marketing ngân hàng, thông qua các bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và không cảm thấy cực nhọc, khó khăn về thủ tục khi gửi tiền. Hơn nữa, nó sẽ giúp cho khách hàng tìm thấy được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho ngân hàng. Tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tiếp xúc và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Ngoài ra, còn phải kể đến một vài nhân tố thuộc về nội bộ ngân hàng cũng có những tác động không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng chẳng hạn như: chiến lược kinh doanh của ngân hàng, quy mô cơ cấu vốn tự có, cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị của ngân hàng Những yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức huy động vốn thậm chí là đến cả uy tín của ngân hàng trên thị trường, nó đảm bảo giữ vững lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng cũng như là giới hạn tối đa của nguồn vốn huy động. 36 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  15. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn 2.1.4. Phương pháp định giá huy động vốn Các ngân hàng luôn đứng trước một sự đánh đổi trong việc định giá lãi suất Một mặt, ngân hàng phải trả mức lãi suất đủ lớn để thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp, bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay. Thực tế, trong thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo, từng ngân hàng đơn lẻ ít có khả năng kiểm soát lãi suất tiền gửi dài hạn. Ở đây, giá cả do thị trường xác định. Trong trường hợp này, các nhà quản lý cần quyết định có nên nâng cao mặt bằng lãi suất nhằm tăng cường khả năng huy động vốn hay nên chấp nhận những tổn thất về quy mô tiền gửi do việc duy trì lãi suất thấp hơn mức bình quân trên thị trường. Trả lãi suất cao hơn cho các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác giúp cho ngân hàng tăng trưởng nhanh hơn, nhưng chiến lược cạnh tranh này có thể khiến cho lợi nhuận của ngân hàng giảm sút nghiêm trọng. Tuy phụ thuộc rất nhiều vào thị trường, nhưng các ngân hàng vẫn sử dụng các phương pháp định giá các khoản tiền gửi để có thể kiểm soát được hoạt động của ngân hàng một cách chủ động. 2.1.4.1. Phương pháp xác định chi phí vốn bình quân Phương pháp này dựa trên các số liệu trong quá khứ về vốn tạo lập và chi phí cho từng loại vốn hay còn gọi là phương pháp “chi phí lịch sử”. Phương pháp xác định chi phí vốn bình quân trả lời cho câu hỏi ngân hàng đã sử dụng những nguồn vốn huy động nào và chi phí của chúng là bao nhiêu? Lợi ích của phương pháp này: o Giúp ngân hàng đánh giá được tỷ trọng và quy mô của từng loại chi phí của việc huy động vốn trong quá khứ. o Giúp ngân hàng tìm ra các nguyên nhân gây ra tình trạng trong quá khứ, chẳng hạn: thu nhập của ngân hàng thấp, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra quá thấp Phương pháp tính: o Tính số dư bình quân của từng loại trong huy động vốn. o Lãi suất huy động bình quân tính theo từng loại huy động vốn. o Xác định chi phí trả lãi cho từng loại huy động vốn tương ứng hoặc vốn mà ngân hàng thu hút vào dưới dạng đi vay. Tổng chi phí trả lãi Lãi suất huy động vốn bình quân = Tổng nguồn vốn huy động FIN504_Bai 2_v1.0011107212 37
  16. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Chi phí trả lãi + chi phí hoạt động Lãi suất hòa vốn bình quân = Tổng tài sản Có sinh lời Chi phí hoạt động bao gồm chi phí trả lương nhân viên, chi phí về các phương tiện trong kinh doanh (tài sản cố định), chi phí cho việc huy động vốn (chi phí cho việc phát hành các giấy tờ có giá như in ấn ). Tài sản Có sinh lời được coi là những tài sản trực tiếp mang lại thu nhập cho ngân hàng như hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư. Tổng tài sản Có sinh lời Mức sử dụng vốn vào tài sản Có sinh lời từ huy động = Tổng vốn huy động Chẳng hạn, huy động được 100 tỷ đồng, sử dụng được 70 tỷ đồng. Do đó, tổng tài sản Có sinh lời là 70 tỷ đồng hay 70%. 2.1.4.2. Phương pháp tính chi phí bình quân gia quyền cho nguồn vốn huy động Phương pháp này dựa trên giả thiết: ngân hàng chỉ quan tâm đến chi phí trung bình của tất cả các nguồn vốn mà không quan tâm tới chi phí của từng loại nguồn vốn. Cụ thể chúng ta phải làm ba việc như sau: Tính toán tỷ lệ chi phí cho mỗi nguồn vốn (được điều chỉnh theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chi phí bảo hiểm và ngân quỹ); Nhân từng tỷ lệ chi phí với tỷ lệ quỹ tương ứng, hình thành từ các nguồn khác nhau; Cộng tất cả các tỷ lệ thu được để xác định chi phí bình quân gia quyền của ngân hàng. Có thể thể hiện phương pháp tính này qua công thức tổng quát sau: n Ri i tt tb  t1 Ar t Trong đó: itb: Là chi phí bình quân; Rt: Nguồn vốn huy động loại t; it: Lãi suất huy động của nguồn loại t; A: Tổng nguồn vốn huy động; rt: Hệ số sử dụng vốn có điều chỉnh với tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chi phí bảo hiểm và ngân quỹ. 2.1.4.3. Phương pháp sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất huy động vốn Khái niệm chi phí cận biên: Là mức chi phí tăng thêm để có thêm 1 đơn vị huy động vốn. Cách tính toán chi phí biên: cần tính hai yếu tố: (1) sự thay đổi chi phí do lãi suất huy động vốn thay đổi và (2) tỷ lệ chi phí cận biên (phần trăm của lượng vốn tăng thêm). Hai đại lượng cần tính được xác định như sau: 38 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  17. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Sự thay đổi chi phí = Lãi suất mới × Tổng số vốn huy động tại mức lãi suất mới – Lãi suất cũ × Tổng số vốn huy động tại mức lãi suất cũ Thay đổi chi phí → Tỷ lệ chi phí biên = Số vốn huy động tăng thêm Doanh thu biên là doanh thu tăng thêm khi ngân hàng sử dụng thêm một đồng huy động vốn. Ngân hàng sẽ huy động vốn với nguồn vốn khi doanh thu biên bằng chi phí biên. 2.2. Vốn tự có 2.2.1. Vai trò của vốn tự có Vốn tự có là giá trị tiền tệ thuộc sở hữu riêng của ngân hàng. Thành phần vốn tự có Vốn tự có cơ bản (Vốn cấp 1) – căn cứ để Vốn tự có bổ sung (Vốn cấp 2) – thời hạn xác định giới hạn mua, đầu tư TSCĐ của dài, tính ổn định cao nhưng không thực NHTM sự là vốn chủ sở hữu Vốn điều lệ (Vốn cổ phần). 50% phần giá trị tăng thêm của TSCĐ được Thặng dư vốn. định giá lại theo quy định của pháp luật. Lợi nhuận để lại. 40% phần giá trị t ăng thêm của các loại Các quỹ (Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi). tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật. Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành. Công cụ nợ khác. Dự phòng chung. Vai trò của vốn tự có Vai trò bảo đảm Vốn tự có là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động (năm 2010 yêu cầu vốn pháp định – vốn tối thiểu quy định để ngân hàng hoạt động tăng từ 1000 tỉ đồng lên 3000 tỉ đồng); tạo niềm tin cho khách hàng, cổ đông và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Vai trò hoạt động Cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và thiết bị mới, là một “tấm đệm” phòng chống rủi ro phá sản của ngân hàng (khắc phục hạn chế, vượt qua khó khăn mà không để bị vượt ngoài tầm kiểm soát). Vai trò điều chỉnh Nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển của ngân hàng; điều chỉnh cho mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng: FIN504_Bai 2_v1.0011107212 39
  18. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn o Điều chỉnh quy mô hoạt động của ngân hàng: Vốn tự có giảm làm cho ngân hàng thu hẹp quy mô tài sản bởi quy định Vốn tự có/ Tổng tài sản rủi ro ≥ 9%. o Điều chỉnh cơ cấu Ví dụ: Bên tài sản của ngân hàng tương ứng với mức độ rủi ro: Tiền (0%), Trái phiếu chính phủ (0%), cho vay bất động sản (50%), cho vay khác (100%), TSCĐ (0%). Vốn tự có tăng làm tăng tài sản có mức độ rủi ro cao. o Khả năng cung cấp dịch vụ đa dạng. o Quy định hạn chế: Cho vay tối đa ≤ 15% vốn tự có của ngân hàng. o Nghiệp vụ góp vốn mua cổ phần. o Cơ sở vật chất kỹ thuật ngân hàng. o Ngân hàng không được phép vay ngân hàng khác để mua sắm TSCĐ, mà chỉ được dùng vốn tự có cấp 1. o Đối tượng khách hàng mà ngân hàng có quan hệ giao dịch. Các tập đoàn kinh tế lớn thường có quan hệ với ngân hàng lớn, có uy tín, tiềm lực tài chính lớn, mức độ an toàn cao. 2.2.2. Nghiệp vụ tạo vốn tự có 2.2.2.1. Biện pháp tăng vốn từ bên trong (nguồn nội bộ) Ngân hàng sẽ sử dụng lợi nhuận không chia (lợi nhuận giữ lại) làm nguồn bổ sung vốn cơ bản. Lợi nhuận sau thuế = Cổ tức trả cho cổ đông + Lợi nhuận để lại Ngân hàng xác định tỷ lệ thu nhập giữ lại và tỷ lệ chi trả cổ tức phù hợp. Điều gì sẽ xảy ra nếu tỉ lệ chi trả cổ tức quá cao? Điều gì sẽ xảy ra nếu tỷ lệ lợi nhuận để lại quá cao? Ngân hàng nên duy trì chính sách cổ tức như thế nào cho hợp lý? Ta có: Tỷ lệ tăng trưởng vốn từ nguồn nội bộ (ICGR) = Lợi nhuận giữ lại/Vốn tự có Lợi nhuận giữ lại Lợi nhuận ròng ICGR = × Lợi nhuận ròng Vốn tự có ICGR = ROE × Lợi nhuận giữ lại/Lợi nhuận ròng Lợi nhuận ròng/Vốn tự có có ý nghĩa là một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROE = 1 – tỉ lệ chi trả cổ tức (vì: Lợi nhuận giữ lại + Lợi nhuận chia cổ tức = Lợi nhuận ròng) Vì vậy, muốn tăng ICGR thì ngân hàng phải quan tâm đến ROE và chính sách phân phối lợi nhuận. Chính sách phân phối lợi nhuận o Nếu giữ lại lợi nhuận nhiều thì tăng vốn tự có nhanh nhưng lợi nhuận chia cổ tức ít sẽ làm cổ đông không hài lòng, ảnh hưởng tới giá cổ phiếu trên thị trường, từ đó ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng và khả năng huy động vốn. 40 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  19. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn o Tuy nhiên, nếu vốn tự có tăng chậm thì làm giảm quy mô tài sản của ngân hàng. Vậy chính sách phân chia lợi nhuận như thế nào là hợp lý? Tốt nhất là ngân hàng phải duy trì tỉ lệ cổ tức chi trả cho cổ đông tương đối ổn định trong thời gian dài, cao nhất so với các danh mục khác cùng mức độ rủi ro. Tỉ lệ như thế nào là tốt thì phải tùy vào từng thời kỳ. Điều đó ph ụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng (điều kiện kinh doanh của ngân hàng). Ví dụ: Trong điều kiện kinh doanh thuận lợi, cho vay tăng, rủi ro thấp, khả năng kiếm lợi nhuận cao, doanh nghiệp trả nợ đầy đủ cho ngân hàng, lợi nhuận ròng là 800 tỉ nhưng các cổ đông chỉ cần 234 tỉ, lợi nhuận giữ lại là 566 tỉ. Vậy tỉ lệ giữ lại = 566/800 = 0.7 (70%). Trong điều kiện khó khăn, lợi nhuận ròng = 300 tỉ. Như vậy, lợi nhuận giữ lại là 46 tỉ và tỷ lệ giữ lại = 46/300. ROE Phản ánh thu nhập mà cổ đông nhận được từ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đây là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Lợi nhuận ròng Lợi nhuận ròng Tổng tài sản ROE = = × Vốn tự có Tổng tài sản Vốn tự có ROS cho biết hiệu quả quản lý, kiểm soát chi phí, định giá đầu vào, đầu ra (lợi nhuận ròng/Doanh thu). o Doanh thu/Tổng tài sản bình quân: Phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản Quy mô tài sản như nhau mà hệ số này của ngân hàng A cao hơn ngân hàng B chứng tỏ ngân hàng A đã tận dụng triệt để tối đa tài sản hiện có, cơ cấu tài sản theo hướng tài sản sinh lời chiếm tỷ trọng cao hơn (nhưng cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản cao hơn), quản trị rủi ro tín dụng và cho vay có hiệu quả. o Tổng tài sản/Vốn tự có (EM – Equity multiplier): Hệ số đòn bẩy. Nợ + Vốn tự có = Tổng tài sản Trong điều kiện hoạt động kinh doanh thuận lợi, bền vững, có uy tín trên thị trường, nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, hệ số nợ tăng làm cho EM tăng vì EM = 1/(1-hệ số nợ). Ưu điểm của biện pháp tăng vốn từ nguồn nội bộ là chi phí thấp (tránh được các chi phí phát hành, kêu gọi cổ đông như biện pháp tăng vốn từ bên ngoài), tránh được tình trạng “loãng quyền sở hữu” của cổ đông, không làm giảm lợi ích kinh tế của cổ đông, ngân hàng chủ động trong việc quyết định giữ lại lợi nhuận để tăng vốn. Tuy nhiên nhược điểm của biện pháp này là phần vốn tăng thêm bị đánh thuế, nguồ n lợi nhuận để lại có thể không ổn định do phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể, hạn chế về quy mô tăng vốn. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 41
  20. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn 2.2.2.2. Biện pháp tăng vốn từ nguồn bên ngoài Phát hành cổ phiếu thường (1) Bán cổ phiếu ưu đãi (2) Phát hành giấy nợ thứ cấp (3) Chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu (4) Bán cổ phiếu thường Nếu ngân hàng phá sản thì cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường sẽ được phân chia lợi nhuận sau cùng, có quyền biểu quyết sau cùng. Khi vốn chủ sở hữu tăng thì hệ số đòn bẩy giảm, làm tăng khả năng huy động vốn và mở rộng cho vay. o Ưu điểm của biện pháp này là giảm được gánh nặng về tài chính, tăng khả năng vay nợ trong tương lai, khả năng huy động vốn. o Tuy nhiên, biện pháp này có nhược điểm là chi phí phát hành và giao dịch cao (tốn kém nhất), có thể làm loãng quyền sở hữu. Ví dụ: Ngân hàng hiện tại có 117 cổ đông, tương ứng vốn tự có là 1170 tỉ đồng. Ngân hàng bán 64 cổ phiếu thường để tăng vốn tự có thêm 830 tỉ, tức là ngân hàng sẽ có 181 cổ đông và vốn tự có là 2000 tỉ đồng. Khi đó, quyền lực lá phiếu (hay nói cách khác, quyền kiểm soát ngân hàng) không còn là 1/117 phần mà là 1/181 phần. Dưới góc độ kinh tế, 830 tỉ đồng tăng thêm chưa làm tăng ngay thu nhập, mở rộng chi nhánh, phát triển lợi nhuận. Trong khi thu nhập thay đổi không đáng kể thì lợi nhuận còn lại phải chia cho 181 cổ đông, chứ không còn là 117 cổ đông như trước kia nữa. Ngoài ra, thu nhập trên mỗi cổ phiếu có thể giảm xuống nếu thu nhập từ vốn bổ sung không bù đắp được chi phí phát hành. Biện pháp này không phù hợp với một số ngân hàng nhỏ, nó phải phụ thuộc vào điều kiện hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng cụ thể. Bán cổ phiếu ưu đãi Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không có quyền biểu quyết nhưng được ưu tiên chia lợi nhuận, cổ tức trước cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường. o Ưu điểm của biện pháp này là không giảm quyền kiểm soát của các cổ đông hiện tại, không gây hiệu ứng pha loãng. Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu giảm áp lực vay nợ và trả lãi của ngân hàng vì cổ tức không cần trả ngay, tăng khả năng vay nợ trong tương lai. 42 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  21. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn o Tuy nhiên, với biện pháp này thì chi phí phát hành cao, cổ tức của cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường có thể giảm đi do cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có quyền với thu nhập trước cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường. Phát hành giấy nợ thứ cấp o Phát hành giấy nợ làm tăng rủi ro phá sản cho ngân hàng, áp lực trả lãi cao (ngân hàng vẫn phải trả lãi trong trường hợp kinh doanh không có lãi). o Tuy nhiên, chi phí phát hành thấp, không giảm quyền kiểm soát của các cổ đông hiện tại, nâng cao đòn bẩy tài chính, tăng thu nhập cho mỗi cổ phần nếu phần thu nhập từ vốn vay cao hơn chi phí huy động (chủ yếu là chi phí trả lãi). Hơn nữa, chi phí trả lãi được khấu trừ thuế, vì chi phí trả lãi được tính vào tổng chi phí, sẽ làm giảm lợi nhuận trước thuế, khi đó thuế phải nộp sẽ giảm, tức là ngân hàng được lợi về thuế. Chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu o Ưu điểm là ngân hàng phát hành cổ phiếu để mua lại các chứng khoán nợ đã phát hành, tăng vốn cổ phần, tránh được các chi phí trả lãi trong tương lai. o Nhược điểm: Có thể gây ra hiệu ứng pha loãng. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 43
  22. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn TÓM LƯỢC CUỐI BÀI Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là tạo vốn và kinh doanh vốn, cơ sở mang lại sự thịnh vượng cho ngân hàng xuất phát từ chính ý niệm trên. Bài 2 cho chúng ta một bức tranh tổng thể về các sản phẩm liên quan đến nợ và vốn chủ sở hữu của ngân hàng như nhận tiền gửi, phát hành các giấy tờ có giá, đi vay, nhận ủy thác Một ngân hàng muốn tồn tại và phát triển, xuất phát điểm phải xây dựng cho mình một thương hiệu vững chắc, đó chính là nền tảng để mở rộng quy mô huy động vốn và quy mô vốn tự có của mình. Trong bài này, chúng ta cũng được trang bị các phương pháp xác định chi phí vốn của một ngân hàng, các nhân tố và đặc biệt là các biện pháp tạo vốn của một ngân hàng. Hơn nữa, chúng ta cũng cần biết rằng, tất cả hoạt động của ngân hàng cuối cùng là vì sự tăng trưởng bền vững của ngân hàng, sự tăng trưởng này phụ thuộc chính vào chiến lược hoạt động kinh doanh của ngân hàng, phụ thuộc vào chính sách chi trả cổ tức, trình độ quản lý và yếu tố con người của ngân hàng. 44 FIN504_Bai 2_v1.0011107212
  23. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Hoạt động huy động vốn là gì? Hoạt động này có vị trí như thế nào đối với NHTM? 2. Nêu các sản phẩm huy động vốn và các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn của ngân hàng thương mại? 3. Nêu các phương pháp định giá huy động của ngân hàng thương mại. 4. Nêu các phương pháp tạo vốn tự có của một ngân hàng thương mại. BÀI TẬP Bài 2.1: Một ngân hàng có dự tính rằng có thể thu hút tiền gửi với quy mô như trong bảng dưới đây nếu nó đưa ra những mức lãi suất khác nhau: Khối lượng tiền gửi mới dự tính Lãi suất 500 8.10% 530 8.20% 560 8.30% 590 8.40% 420 8.50% Nhà quản lý dự kiến rằng các khoản đầu tư mới của ngân hàng có thể nhận được tỷ lệ thu nhập bình quân là 10%. Ngân hàng nên đặt lãi suất tiền gửi ở mức nào để có thể tối đa hoá lợi nhuận? Bài 2.2: Một ngân hàng đang có nhu cầu tăng vốn 20 triệu USD từ bên ngoài. Tổng số cổ phiếu thường hiện hành của ngân hàng là 12 triệu với mệnh giá là 1$/phiếu. Trong năm tới, ngân hàng đã dự đoán tổng thu từ hoạt động sẽ đạt 260 triệu USD trong đó chi phí chiếm khoảng 85%. Các lựa chọn nhằm tăng vốn được nhà quản lý ngân hàng cân nhắc gồm: Bán 20 triệu USD cổ phiếu thường với giá 10 USD/cổ phiếu. Bán 20 triệu USD cổ phiếu ưu đãi, lãi suất 8%/năm với giá 15USD/cổ phiếu. Bán 20 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 10 năm với lãi suất 9%. Hãy xác định sự lựa chọn tốt nhất đối với cổ đông của ngân hàng biết rằng thuế thu nhập là 30%. Bài 2.3: Một ngân hàng đang có nhu cầu tăng vốn 10 triệu USD từ bên ngoài. Tổng số cổ phiếu thường hiện hành của ngân hàng là 20 triệu với mệnh giá là 1$/phiếu. Trong năm tới, ngân hàng đã dự đoán tổng thu từ hoạt động sẽ đạt 360 triệu USD trong đó chi phí chiếm khoảng 90%. Các lựa chọn nhằm tăng vốn được nhà quản lý ngân hàng cân nhắc gồm: Bán 10 triệu USD cổ phiếu thường với giá 5 USD/cổ phiếu. Bán 10 triệu USD cổ phiếu ưu đãi, lãi suất 7%/năm với giá 15USD/cổ phiếu. Bán 10 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 10 năm với lãi suất 8%. Hãy xác định sự lựa chọn tốt nhất đối với cổ đông của ngân hàng biết rằng thuế thu nhập là 30%. FIN504_Bai 2_v1.0011107212 45
  24. Bài 2: Nghiệp vụ tạo vốn Bài 2.4: Một NH có cơ cấu nguồn vốn như sau: Đơn vị: tỷ đồng Loại nguồn vốn Số dư bình quân Lãi suất huy động Chi phí khác Tỷ lệ dự trữ - Tiền gửi thanh toán 200 3% 5% 10% - Tiền gửi không kỳ hạn 100 4% 3% 10% phi giao dịch - Tiền gửi tiết kiệm 400 6% 2% 5% - Tiền gửi có kỳ hạn 300 7% 2% 5% - Vốn đi vay 200 8% 1% 2% Tính mức chi phí bình quân gia quyền cho toàn bộ nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. 46 FIN504_Bai 2_v1.0011107212