Bài giảng Sản xuất giống và nuôi cá biển - Trường Cao đẳng thủy sản

pdf 81 trang Gia Huy 20/05/2022 1080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Sản xuất giống và nuôi cá biển - Trường Cao đẳng thủy sản", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_san_xuat_giong_va_nuoi_ca_bien_truong_cao_dang_thu.pdf

Nội dung text: Bài giảng Sản xuất giống và nuôi cá biển - Trường Cao đẳng thủy sản

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN o0o BÀI GIẢNG Môn học: Sản xuất giống và nuôi cá biển Ngành: Nuôi trồng thủy sản Trình độ: Cao đẳng Năm 2016 1
  2. BÀI MỞ ĐẦU I. Tình hình nuôi cá biển trên thế giới và tại Việt Nam 1. Tình hình nuôi cá biển trên thế giới Cá biển là loại thực phẩm có giá trị được thị trường ưa chuộng. Một số loài cá biển có hàm lượng acid béo cao, đặc biệt là hàm hàm lượng DHA và EPA rất cần thiết cho con người. Trong vài thập kỷ gần đây, nuôi biển trên thế giới đã có những bước phát tiến nhảy vọt. Một số quốc gia có nền công ngiệp khai thác cá hiện đại đã chuyển sang nuôi biển và đa thu được nhiều thành tựu quan trọng như Nauy, Nhật Bản Việc chuyển hướng từ khai thác sang nuôi trồng đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong việc chur động tạo ra nguồn thực phẩm cung cấp cho xã hội, cải thiện cuộc sống của con người, giảm dần sự lệ thuộc vào tự nhiên. Sự phát triển về nuoi trồng hải sản ngày nay của Nauy là kết quả tất yếu của một quá trình phát triển. Từ những năm 60 trở về trước, Nauy chỉ có một số trang trại nuôi ca nước ngọt. Nuôi biển chỉ mới được bắt đầu từ những năm cuối của thập kỷ 60. Tại Châu á, Nhật Bản là quốc gia có lịch sử phất triển nuôi biển khoảng trên 200 năm được bắt đầu bằng việc lưa giữ một số loài cá như cá trích, cá trổng trong lồng tre, lồng gỗ đơn giản. Đến nay, công nghệ nuôi biển của Nhật Bản đã đạt đến trình độ tiên tiến với nhiều kiểu lồng có kích cỡ khác nhau làm từ những loại vật liệu mới như sợi tổng hợp hoặc thép phủ nilon chống rỉ. Các công nghệ khác như công nghệ thức ăn, công nghệ sản xuất giống cũng được chú trọng phát triển và thu được nhiều thành tựu. Tại Nhật Bản, chỉ tính riêng sản lượng cá Cam nuôi đã tăng từ 2.579 tấn trong năm 1961 nên 30.774 tấn năm 1968. Năm 1997, Nhật Bản có 1.724 trang trại nuôi cá Cam với 15.898 lồng đạt sản lượng 138.000 tấn (Takashma & Arimoto, 2000). Bảng: Sản lượng cá cam nuôi tại Nhật Bản (Furukawa, 1970) Năm Tấn 1961 2,579 1962 4,758 1963 5,083 1964 9,493 1965 18,083 1966 19,629 1967 26,712 1968 30,774 Một số quốc gia khác tại Châu á như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines cũng có những phát triển mạnh trong nuôi trồng hải sản với sản lượng cá nuôi liên tục 2
  3. tăng trong những năm gần đây. Những nước này có thị trường tiêu thụ hải sản lớn và thường phải nhập khẩu thêm từ các nước khác cho nhu cầu tiêu dùng. Bảng: Sản lượng cá biển của một số nước trên thế giới SL cá biển Quốc gia Số lồng Năm Nguồn (tấn) Nauy 550.000 1998 (Hjelt, 2000) Nhật Bản 250.000 1997 (Takashma & Arimoto, 2000). úc 186.000 1998 O,Sullivan & Roberts, 1999 Hàn Quốc 40.000 1999 Kim,2000 Philippine 1000 10.000 1999 Marte et al, 2000 Malaysia 58.500 5.621 1997 Shariff & Gopinath, 2000 Việt Nam 18.000 540 1998 Tuan et al, 2000 24.000 2.626 2002 Luu, 2002 Nuôi trồng hải sản còn là phương án hữu hiệu đảm bảo cân bằng sinh thái góp phần bảo vệ môi trường nếu như được tổ chức và kiểm soát trong phạm vi nuôi bền vững. Khi nhu cầu tiêu dùng về các loại hải sản được đáp ứng, áp lực khai thác từ tự nhiên sẽ giảm đặc biệt là những đối tượng hải sản quý hiếm. Đây sẽ là điều kiện để bảo tồn nguồn lợi và sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, việc phát triển nuôi trồng hải sản tuỳ tiện, thiếu sự quản lý và tổ chức một cách khoa học có thể dẫn đến những tác động xấu tới môi trường sinh thái và nguồn lợi. Vấn đề ô nhiễm, môi trường những tác động nguồn gen và đa dạng sinh học có thể sẽ trở thành những hiểm hoạ nếu như con người không nhận thức được và xem xét một cách nghiêm túc. 2. Tình hình nuôi cá biển tại Việt Nam Nghề nuôi cá lồng biển ở Việt Nam có từ khá lâu nhưng không phát triển bởi thị trường và con giống không chủ động. Từ 1990 đến nay nghề nuôi cá lồng biển có xu thế tăng nhanh, dọc biên giới từ Móng Cái đến Hà Tiên vùng biển nào cũng có cơ sở thu gom và nuôi giữ cá biển. Khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh là nơi có số lượng bè cá nhiều nhất, dịch vụ thu gom mua bán của các tư thương ở đây cũng rất phát triển. Tính đến giữa năm 1995 số lượng bè cá ở khu vực này lên tới vài chục chiếc với tổng số khoảng 300  400 ô lồng. Khu vực biển miền Trung, từ Đà Nẵng đến Bình Thuận có khoảng 200 lồng và khu vực Đông Tây Nam Bộ có trên 100 ô lồng. Số liệu thống kê số lồng bè và sản lượng nuôi cá lồng biển ở Việt Nam năm 1995 là. Khu vực Số lượng lồng Sản lượng ( cái ) ( tấn ) Quảng Ninh 125 40 Vịnh Hạ Long 80 3
  4. Vân Đồn 15 Các nơi khác 30 Hải Phòng 130 30 Cát Bà 120 Đồ Sơn 10 Thừa Thiên - Huế 120 5 Đà Nẵng 130 8 Sơn Trà 80 Các nơi khác 50 Nha Trang 60 25 Bình Thuận - Kiên Giang 70 15 Tổng số: 636 lồng 123 tấn II. Tiềm năng và triển vọng nghề nuôi cá lồng biển ở Việt Nam 1. Tiềm năng vùng nuôi Theo đánh giá của FAO nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam còn non trẻ so với các nước trong khu vực Đông Nam á. Tuy nhiên, chúng ta có đầy đủ tiềm năng để phát triển nghề này. Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3.600 km, dọc ven biển có nhiều eo, vịnh kín gió, có trên 4.000 hòn đảo lớn nhỏ với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nuôi trồng, đặc biệt là khu vực Vịnh Hạ Long vùng biển từ Nha Trang đến Phan Thiết và vùng biển phía Tây Nam Bộ là những vùng biển có tiềm năng rất lớn cho việc nuôi cá lồng biển. Vì vậy nếu được đầu tư đúng mức, ngư dân và các cơ sở sản xuất tiếp nhận được kỹ thuật nuôi tiên tiến và khi đã chủ động sản xuất nhân tạo giống cá biển thì nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam sẽ có những bước nhảy vọt, tạo việc làm và tăng thu nhập cho đông đảo ngư dân vùng ven biển, đem lại nguồn hàng xuất khẩu lớn cho đất nước. 2. Tiềm năng về đối tượng nuôi Biển Việt Nam có rất nhiều loài cá có giá trị kinh tế để phát triển nghề nuôi cá lồng trên biển. - Cá song (Grouper) : Trong 7 loài cá song có mặt ở nước ta là Song mỡ (Epinephelus tauvina), song dẹt (E. bleekeri), song chấm đỏ (E. akaara), mú hoa nâu (E. fuscoguttatus), mú vạch (E. brunneus), mú chấm tổ ong (E. merra), song cáo (E. megachir) nhưng chỉ có 3 loài có giá trị kinh tế cao được nuôi rộng rãi là cá song mỡ, cá song dẹt, cá song chấm đỏ. - Cá hồng (Snapper) : Có 4 loài có giá trị kinh tế là: Lutjanus erythropterus; L. argentimaculatus; L. malabaricus; L. johnii. - Cá tráp (Seabream) có 3 loài có giá trị cao là: Cá tráp đỏ (Pagrus major), cá tráp vàng (Sparus latus), cá tráp (Tains tumifrons). - Cá vược (Seabass) có hai loài là cá vược (Lates calcarife) và cá vược mõm nhọn (Psammoperca waigiensis). - Cá cam (Yellowtail) Serida dumerili. - Cá măng (Milkfish) Chanos chanos. 4
  5. - Cá giò (Black kingfish) Rachycentron canadum. và nhiều loài cá kinh tế khác chưa được khai thác để sử dụng vào nuôi lồng trên biển. Việc chọn đối tượng nuôi có ý nghĩa rất quan trọng trong nghề nuôi cá lồng trên biển. Đối tượng nuôi phải có giá trị kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là phải chủ động nguồn giống : Cả về số lượng, chất lượng và tính mùa vụ. Bởi vì nều cùng đầu tư nguồn vốn đầu vào như nhau về cơ sở vật chất : Lồng bè, nhân lực, thời gian, thức ăn Đối tượng nào càng có giá trị kinh tế, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng rãi thì việc hạch toán đầu ra thu được lợi nhuận càng cao. Đối với miền Bắc nước ta, ở khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng và một số khu vực ven biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ, ngư dân và một số cơ sở sản xuất chủ yếu nuôi các đối tượng : Cá song, cá giò, cá hồng, cá tráp vây vàng. Đây là bốn đối tượng có giá trị kinh tế cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng rãi, dễ nuôi hợp với qui mô hộ gia đình cũng như nuôi công nghiệp. Trong đó cá song và cá giò được xem như là đối tượng nuôi rộng rãi hơn, cả về số lượng và phân bố vùng nuôi bởi vì những đối tượng này có giá trị kinh tế cao, tiềm năng về thị trường rộng rãi, đặc biệt hai loài cá này gần đây ở nước ta đã bước đầu xuất được con giống nhân tạo đáp ứng được mong đợi của sản xuất. Tuỳ theo loài và kích cỡ, giá cá song thương phẩm đối với thị trường trong nước (chủ yếu là các khách sạn nhà hàng, thành phố, thị trấn ) dao động từ 100.000  200.000 đồng/kg, còn thị trường xuất khẩu như Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore giá cá song dao động trong khoảng từ 800  1.000 đ Đài Loan/1kg (loài E lanceolatus), 100 đô la HôngKông/1kg ( cá mú hoa nâu E. fuscoguttatus ) và 410 đô la HồngKông/1kg ( cá song dẹt C. altivelis với cỡ khoảng 600g), cá song chủ yếu được sử dụng dưới dạng tươi sống, số ít được sử dụng dưới dạng cá ướp đá. 3. Khả năng sản xuất giống Đối với những loài cá nước ngọt, khả năng sản xuất giống trong những năm gần đây để cung cấp cho ngư dân và các cơ sở nuôi trồng thuỷ sản được coi như tương đối thành công và đã đáp ứng được nhu cầu về con giống cho nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt của nước ta (cả nước có 400 trại sản xuất cá giống). Mặt khác, đối với những loài cá nước mặn thì việc tìm hiểu đặc điểm sinh học ( sinh sản, tập tính sống, phân bố, nhất là các điều kiện sinh sản ) của đối tượng để đưa vào sản xuất là vô cùng khó khăn và phức tạp, có khi phải mất nhiều năm liền, tốn kém về nhân lực và tiền của. Môi trường biển lại rất phức tạp và khác nhau đối với từng vùng, từng đối tượng nghiên cứu, do vậy đối với một số loài cá biển có đặc tính sinh học sinh sản tự nhiên mà trong điều kiện nhân tạo hiện nay chúng ta chưa thể tạo ra được. Trước đây hầu hết nguồn cá giống cung cấp cho nghề nuôi lồng trên biển, chủ yếu là dựa vào khai thác ngoài tự nhiên bằng cách câu, bẫy hoặc dùng lưới; vì vậy nguồn cung cấp giống chưa được chủ động, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên và khả năng đánh bắt của các ngư dân, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chất lượng và tính thời gian của con giống cho nghề nuôi cá lồng trên biển cả ở qui mô gia đình và qui mô công nghiệp. 5
  6. Đối với khu vực miền Bắc (Quảng Ninh - Hà Tĩnh) mùa khai thác giống từ tháng 3 đến tháng 7, rộ nhất là tháng 4 và tháng 5. Trước đây nguồn lợi cá giống ở khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh rất phong phú, sản lượng cá giống hàng năm có thể khai thác : 300.000 cá song, 10.000 cá hồng - cá tráp và 200.000 cá vược giống. Trong những năm gần đây nguồn lợi giống của một số đối tượng cá kinh tế đang bị giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt là khu vực xung quanh đảo Cát Bà. Nguyên nhân là do việc khai thác quá mức, thiếu qui hoạch, môi trường biển ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, môi trường sinh thái ven bờ bị phá vỡ, các rạn san hô và rừng ngập mặn bị tàn phá nặng nề, việc khai thác thiếu ý thức như đã sử dụng các loại phương tiện mang tính huỷ diệt là chất nổ, điện, hoá chất cùng với việc khai thác ngay trên các bãi đẻ vào mùa sinh sản làm cho nguồn lợi thuỷ sản nói chung và nguồn lợi giống cá biển kinh tế ngày càng bị giảm sút nghiêm trọng, có khả năng dẫn đến cạn kiệt. Vì vậy để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản nói chung và nguồn lợi một số loài cá biển có giá trị kinh tế cao, Nhà nước cần sớm có những chính sách, qui hoạch tổng thể và qui hoạch cụ thể phù hợp cho từng vùng, từng loại nghề, từng thời điểm khai thác. Cần sớm có những biện pháp bảo tồn và tái tạo rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn và các bãi đẻ, mùa sinh sản của các đối tượng kinh tế nhằm tạo ra sự bền vững của các sinh vật vùng biển nước ta, đồng thời với việc tập trung nghiên cứu sinh học, sản xuất giống các loài có giá trị kinh tế và các loài có nguy cơ tuyệt chủng để đáp ứng nhu cầu về con giống cho nghề nuôi lồng trên biển đang ngày càng phát triển như hiện nay. Từ năm 1993 Viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã tiến hành nghiên cứu sinh sản một số loài cá biển có giá trị kinh tế : Cá song, cá giò, cá hồng và cá tráp. Năm 1994 - 1995 bước đầu đã cho sinh sản được cá song, cá giò, cá hồng và tráp, nhưng tỷ lệ sống của cá bột đến cá giống còn rất thấp dưới 1%. Năm 1999 Viện Nghiên cứu Hải sản thành công trong sinh sản nhân tạo cá giò, đã cung cấp trên 10.000 cá giống cỡ 10  15cm cho ngư dân và một số cơ sở sản xuất nuôi lồng trên biển của Quảng Ninh, Hải Phòng. Kết quả nuôi đạt rất tốt cá sinh trưởng nhanh đạt 300 - 400gam/3 tháng nuôi, tỷ lệ sống cao, ít bệnh tật. Năm 2002 Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thuỷ sản I đã nhập công nghệ và sản xuất thành công giống cá song tại Cát Bà ( Hải Phòng ). Đây là kết quả bước đầu rất đáng được trân trọng, bởi nó đã hé mở một khả năng tạo hàng loạt con cá song giống bằng con đường sinh sản nhân tạo, góp phần thúc đẩy nghề nuôi biển phát triển một cách ổn định. 4. Mục tiêu và sự quan tâm của Nhà nước đến hướng phát triển của Ngành Mục tiêu của Ngành : Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010, tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2.000.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2.500.000.000 USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2.000.000 người; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển. Nguyên tắc chỉ đạo: - Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sản xuất và ổn định đời sống nhân dân. 6
  7. - Nuôi trồng thuỷ sản phải từng bước được hiện đại hoá, phát triển theo hướng nuôi công nghiệp là chính, kết hợp các phương pháp nuôi khác phù hợp với điều kiện của từng vùng. - Phát triển nuôi trồng mặn lợ và nuôi biển, đồng thời phát triển nuôi nước ngọt. - Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu, đồng thời chú trọng nuôi trồng thuỷ sản khác phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Mục tiêu cụ thể cho nuôi cá biển đến năm 2010 là: Diện tích nuôi biển đạt 40.000 ha và 40.000 lồng bè, sản lượng đạt 200.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là cá song, cá hồng, cá cam, cá vược và cá măng Bài 1: Kỹ thuật nuôi cá song Mặc dù biển Việt nam có nhiều loài cá song phân bố nhưng chỉ có 1 số loài được nuôi phổ biến: Cá song mỡ còn gọi là cá song gầu (Epinephelus tauvina) Cá song chấm đen đầu còn gọi là cá song dẹt (Epinephelus bleekeri) Cá song chấm nâu (Epinephelus coioides) Cá song chấm đen (Epinephelus malabaricus) 7
  8. Cá song vân mây (Epinephelus moara) Tiếng anh: Grouper Tiếng Việt : Cá song, cá song mú 1.1. Đặc điểm sinh học của cá song 1.1.1. Phân bố Cá song phân bố ở vùng biển nhiệt đới, á nhiệt đới. Cá sống tầng đáy nơi có các rạn san hô. ở Việt Nam có khoảng 30 loài phân bố, riêng vùng biển xa bờ nước ta theo điều tra của ông Đầo Mạnh Sơn 2000 coá 16 loài trong họ cá song phân bố, chúng phân bố dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam, chúng sống ở các vùng nước ven bờ, cửa sông, quanh các đảo, các rạn đá san hô cho tới vùng biển sâu 70  80 m. Cá song đánh bắt được chủ yếu bằng nghề câu tay, câu vàng, lồng bẫy và lưới giã. 1.1.2. Hình thái cấu tạo Thân hình thuôn dài, mình hơi dẹt. Mệng rộng, răng nhọn sắc và chắc. Lược mang sắc, dạ dày lớn, ruột ngắn. Trên cơ thể có nhiều chấm sắc tố, màu sắc thay đổi theo môi trường sống. Hình 1: Cá Song mỡ (Epinephelus tauvina. Forsskal, 1775) 1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng Cá song thuộc loại động vật ăn thịt, trong giai đoạn ấu trùng chủ yếu ăn động vật phù du cỡ nhỏ nhơ ấu trùng hà, ấu trùng cầu gai, luân trùng, copepoda. khi lớn chúng ăn động vật giáp xác, cá, nhuyễn thể bơi lội. Trong tự nhiên cá thường sống ẩn nấp ở những rạn đá, hang hốc nằm chờ con mồi tới gần rồi đớp gọn. Mồi của chúng thường là những động vật sống đáy như tôm, cua, cá, mực. Chúng bắt mồi suốt ngày, mạnh nhất vào lúc chạng vạng tối và rạng đông. 1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng Trong số cá song có giá trị kinh tế có 3 loài có tốc độ lớn nhanh là cá mú điểm gai, cỡ thân dài 2 m; cá song hoa nâu cỡ đánh bắt 13- 22 kg, lớn nhất dài 120 cm; cá song sọc ngang (E. fasciatus) nặng 2 kg. Đáng chú ý là loài Promicrops lanceolatus Block, 1970 8
  9. (cá song vàng) ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình, khơi vịnh Bắc Bộ có chiều dài 22 cm, còn ở Australia cá này có chiều dài 360 cm nặng 350 kg. Cá song là loài có tốc độ sinh trưởng nhanh, có kích thước lớn. Đánh bắt ngoài tự nhiên cá 2 tuổi đạt 2- 3 kg/con. Trong điều kiện nuôi sau một năm cá đạt được 700- 1000 g/con. Đặc biệt khi cá lớn hơn 1500 g/con cá lớn nhanh hơn giai đoạn còn nhỏ. 1.1.5. Đặc điểm sinh sản Cá song thuộc loại sinh sản biến tính, khi nhỏ chúng là cá thể cái, lớn lên một số chuyển giới tính thành cá đực. Cá song mỡ chín muồi sinh dục ở năm thứ 4  5, thường đẻ từ tháng 3 đến tháng 8, rộ vào tháng 5 đến tháng 6. Đại bộ phận cá đẻ trứng ở vùng nước sâu, thời gian ấp nở 27 giờ trong điều kiện nhiệt độ 260C, độ mặn 29  0 0 32 /00 và 17  18 giờ ở nhiệt độ 29  32 C. Điều kiện tối ưu cho ấu trùng phát triển là 0 0 26  29 C và độ mặn từ 28  30 /00, trứng và cá bột trôi theo dòng nước và thủy triều vào vùng nước nông ven bờ. Cá càng lớn càng có xu thế di chuyển ra sống ở vùng nước ngoài xa bờ. 1.2. Kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo 1.2.1. Nuôi vỗ cá bố mẹ Có thể nuôi vỗ cá song trong lồng hoặc trong ao nước mặn đều được. Đối với cá song chuột (Cromileptes altivelis) do kích thước nhỏ nên có thể nuôi vỗ ngay trong bể cỡ 100  150m5 cá vẫn thành thục. Chọn cá bố mẹ phải khoẻ mạnh, không bị bệnh, không bị xây sát, bơi lội linh hoạt đạt yêu cầu vể trọng lượng : Cá song gầu; cá song chấm đen : Cá đực > 5kg/con ; cá cái : 3,5  6kg/con. Cá song chuột : Cá đực > 2kg/con ; cá cái > 1kg/con Cá song chấm nâu: nặng từ 8- 18 kg/ con. Cá trên 3 tuổi mới chọn để nuôi vỗ thành thục. Sự phân biệt đực cái ở cá song chỉ có thể tiến hành trong mùa sinh sản lúc cá đang thành thục. Chọn những cá thể to làm cá đực trong quá trình nuôi vỗ phải cho ăn hoặc tiêm hoormone giới tính đực 17-MT và chọn những cá thể nhỏ hơn làm cá cái không cho ăn hoặc tiêm 17-MT. Cá bố mẹ lựa chọn trước khi nuôi vỗ hoặc cho đẻ phải tiến hành tắm xử lý để phòng các bệnh như: Bệnh nhiễm Cryptocaryon, bệnh ký sinh trùng, bệnh copepod ký sinh Bệnh nhiễm Cryptocaryon : Cơ thể cá có nhiều đốm viêm t ấy, cá nằm yên dưới đáy mắt mờ đục. Chuyển cá đến bể khác sạch đã được vô trùng, làm 2 lần liên tiếp trong 3 ngày. Bệnh ký sinh trùng : Bệnh do Benedenia hoặc Neobenedenia sp gây ra làm một số cá bị chết (khi bị ký sinh vào mắt). Tắm nước oxy già (H2O2) nồng độ 150ppm trong 30phút hoặc tắm nước ngọt 5  10 phút 2 lần trong 7 ngày. 9
  10. Bệnh copepod ký sinh : Bệnh do Caligus sp hoặc lepeophtheirus sp gây ra, cá yếu bơi lờ đờ. Tắm cá bằng H2O2 nồng độ 150ppm trong 30 phút. Một số phương pháp nuôi chuyển giới tính và nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục như sau:  Phương pháp nuôi riêng đực cái. Nuôi vỗ cá đực: Sau khi chọn cá to làm cá đực đưa vào nuôi riêng ở 1lồng hoặc 1 ao với mật độ 1  2 con/m3. Trong quá trình nuôi vỗ, hàng ngày trộn thêm 1  3 mg 17-MT vào thức ăn để cho cá ăn, lượng thức ăn 3  5% trọng lượng thân, thời gian cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7  8 giờ sáng và 4  5 giờ chiều. Thay nước 3  5 ngày thay 1/3  1/2 lượng nước (nuôi trong ao) và ở bể 200  300% nước hàng ngày. 0 0 0 Duy trì môi trường : Độ muối: 30  32 /00, pH: 7,5  8,5, T C: > 24 C. Thời gian nuôi: 3  4 tháng trước mùa cá đẻ. Nuôi vỗ cá cái: Trộn Progesteron hoặc vitamin E với lượng 450mg/kg thức ăn, ngày cho ăn 3  5% trọng lượng thân vào lúc 7  8 giờ sáng và 4  5 giờ chiều. Duy trì điều kiện môi trường như môi trường nuôi vỗ cá đực. Nuôi hợp đàn : Trước mùa cá đẻ 10  15 ngày tiến hành nuôi hợp đàn 2 đàn cá trên để kích thích chúng hưng phấn chóng thành thục. Tỷ lệ ghép đực/cái là 1/1, mật độ 1  2 con/m3. Thời gian này cho cá ăn thức ăn là tôm, cá tươi không bổ sung hoormone. 0 0 0 Điều kiện môi trường : Độ muối: 30  32 /00, pH: 7,5  8,5, T C: 28  30 C. Kích thích nước liên tục, hàng ngày thay 50  80% nước mới. Đối với cá song chuột 0 yêu cầu độ muối cao hơn (34  25 /00) trong suốt thời kỳ nuôi vỗ cá bố mẹ.  Phương pháp nuôi chung đực cái. Tại Viện Nghiên cứu Goldol Indinexia nuôi vỗ cá song chuột bố mẹ theo hình thức nuôi lẫn đực cái. Cá đực được bắn số dánh dấu nuôi lẫn với cá cái. Chế độ bổ sung vitamin, axit béo không no vào con mồi ở cá đực và cá cái như nhau, riêng hoormone 17-MT chỉ bổ sung vào cá đực bằng cách tiêm với lượng 75mg/kg cá đực 1 tháng 1lần, trước mùa thành thục 3  4 tháng. 1.2.2. Kỹ thuật cho đẻ 1.2.2.1. Chuẩn bị bể đẻ Bể cho cá đẻ tốt nhất là hình tròn, thể tích từ 50  150 m3, chiều cao 2,5m. Bể có 1 ống cấp nước vào nằm trên rìa đáy bể để khi cấp nước sẽ chảy thành dòng xoáy. Đáy bể dốc về tâm, chính giữa tâm là ống thoát nước, trước khi cho cá đẻ phải cấp đầy nước vào bể đẻ, lắp mỗi bể từ 6  10 vòi sục khí mạnh. 1.2.2.2. Chọn cá cho đẻ Cá đực : Vuốt thấy sẹ đặc, màu trắng sữa chảy ra, dễ bị tan trong nước biển. 10
  11. Cá cái : Dùng ống thăm trứng để hút trứng kiểm tra nếu thấy đường kính trứng đạt 0,55  0,7mm, trứng tròn đều, màng trứng rõ ràng, nhân hơi lệch về phía cực động vật thì có thể chọn cho cá đẻ. 1.2.2.3. Tiêm kích dục tố Cá sau khi đạt cá tiêu chuẩn lựa chọn thì tiến hành thả vào bể đẻ, có thể tiêm hoặc không tiêm cá vẫn đẻ. Trường hợp không tiêm nên cho cá đẻ vào tuần trăng như quy luật tự nhiên của chúng. ở Cát Bà hoặc Indonexia nhìn chung không tiêm kích thích nhưng nhiều trại sản xuất cá song giống ở Đài Loan có tiêm 1 trong 2 loại thuốc sau: LHRH-a với lượng 20mg/kg đối với cá cái và 10 mg/kg cá đực hoặc HCG với lượng 500  1.000IU/kg cá cái, 200IU/kg cá đực. Cả 2 loại đều chia làm 2 lần tiêm cách nhau 24 giờ. Cá song thường đẻ vào ban đêm lúc 20  24 giờ. 1.2.2.4. Thu trứng, tách trứng và ấp trứng Cá đẻ xong tiến hành vớt trứng. Trứng cá khi trương nước có đường kính 0,8  0,9mm vì vậy giai và vợt vớt trứng có cỡ mắt 0,4  0,5mm là thích hợp. Trứng vớt ra 0/ đưa vào bể tách trứng. Đối với các loài cá cho đẻ ở độ muối 30  32 00 cần phải tăng 0 độ muối trong bể tách trứng lên 35  36 /00 những trứng tốt nổi lên sát mặt nước để việc 0 tách trứng dễ dàng hơn. Trường hợp nước trong bể đẻ đã đạt 35 /00 (như cho đẻ cá song chuột) chúng ta không cần nâng độ muối trong bể tách trứng. Sau khi tách trứng lần cuối tiến hành tắm trứng bằng dung dịch Iodine nồng độ 20ppm trong thời gian 15 phút để phòng trừ vi sinh gây bệnh nhiễm từ vỏ trứng sang ấu trùng cá trước khi đưa trứng vào bể ấp. Trong quá trình tắm trứng những trứng yếu cũng sẽ chết và lắng xuống đáy bể , chúng ta cần loại bỏ trước khi chúng bị phân huỷ. Mật độ ấp: 10 trứng/ml. Cá song vừa mới nở rất khó thu gom và vận chuyển, vì vậy người ta thường chuyển trứng sắp nở vào bể ương. Những trứng này cũng thường nổi hoặc lơ lửng, những trứng chìm, màu trắng đục là trứng chết cần loại bỏ trước khi đưa vào bể ương. 1.2.3. Ương nuôi ấu trùng 1.2.3.1. Những điều cần chú ý trong ương cá song ấu trùng cá song có sự biến thái rất nhiều từ khi mới nở đến khi vượt qua hậu biến thái (Metamorphosis) để trở thành Juvenile. Chúng rất nhạy cảm với điều kiện môi trường thay đổi và dễ bị chết do stress. Do vậy việc quản lý bể ương phải hết sức cẩn thận. ở nhiệt độ nước 28- 300C thời gian cá song phát triển từ mới nở đến Juvanile hết khoảng 45 ngày. Việc ương cá song thành công hay thất bại trước hết phụ thuộc vào sự tránh được hay không bệnh virut VNN (Viral Nervous Necrosis). Một khi VNN phát triển, tỷ lệ chết cao của ấu trùng cá song là không tránh khỏi, hầu hết ấu trùng chết trong vòng 1- 2 ngày. Vì vậy để giảm thiểu tối đa sự nhiễmVNN vào trong bể ương, hạn chế gây stress tới ấu trùng, duy trì chất lượng nước tốt. Mật độ ương không quá dày. 11
  12. ấu trùng chết nổi: ấu trùng từ 0- 5 ngày tuổi dễ bị mắc khô trên mặt nước rồi bị Stress tiết nhiều chất nhầy không thể chìm được và sẽ bị chết. Để hạnh chế vấn đề này cần phải: Đặt vị trí và cường độ sục khí ổn định một chỗ. Duy trì tảo trong nước bể ương ở mật độ thích hợp. Hiện tượng gai chúng đâm vào nhau: ấu trùng sau 10 ngày tuổi xuất hiện 1 gai lưng và 2 gai chậu rất dài sắc và nhọn, khi tập trung thành đám đông chúng thường bị đâm bởi những chiếc gai này. Để hạn chế hiện tượng này cần phải: Tăng cường sục khí mạnh. Đặt một số đá sục khí sát thành bể nơi ấu trùng hay tập trung vào. Điều chỉnh ánh sáng đều và cường độ hợp lý. Duy trì mật độ tảo tạo màu sắc bể ương 1 cách hợp lý. Hiện tượng suy dinh dưỡng: Cường hoá luân trùng và artemia. Cho cá ăn thức ăn hỗn hợp càng sớm càng tốt ở mức có thể thay thể dần Artemia. Những Artemia để lâu trong bể ương cần loại bỏ để thay bằng Artemia mới nở vừa được cường hoá. 1.2.3.2. Kỹ thuật ương a. Chuẩn bị bể ương Bể ương cỡ thích hợp 3  10m3 có hệ thống cấp thoát nước, hệ thống khí, hệ thống tuần hoàn và hệ thống chiếu sáng. Bể tốt nhất là hình trụ tròn đáy dốc về tâm, nếu bể hình chữ nhật phải lượn tròn các góc bể. Độ sâu bể 1,2m là thích hợp. Màu sắc thành bể tốt nhất là màu tối, phải có mái che để tránh ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào bể. Bể trước khi sử dụng phải cọ rửa sạch sẽ, khử trùng bằng clorin, thuốc tím rồi rửa lại bằng nước ngọt, sau đó phơi khô trước khi cho nước biển lọc vào bể ương. Khi đã chuẩn bị xong bể có thể san trứng từ bể ấp sang bể ương. b. Thả trứng sắp nở vào bể ương Mật độ thả: 4.000  5.000 trứng/m3, mật độ cao thường gây hiện tượng cá tập trung thành đám rồi chết, mặc khác còn dễ mắc bệnh virut VNN (Viral Nervous Necrosis)ở giai đoạn sau. c. ánh sáng trong bể ương - 2 ngày đầu : Cường độ ánh sáng 1.000 lux, mỗi ngày chiếu sáng khoảng 10  12 giờ (từ 8  20 giờ). Sử dụng 4 đèn neon 40w đặt cách mặt nước 50cm. - Ngày thứ 3  6 : Chiếu sáng từ 6 giờ đến 22 giờ. - Ngày thứ 7  10 : Chiếu sáng từ 6 giờ đến 20 giờ. - Ngày thứ 11 trở đi : Chiếu sáng từ 6 giờ đến 19 giờ (Sau khi mặt trời lặn 30 phút). 12
  13. d. Điều chỉnh sục khí bể ương Dùng nhiều đá khí để ở cường độ nhẹ sẽ tốt hơn ít đá khí ở cường độ sục khí mạnh. 1 bể 10m3 trong 10 ngày đầu đặt 9 đá khí là vừa đủ. Từ ngày thứ 10  25 tăng 13- 14 cục, những đá khí đặt thêm đều để sát thành bể. Từ ngày 25 trở đi cho đến khi xuất, tăng cường thêm đá khí có thể lên đến 20- 25 cục. Về cường độ sục khí từ ngày đầu đến ngày thứ 2 sục khí mạnh hơn để tách ấu trùng lắng hoặc tập trung từng đám; Từ ngày thứ 3  10 : Giảm cường độ sục khí để cá bắt luân trùng tốt hơn; Từ ngày 11  25 sục khí mạnh để hạn chế ấu trùng tập trung thành đám trên bề mặt; Sau ngày thứ 25 cá bắt đầu bơi thành đàn vòng quanh bể cần sục mạnh hơn để cung cấp đủ ôxy cho nưóc ưong. e. Cho ăn Luân trùng sử dụng 2 dòng : Luân trùng siêu nhỏ SS Rotife cỡ 120  140mm. Luân trùng dòng nhỏ S Rotife cỡ 180  200mm. Luân trùng được đưa vào bể ương từ ngày thứ 3 khi ấu trùng mở miệng đến ngày thứ 30. Lúc đầu cho luân trùng siêu nhỏ sau đó cho luân trùng nhỏ, mỗi ngày 2 lần định lượng, luôn giữ mật độ luân trùng ở mức trên dưới 5 con/ml. Những luân trùng ở lâu trong bể không cho cá ăn phải loại bỏ hoàn toàn bằng thay nước tuần hoàn. Luân trùng trước khi đưa vào phải được cường hoá bằng tảo Nanochloropsis rất giầu EPA (Eicosapentaenoic acid) nhưng nghèo DHA (Docasohexenoic acid) vì vậy khi cường hoá luân trùng ngoài tảo cần phải có dầu cường hoá. Các dầu này có thể là Selco sản xuất tại Bỉ, Packboot sản xuất tại Đài Loan hoặc Aquran sản xuất tại Nhật Bản. Thức ăn nhân tạo : Để giảm tỷ lệ chết trong quá trình ương cá song cần cho cá ăn thêm thức ăn nhân tạo càng sớm càng tốt. Cho ăn từ ngày thứ 17 trở đi khi ấu trùng đủ khoẻ, loại thức ăn thích hợp để ương cá song là Love larva sản xuất tại Nhật Bản. Artemia : Cho ăn từ ngày thứ 20  30, cho ăn 1 lần/ngày vào buổi chiều muộn. Trước khi cho ăn Artemia phải được cường hoá để tăng hàm lượng dinh dưỡng. g. Quản lý bể ương Thay nước: Khi mới đưa ấu trùng vào bể ương mức nước trong bể chỉ lấy 7/10m3, lượng nước này hàng ngày không thay mà chỉ thêm vào ngày thứ 7, thứ 8 lượng nước lên tới 9m3. Từ ngày thứ 9  13 mỗi ngày thay 20% nước mới. Khi thay nước phải nhẹ nhàng, từ từ không làm xao động đến bể dễ gây Stress cho cá. Sau ngày thứ 13 tỷ lệ nước thay tăng dần lên, tuỳ thuộc vào chất lượng nước và tình trạng sức khoẻ, độ nhạy cảm của cá. Duy trì nhiệt độ nước trong bể nằm trong khoảng 26  300C, dao động nhiệt độ 0 0 ngày đêm không quá 1 C. Độ muối ổn định ở 34  35 /00 đối với cá song chuột, 31  0 32 /00 đối với các loài cá song khác. Cung cấp nước tảo Nanochloropsis mật độ 10  15 Triệu tb/ml bổ sung vào trong bể ở mức 0,2  0,5m3/10m3 bể ương hàng ngày. Tảo vừa có tác dụng làm thức ăn 13
  14. cho luân trùng, giữ chất lượng luân trùng không bị giảm ngoài ra còn hấp thụ các chất bẩn và tạo màu sắc nước bể ương phù hợp với cá. Siphon vệ sinh đáy bể tiến hành từ ngày thứ 9  11 trở đi, nhằm hạn chế VNN phát triển. Từ ngày thứ 1  5 hàng ngày cho 1 ít dầu mực với lượng 0,1ml/1m3 mặt nước bể ương vào các thời điểm 8 giờ, 15 giờ 30' và 22 giờ để hạn chế cá chết nổi trên mặt nước. Khi thấy nhiều chất bẩn hoặc xác cá chết nổi trên bề mặt nước, phải cho thu váng để làm sạch nước, hạn chế ô nhiễm nước và hạn chế VNN phát triển. h. Thu hoạch Juvenile Đến ngày thứ 40 ấu trùng đã trải qua hậu biến thái để thành cá con (Juvenile) và bơi dọc theo tường bể, tiến hành thu hoạch chuyển sang bể Nursery. Bằng cách dùng ống nhựa có đường kính 40cm, dài 15cm bịt kín 1 đầu đặt cạnh tường để hứng cá tự động bơi vào rồi nhấc lên để chuyển vào bể Nursery. Với phương pháp này có thể thu được 90% số cá trong bể, số còn lại tiến hành rút nước bể để thu tiếp. i. Ương cá song từ Juvenile lên cỡ giống Juvenile 40 ngày tuổi có chiều dài khoảng 2,5cm, nuôi thêm khoảng 1 tháng nữa đạt cỡ 4  5 cm hoặc lớn hơn. * Bể ương: hình tròn hoặc hình chữ nhật, có kích thước 5  10m3. Bể có hệ thống cấp nước và cấp khí, có mái che để tránh ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp xuống bể và ngăn ngừa tảo phát triển. Mật độ ương : 500  600 juvenile/m3 bể là thích hợp. Cho ăn thức ăn tổng hợp ( thức ăn sản xuất tại Đài Loan, Nhật Bản hoặc thức tự chế biến ) theo công thức sau: Bảng 1: Thành phần và tỷ lệ phối trộn thức ăn tự chế biến Tên nguyên liệu Tỷ lệ ( % ) Thịt cá xay 30,0 Thịt tôm xay 20,0 Mực xay 10,0 Bột gạo 13,4 Casein 13,0 Premix khoáng 2,5 Premix vitamin 2,0 Dầu mực 6,0 Chất kết dính 3,0 Hương vị hấp dãn cá 0,1 Tổng số : 100,0 14
  15. * Quản lý khác Thay nước hàng ngày ở mứ 400- 500% đẻ giữ chất lượng nước trong sạch. 0 0 Nhiệt độ ổn định trong khoảng 27- 28 C, độ mặn 30- 32 /00 , riêng cá song chuột 0 34- 35 /00 . Siphon đáy bể thường xuyên vào buổi chiều muộn. Khi Juvenile chìm xuống đáy và ở đó qua đêm để ngủ. Khống chế VNN trong bể Nursery Mật độ nuôi thích hợp Cho ăn thức ăn chất lượng cao Duy trì chất lượng nước tốt Các cá chết và cá yếu phải được phát hiện sớm và đưa ra khỏi bể . * Thu hoạch và vận chuyển cá giống cỡ 4 – 5 cm dùng lưới và vợt rồi đóng túi vận chuyển đến địa điểm nuôi thương phẩm. 1.3. Kỹ thuật nuôi cá song thương phẩm Cá song thích hợp ở cả hai hình thức nuôi lồng bè và nuôi trong ao đầm nước mặn. Tuy nhiên hình thức nuôi phổ biến ở nươvs ta hiện nay vẫn là nuôi trong lồng bè. 1.3.1. Kỹ thuật nuôi cá song thương phẩm bằng lồng 1.31.1. Thiét kế lồng bè Lồng nổi hoặc lồng cố định được sử dụng ở Đông Nam á. Loại lônhg cố định được neo cố định ở đáy biển. Kích thước lồng 6 x 6 x 3m hoặc 3 x 3 x 3m. Kích thước mắt lưới ban đầu khi thả cá giống 2a = 8 mm cho loại cá 2- 10 cm và mắt lưới 25 mm cho cỡ cá lớn hơn 10 cm. 1.3.1.2. Vị trí neo bè Nơi khuất gió và hạn chế được ảnh hưởng khi có sóng lớn (trên cấp 3): vịnh, eo biển, hồ nước mặn. Gần những nơi có thể neo đậu an toàn khi có bão, xa các vùng cửa sông. Biên độ giao động của thuỷ triều không lớn ( 3m). Dòng chảy nhẹ (0,2  0,7m/giây). Nguồn nước không bị ô nhiễm do các nguồn nước: Sinh hoạt, công nghiệp và cách xa nơi tàu thuyền neo đậu. Không có hoặc có ít sinh vật làm hại nhơ: hà, sun, rong, rêu Độ trong của nước từ 0,5  4m. Nơi có độ sâu tối thiểu là 5  6m (khi thuỷ triều thấp nhất), đáy là cát sỏi. 0 0 Các yếu tố môi trường: Độ muối: 20  32 /00; Nhiệt độ: 25  32 C; pH: 7,5  8,5; DO: 4- 8 mg/l. 15
  16. Giao thông vận chuyển cá giống, thức ăn, sản phẩm và các nguyên nhiên vật liệu khác thuận tiện. 1.3.1.3. Lựa chọn giống và thả giống a. Chọn giống Chọn những cá khoẻ mạnh, không sây sát, không rách đuôi, vây vẩy nguyên vẹn. Trước khi thả vào lồng nên thuần hoá để cá thích nghi dần với môi trường mới như : Độ sâu, độ muối, và nhiệt độ. Tắm cho cá bằng loại thuốc có khả năng diệt mầm bệnh (vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng ). b. Thuần hoá cá Khi thả cá cần tuân thủ các thao tác sau: Ngâm túi cá trong lồng chuẩn bị nuôi khoảng 15  20 phút để cân bằng nhiệt độ trong túi với môi trường, sau đó mở miệng túi cho nước tràn vào từ từ, nghiêng túi cho cá bơi dần ra ngoài. Không mở túi đổ cá ngay ra lồng, cá sẽ bị sốc. Khi thả cá cần thao tác nhẹ nhàng, trường hợp cá yếu do vận chuyển, nên nhốt riêng cá trong thùng có sục khí cho đều đến khi cá hoạt động bình thường mới thả . Thả cá giống vào lúc trời mát, chọn cá cùng cỡ thả trong một lồng để tránh cạnh tranh mồi và ăn thịt lẫn nhau. c. Mật độ thả Cỡ giống 8 12 cm (TB 50g/con), thả 40  60 con/m3. Cỡ giống 100  150g/con, thả 20  30 con/m3. 1.3.1.4. Chăm sóc và quản lý a. Cho ăn * Thức ăn: Cá tạp tươi: được xay hoặt cắt cho phù hợp với kích cỡ miệng cá. Thức ăn được trộn với vitamin C (2g/kg thức ăn) trước khi cho ăn. Thức ăn viên: với đường kính viên phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá. * Cho ăn: Cho ăn hàng ngày với với cá tạp tươi băm nhỏ bằng 10% trọng lượng trung bình của thân hoặc thức ăn viên cho ăn 3% trọng lượng thân. Cho ăn 2 lần/ngày vào buổi sáng và buổi chiều khi cá có trọng lượng 200g, cho ăn mỗi ngày 1 lần vào buổi chiều với cá tạp tươi bằng 5% trọng lượng trung bình cá nuôi và thức ăn viên cho ăn 2% trọng lượng thân. Nên cho ăn lúc cá bơi lội gần mặt nước. b. Quản lý lồng nuôi - Thường xuyên theo dõi lồng, nếu lồng bị hư , hại phải sửa chữa hoặc thay mới. - Vệ sinh lồng bè định kỳ 2 3 tháng 1 lần như: Giặt lưới, thay lưới, tẩy sinh vật bám - Thả 15- 30 con cá dìa (số lượng tuỳ thuộc vào kích thước lồng) vào lồng nuôi cá. Mục đích để cá ăn các loài rong, tảo bám vào lưới lồng. 16
  17. - Chú ý thời gian nước tĩnh, dòng chảy yếu và mùa mưa ảnh hưởng nguồn nước đổ ra từ cửa sông. - Hàng tháng tiến hành phân lọc cá thể theo từng nhóm kích thước. Nuôi riêng để tránh cá lớn tranh cá bé. - Nếu thấy môi trường xấu, cá kém ăn, hoặc xuất hiện dịch bệnh cần có biện pháp xử lý - Khi có bão, hoặc khu vực nuôi môi trường bị nhiễm bẩn cần di chuyển bè tới nơi khác để đảm bảo an toàn. 1.3.1.5. Thu hoạch Cá song được thu hoạch khi chúng đạt 400g hoặc hơn tùy thuộc vào nhu cầu. Thường thu hoạch sau 12- 15 tháng nuôi khi cá đạt trọng lượng 1000 - 1500kg/con. Cá được bán còn sống cho các nhà hàng hoặc xuất khẩu. Không cho cá ăn 1-2 ngày trước bán. Kiểm tra lưới lồng trước khi thu hoạch xem có bị rách hoặc hư hại, phòng cá thoát ra ngoài. Nâng lưới chầm chậm lên dồn cá về một góc, dùng vợt có lưới mềm để bắt cá. 1.3.2. Kỹ thuật nuôi cá song thương phẩm trong ao đất Đây là giai đoạn nuôi từ cá giống lên cá thương phẩm. Yêu cầu kích thước cá thương phẩm tuỳ theo nhu cầu của thị trường. Hiện nay, việc nuôi cá song trong ao đất ở một số nước cho thấy tiềm năng lớn về thị trường và khả năng lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khả năng chỉ đạt được khi đáp ứng được nhu cầu về khả năng cung cấp giống. Có 2 phương pháp được áp dụng nuôi cá song trong ao đất là: Nuôi đơn và nuôi ghép với cá rô phi. 1.3.2.1. Chọn địa điểm Nguồn nước cấp: Có nguồn nước tốt cung cấp quanh năm, trong sạch không bị ô nhiễm, xa nguồn nước thải, các yếu tố môi trường ổn định, đảm bảo các thông số thủy lý, thủy hóa: Thông số Phạm vi cho phép pH 7.5- 8.3 Oxy hoà tan 4  8 mg/l 0 Nông độ muối 20- 32 /00 Nhiệt độ nước 25  32oC NO2-N (Nitrite nitrogen) 0- 0,05 ppm Unionized ammonia (NH3-N) 0,02ppm Chất đáy: Đất sét, sét có mùn hoặc cát pha sét Biên độ thuỷ triều: Nên chọn vùng có biên độ thuỷ triều vừa phải từ 2  3m. Địa hình và chất đất: Nên chọn nơi có địa hình thuận tiện và chất đất giữ được nước cho ao. Cần tránh những vùng bị nhiễm phèn. 17
  18. Cần chọn nơi có giao thông thuận tiện. Ngoài ra, một số yếu tố khác như: Khả năng về giống, lao động, trợ giúp kỹ thuật, khả năng về thị trường và điều kiện xã hội thích hợp cũng cần được xem xét khi chọn lựa vị trí. 1.3.2.2. Thiết kế và xây dựng ao Ao nuôi thường có dạng hình chữ nhật, diện tích từ 2000m2 đến 10.000 m2, sâu từ 1- 2 m, có cống cấp và cống thoát riêng. Đáy ao bằng phẳng và hơi nghiêng về phía cống thoát. 1.3.2.3. Chuẩn bị ao * Đối với ao nuôi đơn tiến hành cải tạo ao theo các bước: - Tát cạn hoặc tháo cạn nước ao - Cày, xới lớp đất trên mặt đáy ao, sâu xuống 5 – 10cm. - San bằng đáy ao và tạo độ nghiêng về phía cống hoặc mương thu hoạch cá. - Đào một cái hố hoặc mương để dồn cá khi thu hoạch. - Bón vôi CaCO3 với lượng 1 - 3 tấn/ha hoặc 200 - 300 kg CaO/ha. - Phơi đáy từ 2 tuần đến 3 tháng tùy theo điều kiện và đáy ao, phơi đến khi mặt ao nứt chân chim để diệt cá tạp và khoáng hoá đáy ao. - Cung cấp cho cá chỗ lấp như ống tre, PVC giúp cho cá con tăng tỷ lệ sống, giảm cá mắc bệnh, hạn chế tính ăn nhau của cá. - Lấy nước vào ao, nước phải được lọc qua lưới lọc có kích cỡ mắt lưới 24lỗ/2,5cm để ngăn sinh vật tạp vào ao nuôi. * Đối với nuôi ghép: - Sau khi bón vôi cần bón phân hữu cơ liều lượng 1 - 2 tấn/ha. - Cho nước vào ao, sâu 30- 50 cm. Dùng lưới mịn (24 lỗ/inche hoặc 2,5 cm) để ngăn sinh vật tạp vào ao. - Tiếp đó nâng dần mực nước ao lên để thức ăn tự nhiên phát triển, khi thức ăn đã phong phú thì thả cá rô phi bố mẹ, mật độ thả 5.000  10.000con/ha, tỷ lệ đực/cái là 1/3. Cá rô phi nuôi 1  2 tháng xuất hiện nhiều cá rô phi con thì thả cá song giống vào nuôi. Nếu không ương cá trong cùng một ao, thả 100- 200 cá song con tạm thời trong một cái lồng (2 x 2 x 1,5 m) đặt trong một chỗ thích hợp trong ao để làm quen với thức ăn nhân tạo. Thả từ từ cá song con vào các ao ngay sau khi chúng có thích nghi với thức ăn. 1.3.2.4. Chọn giống và thả giống - Cỡ giống phải đồng đều, không bị dị hình và không có dấu hiệu bệnh lý. - Cỡ cá song giống: ao nuôi đơn cỡ 6  8 cm, ao nuôi ghép cỡ giống 10 - 12 cm. - Mật độ 20.000  30.000 con/ha (nuôi đơn) và 5.000  10.000 con/ha (ao nuôi ghép). - Trước khi thả cá giống phải được thuần hoá giống với điều kiện môi trường ao nuôi. 18
  19. 1.3.2.5. Chăm sóc và quản lý a. Thức ăn và cách cho ăn Ao nuôi ghép cần điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, thức ăn mang tính chất bổ sung, khi cá rô phi con trong ao nhiều, cho cá song ăn hàng ngày với 5% trọng lượng trung bình thân, cho ăn hai lần/ ngày buổi sáng và buổi chiều tối. Nếu cá rô phi con không có sẵn trong ao, cho cá ăn các loại cá tươi bă nhỏ hàng ngày. Số lượng cho ăn là 15% trọng lượng trung bình thân. Ao nuôi đơn phải cấp thức ăn hàng ngày là 15% trọng lượng thân, ngày cho ăn hai lần: sáng sớm và chiều tối. Khi cá đạt 200g cho cá ăn ngày 1 lần và giảm lượng thức ăn còn 5% đối cá tươi, 2% đối với thức ăn viên (thức ăn công nghiệp). Phương pháp cho ăn ở ao cũng giống nuôi bằng lồng. b. Quản lý ao nuôi - Thay nước: sử dụng nước thủy triều hoặc bơm từ ao chứa để thay nước trong ao. Thay nước ít nhất 2 lần/ tuần, lượng nước thay 20 - 50% lượng nước tùy thuộc chất lượng nước có trong ao. Ao nuôi ghép do cần duy trì nguồn thức ăn tự nhiên nên cần hạn chế việc thay đổi nước cho ao nuôi. - Sử dụng máy quạt nước khi oxy hòa tan xuống thấp dưới 4 mg/l. Nếu không có sục khí, thay 50% nước hoặc dùng mái chèo đập nước bằng tay. - Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường, duy trì chỉ số của nước trong suốt thời gian nuôi: pH: 7.5- 8.3 Nhiệt độ: 25- 320C 0 Độ mặn: 20 - 32 /00 Oxy hòa tan: 4- 8mg/l 1.3.2.6. Thu hoạch Cá song được thu hoạch khi chúng đạt 400g hoặc hơn tùy thuộc vào nhu cầu. Cá được bán còn sống cho các nhà hàng hoặc xuất khẩu. Cá thu hoach thường sau 8- 12 tháng nuôi khi cá đạt cỡ 500 - 1000g/con. Để thu hoạch, đặt trong ao một cái lồng có kích thước 8 x 2 x 1,5m, kích thước mắt lưới là 25 mm. Tạm giữ cá tạm thời trong lồng này. Mật độ không quá 20 con/ m3. Dùng lưới để thu hoạch cá. Lưới có phao nổi ở phía trên và giềng chì ở đáy. Thu hoạch vào sáng sớm hoặc chiều tối, khuấy nước mạnh 2 giờ trước khi thu hoach để tránh cơ của cá bị cứng. 1.3.3. Phòng trị bệnh 1.3.3.1. Biện pháp chung trong phòng bệnh - Giữ chất lượng môi trường nước tốt, giảm bớt việc làm cá bị sốc môi trương như ôxy hoà tan thấp, nhiệt độ - Định kỳ tắm cá bằng hoá quá cao hay quá thấp, sự tích tụ chất thải quá nhiều. 19
  20. - Cung cấp đủ chất dinh dưỡng.chất hoặc trộn kháng sinh vào thức ăn, treo túi vôi sống, túi dipterex xung quanh bè. - Chú ý vệ sinh lồng bè sạch giảm thiểu khả năng tích tụ mầm bệnh. - Cá bị bệnh sau khi chết phải cho vào túi và đưa lên bờ, tuyệt đối không được vứt xuống biển. 1.3.3.2. Các bệnh thường gặp a. Các bệnh do virus Virus là tác nhân gây bệnh có kích thước nhỏ nhất, thông thường bằng 1/20 kích thước của vi khuẩn. Chúng xâm nhập vào sinh vật sống, sinh sản bên trong ký chủ và gây nệnh bằng cách làm tổn hại các mô của ký chủ. ở cá song có hai loại virus được báo cáo là virus gây bệnh hoại tử thần kinh (VNN) và irido virus. * Cơ quan bị nhiễm: Não bộ, mắt, mang, lách và các cơ quan nội tạng * Dấu hiệu: màu của thân tối, bơi kiểu xoay, cá bơi yếu gần mặt nước hoặc đáy ao, thỉnh thoảng đớp không khí ở mặt nước, mang có màu lợt. * Hậu quả: Bị chết nhiều * Nguyên nhân: - Tác nhân truyền bệnh là cá bố mẹ và cá con. - Do sốc độ mặn và nhiệt độ. - Trong điều kiện môi trường xấu như có kim loại nặng. - Cá bị sốc do dinh dưỡng. * Biện pháp phòng bệnh - Chọn cá không có virus, bằng cách nhờ phòng thí nghiệm. - Tiệt trùng các bể và phương tiện khác trước khi sử dụng - Tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả giống. - Thực hiện việc nuôi cá tốt như cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cá, loại trừ các con yếu. - Qui định việc mua bán cá và cá con để ngăn ngừa bệnh lây nhiễm. - Kiểm dịch và có giấy chứng nhận cá nhập khẩu. b. Các bệnh do vi khuẩn Vi khuẩn là vi sinh vật không htể nhìn thấy bằng mắt thường, không phải tất cá vi khuẩn đều có hại. Chúng được xem là các tác nhân gây bệnh cho cá khi sức khoẻ kém do sự chăm só hoặc do điều kiện môi trường. Hầu hết các vi khuẩn gây bệnh cho cá mú thuộc nhóm vibrio. * Cơ quan bị nhiễm bệnh: vây và đuôi, thân, mắt. * Dấu hiệu bệnh lý: Vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi có xuất huyết hoặc không. * Hậu quả: cá chết ở đáy. 20
  21. * Nguyên nhân: - Do mật độ cá quá cao, chất lượng dinh dưỡng và nước kém. - Nhiễm ký sinh trùng và chúng tạo vết thương, đó chính là lối vào cho vi khuẩn xâm nhập. - Ô nhiễm chất hữa cơ vì thức ăn thừa và nước kém lưu chuyển. - Cá bị thương * Phòng ngừa: - Duy trì mật độ cá và sinh khối thích hợp bên trong hệ thống nuôi. - Duy trì sự lưu thông nước cho lồng nuôi bằng cách vệ sinh và thay lồng để giảm thiểu sinh vật bám trên lưới. - Thức ăn tươi hoặc nhân tạo cho cá phải được bảo quản tốt. * Biện pháp xử lý: - Tắm cho cá trong nước ngọt, không kéo dài quá 15 phút. - Trị bệnh : Dùng các loại thuốc Formol 50  100mml cho vào thùng chứa1000 lít nước ngọt để hòa tan rồi tắm cho cá (có sục khí), thời gian tắm 2  5 phút tuỳ thuộc vào phản ứng của cá, tắm liên tục 4  5 ngày (chú ý tắm qua nước ngọt trước khi tắm thuốc). Khi thấy cá bị bệnh phải lọc chuyển sang nuôi cách ly để xử lý. c. Các bệnh do nấm Nấm là vi sinh vật có dạng sợi, tăng trưởng không cần ánh sáng, chúng tạo năng lượng bằng cách tiêu thụ chất hữu cơ. Ichthyophonus sp là loại nấm gây bệnh cho cá song. * Cơ quan nhiễm bệnh: Cơ; các cơ quan bên trong. * Dấu hiệu: Đám màu trắng có đường kính 2 mm ở các cơ quan bị nhiễm. * Hậu quả: ăn mòn sâu vào mô của ký chủ; ảnh hưởng giá trị của cá. * Phòng ngừa: - Tránh làm cá bị thương. - Chuyển ngay cá có dấu hiệu bị nhiễm nấm khỏi hệ thống nuôi. - Không cho cá thức ăn bẩn và hư. - Bảo quản tốt thức ăn nhân tạo d. Bệnh do ký sinh trùng Ký sinh trùng là những sinh vật sống bám trên ký chủ đang sống. Ký sinh trùng được xem là tác nhân gây nhiều bệnh cho cá song. Những ký sinh trùng chính ở cá song gồm các loại sau: * Protozoa: là những sinh vật đơn bào, có cấu tạo đặc biệt để di chuyển, thu thức ăn và bám vào ký chủ. Chúng có thể ký sinh bên ngoài hoặc bên trong cơ thể của cá. Các loại Protozoa chính ký sinh trên cá song: Dinoflagellata; Ciliata; Myxosporea * Giun dẹp: là các loài ký sinh bên ngoài và bên trong cá. Phía trước có cấu tạo đặc biệt để bám vào ký chủ. Phần lớn giun dẹp có thể thấy bằng mắt thường, một số khác có 21
  22. kích thước hiển vi. Các loài chính là: Sán lá ở mang (VD: Pseudorhabdosynochus, Haliotrema, Diplectanum); Sán lá ở da (VD: Benedenia; Neobenedinia) * Giun tròn: là ký sinh trùng bên ngoài cá, thân không phân dốt. Giun trưởng thành có thể thấy bằng mắt htường. * Giáp xác: ký sinh bên ngoài cơ thể cá. Thân phân đốt, có vỏ và các phụ bộ. Một số ký sinh giáp xác có kích thước hiển vi (copepod), số khác kích thước lớn (isopod). * Đỉa: Ký sinh bên ngoài, than phân đốt giả và có 2 giác hút để di chuyển và ăn. Một số bệnh ký sinh trùng thường gặp: - Dinoflagellata: là một loại nguyên sinh động vật ký sinh, có hình dáng dài giống như sợi tóc, di chuyển được, kích thước hiển vi. Amloodinium là loài ký sinh quan trọng nhất, đường kính thân 120 m, chúng bám vào mang hoặc thân, gây ảnh hưởng cho sức khoẻ cá song. + Cơ quan bị ảnh hưởng: Mang; thân + Dấu hiệu: Cá tập trung tại mặt nước hoặc gần nơi sục khí; mang có màu lợt; màu sắc của thân đậm hơn, trên thân xuất hiện những đốm như nhung. + Hậu quả: Da và mang cá bị hoại tử; cá chết nhiều nếu không được điều trị. + Điều trị: Tắm cho cá bằng Sulfat đồng (CuSO4), hàm lượng 0,5 ppm trong 3 - 5 ngày, sục khí mạnh. Thay nước và hoá chất hàng ngày, cách pha hoà 0,5 mg CuSO4 trong 1 lít nước hoặc 0,5 g trong 1000 lít nước hoặc: Tắm cá bằng formalin, hàm lượng 200 ppm trong 1 giờ, sục khí mạnh. Cách pha 20 ml trong 1000 lít nước. Chuyển cá vào bể nước sạch 2 lần trong 3 giờ xử lý cá. Sau khi xử lý, hút bỏ nước và thay bằng nước sạch. - Trùng lông tơ (Ciliata): là loại nguyên sinh động vật ký sinh có lông tơ (cilia) được dùng để di chuyển. Những loài lông tơ ký sinh ở cá song là Cryptocaryon, Trichodina, Brooklynella. Cryptocaryon là loài ký sinh quan trong jnhất trong nghề nuôi cá song vì chúng có thể giết sạch đàn cá nuôi. Chúng có hình quả lê, kích thước 0,5 mm với lớp lông tơ trên bề mặt. + Cơ quan bị nhiễm: Bề mặt thân; mắt cá. + Các dấu hiệu của bệnh: Các chấm trắng trên da cá; cá cọ mình vào các vật cứng khi bơi; trên thân cá xuất hiện nốt nhày. + Hậu quả: ảnh hưởng hô hấp của cá; gây nhiễm trùng thứ cấp; cá chết nhiều nếu không xử lý. +Nguyên nhân: Mật độ cá cao; nhiệt độ nước giảm; cá bị sốc +Điều trị: Tắm 0,5 ppm CuSO4 (0,5 g CuSO4 trong 1000 lít nước) 5- 7 ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hoá chất hàng ngày. 22
  23. Tắm cá bằng nước cá 25 ppm formalin (25 ml formalin trong 1000 lít nước) 5 - 7 ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hoá chất hàng ngày. Chuyển cá đã xử lý vào bể nước sạch 2 lần trong vòng 3 ngày. - Trichoina: có thân hình dĩa, khích thước 100 (đường kính thân), lông tơ mọc bao quanh thân. +Cơ quan bị nhiễm: mang; bề mặt thân. +Dấu hiệu: mang có màu lợt; cá cọ mình vào vật cứng; tạo nhiều niêm dịch trên mang và bề, mặt thân; cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh. +Hậu quả: ký sinh trùng vận động qua phá huỷ mô của ký chủ; dịch nhầy bám trên mang gây khó khăn cho hô hấp của cá. +Nguyên nhân: Hàm lượng chất hữu cơ trong nước cao; ít thay nước, chất lượng nước kém. +Điều trị: Tắm cá với dung dịch formalin 200 ppm (200 ml trong 1000 lít nước) trong 30- 60 phút, sục khí mạnh. Tắm cá với dung dịch formalin 25 ppm (25 ml trong 1000 lít nước) trong 1- 2 ngày, sục khí mạnh. - Sán lá ở da: là loài sán ký sinh bên ngoài cơ thể, có chiều dài 2- 6 mm. Hầu hết các loài sán ký sinh trên da cá song là Benedenia và Neobenederia. + Cơ quan bị nhiễm: bên ngoài cơ thể; mắt. + Dấu hiệu: chết khi đang bơi; cá cọ thân vào vật cứng; mắt đục; da loét. + Hậu quả: mù; nhiễm trùng thứ cấp; cá chết nhiều. + Nguyên nhân: Mật độ cá nuôi cao Có sự truyền bệnh qua các thế hệ của cá nuôi. + Điều trị: Tắm cá trong nước ngọt 10- 30 phút hoặc: Tắm cá trong dung dịch oxy già 150 ppm (150 ml dung dịch H2O2 trong 1000 lít nước) trong 10 - 30 phút, sục khí mạnh. - Sán lá ở mang: là loại sán ký sinh bên ngoài cơ thể cá, dài 0,5- 1 mm. Các loài sán thông thường ký sinh ở mang là Pseudorhabdosynochus, Haliotrema, Diplectanum. + Cơ quan bị nhiễm: mang cá. + Dấu hiệu: mang có màu lợt; tập tính bơi bị lổi trên mặt nước; thân bị trắng; cá kém ăn. + Hậu quả: hô hấp khó khăn; cá chét nhiều. + Nguyên nhân: Mật độ cá nuôi cao; vệ sinh lồng kém. + Điều trị: 23
  24. Tắm cá trong dung dịch oxy già 200 ppm (200 ml H2O2 trong 1000 lít nước) trong 1 giờ, sục khí mạnh, hoặc: Tắm cá trong dung dịch formalin 100 - 200 ppm (100 - 200 ml formalin trong 1000 lít nước) 30 - 60 phút, sục khí mạnh. - Copepod (chân chèo): Caligus hình ovan, kích thước: dài 3mm, ngang 1,6 mm, cá một cặp giác hút ở trán và 4 cặp chân. + Cơ quan bị nhiễm: bề mặt cơ; mang cá. + Dấu hiệu: bề mặt thân có u; cá bơi chậm chạp trên mặt nước; cá kém ăn; cá yếu khi nhiễm nặng. + Hậu quả: Da và cơ bị mòn; nhiễm trùng thứ cấp; chết nhiều. + Nguyên nhân: chất lượng nước kém, ít thay nước. + Điều trị: Tắm cho cá với dung dịch oxy già150 ppm (150 ml H2O2 trong 1000 lít nước) trong 30 phút, sục khí mạnh, hoặc: Tắm cá bằng nước ngọt 10 - 15 phút; hoặc: Tắm cá trong dung dịch formalin 200ppm (200 ml formalin trong 1000 lít nước) trong 1 giờ, sục khí mạnh. Chuyển cá đã xử lý vào bể nước sạch, không có ký sinh trùng. e. Bệnh do dinh dưỡng - Cơ quan nhiễm: gan - Dấu hiệu: màu sắc của gan nhạt; cá lờ đờ; mắt đục; cơ thể biến dạng. - Hậu quả: chậm lớn; tỷ lệ sống thấp. - Phòng ngừa: + Không cho cá ăn thức ăn ươn thối. + Không cho cá ăn thức ăn bị mốc meo. f. Các bệnh do môi trường - Cơ quan nhiễm: bong bóng; mang. - Dấu hiệu: bụng cá bị căng phồng; cá bơi chúc đầu xuống hoặc hướng về phía bên gần mặt nước; có bong bóng trong lá mang. - Hậu quả: cá bị nổi thụ động, bị bỏng nắng; cá chết. - Nguyên nhân: môi trường nuôi ảnh hưởng tới sức khoẻ của cá. Những trận mưa rào có thể thúc đẩy là tảo nở hoa. Đối với cá nuôi lồng, sinh vật bám trên lưới làm chậm sự lưu chuyển của nước và làm đảo lộn các yếu tố môi trường. - Điều trị: nếu cá lớn thu hoạch và bán ngay; không để nhiễm trùng thứ cấp, dẫn đến cá chết. 24
  25. bài 2: kỹ thuật nuôi cá giò Tên khoa học: (Rachycentron canadum Linnaeus, 1776) Tên tiếng Anh: Black kingfish, Cobia Tiếng Việt: Cá giò, cá bớp biển 2.1. Đặc điểm sinh học của cá giò 2.1.1 Phân bố Cá giò thuộc họ cá bớp (Rachycentridae) nên loài cá này còn có tên gọi khác là cá bớp biển, họ này chỉ có một giống Rachycentron và một loài là R. canadum. Cá giò phân bố giộng từ vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới (trừ vùng biển đông Thái Bình Dương, tây Đại Tây Dương, vùng Bermuda và Massachusetts, từ Mỹ đến Argentina bao gồm vịnh Mixco và toàn bộ biển Caribbean). ấn Độ- Tây Thái Bình Dương: Đông Châu Phi, Nhật Bản đến Australia. ở Việt Nam: cả vùng nước ven bờ và xa bờ từ Bắc đến Nam. Cá thường sống ở tầng giữa hoặc tầng trên của vùng nước, danh từ chuyên môn người ta thường gọi là loài cá nổi. Cá giò sống ở nhiều dạng khác nhau : Bùn, cát, sỏi, rạn san hô, rạn đá xa bờ và cả vùng đầm lầy rừng ngập mặn Cá có khả năng thích 0 nghi lớn đối với sự biến đổi của độ mặn, khoảng thích hợp nhất là từ 22,4  44,5 /00. 2.1.2 Hình thái cấu tạo Thân hình thoi rất dài, chiều dài thân bằng 5,5- 7,5 lần chiều cao, đầu dẹp và rộng, mõm hơi hếch, hàm dưới dài hơn hàm trên, răng nhỏ mịn phân đều ở cả hai hàm và trên vòm miệng. Vây lưng thứ nhất có 6- 9 tia cứng gắn và khoẻ, giữa các tia không có màng liên kết, vây lưng thứ hai dài có màng liên kết giữa các tia mềm , vây hậu môn tương tự vây lưng thứ hai nhưng ngắn hơn, vây đuôi ở cá con hình tròn khi trưởng thành lõm vào hình trăng khuyết. Vẩy tấm nhỏ nằm trong lớp da dày. Đoạn dưới của đường bênhơi giiống đường sóng lượn đoạn sau thẳng. Màu sắc: lưng và hai bên sườn màu nâu đậm (thẫm) , dọc thân có hai dải hẹp màu sáng bạc chạy dài từ sau mắt đến cuống đuôi. Bụng có màu trắng sữa hoặc vàng nhạt. Chiều dài lớn nhất 200 cm, trung bình 110 cm, cân nặng tối đâ 68kg. 25
  26. Hình 2: Cá giò (Rachycentron canadum Linnaeus, 1776) 2.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng Cá giò là loài cá ăn thịt, thức ăn chính của chúng gồm: Cá nhỏ, cua, giáp xác, mực và một số động vật khác sống ở biển. Lượng tiêu thụ mồi lớn. 2.1.4. Đặc điểm sinh trưởng Sinh trưởng nhanh, sau một năm nuôi có thể đạt từ 3,0- 4,0 kg/ con. Cá giò đánh bắt ngoài tự nhiên thường có chiều dài từ 90- 110 cm, con lớn nhất dài 200cm, nặng 68kg. Cá giò nuôi trong lồng trên biển có tốc độ lớn nhanh, bình quân 3- 4kg/năm, là loài cá có tuổi thọ cao, ngoài tự nhiên người ta đã gặp cá 15 tuổi. 2.1.5. Đặc điểm sinh sản Cá giò đẻ tập trung từ tháng 4 đến tháng 6, thường cá chỉ đẻ một đợt và đẻ rộ vào tháng 5. Cá giò có khối lượng > 10kg mới thành thục sinh dục và tham gia đẻ trứng lần đầu tiên. Cá giò có sức sinh sản từ 1,5* 106 đến 6* 106 trứng, vào mùa sinh sản, chỉ số tuyến sinh dục của cá cái chiếm từ 8,1- 9,2% khối lượng cá. ấu trùng của cá giò sống phù du. 2.2. Kỹ thuật sản xuất giống cá giò 2.2.1. Quy định chung Quy trình này nhằm đạt được các chỉ tiêu : Tỷ lệ cá đẻ trứng : 50% Sức sinh sản : 500.000  1.000.000 trứng/kg cá cái. Tỷ lệ thụ tinh : 50  90%. Tỷ lệ nở : 30  86%. Tỷ lệ sống : 2  5% ( cỡ cá 6,0 - 8,0 cm ) Quy trình này có thể áp dụng cho các cơ sở nghiên cứu và sản xuất giống cá biển ở các tỉnh ven biển trong cả nước. 2.2.2. Nuôi vỗ cá bố mẹ 2.2.2.1. Lựa chọ địa điểm nuôi vỗ - Vị trí có độ muối ổn định, thường ở mức 25- 32‰. - Độ trong trên 2m, dòng chảy nhẹ 0,2- 0,5m/s. - Nơi ít sóng gió đảm bảo an toàn cho lồng bè. - ít bị ô nhiễm do các nguồn nước: Sinh hoạt, công nghiệp và sinh vật làm hại - Giao thông thuận tiện. 2.2.2.2. Lồng nuôi Nuôi trong lồng lưới có kích thước 3m* 6m* 3m hoặc 10m* 10* 10m. Kích thước mắt lưới phù hợp cho làm lồng nuôi vỗ cá giò bố mẹ 2a = 10cm. 2.2.2.3. Tuyển chọn cá bố mẹ, chế độ nuôi vỗ 26
  27. - Chọn cỡ cá có trọng lượng 8- 10 kg/con trể lên, tuổi rừ 2- 3. Vào mùa sinh sản (tháng 4- 6) xác định cá đực, cá cái rồi dánh dấu bằng chíp điện tử và đưa cá cái vào chế độ nuôi vỗ. - Mật độ nuôi: 5- 6 kg cá/1m3 lồng. Thời gian nuôi vỗ chia làm ba thời kỳ: Nuôi duy trì: Từ tháng 6- 9, lượng cho ăn bằng 3% trọng lượng thân. Thức ăn là cá tạp tươi. Đối với cá cái đã nuôi vỗ từ những năm trước nhưng không sử dụng cho đẻ, LRHa tiêm để loại bỏ hết sản phẩm sinh dục cũ (thời gian tiêm từ ngày 5 đến ngày 15 tháng 7, liều lượng 10- 15g/kg cá mẹ). Còn đối với cá mới tuyển chọn không cần tiêm. Nuôi vỗ tích cực: Từ tháng 10 đến tháng 12, lượng cho ăn bằng 5% trọng lượng thân, thức ăn là cá tạp tươi chất lượng cao (cá nục, cá lầm, mực ), có kích cỡ thích hợp với đàn cá nuôi vỗ. Nuôi vỗ thành thục: Từ tháng 1 năm sau đến lúc cá đẻ, giảm khẩu phần thức ăn xuống 2- 2,5% trọng lượng thân, thức ăn là cá tạp tươi chất lượng cao. Cá mồi phải bổ sung khoáng vitamin, axit béo không no để cá phát dục tốt và nâng cao chất lượng sản phẩm sinh dục. Bảng 2: Liều lượng thuốc bổ sung để nuôi vỗ thành thục cá giò bố mẹ Liều lượng thuốc bổ sung vào mồi cho 1kg cá bố mẹ/lần Cá Thời VTM Calcinol VTM VTM VTM VTM VTM Dầu Ghi chú gian A (IU) ( mg ) B1 TH - C AD (IU) E mực (tháng) (mg) (mg) (IU) Cá 10 4 ngày 1, 2 100 0 10 30 2 20 200 đực bổ sung thuốc 1 7 3 150 2 10 50 3 0 200 lần 5 4 200 2,5 10 80 4 0 200 Cá 10 4 ngày 1, 2 100 0 10 30 2 20 200 cái bổ sung thuốc 1 15 3 150 5 15 50 3 50 200 lần 20 4 200 2,5 20 80 4 100 200 27
  28. Có thể nuôi chung hoặc nuôi riêng cá đực, cá cái. Trong trường hợp cá đực phát dục kém có thể nuôi riêng đực, cái. Khẩu phần ăn của cá đực có bổ sung thêm 0,5  1 mg 17- MT cùng với các thuốc trên sẽ tăng khả năng thành thục của cá đực. Kiểm tra cá: Từ 15/4 trở đi kiểm tra tuyến sinh dục của cá để định ngày cho đẻ. 2.2.3. Cho cá đẻ 2.2.3.1. Chuẩn bị bể đẻ Bể cho cá đẻ tốt nhất là hình tròn, thể tích từ 50  150 m3, chiều cao 2,5m. Bể có 1 ống cấp nước vào nằm trên rìa đáy bể để khi cấp nước sẽ chảy thành dòng xoáy. Đáy bể dốc về tâm, chính giữa tâm là ống thoát nước, trước khi cho cá đẻ phải cấp đầy nước vào bể đẻ, lắp mỗi bể từ 6  10 vòi sục khí mạnh. Trường hợp cơ sở không có bể đẻ có thể cho cá đẻ trong giai căng gay tại bè nuôi vỗ. Giaicho cá đẻ có kích thước 6m* 3m* 3m may may bằng lưới cỡ mắt 0,8mm, để dảm bảo nước trong giai được lưu thông, sử dụng 1 máy bơm chìm công suất 6m3/giờ bơm nước từ bên ngoài biển vào giữa giai trong suet thời gian kể từ khi thả cá bố mẹ vào đến khi cá đẻ xong và bắt cá ra. 2.2.3.2. Chọn cá cho đẻ - Cá cái: Cọn cá thành thục bằng cách dùng ống thăm trứng đường kính 1mm luồn sâu vào lỗ sinh dục 6- 8cm rồi hút trứng ra, đưa lên kính hiển vi soi và đo đường kính trứng, nếu đường kính trứng đạt 0,85- 0,9mm, trứng tròn đều nhau trứng phải rời nhau, hạt trứng căng, tròn đều Màng trứng rõ ràng, nhân hơi lệch về phía cực động vật. - Cá đực: Dùng tay vuốt nhẹ từ phía bụng xuôi về phía lỗ sinh dục nếu thấy sẹ sẹ màu trắng đục như sữa chảy ra, tan nhanh trong nước là có thể lựa chọn cho đẻ. 2.2.3.4. Tiêm kích dục tố - Cá cái : Nếu chọn bằng phương pháp thăm trứng có thể tiêm 1 trong 3 loại thuốc: Tiêm LHR- a (Luteotropin Releasing Hormone - Ala Analog) với lượng 10 g/kg cá cái. Hoặc tiêm LHRH - e (Luteinizing Hormone Releasing Hormone Ethylamid) với lượng 20 g/kg cá cái. Hoặc tiêm HCG (Human Chorionic Gonadotropin) với lượng 250- 500IU/kg cá cái. Nếu chọn bằng phương pháp nhìn hình thái ngoài, đa số cá cái đã đang rụng trứng nên không cần tiêm. - Cá đực : Nếu vuốt nhẹ tay vẫn ra nhiều sẹ thì không tiêm bất kỳ loại kích dục tố nào, nếu vuốt nặng tay nhưng ra ít sẹ tiến hành tiêm LRH- a với liều lượng 10g/kg cá đực. 28
  29. - Vị trí tiêm : Có thể tiêm vào gốc vây ngực hoặc cơ lưng đều được, thường tiêm vào cơ lưng sẽ an toàn hơn vì tránh sự cố chọc quá sâu mũi kim tiêm vào xoang bao tim của cá. Thực tế cho thấy sử dụng hormone LHRH- e là hiệu quả và cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn. Cá giò chỉ tiêm kích dục 1 lần, sau 28  52 giờ thì cá đẻ. 2.2.3.5. Chăm sóc bể đẻ - Sục khí liên tục, che bớt ánh sáng bể. - Khi đã đưa cá vào bể đẻ luôn giữ đầy nước bể và đặt giai thu trứng từ 5 giờ chiều đến qua đêm, nếu sáng hôm sau cá chưa đẻ thì phải vệ sinh giai hứng trứng, phơi khô và buỏi chiều lại đặt vào bể hứng trứng. - Cung cấp nước chảy liên tục, nước chảy vòng trong bể. Yêu cầu lượng nước thay 200- 300% nước hàng ngày. 2.2.4. Thu trứng, tách trứng và ấp trứng 2.2.4.1.Thu trứng Dùng vợt có mắt lưới từ 250  300 vớt hết trứng trong giai và bể đẻ (chú ý không để trứng quá lâu trong vợt ở trên không khí, trứng vớt phải được thả ngay vào thùng đựng trứng để trong bang dâm hoặc tối và có sục khí). 2.2.4.2. Tách trứng 0 Trứng đang từ bể đẻ độ mặn 30- 32 /00 , đưa trứng cá vào nước có độ muối từ 35  0 36 /00, những trứng tốt ( trứng trương nước tốt, có kích thước giọt dầu lớn ) sẽ nổi lên, vớt lớp trứng nổi trên bề mặt nước, những trứng chìm và ở sâu trong tầng nước là trứng xấu cần loại bỏ. Làm lặp lại động tác tách trứng như vậy trong 3  4 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ đến khi loại bỏ toàn bộ trứng kém chất lượng, chỉ còn lại trứng tốt để đưa vào bể ấp. 2.2.4.3. ấp trứng 0 0 0 Nước ấp trứng ban đầu có độ muối 35  36 /00, pH: 8  8,5, T C = 24  28 C. Mật độ ấp 400  500 trứng/l, sục khí nhẹ và liên tục 24/24 trong quá trình ấp trứng, cấp nước 0 0 30  32 /00 liên tục vào bể nên khi trứng nở, độ muối giảm xuống chỉ còn 31  32 /00 bằng độ mặn bể ương và có thể chuyển sang các bể ương đã chuẩn bị sẵn. Chú ý trong suốt quá trình vớt trứng, tách trứng, ấp trứng và san cá bột phải đảm bảo cân bằng nhiệt độ để phôi phát triển bình thường, hạn chế tỷ lệ dị hình dị tất ấu trùng. 2.2.5. Ương nuôi ấu trùng cá giò 2.2.5.1. Yêu cầu hệ thống bể ương Bể ương cá giò là bể composis hoặc bể xing măng bên trong tối màu, bể có kích thước từ 3- 10m3, tốt nhất là hình trụ tròn đáy chap nón có lắp đạt các hệ thống: Hệ thống cung cấp nước: Bao gồm hệ thống đường ống trục và ống nhánh, van cấp nước đưa nước từ bể chứa nước lọc đến từng bể ương, mỗi bể có 1 van riêng biệt để có thể điều chỉnh lượng nước cấp phù hợp với quy trình ương. 29
  30. Hệ thống chảy tuần hoàn loại bỏ thức ăn cũ: Mỗi bể có 1 ống nước chảy tràn, đầu trong của ống lắp 1 trống lọc với cỡ chỉ cho phép các loại thắc ăn lọt qua còn ấu trùng cá được giữ lại. Toàn bộ nước tràn được thu chung về 1 đường ống và chảy về 1 giai lưới dày để thu lại thức ăn, giai này nằm trong một bể chứa. Dùng bơm hút nước trong bể chứa hồi trở lại các bể ương. Thức ăn thừa được thu lại trong giai có thể đem cường hoá rồi sử dụng lại hoặc có thể loạibỏ vì chất lượng kém. Hệ thống sục khí: Trong 10 ngày đầu cứ bình quân 2m3 bể ương bố trí 1 vòi sục khí nhẹ, những ngày sau khi cá đã lớn và khoẻ mạnh hơn bố trí 1m3 bể ương có 2 vòi sục khí. Thu váng: Mỗi bể lắp 1 dụng cụ thu váng và cho hoạt động trong ngày cho cá ăn vì thức ăn cường hoá có lắm váng dầu. Hệ thống ánh sáng: Bình quân cứ 3m2 bể ương lắp một đèn tuyp 40w cách mặt nước 50cm để cung cấp ánh sáng cho bể ương 2.2.5.2. Kỹ thuật ương a. Ương theo phương pháp thâm canh * Yêu cầu chất lượng nước bể ương 0 - Độ muối : Thời gian đầu 30  32 /00, sau 1 tuần có thể giữ nguyên hoặc giảm dần độ 0 muối xuống 22  25 /00 đều đảm bảo. - pH : 7,5  8,2 - Oxy hoà tan : Luôn luôn trên 6mg/l - NH3 dưới 0,1 mg/l. * Mật độ ương Cá 1  10 ngày tuổi ương 70  80 con/lít. Cá 11  20 ngày tuổi ương 20  30 con/lít. Cá 21  30 ngày tuổi ương 10 con/lít. * Cho ăn Khi cá mở miệng bắt đầu cho ăn. Mặc dù ấu trùng cá giò thường hết noãn hoàng ( giọt dầu ) trong vòng từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7 từ sau khi nở ấu trùng có giọt dầu to sẽ kết thúc muộn hơn ấu trùng có giọt dầu nhỏ. Cá mở miệng vào ngày thứ 3 sau khi nở. Từ sáng ngày thứ 3: cho tảo isochrysis và tảo nanochloropsis mật độ 50 vạn tb/ml. Từ chiều ngày thứ 3 đến ngày thứ 4 cho ăn luân trùng siêu nhỏ (Super small sizze rotifer) không cường hoá. Từ ngày 5 đến ngày 10 cho ăn luân trùng siêu nhỏ và luân trùng nhỏ có cường hoá. 30
  31. Từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 8 cho ăn Artemia siêu nhỏ (artemia Vĩnh châu cỡ 240  250mm) không cường hoá vì hàm lượng HUFA của loại Artemia này rất cao (7 mg/1g trứng). Từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 25; 26 cho ăn Artemia cường hoá. Từ ngày 15 đến khi đạt chiều dài 5  6 cm có thể cho ăn nauplius của copepoda rồi tiến tới cho ăn copepoda trưởng thành và luyện cho cá ăn thức ăn hỗn hợp. Từ ngày 25, 26 trở đi có thể cho cá ăn hoàn toàn bằng thức ăn tổng hợp. Thức ăn hỗn hợp sử dụng ương cá giò ( tại Cát Bà ) là Bio-optimal sản xuất tại Đan Mạch với các cỡ hạt 0,3mm; 0,5  0,6mm; 0,8  1,0mm và 1,2mm. Chú ý : Trước khi cho ăn phải loại bỏ hết các thức ăn cũ (kể cả thức ăn tươi sống) ra khỏi bể ương. Cho ăn mỗi ngày 3  4 lần với mật độ. Luân trùng : 10  15 con/ml Artemia: 1  2 con/ml Copepoda: 1 con/ml TAHH : Cho ăn thoả mãn nhu cầu bằng cách quan sát trực tiếp bằng mắt thường, khi cá ngừng bắt mồi thì dừng cấp thức ăn. * Quản lý bể ương Thay nước định kỳ với lượng đảm bảo, thời gian đầu không thay nhiều quá làm sốc cá. Luôn giữ hàm lượng oxy trong nước trên 6mg/l. Tỷ lệ nước thay hàng ngày tăng dần theo độ tuổi của cá. Cá 1  10 ngày tuổi hàng ngày thay 10  20% Cá 11  20 ngày tuổi hàng ngày thay 30  50% Cá trên 20 ngày tuổi hàng ngày thay 100  200% Duy trì điều kiện môi trường nước: Nhiệt độ ổn định, tốt nhất không thay đổi quá 10C trong 1 ngày đêm. Các điều kiện thuỷ lý, thuỷ hoá khác luôn luôn đảm bảo. Khi cá 25 ngày tuổi trở lên tiến hành lọc phân đàn cá thành nhiều cỡ để ương riêng, tránh hiện tượng cá ăn thịt lẫn nhau (chú ý khi cá còn nhỏ dùng gáo múc cả cá và nước không dùng vợt để vớt, khi cá lớn 5  6 cm trở lên mới dùng vợt để vớt). Hàng ngày tiến hành xả nước ở rốn bể và siphon đáy loại cá chết và thức ăn thừa ra khỏi bể ương. Vệ sinh trống lọc và vớt váng hàng ngày. Khi cá đạt 30  35 ngày tuổi trở lên, đạt chiều dài 5  7 cm hầu hết đã trải qua hậu biến thái (Metamorphosis), có thể chuyển xuống lồng bè ương tiếp 1 tháng nữa để thành cá giống dài 10  12 cm là cỡ thích hợp cho nuôi lớn. * Nuôi thức ăn tươi sống - Nuôi tảo: 31
  32. + Giữ giống tảo thuần Isochysis galbana và Nanochloropsis oculata trong bình cầu 5- 10 lít, môi trường giữ giống là môi trường nước biển lọc qua finter cartrige cỡ 0,2m, bón môi trường Conway- walne với liều lượng 2ml/l, sục khí 24/24, vòi sục khí được lắp qua màng lọc 0,2m và có bổ xung CO2 ngày 3- 4 lần mỗi lần 15 phút. Bình giữ giống tảo thuần được đặt trong phòng có lắp đèn neon chiếu sángđể cung cấp ánh sáng cho tảo quang hợp và lắp điều hoà nhiệt độ để luôn luôn duy trì nhiệt độ trong phòng 23- 250C. + Nuôi sinh khối tảo trên túi nilon 50 lít: Nước biển có độ mặn, pH thích hợp được lọc qua cát, tiếp đến qua finter cartrige 1m rồi bơm vào túi nilon. Thả giống tảo thuần vào với mật độ ban đầu từ 15- 1,5 triệu tb/ml. Bón môi trường Conway- walne với lượng 1ml/l nước nuôi. Sục khí 24/24 có hoà CO2 mỗi ngày 3- 4 lần, mỗi lần 15- 20 phút vào mạng sục khí. Khi tảo đạt mật độ 14- 15 triệu tb/ml thì tiến hành thu hoạch. + Nuôi luân trùng thâm canh: Loài luân trùng được nuôi để sử dụng ương ấu trùng cá giò là Brachionus plicatilis, dòng có kích thước 250- 270m. Nuôi trên bể composis thể tích 0,5- 1m3 sục khí tương đối mạnh. Dùng nước biển lọc qua lưới hoặc qua finter cartrige 10m. Độ mặn 28- 30‰, nhiệt độ 25- 280C, pH= 7,8- 8,2 để nuôi luân trùng. Bể nuôi luân trùng được đặt trong nhà có mái che tránh ánh sáng mặt trời chiếu tực tiếp xuống bể. Thả giống luân trùng với mật độ ban đằu 50- 100con/ml. Hàng ngày cho luân trùng ăn tảo Isochrysis, nanochloropsis, với mật độ 9- 10 triệu tb/ ml. Song song với cho tảo là cho luân trùng ăn men bánh mỳ20- 3- 50 gam/ngày/bể 0,5m3 (mật độ luân trùng càng cao càng phải cho ăn nhiều và nhiều lần cho ăn). Đặt vải hấp thụ các tạp chất lơ lửng trong bể nuôi luân trùng và hàng ngày giặt tấm vải hấp thụ đó. Cứ 3 ngày rửa luân trùng một lần bằng dụng cụ chuyên ding và chuyển sang bẻ mới để nuôi tiếp. Sau 5- 6 ngày khi mật độ luân trùng đạt 800- 1000 con/ml thì thu hoạch để sử dụng. + Cường hoá luân trùng và artemia: Sử dụng bể có thể tích 300- 500lít đẻ làm bể cường hoá luân trùng, artemia Đối với luân trùng: thu luân trùng từ bể nuôi sinh khối rửa sạch trên dụng cụ chuyên dùng rồi đưa vào bể cường hoá. Đối với artemia: cho ấp nở, lọc lấy naupli rửa sạch rồi đưa vào bể cường hoá. 32
  33. Bảng: Biện pháp cường hoá luân trùng và Artemia Tên các thông số trong bể cường hoá Luân trùng Artemia Mật độ luân trùng, artemia 1000 300 Thời gian cường hoá (giờ) 6 24 Hàm lượng dung dịch selco (g/l) 0,05 0,6 Hàm lượng men bánh mì (g/l) 0,05 0 Mật độ tảo Isochrysis 5 triệu 0 Mật độ tảo Nanochloropsis (tb/ml) 10 triệu 10 triệu 2.2.5.2. Ương theo phương pháp đơn giản Ngoài phương pháp ương thâm canh cá giò từ bột lên giống như đã giới thiệu ở trên, chúng ta có thể ương cá giò theo phương pháp đơn giản bằng cách gây nuôi thức ăn tươi sống trên ao đất nước lợ được cải tạo ao bón vôi, phân như cải tạo một ao ương tôm. Ương ấu trùng cá giò trên bể xi măng có lắp đặt đèn chiếu sáng và có sục khí. Nuôi tảo Nanochloropsis và nuôi luân trùng trên hệ thống bể xi măng 2- 4m3 để cung cấp vào bể ương trong 2- 3 ngày đầu khi cá vừa mở miệng. Pha muối nâng độ mặn nước lợ (18- 22‰) lên bằng độ mặn nước biển 30‰ để cấp vào bể ương rồi thả cá bột. Hàng ngày sử dụng tảo trong bể xi măng và vớt SVPD trong ao đất đưa vào bể ương cho cá ăn. Các SVPD này chủ yếu là luân trùng và Copepoda, do nuôi ở ao hàm lượng dinh dưỡng của chúng cao nên không cần cường hoá trước khi cho ăn. a. Mật độ ương Cá 1  10 ngày tuổi mật độ ương thích hợp 30  40con/l Cá 11  20 ngày tuổi mật độ ương thích hợp 15  20con/l Cá 21 ngày tuổi trở lên ương dưới 10con/l b. Cho ăn Ngày thứ 2 kể từ khi cá nở đến khi cá 20 ngày tuổi, tiến hành cho ăn tảo Nanochloropsis mật độ 1  2 triệu tb/ml. Nuôi các loại tảo trên bằng môi trường bón phân vô cơ sau : 3 NH4)2SO4 : 80g/m 3 Ca3PO4 : 30g/m 3 (NH2)2CO : 10g/m EDTA : 10g/m3 3 FeCl3 : 2,5g/m Từ ngày thứ 21 trở đi ương trong điều kiện nước chảy không cần dùng tảo. Khi cá mở miệng bắt đầu cho ăn các loại thức ăn như sau : 33
  34. Ngày thứ 3  7 cho ăn SVPD vớt ở ao đã gây màu, lượng cho ăn tính theo lượng luân trùng với mật độ 7  10 con luân trùng/ml, cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 5 giờ, 10 giờ, 14 giờ và 18 giờ. Luân trùng nuôi trong ao không cần cường hoá. Trong quá trình vớt luân trùng ở ao sẽ có lẫn cả tảo và copepoda nhưng cứ cho tất cả vào bể vì sẽ có ấu trùng cá sử dụng được các sinh vật này. Ngày thức 8  25 cho ăn SVPD vớt ở trong ao lượng cho ăn tính theo đầu copepoda với mật độ 1  2 con copepod/ml và có lẫn luân trùng trong đó, thời gian đầu cho ăn 2 lần/ngày sau tăng lên 4 lần/ngày. Ngoài ra trong thời gian này cho ăn thêm Artemia mật độ 2  3 con/ml. Từ ngày thứ 17, 18 đến khi xuất bể : Luyện cho cá ăn thức ăn hỗn hợp nhiều lần trong ngày với lượng không định mức (khi cá ngừng bắt mồi thì cũng dừng cấp thức ăn) thức ăn tốt nhất là Bio-optimal của Đan Mạch hoặc Artemia Replacement của Nauy. Nếu không có thì có thể dùng thức ăn CP hoặc tự chế với kích cỡ hạt tăng dần từ 0,3- 0,5- 0,8- 1,0- 1,2 mm. Từ ngày thứ 25 trở đi có thể cho cá ăn hoàn toàn bằng thức ăn hỗn hợp. c. Quản lý bể ương - Hàng ngày thay nước vào ban đêm đảm bảo ở mức : Cá 1  10 ngày tuổi thay 15 - 20 - 25%. Cá 11  20 ngày tuổi thay 30 - 50 - 70%. Cá trên 20 ngày tuổi 100 - 200%. -Duy trì sục khí nhẹ trong những ngày đầu, thời gian sau tăng dần lên. -Bật sáng đèn hàng ngày từ 5 giờ sáng đến 8 giờ tối. -Khi cá 25 ngày tuổi trở lên tiến hành lọc cá, ương riêng từng cỡ cá để tránh cá ăn lẫn nhau. -Hàng ngày siphon đáy bể để đưa thức ăn dư thừa và xác cá chết ra khỏi bể. -Khi cá 35 ngày tuổi đạt chiều dài 5  7 cm hầu hết đã vượt qua hậu biến thái (metamorphosis) thì san rộng ra ở mật độ 100  150 con/m3 hoặc chuyển xuống lồng bè ương tiếp 1 tháng nữa để thành cá giống cỡ 12  15 cm là cỡ thích hợp cho nuôi lớn. 2.3. Kỹ thuật nuôi 2.3.1. Thiết kế lồng, bè nuôi Trên thế giới cũng như nước ta có 2 loại lồng bè đang được sử dụng nuôi cá biển đó là lồng bè đơn giản và lồng bè kiểu Nauy. 2.3.1.1. Thiết kế loại lồng bè đơn giản Loại lồng phổ biến ở khu vực Cát Bà, Quảng Ninh. Lồng bè đơn giản, khung gỗ phù hợp với quy mô nuôi cá gia đình hoặc Công ty nhỏ. Mỗi bè có từ 6  12 ô lồng, kích thước mỗi ô là 3m x 3m hoặc 5m x 5m. Đối với hộ gia đình cụm bè phù hợp nhất là cụm bè có 9  10 ô lồng trong đó 7  8 ô lồng nuôi, 2 ô làm chòi bảo vệ, kho chứa và 34
  35. lán sàn sinh hoạt. Kích thước các ô là 3m x 3m và đối với Công ty cỡ nhỏ, mỗi cụm 30  40 ô lồng, kích thước các ô là 5m x 5m. 1 2 3 4 Hình 1. Mô hình mặt ngang của một bè nuôi cá Ghi chú : 1 : Nhà làm việc 3 : Phao 2 : Khung bè 4 : Lồng nuôi a. Khung gỗ Vật liệu làm khung bè thường là gỗ dẻ hoặc gỗ táu (loại gỗ này chịu được nắng, mưa và nước mặn). Kích thước gỗ làm đà : Rộng bản 20cm, dày 8cm và dài 7,6 m  18,3 m. Khoảng cách 2 đà trên cùng một cạnh ô lồng từ 22  24cm là vừa, ở khoảng cách này tương đối phù hợp với phao xốp và phuy nhựa. Kích thước mỗi ô lồng là 3m x 3m hoặc 5m x 5m. Các xà gồ được liên kết chặt chẽ với nhau bởi các bu lông sắt 14  16 dài 20cm . Các thanh dọc nằm trên, các thanh ngang nằm dưới, chỗ giao nhau giữa đà dọc và đà ngang được khoan để bắt bulông giữ hai đà vuông góc với nhau . b. Phao Có thể dùng 2 loại phao xốp và phao phuy nhựa: - Phao phuy nhựa : Hình trụ tròn, đường kính 60 cm, cao 90cm Mỗi cụm bè có 8 ô lồng, 2 ô nhà và sàn sử dụng 50  60 phao, dọc theo 6 thanh đà dọc sử dụng 33  36 phao, dọc theo 12 thanh đà ngang sử dụng 24 phao. Phao đặt nằm kẹp giữa 2 đà gỗ và dùng dây cột chặt với đà gỗ. Nhược điểm của phao phuy nhựa tận dụng là chúng quámỏng, thường bị móp bẹp do khung gỗ đè xuống và lực đẩy Acsimet của nước đẩy lên. 35
  36. Tính toán cường độ chịu lực cho 1 cụm ô lồng 10 ô trong đó 8 ô lồng nuôi, 2 ô làm nhà và sàn sinh hoạt: Sáu đà gỗ dọc: 6 x 18,3m x 0,08m x 0,2m = 1.7568m3. Mười hai đà gỗ ngang: 12 x 7,65m x 0,08m x 0,2m = 1.4688m3. Sàn gỗ lát trong nhà và ván gió trước nhà: 31,4m3 x 0,03m (dày) = 0.942m3 Tổng cộng: 4.1676m3. Trọng lượng loại gỗ này 1,2 – 1,3 tấn và như vậy trọng lượng số gỗ trên xất xỉ 5 tấn. Cộng với cột, kèo, vách, mái, nhà chòi và các vật dụng khoảng 1,5 – 2 tấn. Mỗi ô lồng lưới nặng 10- 15 kg, 4 cục neo bằng đá hoặc bê tông nặng 5 – 10kg/cục, chưa kể trong quá trình nuôi còn có sinh vật bám vào lồng, trừ lực đẩyAcisimet thì 8 ô lồng lưới trong điều kiện sạch cũng nặng thêm 400- 500kg. Như vậy các phao phải gánh trọng lượng ít nhất là: 7,0- 7,5 tấn. - Phao xốp : Là phao làm bằng xốp cách nhiệt xerepho nhưng nén ở chế độ rắn chăc hơn. Phao thường có hình khối chữ nhất hoặc hình trụ tròn. Phao xốp hình trụ tròn có kích thước tương tự thùng phuy nhựa đường kính 60cm, cao 90cm còn phao hình khối chữ nhật có kích thước dài 1m, rộng 50cm, cao 60cm và yêu cầu cường độ chịu nén, chịu uốn cũng tương tự như trình bày trên, phao nhựa cần được bọc bằng bạt xác rắn có tráng nilon để nước biển và sinh vật biển đỡ xâm hại c. Lồng lưới - Là lồng làm bằng lưới, hình hộp lập phương hoặc hình hộp chữ nhật có 1 mặt đáy và 4 mặt xung quanh, mặt để hở gọi là miệng lồng. Tuỳ theo kích thước của khung bè, độ sâu lưới neo lồng và đặc điểm đối tượng cá nuôi mà làm kích thước cho phù hợp. Kích thước lồng lưới hiện nay phổ biến là : 3m x 3m x 3m hoặc 3m x 6m x 3m hoặc 5m x 5m x 5m. - Lưới làm lồng là loại lưới cước sợi PE: PE 380 D/15, PE 380 D/18, PE 380 D/21 và PE 31 x 2, dệt không gút để mắt lưới ổn định. Tuỳ theo cỡ cá nuôi để chọn kích thước mắt lưới (2a = 0,5cm đến 2a = 8cm). Thường trên mỗi ô khung bè có 3  4 lồng lưới với cỡ mắt khác nhau, khi cá nhỏ dùng cỡ mắt lưới nhỏ. Khi cá lớn dần, sử dụng mắt lưới rộng dần ra cho phù hợp. - Miệng lồng, xung quanh đáy lồng và 4 đường sinh ở góc lồng phải có dây giềng để cố định và chịu các lực kép cho lồng lưới. - Neo và khung định hình lồng lưới : Xung quanh đáy lồng là ống sắt mạ kẽm đường kính 27mm hoặc 34mm và 4 chiếc cút vuông tạo thành một hình vuông hay hình chữ nhật bằng kích thước đáy lồng liên kết. Cố định đường giềng đáy lồng vào khung bằng các dây buộc, bốn góc khung đáy treo 4 cục đá hoặc bê tông nặng 5  10kg. d. Neo cụm lồng bè Một cụm ô lồng (10 ô) thường dùng 4  6 neo xuống đáy biển để cố định cụm bè không bị trôi dạt. Dây neo là dây nilon hoặc dây bằng sợi cước, đường kinh dây neo 30  40mm, neo thường dùng là neo hàn loại 50kg. Loại neo này nhẹ nhưng có độ bám tốt, 36
  37. kéo neo lên dễ dàng mỗi khi chuyển bè. Phương thả neo trùng với phương của dòng chảy và hướng sóng gió. Tuỳ theo độ sâu, lưu tốc dòng chảy, kích thước bè và chất đáy, dây neo có thể dài từ 100  500m, dọc dây neo treo thêm các cục đá 15  20 kg để cho dây chìm, đỡ cản tầu thuyền đi lại làm đứt dây neo. e. Nhà chòi Gồm các phần chính : Sàn, tường, mái lán, mặt tiền, nhà bếp, nhà vệ sinh. - Sàn : Làm bằng gỗ dày 3cm, sàn có 2 phần là sàn lán mặt tiền và sàn nhà. Sàn nhà cao hơn sàn lán mặt tiền 30  50cm. - Gỗ kèo : Thường xẻ 6 x 8cm hoặc 6 x 10cm đặt nghiêng để tằng cường độ chịu uốn. Chiều dài tuỳ theo kích thước nhà và độ dốc của mái. - Gỗ đòn tay : Thường xẻ 6 x 6cm hoặc 4 x 6cm để giảm bớt trọng lượng nhà bè và đặt nghiêng. Nếu gỗ nhỏ phải giảm khoảng cách giữa các đòn tay. - Tường nhà : Làm bằng cót ép có ốp xốp cách nhiệt và tấm nhựa cho đỡ nặng. Xung quanh tường có 2  3 cửa sổ kích thước 50  80cm và một cửa ra vào rộng 80cm. - Mái : Được lợp bằng tôn mạ màu. - Nhà bếp, nhà vệ sinh : Diện tích nhà bếp 2,5m2, nhà vệ sinh 1,5m2. Mái được lợp tôn mạ màu. Có thùng chứa rác để mỗi ngày mang ra bãi xử lý rác thải. Ngoài ra cần làm thêm một nhà kho để chứa thiết bị, lồng lưới và thức ăn cho cá. f. Phương tiện đi lại và bể chứa nước ngọt Mỗi bè cần có 1 thuyền chạy máy 12  15cv, trọng tải 5  10 tấn, chất liệu vỏ bằng nhựa composite hoặc bằng gỗ, trong thuyền có 1 ô văng dung tích 2  3m3 thao tác đóng mở lỗ lù thuận tiện. Nếu vỏ thuyền bằng gỗ thì lồng ô văng phải được tráng một lớp nhựa để giữ cho nước luôn trong sạch. g. Các vật tư thiết bị khác Mỗi cụm lồng bè cần được trang bị một máy phát điện 1,5  2kw để cung cấp điện cho các thiết bị kỹ thuật như máy nghiền thức ăn, kính lúp hoặc kính hiển vi và các hoạt sinh hoạt khác. h. Lồng bè mở rộng Trường hợp các gia đình hoặc doanh nghiệp cần mở rộng quy mô lồng bè, chỉ cần đóng thêm các cụm ô lồng 4, 6, 9, 12 ô lồng ghép vào các ô cũ bằng dây buộc và lốp xe ô tô. 2.3.1.2. Lồng bè kiểu Nauy Khung bè làm bằng nhựa PVC có cường độ chịu lực cao. Khung bè tự nổi do bên trong rỗng. Khung bè hình tròn (hình vuông dùng cho neo nơi ít sóng gió), đường kính từ 8  50m (đường kính càng lớn độ sâu càng cao). Dọc theo giềng đáy buộc 1 dây xích chì thay cho khung đáy lồng và đá neo ở loại hình lồng bè đơn giản. Miệng lồng nhô cao cách mặt nước khoảng 1m nên lồng chịu sóng tương đối tốt. 37
  38. Lồng bè Nauy có thể nuôi nơi biển thoáng có độ sâu trên 15  20m, nước trong, chịu được chế độ sóng gió thường xuyên cấp 3 cấp 4, dòng chảy 0,8m/giây. Mô hình lồng nuôi cá biển 1 5 3 2 44 7 6 8 9 Hình 2. Lồng nuôi cá hình tròn ( kiểu Nauy) Ghi chú : 1 : Cọc để căng lưới chống cá vượt ra ngoài 2 : Lưới 3 : ống nhựa cứng  30 4 : Dây cáp nối giữa phao & hệ thống lồng 5 : Phao 6 : Dây cáp nối giữa phao & quả neo 7 : Lưới nhốt cá 8 : Chì 9 : Neo 2.3.2. Kỹ thuật nuôi cá giò thương phẩm 2.3.2.1. Chọn địa điểm thả lồng - Nơi khuất gió và hạn chế được ảnh hưởng khi có sóng lớn (trên cấp 3): vịnh, eo biển, hồ nước mặn. Gần những nơi có thể neo đậu an toàn khi có bão. - Biên độ giao động của thuỷ triều không lớn ( 3m). - Dòng chảy nhẹ (0,2  0,7m/giây). 38
  39. 0 0 - Độ mặn giao động từ 20  35 /00. Thời gian độ muối xuống thấp dưới 20 /00 không kéo dài quá 10 ngày/tháng. - Nguồn nước không bị ô nhiễm do các nguồn nước: Sinh hoạt, công nghiệp và cách xa nơi tàu thuyền neo đậu. - Không có hoặc có ít sinh vật làm hại nhơ: hà, sun, rong, rêu - Độ sâu vùng nước từ 7m trở lên. Trong trường hợp nuôi bằng lồng Nauy có thể nuôi tại nơi có độ sâu 20- 50m, độ cao sóng thường xuyên từ 0,5- 1m và dòng chảy 0,8- 1m/s. - Chất đáy là cát sỏi hay cát pha bùn. - Độ trong của nước từ 0,5  4m. - Giao thông vận chuyển cá giống, thức ăn, sản phẩm và các nguyên nhiên vật liệu khác thuận tiện. 2.3.2.2. Thiết kế và cấu trúc lồng bè Lồng có hình khối vuông, hình khối hộp chữ nhật hoặc hình tròn, có kích thước từ 10m3 đến 75m3 là thích hợp vì dễ thiết kế, quản lý và bảo quản. Mắt lưới dao động từ 1  5cm tuỳ theo cỡ cá nuôi để cá lọt ra ngoài nhưng phải thông thoáng để nước trong lồng luôn được lưu thông trao đổi với bên ngoài 2.3.2.3. Kỹ thuật ương cá giò giống Chỉ áp dụng trong điều kiện không có nguồn cá giống lớn đạt tiêu chuẩn để nuôi thương phẩm, phải tiến hành ương cá giống nhỏ xuất bể từ các trại sản xuất giống. cá giò con ương trong bể của các trại sản xuất giống đạt chiều dài 10- 12 cm chúng ta có thể đưa ra ương trong lồng lớn đạt chiều dài 18- 20 cm là thích hợp cho nuôi thương phẩm. a. Lồng lưới sử dụng ương cá giò giống Lồng lưới sử dụng ương cá giò giống cũng là hình hộp, kích thước cạnh như lồng nuôi cá thương phẩm 3m x 3m nhưng có độ sâu thích hợp là 2m thấp hơn so với lồng nuôi cá thương phẩm. Cữ mắt lưới đảm bảo giữ được cá khong bị lọt da ngoài nhưng cũng phải thoáng để nước trong lồng luôn luôn được lưu thông trao đổi với bên ngoài mỗi khi có thuỷ triều lên xuống tạo thành dòng chảy. Cỡ mắt lưới thích hợp: Cỡ cá nuôi (cm) Cỡ mắt lưới 2a (cm) 10 – 15 1,5 15 – 20 2,0 20 – 30 3,0 > 30 5,0 b. Lựa chọn giống 39
  40. Cá phải cùng kích thước, khoẻ mạnh, thân hình cân đối, vây vẩy nguyên vẹn, không xây sát. Chọn những con cá có khối lượng từ 8  10gam, chiều dài thân từ 9  12cm. Cá sáng màu, 2 vệt sáng bạc dọc theo chiều dài thân đã rõ nét. c. Xử lý cá trước khi thả * Thuần hoá - Vận chuyển bằng túi PE có bơm ôxy, phải ngâm cả túi trong lồng từ 15  30 phút để 0 cân bằng nhiệt độ. Nếu độ muối của túi và của lồng chênh lệch trên 5 /00 phải đổ thêm 25  30% lượng nước vào túi để cân bằng độ muối. - Vận chuyển cá bằng tàu có văng thông thuỷ, phải mở nắp văng đổ thêm 25  30% nước vào văng nhốt cá. Sau đó giữ nguyên trong thời gian 30 phút (có thể sục khí nếu có điều kiện). - Vận chuyển hở bằng xe bảo ôn, trước khi thả cá xuống lồng phải thay nước từ từ trong thùng vận chuyển để cân bằng nhiệt độ và độ muối. * Tắm cho cá Sau khi thuần hoá tiến hành tắm bằng cách thả cá vào thùng, dung tích 50  100 lít chứa dung dịch thuốc tím (KMnO4) nồng độ 5ppm, thời gian từ 15- 20 phút, để phòng bệnh cho cá trước khi ương nuôi. Trường hợp nếu cá yếu thuần hoá xong ta phải thả cá ngay ra lồng ương sau 3  4 ngày cá khoẻ mạnh trở lại mới tiến hành tắm cho cá. d. Thả cá - Thả cá vào lúc mát : 6  8 giờ hoặc 17  19 giờ. - Cỡ cá thả trong cùng một lồng có chiều dài chênh nhau không quá 2cm. e. Mật độ thả - Với cá 10  12cm và 18  20 g thả 50  60 con/m3. - Với cá 13  18cm và 25  60 g thả 40  50 con/m3. f. Chăm sóc và quản lý * Cho ăn - Loại thức ăn + Thức ăn tươi : Sử dụng cá tạp, nhuyễn thể tươi (cá cơm, cá ruội, cá mực, tôm bóc vỏ, tép moi, ruột hầu hà ) rửa sạch đưa vào máy xay hoặc băm nhỏ. + Thức ăn tổng hợp: Được chế biến dưới dạng viên ẩm có hàm lượng protein 46%. Đường kính viên thức ăn tuỳ thuộc vào kích thước cá. Cá dài 7  12cm và nặng 4  20g :  thức ăn 0,8  1,2mm. Cá dài 13  18cm và nặng 25  60g,  thức ăn 1,5  3mm. Cá dài 18  20cm và nặng 60  100g,  thức ăn 3  5mm. - Lượng thức ăn và cách cho ăn + Lượng thức ăn hàng ngày chiếm từ 8  10% khối lượng cá ương trong lồng. + Khi cho ăn phải rải thức ăn từ từ và đều khắp diện tích mặt lồng. 40
  41. + Số lần cho ăn trong ngày : Cỡ cá 12 cm, cho ăn 4 lần/ngày vào 8, 11, 14 và 17 giờ. Cỡ cá 13  18 cm, cho ăn 3 lần/ngày vào lúc 6, 11 và 17 giờ. Cỡ cá 18  20 cm, cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 9 và 17 giờ. g. Thời gian ương Sau 30  40 ngày ương, kiểm tra thấy cá đạt chiều dài 18  20 cm/cá thể, khối lượng 60  100g/cá thể thì chuyển sang nuôi thành cá thương phẩm. 2.3.2.4. Kỹ thuật nuôi cá giò thương phẩm bằng lồng bè trên biển a. Lồng lưới sử dụng nuôi thương phẩm Cỡ lưới thích hợp để nuôi cá giò thương phẩm: Cá cỡ 16  30 cm dùng lưới 2a = 1,5 cm Cá cỡ 30  50 cm dùng lưới 2a = 3  4 cm Cá cỡ trên 50 cm dùng lưới 2a = 6  10 cm b. Tiêu chuẩn cá giống Nguồn cá giống lớn để nuôi thương phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: - Ngoại hình cân đối, khoẻ mạnh, không bi xây xát, không có biểu hiện bệnh lý. - Kích thước: Cá có chiều dài toàn thân không được < 18cm, khối lượng không < 60g. - Màu sắc: Cá màu nâu sáng, 2 dải trắng bạc dọc theo chiều dài thân rất rõ nét (cá trắng bệch hoặc đen xẫm toàn thân, 2 dải trắng bạc mờ đi không còn trông thấy thì cá đã yếu hoặc mắc bệnh). - Cá linh hoạt thường bơi chìm dưới đáy lồng, cả đàn nhào lên rất nhanh khi thả một ít thức ăn (trường hợp cá đã ăn trước đó 2 hoặc 3 giờ trở lên). c. Thả cá giống - Thả vào mỗi lồng cá có cùng nhóm chiều dài, mỗi nhóm chiều dài gồm những cá thể lớn hoặc kém nhau không quá 3cm. - Trước khi thả phải tắm cho cá để phòng bệnh. Sử dụng thuốc tím (KMnO4) nồng độ 5ppm, tắm trong thời gian 15  20 phút để diệt mầm bệnh. d. Mật độ nuôi - Cá dưới 20cm có thể nuôi 30  50con/1m3. Sau đó san thưa dần mật độ theo thời gian nuôi. Chú ý : Cá giò có thể chịu đựng được ở mật độ tối đa 10kg cá/1m3 lồng trong điều kiện nơi đặt lồng có dòng chảy thích hợp. e. Chăm sóc và quản lý * Cho ăn - Loại thức ăn 41
  42. + Thức ăn là cá tạp hoặc giáp xác tươi (cá trích, cá cơm, cá đù, cá liệt, mực, cua, ghẹ ) rửa sạch. Thời kỳ đầu cá tạp được băm thành cỡ 1  3cm tuỳ theo cỡ cá nuôi, khi cá trên 2kg/con trở lên có thể cho cá ăn cá tạp cỡ 1015cm (để nguyên con). + Thức ăn hỗn hợp : Có hàm lượng protein 42%. Dùng máy đùn viên dạng sợi ẩm, đường kính sợi khác nhau tuỳ theo kích cỡ cá nuôi : Nhóm cá 90  200g/cá thể, đường kính sợi thức ăn là 5mm. Nhóm cá 200  800g/cá thể, đường kính sợi thức ăn là 8mm. Nhóm cá trên 800g/cá thể, đường kính sợi thức ăn là 10mm. + Khi cá đạt trọng lượng 2kg/con trở lên đường kính sợi thức ăn là 2cm cá mới bắt mồi hiệu quả. Trường hợp không có máy đùn viên cỡ to như vậy thì ta cho cá ăn cá tạp nếu không sẽ ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của cá, hệ số thức ăn sẽ cao dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. + Nếu có điều kiện có thể nuôi thêm cá dìa (Siganus spp) cỡ 5  8cm vào lồng nuôi cá giò làm mồi sống cho cá ăn. - Lượng thức ăn và số lần cho ăn + Cá dưới 1kg : Lượng thức ăn hàng ngày bằng 8% khối lượng cá nuôi. Cho ăn 2 lần vào lúc 9 và 17 giờ. + Cá dưới 2kg : Lượng thức ăn hàng ngày bằng 5% khối lượng cá nuôi. Cho ăn 2 lần vào lúc 9 và 17 giờ. + Trước khi cho ăn gõ nhẹ vào khung lồng để tạo phản xạ bắt mồi cho cá. Rải thức ăn từ từ và đều khắp diện tích mặt lồng nuôi. Chú ý : Mùa đông khi nhiệt độ xuống dưới 180C mỗi ngày chỉ cho cá ăn 1 lần. Nếu nhiệt độ xuống dưới 150C phải dừng việc cho ăn. * Quản lý lồng nuôi - Trên miệng các lồng nuôi phải căng lưới che kín để cá không vượt ra ngoài. - Hàng ngày theo dõi tình trạng hoạt động và mức độ bắt mồi của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Sau 1 giờ cho cá ăn, kiểm tra nếu thấy thức ăn còn thừa ở dáy lồng, cần vớt bỏ để tránh gây nhiễm bẩn môi trường nuôi. - Hàng tháng tiến hành phân lọc cá thể theo từng nhóm kích thước. Nuôi riêng để tránh cá lớn tranh cá bé. - Nếu thấy môi trường xấu, cá kém ăn, hoặc xuất hiện dịch bệnh cần có biện pháp xử lý kịp thời. - Thường xuyên kiểm tra lông nuôi, nếu lưới bị rách cần được sửa chữa ngay, hoặc chuyển cá sang lồng khác. - Khoảng 2  3 tháng làm vệ sinh lưới 1 lần. - Khi có bão, hoặc khu vực nuôi môi trường bị nhiễm bẩn cần di chuyển bè tới nơi khác để đảm bảo an toàn. f. Phòng trị một số bệnh thường gặp 42
  43. - Trong quá trình nuôi, phải luôn giữ cho môi trường nước sạch sẽ, lồng lưới thông thoáng. - Chỉ được phép sử dụng thức ăn hỗn hợp hoặc thức ăn tươi, không cho cá ăn thức ăn ươn. - Định kỳ 2 tháng tắm cho cá 1 lần bằng dung dịch thuốc tím (KMnO4) nồng độ 5ppm trong thời gian 15  20 phút. - Khi phát hiện thấy cá có bệnh, cần nhốt cách ly, xác định rõ bệnh và có biện pháp chữa trị phù hợp. - Tất cả các cá chết đều phải vớt lên và xử lý diệt trùng, không vứt ra biển tạo điều kiện cho bệnh lan truyền. g. Cách phòng trị một số bệnh thường gặp * Bệnh ký sinh trùng sán lá và ký sinh trùng giáp xác - Dấu hiệu bệnh lý Thân cá tiết nhiều chất nhờn, cá trắng nhợt hoặc đen thẫm hơn với cá bình thường. Hai mắt cá sưng, lồi, màu đỏ hoặc màu trắng đục, cá bị nặng có thể bị lở loét cả vùng mắt. Mũi, mang, miệng, mắt và vây cá xuất hiện một số ký sinh trùng như: Trichodia, Caligus sán lá đơn chủ (mò giáy). - Cách chữa trị Tắm cho cá bằng nước ngọt trong thời gian 15  20 phút cho ký sinh trùng rời ra sau đó tắm bằng dung dịch thuốc tím nồng độ 5  10ppm thời gian 10 phút. Cứ 7 10 ngày tắm 1 lần cho đến khi cá khỏi bệnh. * Bệnh đốm đỏ (bệnh lở loét) - Dấu kiệu bệnh lý Thân, gốc, vây lưng, đuôi của cá có nhiều vết đỏ lở loét. Tia vây lưng, vây đuôi bị rách, cụt dần, cá bị hoại tử từng phần. - Cách chữa trị Dùng 10ppm dung dịch thuốc tím (KMnO4) để rửa sạch vết thương cho cá sau đó bôi thuốc mỡ, điều trị liên tục trong 3 ngày. * Bệnh viêm ruột - Dấu hiệu bệnh lý Cá kém ăn, bơi lờ đờ gần mặt nước, đôi khi thân cá xoay tròn, đầu hướng lên trên. Bụng cá bị trướng, da nhợt, thân có nhiều nhớt. Khi giải phẫu thấy gan cá tái nhợt, đầu lá gan bầm tím, mặt sưng, thận viêm nhũn, dạ dày và ruột không có thức ăn, chứa dịch vàng xẫm. - Cách chữa trị Trộn thuốc Streptomycin vào thức ăn với liều 20  25mg/kg cá/ngày. Cho ăn liên tục trong 1 tuần. 43
  44. Sử dụng 2kg cỏ sữa và 1kg rau sam tươi với nước, đun kỹ trong 2 giờ, sau đó chắt nước trộn vào thức ăn cho 100kg cá hoặc 2 vạn cá giống. Mỗi tuần tiến hành 1 đợt, mỗi đợt điều trị liên tục trong 2  3 ngày cho tới khi cá khỏi bệnh. * Bệnh viêm thận Loại bệnh này chưa thấy xuất hiện ở nước ta nhưng đã có ở Đài Loan năm 1999 trong 1 trại nuôi cá lồng bè ở Penghu nuôi 55.000 con cá giò cỡ 30  40g/con, thả giống ngày 16/8/1999, sau 1 tháng nuôi đến 22/9 kiểm tra lại chỉ còn 5.500 con (tỷ lệ tử vong 90%). Nguyên nhân là do 1 loài vi khuẩn trong giống Sphaerospora gây ra bệnh, hiện chưa có thuốc điều trị. Quan sát bên ngoài cá bệnh tương đối bình thường nhưng phải phẫu thuật ra thấy cơ quan bài tiết của cá kể cả thận và ống tiết liệu đều bị viêm tấy lên, to gấp 3 lần bình thường và bị tổn thương. h. Thu hoạch và vệ sinh lồng bè - Sau 1,5  2 năm nuôi, cá có khối lượng 5  10kg/cá thể thì có thể thu hoạch toàn bộ. - Thời gian thu hoạch tốt nhất từ giữa tháng 5  9 (Thừa Thiên - Huế trở ra Bắc) là thời gian nhu cầu thị trường đang cao và mùa dịch bệnh ở cá giò chưa xuất hiện. - Khi thu phải kéo lưới lên, dùng sào luồn dưới đáy lồng để dồn cá vào một góc, rồi dùng vợt bắt cá con. Thao tác nhanh, nhưng nhẹ nhàng để tránh tổn thương cho cá. - Mỗi lần chỉ bắt 1  2 con. - Thu hoạch xong phải tiến hành làm vệ sinh lại lồng, bè (lưới, phao, khung bè ) cho sạch sẽ. Lưới được phơi khô và bảo quản nơi khô ráo. Bài 3: kỹ thuật nuôi cá đù đỏ Tên khoa học : Sciaenops ocellata Linné, 1766. Tiếng Anh : Red Drum hoặc Red Crocker Tiếng Việt : Cá đù đỏ Mỹ, cá hồng Mỹ Hình 7. Cá đù đỏ (Sciaenops ocellata Line', 1766) 3.1. Đặc điểm sinh học 44
  45. 3.1.1. Phân bố Cá đù đỏ là loài cá rộng muối, rộng nhiệt phân bố ở Tây Thái Bình Dương Masschusetts ở Mỹ đến phía bắc Mêhicô, bao gồm cả nam Plorida, Mỹ. ở Việt Nam đã di giống cá đù đỏ Mỹ từ Trung Quốc và được nuôi ở Cát Bà (Hải Phòng). Chúng sống vùng ven bờ, vùng đá ngầm ven bờ, nơi có dòng nước ấm (Watanabe. T et al, 1996). Cũng có thể thấy chúng sống ở các vùng đáy cát, đá cứng, vùng hỗn hợp bùn cát hoặc vùng đá san hô chết. Phân bố ngang thì chúng sống từ đáy ven bờ cho đến các rạn đá hoặc bãi san hô chết ở độ sâu tới 50  60m nước. Cũng có loài ban đầu ở các vùng cửa sông phát triển lớn hơn chuyển ra các vùng nước sâu hơn, có khi tới độ sâu 150m nước (FAO, 1991). Cá đù đỏ sống thành đàn, phân bố phạm vi rộng, khi trưởng thành thường đi đến những vùng cửa sông và vùng biển nông để sinh sản. Nhiệt độ thích hợp là từ 10  300C, thích hợp nhất là từ 18  250C. Cá đù đỏ có thể sinh sống ở cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn. 0 Đặc điểm môi trường sống: Có thể thích ứng độ mặn từ 0- 32 /00 . Sống vùng cửa sông và ven bờ có nhiều cát, cát bùn, độ sâu 10m. 3.1.2. Hình thái, cấu tạo Cơ thể có hình thon dài, thân hơi tròn lưng có gồ cao lên, chiều dài thân bằng 3,9  4,2 lần chiều cao. Màu thân từ màu xanh nâu trên lưng đến nâu bạc ở bụng. Vây đuôi màu tối. Khoảng cách giữa mắt và đầu không có vẩy, bộ phận đầu trừ mõm, xương trước mắt và xương dưới mắt ra đều có vẩy. Mắt trung bình, miệng rộng ở phía trước, hơi thấp và hơi lệch phía dưới, môi mỏng, có thể co duỗi được. Chúng có từ 4- 6 răng nanh nhọn sắc, một số ít là răng cắt ở phía trước hàm và cả ở đằng trước của mỗi hàm, tiếp đod là nhiều hàng răng chóp hoặc răng tròn phía sau thì nở rộng thành răng cấm sau này sẽ to dần lên như răng và trải ra thành từ hai đến bốn hàng ngoài là răng rất khoẻ (Zohar al, 1996). Vây lưng liên tục, không có khía lõm, bọ phận gai và tia vây cũng rất nở nang, gai vây lưng to khoẻ, chúng có khoảng 10- 13 tia gai cứng, từ 9- 17 tia vây mềm. Vây hậu môn có 3 tia gai. 3.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng Các loài trong họ cá Đù đều là cá dữ, ăn đáy, chúng chủ yếu dinh dương bằng các động vật không xương sống như thân mềm (Mollusca), giáp xác (Crustacea), giun nhiều tơ (Plychaeter), kể cả cá nhỏ (FAO, 1995). . Khẩu phần ăn hàng ngày của cá đù đỏ là tương đối lớn chiếm khoảng 11  14% khối lượng cơ thể. Thời gian chuyển hoá thức ăn là 4 giờ với loại thức ăn là cá tạp và 6 giờ với loại thức ăn hồn hợp. Hệ số thức ăn của cá chiếm khoảng 9  12%. Cá Đù cũng như hầu hết các loài cá biển khác, ấu trùng của chúng thức ăn đầu tiên đều là động vật phù du như: luân trùng (Brachionus plicatilis), chân chèo biển (Copepoda). ấu trùng khi đạt chiều dài cơ thể lớn hơn 4 mm thức ăn ưa thích là Rotifer và tiếp tục đến sau 30 ngày kể từ khi nở. ấu trùng có chiều dài đạt 12 mm thường ăn Copepoda như: Tigriopus, Arcatia, Oithoina, Paracalanus (Sheperd, J.,Bromage, N., 1996). 45
  46. 3.1.4. Đặc điểm sinh trưởng Tốc độ tăng trưởng của cá phụ thuộc vào khu vực nuôi, theo Henderson- Anzapolo, 1995 tại các trang trại ở Florida và vịnh Mexicco cá Dù đỏ có thể đạt 1- 2 kg trong thời gian 14- 22 tháng, nhưng nếu như nuôi trong khu vực nhiệt đới thì tốc độ tăng trưởng của nó sẽ tăng lên rất nhiều. Tốc độ tăng trưởng của cá còn phụ thuộc vào mật độ nuôi, thời gian nuôi, loại thức ăn và cỡ cá thả ban đầu. Chẳng hạn như cỡ cá giống 120g, thả ở lồng với mật độ 30  60 con/m3, tốc độ tăng trưởng trung bình là 800g/con trong vòng 6  7 tháng nuôi (Israel). Với mật độ nuôi 140 con/m3, cá có thể đạt 750g con nuôi trong thời gian 10  14 tháng và cho ăn bằng thức ăn cao đạm (Pillay T.V.R, 1995). 3.1.5. Đặc điểm sinh sản Cá đù đỏ, thành thục ở tuổi 3+  4+. Tuy nhiên cũng đã có nghiên cứu cho thấy chúng có thể thành thục sớm hơn sau 19 tháng tuổi (Amold, 1991). Gần đến giai đoạn thành thục chúng thường không ăn hàng ngày mà chỉ ăn 3 lần/tuần. Mỗi cá thể thành thục hơn 1 lần/năm . Sức sinh sản của loài cá này cũng rất lớn, một cá cái 11  14kg có thể đẻ 0,5 triệu trứng/lần và đạt 1  3 triệu trứng/năm (Colara et al, 1991). Cá đù đỏ thường đẻ vào mùa thu và phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố môi trường như : Nhiệt độ nước, tốc độ dòng chảy và thủy triều (Colara et al, 1991). Khi cá đực và cá cái thành thục sẽ tách đàn và ngừng ăn 1 tuần trước khi đẻ. Khi cá cái thành thục sinh dục, nó sẽ gia tăng các hoạt động sinh dục đối với cá đực. Cá đực và cá cái chín mùi sinh dục bơi lội thành cặp, thường xuyên ở tầng mặt khi sắp đẻ trứng. Cá đẻ thành nhiều đợt trong ngày, thời gian đẻ trứng vào lúc chiều tối (19  23h) (Colara et al, 1991). 3.2. Kỹ thuật sản xuất giống cá Đù mỹ 3.2.1. Nuôi vỗ cá bố mẹ và cho đẻ Nuôi vỗ cá bố được tiến hành ở lồng lưới trên biển, tuyển chọn cá > 4 tuổi để nuôi vỗ. Lồng nuôi có kích thước 3m x 3m x 3m, mật độ nuôi 25  30 con. Thức ăn là cá tạp có bổ sung thêm vitamin và axit béo không no. Thời gian nuôi từ tháng 6  9 hàng năm. 3.2.2. Cho cá đẻ * Chuẩn bị bể đẻ Bể cho cá đẻ tốt nhất là hình tròn, thể tích từ 50  150 m3, chiều cao 2,5m. Bể có 1 ống cấp nước vào nằm trên rìa đáy bể để khi cấp nước sẽ chảy thành dòng xoáy. Đáy bể dốc về tâm, chính giữa tâm là ống thoát nước, trước khi cho cá đẻ phải cấp đầy nước vào bể đẻ. Nước cho cá đẻ không cần lọc qua cát, chỉ cần để lắng là được và lắp mỗi bể từ 6  10 vòi sục khí mạnh. * Chọn cá cho đẻ - Cá cái: 46
  47. + Dùng ống thăm trứng đường kính luồn sâu vào lỗ sinh dục rồi hút trứng ra, thấy trứng tròn đều nhau trứng phải rời nhau, hạt trứng căng, tròn đều Màng trứng rõ ràng, nhân hơi lệch về phía cực động vật. - Cá đực : Dùng tay vuốt nhẹ từ phía bụng xuôi về phía lỗ sinh dục nếu thấy sẹ sẹ màu trắng đục như sữa chảy ra, tan nhanh trong nước là có thể lựa chọn cho đẻ. * Tiêm kích dục tố Thường sử dụng kết hợp 2 loại thuốc để tiêm với liều lượng HCG 500IU và LRH-a 20mg/kg cá cái, với cá đực liều lượng giảm 1/2 so với cá cái. - Vị trí tiêm : Có thể tiêm vào gốc vây ngực hoặc cơ lưng đều được, thường tiêm vào cơ lưng sẽ an toàn hơn vì tránh sự cố chọc quá sâu mũi kim tiêm vào xoang bao tim của cá. 3.2.3. Thu trứng, tách trứng và ấp trứng - Thu trứng : Dùng vợt có mắt lưới từ 250  300 vớt hết trứng trong giai và bể đẻ (chú ý không để trứng quá lâu trong vợt ở trên không khí, trứng vớt phải được thả ngay vào thùng đựng trứng để trong bang dâm hoặc tối và có sục khí). 0 - Tách trứng : Trứng đang từ bể đẻ độ mặn 30- 32 /00 , đưa trứng cá vào nước có độ 0 muối từ 35  36 /00, những trứng tốt ( trứng trương nước tốt, có kích thước giọt dầu lớn ) sẽ nổi lên, vớt lớp trứng nổi trên bề mặt nước, những trứng chìm và ở sâu trong tầng nước là trứng xấu cần loại bỏ. Làm lặp lại động tác tách trứng như vậy trong 3  4 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ đến khi loại bỏ toàn bộ trứng kém chất lượng, chỉ còn lại trứng tốt để đưa vào bể ấp. 0 0 - ấp trứng : Nước ấp trứng ban đầu có độ muối 35  36 /00, pH: 8  8,5, T C = 24  0 28 C. Mật độ ấp 400  500 trứng/l, sục khí nhẹ và liên tục 24/24 trong quá trình ấp 0 trứng, cấp nước 30  32 /00 liên tục vào bể nên khi trứng nở, độ muối giảm xuống chỉ 0 còn 28  32 /00 bằng độ mặn bể ương và có thể chuyển sang các bể ương đã chuẩn bị sẵn. Chú ý trong suốt quá trình vớt trứng, tách trứng, ấp trứng và san cá bột phải đảm bảo cân bằng nhiệt độ để phôi phát triển bình thường, hạn chế tỷ lệ dị hình dị tất ấu trùng. 3.2.4. Phương pháp ương nuôi cá Đù đỏ từ bột lên giống * Chuẩn bị bể ương Ương cá trên các bể nhựa composite hình trụ tròn hoặc hình chữ nhật có thể tích 3  10m3, có hệ thống cấp thoát nước, chiếu sáng, sục khí chú ý đầu ống cấp nước vào bể nằm song song với đường giao tuyến giữa thành bể và đáy bể. Đầu ống thoát nước nhô cao cách miệng bể 20cm và lắp trống lọc. Trong khi nuôi nếu mở van cấp nước ta được hình thức nuôi nước chảy, đóng van cấp nước ta được hình thức nuôi nước tĩnh. Bể trước khi ương được sát trùng bằng giaven (dung dịch NaOCl) rồi cọ rửa sạch bằng nước biển lọc. * Xử lý nước ương 47
  48. 0 Nước biển có độ muối 28  32 /00 được bơm lên bể lắng rồi lọc qua cát xuống bể chứa. Trước khi cấp vào bể ương phải được xử lý hoá chất và thuốc kháng sinh sau : - EDTA nồng độ 5ppm cho vào bể xử lý trước khi cấp nước vào bể ương. - Penicilin 0,1ppm cho trực tiếp vào bể ương 2 ngày 1 lần để phòng bệnh. * Mật độ ương : Cá từ 1 đến 5 ngày tuổi ương 25  30 con/lít Cá từ 6 đến 10 ngày tuổi ương 12  15 con/lít Cá từ 11 đến 20 ngày tuổi ương 5  7 con/lít Cá từ 21 đến 30 ngày tuổi ương 4 con/lít Cá từ 31 đến 50 ngày tuổi ương 2 con/lít * Chăm sóc và quản lý bể ương - Cho ăn theo quy trình của Viện Nghiên cứu Thuỷ sản Triết Giang Trung Quốc: Từ ngày đầu đến ngày thứ 15 : Cho ăn luân trùng mật độ 25  40 con/ml. Từ ngày thứ 10 đến ngày thứ 35: Cho ăn Artemia cường hoá mật độ 4  5 con/ml, cho ăn 2 lần/ngày. Từ ngày thứ 25 đến ngày xuất bể ( ngày thứ 50  60 ): Cho ăn thức ăn hỗn hợp chế biến thoả mãn nhu cầu. Duy trì mật độ tảo lục trong nước ương 10  20 vạn tb/ml. * Thay nước : Từ ngày 1  19 nuôi nước tĩnh thay nước 20  80% nước hàng ngày Từ ngày 20 đến khi xuất bể nuôi nước chảy đảm bảo thay 200 - 300% nước hàng ngày. * Siphon các chất bẩn và xác cá chết ở đáy bể vào mỗi buổi sáng hàng ngày.      48 
  49. Hình 8 : Hệ thống bể ương tuần hoàn Ghi chú :  : Bể ương  : Bể chứa nước thải.  : Trống lọc  : Bơm chìm  : Túi lọc.  : ống cấp nước. Sơ đồ tóm tắt Quy trình quản lý chăm sóc bể ương cá dù đỏ áp dụng tại Cát Bà Cholorella, Dunaniella, Mật độ 10  20 vạn tb/ml Luân trùng mật độ 4  5 con/ml ( 2 lần/ngày )Artemia mật độ 4  5 con/ml ( 2  3 lần/ngày ) Thức ăn hỗn hợp thoả mãn nhu cầu 0 5 10 15 20 25 30 35 40 * Thức ăn hỗn hợp tự chế biến ở đây được làm theo công thức sau: Thức ăn CP số 0 đem nghiền nhỏ: 4 kg. Thịt cá tươi xay nhỏ: 2 kg. Tôm tươi xay nhỏ: 1 kg. Vitamine tổng hợp: 2g. Vitamin C: 2g. Chất điện giải cholin chlorite: 2g. Premix khoáng: 5g. Tỏi ăn: 4- 5 củ. Tất cả các nguyên liệu trên đều được xay nhỏ trộn đều, thêm nước đủ độ ẩm rồi tạo viên cỡ từ 0,2- 1 mm. Chú ý: thức ăn chế biến xong phải luôn được bảo quản trong tủ đông để cho cá ăn dần. 3.3. Kỹ thuật nuôi thương phẩm 3.3.1. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá đù đỏ trong ao đầm nước lợ Có 2 phương pháp được áp dụng nuôi cá đù đỏ trong ao đất là: Nuôi đơn và nuôi ghép với cá rô phi. 3.3.1.1. Tiêu chuẩn về lựa chon địa điểm nuôi - Nguồn nước: địa điểm cần có nguồn nước tốt và đầy đủ quanh năm, thông số vvề lý hoá như sau: Thông số Phạm vi cho phép pH 7,5  8,5 49
  50. Oxy hoà tan 4  8 mg/l 0 Độ mặn 10  25 /00 Nhiệt độ 26  32oC NH3 < 1mg/l H2S < 0,3mg/l Độ đục < 10 mg/l - Biên độ thuỷ triều: Vùng tốt nhất cho nuôi cá vược nên có biên độ thuỷ triều vừa phải từ 2  3m, để có thể tháo nước dễ dàng. - Địa hình và chất đất : Nên chọn nơi có địa hình thuận tiện và chất đất giữ được nước cho ao. Cần tránh những vùng bị nhiễm phèn. - Ngoài ra, một số yếu tố khác như : Khả năng về giống, lao động, trợ giúp kỹ thuật, khả năng về thị trường và điều kiện xã hội thích hợp cũng cần được xem xét khi chọn lựa vị trí. 3.3.1.2. Thiết kế và xây dựng ao Ao nuôi cá Đù đỏ thường có dạng hình chữ nhật, diện tích từ 2000m2 đến 2,0 ha, sâu từ 1,2 - 1,5m, có cống cấp và cống thoát riêng. Đáy ao bằng phẳng và hơi nghiêng về phía cống thoát. 3.3.1.3. Chuẩn bị ao Ao nuôi đơn cũng giống như các ao nuôi khác, sau khi tháo khô diệt tạp, lấy nước và thả cá. Đối với nuôi ghép, sau khi bón vôi cần bón phân hữu cơ (phân gà), lượng bón 1tấn/ha. Tiếp đó nâng dần mực nước ao lên để thức ăn tự nhiên phát triển, khi thức ăn đã phong phú thì thả cá rô phi bố mẹ, mật độ thả 5.000  10.000con/ha, tỷ lệ đực/cái là 1/3. Cá rô phi nuôi 1  2 tháng xuất hiện nhiều cá rô phi con thì thả cá vược giống vào nuôi. 3.3.1.4. Chọn giống và thả giống Cỡ giống phải đồng đều, không bị dị hình, không có dấu hiệu bệnh lý và thả khi trời mát. Đù đỏ giống cỡ 50- 75g/ con. Mật độ 5.000  10.000 con/ha (nuôi đơn) và 2.000  3.000 con/ha (ao nuôi ghép). Trước khi thả cá giống phải được thuần hoá giống với điều kiện môi trường ao nuôi. 3.3.1.5. Chăm sóc và quản lý a. Thức ăn và cách cho ăn Ao nuôi ghép với cá rô phi không cần bổ sung thức ăn, hoặc nếu bổ sung thì chỉ một lượng rất nhỏ. Ao nuôi đơn cần phải cho ăn thức ăn hàng ngày. 50