Chính sách tiền tệ - Tín dụng – ngân hàng đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì lạm phát thấp

pdf 196 trang Gia Huy 24/05/2022 2780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chính sách tiền tệ - Tín dụng – ngân hàng đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì lạm phát thấp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfchinh_sach_tien_te_tin_dung_ngan_hang_dam_bao_tang_truong_ki.pdf

Nội dung text: Chính sách tiền tệ - Tín dụng – ngân hàng đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì lạm phát thấp

  1. HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA NGÂN HÀNG ~~~~~~*~~~~~~ KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA NGÂN HÀNG 2014-2015 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - TÍN DỤNG – NGÂN HÀNG ĐẢM BẢO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG VÀ DUY TRÌ LẠM PHÁT THẤP HÀ NỘI – 04/2015
  2. 1 TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2014 Phạm Thị Linh, K15-NHB Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Do vậy tỷ giá hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giao lưu thương mại với các quốc gia khác. Việc điều tiết tỷ giá hợp lý sẽ tạo ra những lợi thế cạnh tranh nhất định cho hàng hóa trong nước, giúp cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia. Do vậy chính sách tỷ giá là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Mỗi một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái luôn kéo theo những sự thay đổi trong giá cả hàng hóa, cán cân thương mại, cán cân thanh toán từ đó tác động đến chỉ tiêu lạm phát trong nước. Trong thời gian qua, NHNN Việt Nam đã điều tiết tỷ giá hết sức linh hoạt góp phần hạn chế đáng kể tình trạng đôla hóa, nâng cao niềm tin của người dân Việt Nam vào đồng nội tệ. Chính vì vậy việc nghiên cứu các tác động của tỷ giá hối đoái tới lạm phát là hết sức cần thiết. Do vậy, em đã chọn đề tài: “Tác động của tỷ giá hối đoái tới lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2008-2014” để nghiên cứu. I. Cơ sở lý thuyết 1. Khái niệm 1.1. Chính sách tỷ giá Theo luật NHNN Việt Nam, năm 2010: “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam.”Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác. Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế của quốc gia. Tại Việt Nam, chính sách tỷ giá có thể coi là một thành phần trong chính sách tiền tệ, bao gồm việc lựa chọn chế độ tỷ giá, các công cụ can thiệp và điều tiết tỷ giá (như mua
  3. 2 bán ngoại hối, điều chỉnh lãi suất, xác lập biên độ dao động tỷ giá, phá giá/nâng giá đồng nội tệ, sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối v.v ) để tác động đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối và đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền; khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và góp phần vào tăng trưởng kinh tế. 1.2. Lạm phát Hiện nay, có nhiều khái niệm về lạm phát, tuy nhiên các định nghĩa về lạm phát được đưa ra thường tiếp cận từ hai khía cạnh chủ yếu: Xuất phát từ việc xem xét nguyên nhân của lạm phát: “lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá nhiều hàng” hay “lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh năng suất lao động” Xuất phát từ những ảnh hưởng của lạm phát và cũng là cách hiểu phổ biến về lạm phát hiện nay: “lạm phát là sự gia tăng mức giá cả chung của hàng hóa dịch vụ theo thời gian”. Sự tăng giá mới chỉ là thể hiện hình thức biểu hiện của lạm phát. Bản chất của lạm phát thể hiện ở tính chất của sự tăng giá: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài 2. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát Chính sách tỷ giá và lạm phát có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, song hành với những sự biến động tỷ giá luôn kéo theo những sự thay đổi của lạm phát. Tuy nhiên tỷ giá không trực tiếp tác động đến lạm phát mà chỉ gián tiếp tác động thông qua 3 kênh chính là xuất nhập khẩu ròng, cán cân thanh toán và giá hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, việc tác động của tỷ giá đến lạm phát thông qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế thì mọi nền kinh tế mở đều tuân theo, nhưng riêng với giá hàng nhập khẩu thì chỉ có những quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu cao so với GDP mới có tác dụng rõ rệt. Tổng cầu nền Xuất khẩu ròng kinh tế (AD) T ỷ giá Cán cân thanh Mức cung tiền Lạm phát (M2) danh nghĩa toán (BP) Giá hà hậ khẩ
  4. 3 Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất nhập khẩu ròng. Khi tỷ giá E tăng lên (nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài) làm giá hàng hóa xuất khẩu giảm, giúp tăng cường sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia, tăng số lượng hàng hóa xuất khẩu. Nếu tốc độ tăng của số lượng hàng hóa nhanh hơn tốc độ giảm giá hàng hóa, xuất khẩu ròng sẽ tăng lên, tổng cầu của nền kinh tế (AD) tăng lên, đường AD dịch chuyển sang phải trong mô hình AD-AS, làm giá hàng hóa tăng lên tác động làm lạm phát gia tăng. Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát thông qua cán cân thanh toán. Khi nội tệ giảm giá so với ngoại tệ, cán cân thương mại sẽ được cải thiện do xuất nhập khẩu ròng tăng lên. Xuất nhập khẩu ròng tăng làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, cán cân thương mại được cải thiện tác động làm đường IS dịch chuyển sang phải trên mô hình IS-LM, lãi suất trong nước tăng lên, luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào trong nền kinh tế nhiều hơn, thêm một tác động nữa làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra: Một là NHTW muốn giữ cho tỷ giá thấp nhằm duy trì lợi thế về cạnh tranh thương mại cho quốc gia, khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, đồng thời gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Như vậy, NHTW buộc phải mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đồng nghĩa với việc có thêm một lượng nội tệ được đưa vào lưu thông. Lượng cung tiền tăng lên làm cho lạm phát sẽ tăng lên. Hai là, NHTW không vì mục tiêu giữ cho đồng nội tệ được định giá thấp khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu và ngoại hối đã đủ mức cần thiết thì vẫn có một lượng ngoại tệ được đưa thêm vào nền kinh tế. Với những nền kinh tế bị đôla hóa ở mức cao tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế vãn tăng lên và tạo áp lực đẩy lạm phát tăng lên. Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát thông qua giá hàng nhập khẩu. Hàng hóa nhập khẩu vào trong nước bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố là giá hàng nhập khẩu và tỷ giá danh nghĩa. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng làm cho giá hàng hóa nhập khẩu cũng tăng theo và ngược lại. Nếu hàng nhập khẩu là các nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất thì sẽ làm cho chi phí của doanh nhiệp bị đẩy lên cao, khiến sản phẩm đầu ra cũng tăng giá dẫn tới lạm phát chi phí đẩy. Nếu hàng nhập khẩu phục vụ mục đích tiêu dùng trong nước thì
  5. 4 tỷ giá tăng cũng khiến cho giá cả hàng hóa tính bằng nội tệ bị đẩy lên đây cũng chính là nguyên nhân gây ra lạm phát.Tuy nhiên, ảnh hưởng này chỉ rõ rệt đối với những nước có tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu cao, còn với những nước có tỷ trọng hàng nhập khẩu thấp thì tác động này là không đáng kể. Ngoài ba kênh dẫn truyền trên lãi suất nội tệ cũng tác động tới lạm phát kỳ vọng. Trên cơ sở xác định lãi suất là kỳ vọng trung bình của nhà đầu tư về lạm phát và lãi suất thực dương. Việc điều chỉnh tỷ giá liên lục của NHTW có thể khiến cho lãi suất huy động bằng nội tệ tăng cao, đẫn đến nhà đầu tư và dân chúng kỳ vọng nội tệ sẽ giảm giá trong tương lai, gây ra vòng xoáy lạm phát- tỷ giá. II. Thực trạng tác động của tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014 Đồ thị 1: Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2008- 2014 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam Trong giai đoạn 2008-2014, lạm phát của Việt Nam có những biến động rất mạnh. Lạm phát hai lần đạt đỉnh điểm ở mức hai con số là 22.97% vào năm 2008 và 18,75% vào năm 2011. Từ năm 2008 đến năm 2011 lạm phát dao động mạnh và có xu hướng đảo chiều liên tục. Tuy nhiên, kể từ năm 2011 trở đi lạm phát đã giảm nhẹ và xu hướng ổn định trở lại. Sự thay đổi tích cực này một phần là nhờ sự thay đổi đáng kể trong cơ chế điều chỉnh tỷ giá của NHNN từ cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh sang cơ chế neo tỷ giá cố định. Do vậy, tác động cụ thể của tỷ giá hối đoái tới lạm phát được trình bày qua hai giai đoạn “từ 2008 đến 2011” và “từ 2012 đến 2014”.
  6. 5 1. Giai đoạn 2008-2011 Đồ thị 2: Chỉ số lạm phát và tỷ giá bình quân liên ngân hàng giai đoạn 2008-2011 Nguồn: và Bảng 1: Các lần điều chỉnh biên độ tỷ giá giai đoạn 2008- 2011 Thời gian Biên độ tỷ giá 23/12/2008 đến 09/03/2008 +/- 0,75% 10/03/2008 đến 25/06/2008 +/- 1% 26/05/2008 đến 05/11/2008 +/- 2% 06/11/2008 đến 23/03/2009 +/- 3% 24/03/2008 đến 25/11/2009 +/- 5% 26/11/2009 đến 11/02/2011 +/- 3% Từ 11/02/2011 +/- 1% Nguồn: Trong giai đoạn 2008-2011 tỷ giá USD/VND có những biến động phức tạp và khó lường. Năm 2008 chứng kiến những biến động đảo chiều mạnh mẽ của tỷ giá, đầu năm tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm từ mức 16.112 đồng xuống còn 15.960 đồng, trên thị trường tự do USD cũng dao động từ mức 15.700-16.000 đồng. Nguyên nhân là do nguồn cung ngoại tệ từ các dòng vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Mặc dù tỷ giá giảm nhưng trong 4 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tăng vọt đạt đỉnh
  7. 6 điểm vào tháng 2 với mức tăng 3,96% so với tháng 1. Ảnh hưởng của tỷ giá đến lạm phát thời điểm này không rõ rệt vì trong giai đoạn này giá lương thực tăng cao do khủng hoảng lương thực dẫn đến lạm phát tăng mạnh. Trong những tháng tiếp theo, tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân tạo nên tình trạng găm giữ ngoại tệ cùng với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài đột ngột đảo chiều đã tạo nên cơn sốt USD trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do. Tỷ giá đã tăng chóng mặt đỉnh điểm lên tới 19.400 đồng/USD. Tỷ giá tăng, đồng thời giá xăng dầu cũng tăng đã làm ảnh hưởng tới chi phí của hàng loạt doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, dẫn tới giá cả của hàng loạt mặt hàng tăng lên. Cùng với ảnh hưởng của giá lương thực tăng chưa chấm dứt, chỉ số CPI tiếp tục có đợt leo dốc, CPI tháng 8 tăng 1,56% so với tháng 7. Sau đó nhờ sự can thiệp của NHNN bằng các biện pháp như công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD, kiểm soát chặt việc thu đổi ngoại tệ, tỷ giá đã ổn định trở lại quanh mức 16.600 đồng. Cuối năm 2008, tỷ giá tăng trở lại 17.400 đồng do nhu cầu mua USD tăng lên của nhà đầu tư ngoại. Kết thúc năm 2008, lạm phát của Việt Nam ở mức cao kỷ lục 19,89% so với tháng 12/2007, điều này đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ tới niềm tin của người dân vào đồng nội tệ, dẫn tới việc dân chúng cũng như doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ đây là yếu tố chính khiến cho tỷ giá tăng trong năm 2009. Bước sang năm 2009, tỷ giá USD/VND lại tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên thị trường tự do tiến sát mức 18.000 đồng. Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, chính phủ đã thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế như gói kích cầu 1 tỷ USD thông qua việc hỗ trợ lãi suất vay ngắn hạn 4% cho doanh nghiệp làm tăng cung tiền, lượng kiều hối kém khả quan làm giảm cung USD trên thị trường ngoại hối dẫn đến tỷ giá tăng. Cuối năm 2009, tỷ giá ổn định về mức 18.500 đồng. Mặc dù VND mất giá so với USD, tuy nhiên đồng USD cũng bị suy yếu do khủng hoảng, cán cân thương mại của Việt Nam năm 2009 bị thâm hụt 12 tỷ USD. Trong khi cung tiền tăng, tỷ giá tăng nhưng lạm phát của Việt Nam năm 2009 chỉ ở mức 6.68%, một phần do giá lương thực ổn định trở lại, một phần do việc ảnh hưởng của gia tăng cung tiền đến lạm phát phải có độ trễ nhất định. Ngày 10/2/2010, NHNN công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND tăng hơn 3% so với trước đó, đưa mức giá trần theo quy định lên 19.100 VND/USD. Chính nguyên nhân
  8. 7 này cộng hưởng với việc giá xăng dầu, giá điện nước cùng tăng giá khiến cho CPI tháng 3/2010 tăng 4,12% so với năm 2009. Trong 5 tháng tiếp theo, chỉ số giá tiêu dùng tăng rất thấp có khi về sát mức 0% nhờ hiệu quả của các chính sách vĩ mô như việc sử dụng tốt quỹ bình ổn giá xăng dầu. Ngày 18/8, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 18.932 đồng/USD (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên độ tỷ giá +/-3%. Tỷ giá tăng cùng với tác động của việc tăng trưởng cung tiền trong năm 2009 phát huy tác dụng đẩy lạm phát 3 tháng cuối năm 2010 leo dốc, chỉ số CPI tháng 12 tăng 11,75% so với cùng kỳ năm 2009. Năm 2011, do áp lực từ lạm phát cùng yếu tố tâm lý thị trường khi NHNN chưa điều chỉnh tỷ giá thì các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như người dân tìm cách găm giữ USD, tháng 2 NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 8.5% từ 18.932 lên 20.693 đồng, và biên độ dao động giảm từ +/-3% xuống còn +/-1%. Sau quyết định này NHNN tiếp tục nâng lãi suát tái cấp vốn thêm 2% lên mức 11% thể hiện quyết tâm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Kết quả lạm phát đã có xu hướng tăng chậm lại ở mức trên dưới 2% trong những tháng tiếp theo. Trong năm NHNN cũng ban hành khá nhiều biện pháp quyết liệt để giữ ổn định tỷ giá như kiểm soát chặt chẽ thị trường tự do, đưa ra thông điệp cam kết điều chỉnh tỷ giá USD/VND không quá 1% từ tháng 9 cho đến hết năm. Các biện pháp của NHNN đã cho những kết quả tích cực khi đã góp phần ổn định tỷ giá cuối năm 2011 và những tháng đầu năm 2012. Tỷ giá USD/VND trong giai đoạn này có những biến động rất mạnh, cuối năm 2011 tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã tăng tới 22,27% so với thời điểm năm 2008. Biên độ tỷ giá cũng được điều chỉnh tới 7 lần trong bốn năm. Đồng VND mất giá mạnh so với USD đã khiến giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu của nhiều ngành sản xuất tăng nhanh, tạo áp lực lạm phát chi phí đẩy. Thêm vào đó lòng tin của người dân vào đồng nội tệ suy giảm dẫn đến việc luôn kỳ vọng vào sự mất giá của VND làm tình hình lạm phát thêm trầm trọng. 2. Giai đoạn 2012-2014
  9. 8 Đồ thị 3: Chỉ số lạm phát và tỷ giá bình quân liên ngân hàng 2012-2014 Nguồn: và Năm 2012, tỷ giá USD/VND khá ổn định nhờ sự điều hành rất thành công chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam. Đầu năm 2012, NHNN đưa ra cam kết mạnh mẽ sẽ không điều chỉnh quá 2-3% trong cả năm. Nửa đầu năm 2012, tỷ giá khá ổn định với chiều hướng tăng nhẹ 0.55%, tỷ giá giao dịch ở các NHTM ở mức 20.860 - 20.920 VND/USD. Nhờ tỷ giá ổn định mà CPI trong 6 tháng đầu năm tăng rất chậm thậm chí tháng 6 và tháng 7 còn ở mức -0.26% và -0.29%. Nửa cuối năm 2012, tỷ giá có xu hướng giảm nhẹ và chênh lệch giữa thị trường chính thức và thị trường tự do thu hẹp lại chỉ còn 70 VND/USD. Theo đó, lạm phát trong những tháng cuối năm có xu hướng tăng nhẹ lạm phát tháng 9/2012 ở mức 2,2% sau đó hạ nhiệt trong những tháng tiếp theo. Kết thúc năm 2012, lạm phát tháng 12 ở mức 6,81% đạt mục tiêu của Quốc hội đề ra đầu năm. Tiếp tục những kết quả khả quan đã đạt được trong năm 2012, năm 2013 NHNN tiếp tục đưa ra cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 2-3%. Việc đưa ra thông điệp tỷ giá rõ ràng ngay từ đầu năm đã giúp các tổ chức kinh tế và cá nhân tránh được một trong những rủi ro lớn nhất là bất ổn tỷ giá thường ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị VND, qua đó ảnh hưởng đến giá cả các mặt hàng và tác động tâm lý. NHNN đã điều chỉnh tỷ giá dựa trên việc tính toán tỷ giá thực, chủ yếu dựa trên cán cân thanh toán quốc tế và mục tiêu chính sách tiền tệ, đưa ra mức lãi suất có lợi cho người gửi VND, giúp hạn chế tình trạng găm
  10. 9 giữ ngoại tệ trong dân chúng. Giữa năm 2013, lãi suất VND tiếp tục có xu hướng hạ xuống, trong khi thị trường ngoại tệ có những diễn biến bất thường, giá vàng thế giới giảm đã khiến cho dân chúng lại tiếp tục găm giữ USD, tạo áp lực tỷ giá tăng, ngày 28/6/2013 NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 20.828 VND/USD tăng 1% lên mức 21.036 VND/USD. Năm 2013, lạm phát của Việt Nam chỉ còn 6,6%, mức lạm phát thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Diễn biến tỷ giá năm 2014 lại tiếp tục ổn định nhờ các biện pháp điều hành nhất quán kết hợp đồng bộ giữa chính sách tỷ giá, lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ, quản ký ngoại hối. Năm 2014, NHNN tiếp tục đưa ra cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 2%. Chỉ số CPI năm 2014 chỉ có 4,09% Trong giai đoạn 2012-2014, NHNN Việt Nam thực hiện cơ chế tỷ giá neo cố định. Trong giai đoạn này tỷ giá có ít sự biến động hơn hẳn so với giai đoạn 2008-2011, biên độ tỷ giá được giữ cố định là +/-1%. Sự ổn định của tỷ giá góp phần không nhỏ khiến cho lạm phát trong giai đoạn này có xu hướng giảm nhẹ và luôn ở mức 1 con số. 3. Nhận xét Trong giai đoạn 2008-2011, cơ chế điều hành tỷ giá đã bộc lộ nhiều nhược điểm và đã tác động không nhỏ tới tình hình kinh tế nói chung và tình hình lạm phát nói riêng: - Diễn biến tỷ giá không theo sát tín hiệu trên thị trường dẫn đến chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức quá lớn có khi lên đến hàng nghìn đồng. - Mặc dù VND đã mất giá rất mạnh so với USD tuy nhiên điều này không hỗ trợ được nhiều cho xuất khẩu khi mà các quốc gia khác cũng phá giá nội tệ của họ để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. - Việc phá giá nội tệ đã gây tác dụng ngược khi mà giá hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ, khiến chi phí đầu vào của nhiều doanh nghiệp gia tăng do 70-80% nguyên liệu đầu vào của nước ta vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu, dẫn đến gia tăng lạm phát chi phí đẩy. - Trong giai đoạn này, NHNN thực hiện cơ chế neo tỷ giá với biên độ dao động được điều chỉnh, chính điều này đã góp phần gia tăng thêm lạm phát ở nước ta. Để thực hiện việc neo giữ tỷ giá NHNN đã chấp nhận mức lạm phát cao hơn, khi lạm phát
  11. 10 cao NHNN phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm lãi suất nội tệ tăng, dẫn đến vòng xoáy tỷ giá- lạm phát- lãi suất- tỷ giá. - Hơn nữa việc NHNN phá giá VND dè chừng đã dẫn đến tâm lý kỳ vọng chờ đợi sự phá giá tiếp của NHNN khiến cho tỷ giá liên tục tăng do tình trạng găm giữ ngoại tệ. Chính điều này làm trầm trọng thêm tình trạng đôla hóa trong nước và khiến cho tiền đồng bị mất giá trị thêm. Khắc phục những nhược điểm trên, trong giai đoạn 2012- 2014 NHNN đã điều hành chính sách tỷ giá với xu hướng duy trì sự ổn định nhiều hơn và điều này đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, góp phần kiểm soát lạm phát trong nước. - Trong 3 năm liên tiếp NHNN luôn đưa ra cam kết không điều chỉnh tỷ giá với tỷ lệ phần trăm cụ thể tạo lòng tin cho doanh nghiệp và dân chúng vào VND. Hạn chế được đáng kể tình trạng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do. - Tỷ giá ổn định đã góp phần cải thiện đáng kể cán cân thương mại của Việt Nam. Những năm trước đây mặc dù liên tục phá giá VND nhưng cán cân thương mại của Việt Nam vẫn luôn rơi vào tình trạng thâm hụt. Tuy nhiên trong 3 năm trở lại đây, NHNN ít tiến hành phá giá nội tệ hơn, cán cân thương mại của Việt Nam được cải thiện tích cực, năm 2012 thặng dư 749 triệu USD, năm 2013 thặng dư 9,4 triệu USD, năm 2014 xuất siêu khoảng 2 tỷ USD. Điều này chứng tỏ việc tỷ giá ổn định có tác đông tích cực tới xuất khẩu của Việt Nam hơn so với việc phá giá nội tệ, khi phá giá nội tệ sẽ làm giá nguyên liệu đầu vào tăng làm giá hàng hóa sản xuất ra tăng lên khiến hàng hóa trong nước khó cạnh tranh hơn so với hàng hóa nước ngoài không chỉ trên thị trường xuất khẩu mà còn ngay cả trên thị trường trong nước. - Tỷ giá ổn định đã giúp giảm đáng kể tình trạng đôla hóa, biểu hiện người dân đã gửi các khoản tiết kiệm bằng nội tệ nhiều hơn, tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/ tổng phương tiện thanh toán năm 2012 giảm từ 15,8% xuống còn 12,3%. Những tín hiệu tích cực từ nền kinh tế, xuất khẩu hàng hóa tăng, dự trữ ngoại hối tăng, tình trạng đôla hóa giảm đã góp phần củng cố lòng tin của người dân, hạn chế tình trạng tích trữ ngoại tệ như phương tiện dự trữ giá trị.
  12. 11 Việc NHNN có những chính sách hợp lí trong điều chỉnh tỷ giá đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao niềm tin của người dân vào đồng nội tệ và từ đó góp phần duy trì lạm phát của Việt Nam ở mức một con số như 3 năm vừa qua. Tuy nhiên xét trong dài hạn, việc neo giữ tỷ giá và đưa ra tỷ lệ phá giá VND với USD ở mức thấp sẽ cónhững bất lợi nhất định cho nền kinh tế Việt Nam. - Neo giữ tỷ giá khiến cho cơ chế tỷ giá thiếu tính linh hoạt và không theo những tín hiệu của thị trường. - Neo giữ tỷ giá và đưa ra tỷ lệ phá giá thấp so với đồng USD sẽ khiến cho VND bị định giá thực cao so với những đồng tiền khác khi mà USD tăng giá và các nước khác tiến hành phá giá nội tệ của họ. Điều này sẽ làm ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu của Việt Nam. - Việc NHNN cam kết một tỷ lệ phá giá VND cụ thể ngay từ đầu năm trong 3 năm qua đã góp phần lớn trong việc bình ổn tỷ giá và giảm lạm phát. Tuy nhiên, đây không phải là một biện pháp lâu dài, biện pháp này chỉ có thể phù hợp khi mà đồng USD có giá trị ổn định trong thời gian dài, còn khi đồng USD mạnh lên trên thị trường thế giới sẽ rất dễ đẩy NHNN vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu như tăng tỷ giá ngoài tỷ lệ đã cam kết sẽ ảnh hưởng lớn tới tâm lý người dân và khiến cho lạm phát sẽ tăng lên. Còn nếu không tăng tỷ giá VND sẽ rơi vào tình trạng bị định giá thực cao so với các tiền tệ khác, ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu. III. Khuyến nghị đối với chính sách tỷ giá Việt Nam trong thời gian sắp tới Từ những nhận xét trên, em xin đưa ra một số khuyến nghị cho chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian sắp tới: - Trong ngắn hạn: • Để có thể đạt được mục tiêu lạm phát là 5% trong năm 2015 thì duy trì tỷ giá ổn định là điều cần thiết. NHNN cần tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ thị trường tự do, sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tỷ giá, đưa ra những cam kết mạnh mẽ để ổn định lòng tin của người dân vào giá trị VND. • NHNN nên điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn và theo sát các diễn biến của thị trường. Trong các trường hợp cần phá giá VND thì NHNN cũng phải phá giá đủ mạnh để
  13. 12 tránh tình trạng trông chờ USD tăng giá, dẫn đến việc găm giữ ngoại tệ, ảnh hưởng làm gia tăng áp lực lạm phát trong nền kinh tế • Các thông tin về việc tính toán, niêm yết tỷ giá bình quân liên ngân hàng cần được công khai, minh bạch hơn nhằm nâng cao niềm tin của người dân vào sự điều hành của NHNN • Cần nâng cao độ chính xác, hiệu quả của công tác dự báo để các cam kết tỷ giá đưa ra đầu năm có thể sát với thực tế tránh tình trạng tiến thoái lưỡng nan cho NHNN • NHNN cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động của thị trường tự do nhằm hạn chế các giao dịch trái phép, hiện tượng đầu cơ gây ảnh hưởng xấu tới tỷ giá trong nước. - Trong dài hạn, để có thể có mức lạm phát thấp và ổn định, từ bài học kinh nghiệm của nhiều nước, Việt Nam nên thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu. Điều kiện để thực hiện chính sách này là phải có một cơ chế tỷ giá linh hoạt. Do vậy, cơ chế tỷ giá cần được điều chỉnh theo hướng linh hoạt và mang tính thị trường nhiều hơn đồng thời cần phải đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tạo môi trường tài chính lành mạnh. Trong tương lai, Việt Nam có thể tiến tới thả nổi tỷ giá hoàn toàn khi các điều kiện đã chín muồi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tô Kim Ngọc, 2012, Giáo trình tiền tệ ngân hàng. Nhà Xuất bản Dân Trí 2. Vũ Đình Bách và cộng sự, 2012, Kinh tế học vĩ mô. Nhà Xuất bản Giáo dục 3. Gs. Ts. Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình tài chính quốc tế. Nhà xuất bản Thống kê 4. Ths. Nguyễn Thị Thái Hưng, “Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở Việt Nam”, tham khảo ngày 17/3/2015 5. Ts Đào Thanh Bình, Ts Phạm Thị Thu Hà, Ncs Hoàng Đình Minh, “Mối quan hệ giữa lạm phát- tỷ giá: một số khuyến nghị”, tham khảo ngày 17/03/2015 6. “Tỷ giá USD/VND: Một năm nhìn lại và dự đoán năm 2009”, tham khảo ngày 17/03/2015
  14. 13 7. “Lạm phát 2010: ba đột biến, hai kỷ lục và một nỗi lo”, tham khảo ngày 18/3/2015 8. Phạm Thị Hoàng Anh, “ Nhận định về điều hành chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam năm 2011”, tham khảo 19/03/2015 9. “Nhìn lại điều hành tỷ giá giai đoạn 2011-2013”, tham khảo 21/03/2015 10. 11.
  15. 14 MỨC ĐỘ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2014 An Hải Anh, K15-TCD Tạ Thị Huệ, K15-TCB I. Tổng quan chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Sau 23 năm đổi mới và phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam là đầu tàu thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống tài chính hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, đi tiên phong trong quá trình mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế. Từ hệ thống ngân hàng một cấp rồi hai cấp ban đầu chỉ có 4 NHTM nhà nước hoạt động hạn chế về quy mô tài chính, dịch vụ, hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô tài chính và các loại hình dịch vụ hoạt động. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có cấu trúc rất đa dạng về loại hình sở hữu (nhà nước, tập thể, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần) và đa dạng hóa về loại hình (NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô). Đến năm 2014 tại Việt Nam có 38 NHTM trong đó 5 NHTM nhà nước và 33 NHTM cổ phần, nhóm NHTM nhà nước đồng thời cũng là nhóm gồm 4 ngân hàng với vốn điều lệ lớn nhất hệ thống, đều trên 20 nghìn tỷ đồng (Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank) duy chỉ có Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là ngân hàng quy mô nhỏ, tại các ngân hàng này, Nhà nước vẫn nắm đa số cổ phần. Nhóm NHTM cổ phần có 4 ngân hàng có vốn điều lệ từ 10 nghìn - 20 nghìn tỷ (MBBank, SCB, Sacombank, Eximbank), 13 ngân hàng có vốn điều lệ từ 5 - 10 nghìn tỷ đồng, số còn lại có vốn điều lệ dưới 5 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm 6 ngân hàng liên doanh, 66 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng nước ngoài, khoảng 30 công ty tài chính và cho thuê tài chính, hơn 1.000 quỹ tín dụng. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
  16. 15 nghèo, cải thiện an sinh xã hội. Với quy mô và vai trò quan trọng như vậy, lành mạnh tài chính của hệ thống ngân hàng là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô. Song song với sự lớn mạnh không ngừng về quy mô, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn bộc lộ nhiều điểm yếu như: hoạt động giám sát cảnh báo rủi ro còn hạn chế, tính minh bạch chưa cao, sở hữu chéo ngày càng trở nên phức tạp tại các ngân hàng thương mại, thông tin công bố còn chưa bám sát thực tế khiến cho nhà đầu tư, người vay tiền gặp khó khăn trong việc ra quyết định, các ngân hàng cạnh tranh chưa lành mạnh chủ yếu cạnh tranh thông qua lãi suất, tỷ giá và trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay những bất cập này càng bộc lộ rõ nét hơn. Các NHTM chật vật giải quyết nợ xấu khổng lồ do đóng băng bất động sản và hoạt động trì trệ của các doanh nghiệp gây ra, hàng loạt các ngân hàng tuyên bố phá sản, giải thể, hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết nhằm cứu cánh cho các ngân hàng đang trên thời kỳ lao dốc, thực hiện áp chỉ tiêu để trả lương nhân viên như chỉ tiêu về mở tài khoản, huy động vốn hàng tháng Cùng với sự điều hành của NHNN, các NHTM đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm khơi thông tín dụng, khuyến khích cho vay và ban đầu thu được một vài tín hiệu tích cực nhưng xét về dài hạn, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là giải pháp tối ưu nhất để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các ngân hàng phát triển ổn định, bền vững. Đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng bao gồm 3 nội dung chính là: nâng cao vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, củng cố và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh tra giám sát của cơ quan quản lý, lành mạnh hóa ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác mà trong đó lành mạnh hóa NHTM được coi là trọng tâm. Mục tiêu của đề án này là: đến năm 2020 hệ thống ngân hàng Việt Nam về cơ bản phát triển theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả có khả năng cạnh tranh lớn dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, quản trị ngân hàng được tiến hành phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn 2011 – 2015 đề án tập trung lành mạnh hóa tài chính các NHTM, nâng cao trật tự kỉ cương trong hoạt động ngân hàng.
  17. 16 II. Đánh giá mức độ lành mạnh của các NHTM Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu tài chính Hình 2.1: Biểu đồ tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro CAR là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức khỏe thực sự của một ngân hàng, hệ số CAR càng cao tức ngân hàng càng dễ dàng đối phó khi có những rủi ro như khách hàng rút tiền nhiều, thiếu hụt thanh khoản, trả nợ các khoản vay Tại nhiều nước chỉ tiêu này đặt ra với các ngân hàng tối thiểu là 12% trong khi đó tại Việt Nam năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn tối thiểu từ 8% lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II. Thời điểm đó đã có nhiều tranh cãi cho rằng 9% là quá cao, ngân hàng khó đáp ứng được nhưng sau đó, hầu hết các ngân hàng đều đạt an toàn vốn cao hơn nhiều so với mức tối thiểu, trừ Agribank, theo số liệu năm 2011. Cuối năm 2012 cùng với những khó khăn của thị trường, CAR của hệ thống ngân hàng thương mại tư nhân có xu hướng giảm cụ thể theo số liệu của NHNN CAR giảm từ mức 14,01% ở thời điểm cuối năm 2012 về 12,8% vào tháng 6/2013. Theo số liệu tính toán của nhóm nghiên cứu, đến cuối năm 2013, tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro của hệ thống ngân hàng thương mại đạt trung bình là 13,68% cao hơn nhiều so mức tối thiểu, tất cả các ngân hàng đều đáp ứng trên 9% trong đó có một số ngân hàng đạt CAR khá cao như: KienLong bank, MDB, TPbank. Tuy nhiên theo một số chuyên gia, điều này chưa hẳn đã tốt vì những ngân hàng có CAR cao thường là các ngân hàng nhỏ, hoặc CAR cao do sở hữu chéo, hoặc CAR quá cao đồng nghĩa ngân hàng đó gần như không huy động nổi tiền gửi
  18. 17 hoặc không thể cho vay. Mặt khác các ngân hàng đang tận dụng triệt để việc tăng vốn tự có để xử lý nợ xấu hoặc tái cấu trúc và điều này góp phần duy trì CAR ngày càng cao chẳng hạn như trường hợp TPbank. Hình 2.2:Biểu đồ nợ xấu trên tổng dư nợ Khi tình hình kinh tế vĩ mô được cải thiện và dần phục hồi, cộng với những nỗ lực của hệ thống TCTD, diễn biến nợ xấu đã có những tín hiệu khả quan. Đến cuối tháng 12/2013, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đã giảm mạnh về mức 3,63% tổng dư nợ tín dụng. Đây là số liệu nợ xấu của NHNN được xác định dựa trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và các thông tin chính thức, có sự sai khác nhỏ do với mức trung bình là 3,06% theo kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu. Nguyên nhân của sự sai khác này xuất phát từ việc một số ngân hàng như Agribank không công bố cụ thể Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính hay BaoViet bank không công bố báo cáo riêng của ngân hàng mà chỉ công bố báo cáo hợp nhất của tập đoàn trong khi đó như Agribank đã chiếm gần ¼ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu đã có sự biến chuyển tích cực so với những năm trước đó. Để có được những kết quả trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tích cực, chủ động thực hiện các giải pháp để kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý nợ xấu như: Cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản xuất; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động, tích cực đôn đốc, thu hồi nợ, trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro; bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo; thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế nợ xấu phát sinh mới, đáng chú ý là, việc thành lập và đưa vào hoạt động Công ty quản lý tài sản VAMC. Bên cạnh đó, biện pháp cơ cấu lại nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN thực sự có ý nghĩa hỗ trợ cho doanh
  19. 18 nghiệp trong việc tiếp tục được vay vốn ngân hàng với lãi suất hợp lý hơn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu tăng trở lại nếu kinh tế vĩ mô và điều kiện sản xuất kinh doanh, thị trường bất động sản chậm được cải thiện. Giải quyết vấn đề nợ xấu vẫn là bài toán nan giải của ngành ngân hàng và của Chính phủ. Để đạt mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu xuống 3% vào năm 2015 tiến tới an toàn ở ngưỡng 1,5% theo chuẩn mực quốc tế và quản lý tốt nợ xấu trong dài hạn, xử lý nợ xấu không thể chỉ được giải quyết thông qua một vài công cụ là VAMC hay sáp nhập các ngân hàng mà cần có những điều chỉnh linh hoạt để giúp giảm thiểu tổn thương ở khu vực này bên cạnh đó Chính phủ cần phải xây dựng chiến lược xử lý nợ xấu trong dài hạn, nguyên tắc minh bạch hóa trong quản lý nợ xấu phải được chú trọng. Hình 2.3: Biểu đồ lợi nhuận ròng trên tài sản bình quân ROA có mức trung bình là 0,56% căn cứ vào số liệu tính toán của nhóm nghiên cứu trong đó ngân hàng KienLong bank là ngân hàng có ROA cao nhất 1,47% và VIB có tỷ lệ thấp nhất là 0,07%. Xét trên toàn hệ thống tỷ lệ này giảm so với năm 2012 là 0,73% theo tính toán của Viettinbank. Theo một chuyên gia ngân hàng, nguyên nhân do tổng tài sản, vốn điều lệ của hệ thống các TCTD vẫn tăng trưởng khá tốt trong năm 2013. Theo đó, đến cuối năm 2013, tổng tài sản của toàn hệ thống TCTD đạt 5.755.869 tỷ đồng, tăng 13,17% so với cuối năm 2012; vốn tự có cũng tăng 9,61% lên 466.926 tỷ đồng. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận không theo kịp, một mặt do tín dụng tăng thấp, bằng chứng là tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động tại thời điểm 31/12/2013 chỉ là 84,71%, giảm mạnh so với con số 89,35% tại thời điểm cuối năm 2012. Mặt khác, lãi suất cho vay giảm nhanh hơn lãi suất huy động khiến chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào giảm
  20. 19 mạnh do hệ thống các TCTD tích cực giảm lãi suất để chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy vậy xét trên từng ngân hàng cụ thể thì những điểm sáng có thể kể đến như KienLong bank, MBbank, Saigonbank, TPbank, Viettinbank là những ngân hàng đạt mức an toàn từ 1 – 2% theo chuẩn mực quốc tế Hình 2.4: Biểu đồ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Theo Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia và NHNN trong năm 2013, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE có sự sụt giảm đáng kể, trung bình từ mức 15% năm 2009 xuống còn khoảng 5% năm 2013. Theo số liệu nhóm tính toán được, tỷ lệ này là 5,59% trong đó nhiều ngân hàng tạo lợi nhuận kém với ROE < 10% bao gồm ABBank, ACB, BacABank, DongAbank, Eximbank đáng báo động như PVcombank, SCB; chỉ một số ngân hàng tạo lợi nhuận bình thường như BIDV, MBbank, Sacombank, TPbank, VCB, Viettinbank, VPbank, không có ngân hàng đạt ROE hiệu quả. Đây là kết quả tất yếu của việc tăng trưởng tín dụng thấp, ứ đọng vốn, chi phí trích lập dự phòng cao, giảm chênh lệch lãi suất cho vay và huy động với nguyên nhân sâu xa từ việc nhiều ngân hàng đặc biệt đẩy mạnh cho vay, nhất là tín dụng cho bất động sản, các khoản vay có bất động sản làm thế chấp trước đó. Khi thị trường bất động sản lao dốc thì các món nợ trở thành nợ xấu và giá trị bảo đảm giảm thiểu nhiều. Với tình hình thị trường bất động sản đóng băng như hiện nay thì tín dụng dành cho bất động sản và dùng bất động sản làm thế chấp sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều, lợi nhuận của các ngân hàng những năm qua có sự đóng góp rất lớn từ tín dụng, đặc biệt tín dụng bất động sản và lợi thế đó không còn nữa trong năm 2013 cũng như trong tương lai.
  21. 20 Hình 2.5: Biểu đồ tỷ trọng dư nợ theo lĩnh vực kinh tế so với tổng dư nợ Nhìn vào biểu đồ có thể thấy dư nợ cho vay năm 2013 của các NHTM tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực gia công chế biến, thương mại. Tỷ trọng dư nợ cho vay vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa lớn; vậy tại sao các lĩnh vực được nhà nước ưu tiên lại chiếm tỷ trọng thấp như vậy? Theo như tìm hiểu của nhóm nghiên cứu, việc các ngân hàng đẩy mạnh cho vay các lĩnh vực thương mại chế biến mà không chú trọng cho vay với nhóm ngành ưu tiên bởi lẽ các ngân hàng đẩy mạnh cho vay khu vực thành thị và điều đặc biệt hơn là lãi suất cho vay đối với các ngành nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp. Tổng chi phí huy động sau khi tính toán các khoản trích lập theo yêu cầu là 8,4%/năm trong khi lãi suất cho vay nhóm lĩnh vực ưu tiên chỉ 8%/năm, cho vay lúa gạo 7%/năm, như vậy các ngân hàng không thể thực hiện đẩy mạnh cho vay được. Từ ngày 29/10/2014, NHNN sẽ điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các tổ chức, cá nhân tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm. Điều này làm cho cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các
  22. 21 lĩnh vực ưu tiên. Cơ cấu tăng trưởng tín dụng đã đi vào thực chất và hiệu quả, theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên. Tín dụng cho nông nghiệp nông thôn tăng trưởng khoảng 12,8%; cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng khoảng 14%. Đặc biệt, tín dụng cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp nông thôn theo đề án tái cơ cấu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng trưởng cao hơn khoảng trên 16%; một loạt các chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp; các chương trình tín dụng đối với các lĩnh vực thuỷ sản, lúa gạo, cà phê và các lĩnh vực khác đều có sự tăng trưởng tích cực, kể cả tín dụng cho xuất khẩu. Như vậy nhìn vào chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ kinh tế so với tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại mà NHNN có thể có những điều chỉnh hợp lý mang lại sự đầu tư hiệu quả cho nền kinh tế Hình 2.6: Biểu đồ chi phí ngoài trả lãi trên tổng thu nhập Chi phí ngoài trả lãi hay chi phí hoạt động bao gồm các chi phí nhân viên, chi phí hành chính, các khoản phí và chi phí hoạt động khác. Nhìn biểu đồ ta có thể thấy rằng chi phí ngoài trả lãi của các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn so với thu nhập của các ngân hàng cụ thể như ngân hàng PVcombank chiếm 111,52 %. Điều này có thể khiến PVcombank rơi vào tính trạng lỗ, mà cụ thể năm 2013 ngân hàng đã có lợi nhuận trước thuế âm là - 33,659 tỷ đồng. Ngoài ra các ngân hàng như NCB, VietAbank, SHB, MDB đang có tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng thu nhập khá cao từ 74-90 %, vì vậy, các ngân hàng này cần có biện pháp thích hợp để quản lý hiệu quả chi phí hoạt động để tránh rơi vào tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Các ngân hàng có tỷ lệ được cho là an toàn hay quản lý tốt chi phí của mình như ngân hàng Vietcombank, MB bank, Kien Long bank, BIDV có tỷ lệ 25 -40 %. Như vậy chỉ tiêu này cho ta thấy khả năng hoạt động của các ngân hàng: ngân
  23. 22 hàng nào đang hoạt động hiệu quả, ngân hàng nào đang rơi vào tình trạng thua lỗ, ngân hàng nào đang đứng trước nguy cơ thua lỗ. Chính vì vậy các ngân hàng cần đánh giá chỉ tiêu để kịp thời có biện pháp phù hợp trong trường hợp hoat động kém hiệu quả hoặc đang có nguy cơ xấu Hình 2.7: Biểu đồ chi phí nhân viên so với tổng chi phí đã trừ đi chi phí trả lãi Theo thống kê từ báo cáo tài chính của 38 NHTM năm 2013 thì chi phí nhân viên chiếm gần 50% so với tổng chi phí hoạt động mặc cho sự nỗ lực giảm dần tỷ lệ này, ví dụ như Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) quỹ lương, thưởng cho nhân viên trong năm 2013 đều chiếm 53 - 54% tổng chi phí hoạt động. Ngân hàng Công Thương (Vietinbank) và Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng bỏ hơn 50% chi phí hoạt động để trả lương. Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu giảm chi cho nhân viên là xu hướng hiện nay các ngân hàng trên toàn cầu, trung bình ở một số nước, tỷ trọng chi cho nguồn nhân lực chiếm khoảng 40% chi phí hoạt động. Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh khó khăn, chi phí hoạt động của các ngân hàng ngày một tăng cao, nhưng lợi nhuận sụt giảm, đòi hỏi trước hết ngân hàng phải tinh giản bộ máy, với các ngân hàng thuộc diện tái cơ cấu, việc cắt giảm nhân sự càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Bởi khi hai hoặc ba tổ chức tín dụng hợp nhất lại với nhau, số lượng nhân viên sẽ gia tăng, gây áp lực rất lớn đến quỹ lương của ngân hàng SHB vừa gây sốc trong báo cáo tài chính riêng lẻ 2014, khi điểm đáng lưu ý nhất không phải chỉ tiêu lợi nhuận được cải thiện mà chính là việc SHB mạnh tay cắt giảm nhân sự. Chỉ trong ba tháng, 666 nhân sự đã phải rời SHB khiến tổng nhân sự tại ngân hàng này chỉ còn 4.256 người, thay vì 4.922 người như thời điểm đầu năm 2014 nhưng đây không phải lần
  24. 23 đầu tiên SHB cắt giảm nhân sự. Trước đó, vào quý 3/2013, SHB cũng đã sa thải 134 người và cắt giảm tới 70% lương so với cùng kỳ năm 2012. Tương tự, Maritime Bank cũng là ngân hàng có các quyết định điều chỉnh về nhân sự mạnh tay nhất trong hệ thống; tại thời điểm cuối năm 2013, ngân hàng có tổng cộng 3.536 nhân sự, giảm 1.343 người so với cuối năm 2012; trước đó ngân hàng này cũng đã cắt giảm 1.060 nhân sự, theo lý giải của lãnh đạo Maritime Bank, công tác nhân sự năm qua được bố trí, sắp xếp lại là nhằm tinh giản bộ máy, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực cốt lõi của ngân hàng. Tuy không mạnh tay cắt giảm nhân sự như Maritime Bank nhưng trong năm 2013, số lượng nhân viên tại ACB cũng tiếp tục giảm. So với cuối năm 2012, số lượng lao động tại ACB mất việc lên tới 1.115 người. Hình 2.8: Biểu đồ tổng tiền gửi khách hàng so với tổng dư nợ Ngân hàng thương mại có chức năng chính là trung gian tài chính, trung gian thanh toán và tạo ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế chính vì vậy cấu phần tiền gửi của khách hàng chiếm phần lớn trong lượng vốn huy động của ngân hàng có vai trò rất quan trọng giúp ngân hàng thực hiện các chức năng này. Một ngân hàng được coi là có khả năng thanh toán tốt khi số lượng vốn huy động của nó đáp ứng được số lượng tiền mà ngân hàng cho các cá nhân tổ chức trong nền kinh tế vay và tỷ lệ này thường ở mức an toàn là 100 - 125%. Nếu chỉ tiêu này ở mức thấp dưới mức an toàn trên cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đó đang đối mặt với nguy cơ căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Có thể nhận thấy rằng trong năm 2013 tình hình thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng không có nhiều lo ngại mà thậm chí các ngân hàng còn đang dư thừa, ế ẩm vốn huy động duy chỉ có MDB và NamA bank đang đứng trước nguy cơ căng thẳng
  25. 24 thanh khoản. Nguyên nhân do năm 2013, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng là 12 % ở mức thấp so với mức trên 20 % của các năm trước, cùng với đó, sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, đóng băng của nhiều ngành hàng khiến cho doanh nghiệp sản xuất ra không tiêu thụ được nên phải ngưng sản xuất đợi tiêu thụ hàng tồn kho. Do đó, nhu cầu vốn của doanh nghiệp giảm đi đáng kể, chỉ còn một vài nhóm ngành vẫn còn thị trường tiêu thụ nên duy trì nhu cầu vay vốn để sản xuất cầm chừng, giữ khách hàng là chính. Đó chính là lý do vì sao năm 2013 các ngân hàng đẩy mạnh ưu đãi lãi suất cho vay nhưng lượng vốn ế vẫn nằm im trong két sắt. Ngoài ra, chỉ tiêu tổng tiền gửi của khách hàng trên tổng dư nợ còn có thể là dấu hiệu dẫn đến sự mất niềm tin của người gửi, nhà đầu tư vào hệ thống ngân hàng điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư đang có tín hiệu mất niềm tin vào các ngân hàng MDB và Nam A bank. III. Một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao mức độ lành mạnh của các NHTM Lành mạnh hóa ngân hàng thương mại là công tác quan trọng hướng tới hệ thống tài chính thật sự ổn định, phát triển bền vững đồng thời cũng là nhiệm vụ quan trọng mà các ngân hàng cần phải thực hiện để xử lý những vấn đề còn tồn tại trước mắt như tỷ lệ nợ xấu cao, khả năng thanh khoản thấp, hoạt động kém hiệu quả. Qua phân tích thực trạng hoạt động hệ thống NHTM Việt Nam, có thể thấy mức độ an toàn là yếu kém, khả năng xảy ra đổ vỡ trước những cú sốc bất lợi từ môi trường kinh tế khá cao. Đóng vai trò quan trọng đối với phát triển của nền kinh tế, những bất ổn từ hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam, vì vậy, các NHTM Việt Nam cần phải thực hiện các giải pháp cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện, tiến tới phát triển bền vững. Nhóm nghiên cứu xin được đề xuất một số khuyến nghị như sau: Thứ nhất, NHNN cần phải quán triệt hơn nữa trong việc kiên quyết thực hiện đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đây là giải pháp đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng, quyết định, bởi lẽ những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM thời gian qua là rủi ro mang tính hệ thống, là hậu quả của những vấn đề liên quan tới tầm nhìn chiến lược, tới năng lực quản trị điều hành. Vấn đề quan trọng đối với các NHTM hiện nay không chỉ là vốn, mà còn là trình độ, kinh nghiệm quản lý và quản trị chiến lược, là xác định được mục đích và định hướng kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn. Mặt khác NHNN cần xây dựng
  26. 25 lộ trình cụ thể sáp nhập, hợp nhất và mua lại NHTM yếu kém, trước mắt là tinh giảm số lượng, gia tăng chất lượng hoạt động của các ngân hàng. Thứ hai, nâng cao tính minh bạch về thông tin như tiến hành đánh giá và công bố chính xác thực trạng nợ quá hạn, nợ xấu tại các NHTM; hiện nay, các số liệu công bố về tỷ lệ nợ xấu của các NHTM là thấp hơn nhiều so với thực tế và đánh giá của các tổ chức có uy tín, không phản ánh được chất lượng các khoản tín dụng. Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát, tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro nâng cao lành mạnh ngân hàng như bộ chỉ tiêu CAMELS, bộ chỉ tiêu FSIs Với những ưu điểm to lớn, cũng như tính chất bao quát hoạt động ngân hàng, bộ chỉ tiêu FSIs là công cụ giám sát cần được ứng dụng trong tương lai để thực hiện lành mạnh tài chính tiến đến thống kê xếp hạng lành mạnh ngân hàng. Thứ tư, tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng; tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Thứ năm, hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động và cho vay nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn theo lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng vì thế, họ sẵn sàng chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi suất cho vay mới, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO nguyen-tri-hieu loi-nhuan-ngan-hang-nam-2013-duoc- nhu-nam-2012-d%C3%A3-la-rat-tot_4_983.aspx
  27. 26 2013-Nhung-mang-mau-sang-toi/39882.tctc
  28. 27 NỢ XẤU – NÚT THẮT CUỐI CÙNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Vũ Văn Hiệu, K14-TTQTC Lê Thị Thanh Hà, K14-TTQTC Phan Thanh Hương, K14-TTQTC Tiếp tục kiên định với chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt; với mục tiêu cuối cùng là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế; năm 2014 khép lại có thể nói là thành công trên nhiều phương diện của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mình. Tăng trưởng tín dụng tính đến 22/12/2014 đã đạt mục tiêu với mức tăng 12,62%, chỉ số CPI giữ ở mức 4,09%, dự trữ ngoại hối tăng đạt trên 35 tỷ USD qua đó giúp tăng trưởng kinh tế vượt chỉ tiêu đạt 5,98%. Cùng với đó, thị trường vàng và ngoại hối tiếp tục được giữ ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó vẫn còn một vấn đề vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để đó là thực trạng nợ xấu. Nợ làm tắc nghẽn dòng tín dụng trong nền kinh tế. Vậy nên, xử lý nợ xấu là bước đi tối quan trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Nợ xấu dù ở mức độ nào cũng đều có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của chính sách tiền tệ Ngân hàng nhà nước đã đặt ra, sự an toàn của hệ thống tài chính, hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Như vậy có thể coi nợ xấu hiện nay là nút thắt cuối cùng của chính sách tiền tệ và cần được giải quyết một cách triệt để. 1. Sự ảnh hưởng của nợ xấu đến chính sách tiền tệ Bản chất của nợ xấu là các khoản nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ gốc và lãi quá hạn từ 90 ngày trở lên. Nợ xấu đang trở thành gánh nặng không chỉ đối với ngân hàng, doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Hiện nay, các ngân hàng hoạt động chủ yếu thông qua hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng cho nền kinh tế. Vì vậy, có thể tồn tại hay không phụ thuộc rất lớn vào sự lưu thông của vốn. Khi một ngân hàng có mức nợ xấu lớn thì đầu ra của dòng
  29. 28 vốn sẽ vô cùng khó khăn. Không chỉ vậy, nợ xấu cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp khi đã có lịch sử tín dụng không tốt đối với một ngân hàng sẽ khó tiếp cận đến nguồn vốn của ngân hàng nữa, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của chính bản thân doanh nghiệp đó, đồng thời ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Điều này sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến phương hướng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Khi nợ xấu làm tắc dòng chảy của nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng sẽ làm cho Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn trong việc đưa ra các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Nợ xấu tăng, Ngân hàng Nhà nước không thể điều hành tăng lãi suất từ đó sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu về tăng trưởng, về lạm phát Vì vậy, việc giải quyết triệt để nợ xấu là vấn đề cấp bách không chỉ riêng với một ngân hàng nào mà còn là vấn đề chung của toàn bộ nền kinh tế. 2. Thực tế xử lý nợ xấu hiện nay 2.1. Đâu là con số thực sự của nợ xấu Đã có rất nhiều công bố được đưa ra về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, những con số được công bố lại có sự khác biệt giữa các tổ chức đánh giá. Thậm chí, cùng là con số được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đưa ra tại hai thời điểm rất gần nhau cũng có sự khác biệt lớn. Vậy con số thực sự về nợ xấu là bao nhiêu và nó có ảnh hưởng như thế nào đến toàn bộ hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước đưa ra thì con số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng vào thời điểm tháng 9 năm 2012 là 17%, tương đương với 465.000 tỷ đồng, tính đến tháng10 năm 2014 đã xử lý được 54,3% trong số này. Nếu tỷ lệ nợ xấu thời điểm tháng 9 năm 2012 chiếm 17% tổng dư nợ thì hiện chỉ còn khoảng 5,4% tổng dư nợ, đến cuối năm 2014 ước còn 3,7 – 4,2% và như thế hoàn toàn có thể đưa về mức dưới 3% vào năm 2015 như mục tiêu Quốc hội và Chính phủ yêu cầu. Tuy nhiên, một vấn đề khiến ai cũng phải giật mình là con số 17% của nợ xấu từ 09/2012 mà tại sao đến tận kỳ họp Thứ 8, Quốc hội Khóa XIII mới được chính thủ tướng Chính phủ đưa ra. Đồng thời trước đó, con số mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra về tỷ lệ nợ xấu năm 2012 là 8,6%, khác hẳn với con số 17% mà Thủ Tướng Chính phủ đưa ra.
  30. 29 Ở một phương diện khác, con số nợ xấu của các nhà lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đưa ra cho một thời điểm cũng là khác nhau. Ngày 15/2/2014, Chánh Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Hữu Nghĩa cho biết con số nợ xấu cập nhật nhất tính đến hết năm 2013 mà cơ quan này nắm được là 5,56%. Nhưng sau đó chỉ 3 ngày, Ngân hàng Nhà nước lại cho biết, theo báo cáo của các ngân hàng thương mại, thì tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh trong hai tháng cuối năm 2013 xuống chỉ còn 3.63%. Dù cả hai con số này đếu chưa tính đến phần nợ đã được tái cơ cấu nhưng rõ ràng, sự chênh lệch về nợ xấu thuần cũng không hề nhỏ. Trong cuộc họp hồi tháng 09 năm 2014, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đưa ra con số nợ xấu là 5,43%, nhưng chỉ sau một tuần, phó Thống đốc lại đưa ra con số chỉ hơn 3%. Hai con số do những người đứng đầu ngành ngân hàng đưa ra sai khác nhau tới hơn 2% - một sự chênh lệch rất lớn. Con số nợ xấu được các tổ chức tín dụng tự đưa ra cũng khác rất nhiều so với con số mà Ngân hàng Nhà nước công bố. Cụ thể, theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9 năm 2014 còn khoảng 3,8% và có xu hướng giảm: tháng 6/2014 là 4,17%; tháng 7 là 4,11%; tháng 8/2014 là 3,9%; ước tính đến cuối năm 2014 còn khoảng 2,5 - 2,7%. Nếu như thế thì mục tiêu nợ xấu dưới 3% của Chính Phủ đáng nhẽ đã phải được hoàn thành. Ngoài ra, con số nợ xấu của Việt Nam đưa ra còn có sự sai khác rất lớn so với số liệu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá. Ngày 18/2/2014, Moody's – một trong ba tổ chức đánh giá tín nhiệm hàng đầu trên thế giới công bố, nợ xấu của Việt Nam có thể lên tới 15% tổng tài sản, tương đương 25% tổng dư nợ, cao hơn bất kỳ một ước đoán nào của các tổ chức kinh kế trong nước trước đó. Đáp lại con số này của Moody's, Ngân hàng Nhà nước lập tức công bố: Ngay cả khi tính toán một cách cẩn trọng nhất, nợ xấu của Việt Nam cũng chỉ ở mức 9%. Ngày 1/4/2014, 40 ngày sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố con số 9%, trong cuộc họp thường kỳ của Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhận định, con số nợ xấu thực tế của ngành ngân hàng Việt Nam chỉ là 7%. Con số chính xác của tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam hiện tại là bao nhiêu, có lẽ không ai có thể trả lời chính xác. Có quan điểm cho rằng chênh lệch con số trên là do các tính
  31. 30 toán của mỗi bên là khác nhau, tuy nhiên sai lệch giữa Việt Nam và các tổ chức như Moddy’s thì có thể giải thích như trên, nhưng cũng chưa đủ thuyết phục bởi nó lệch quá lớn. Hơn nữa sai lệch giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng là có thể khắc phục được nếu Ngân hàng Nhà nước đưa ra một cách tính chung cho các Tổ chức tín dụng phải tuân theo. Còn chênh lệch con số do chính Ngân hàng Nhà nước đưa ra thì mọi giải thích là không có tính thuyết phục. Hiện nay, mọi con số mà các chuyên gia kinh tế hàng đầu đưa ra chỉ là phỏng đoán, bởi họ không có đầy đủ cơ sở dữ liệu để tính. Vậy lý do gì khiến cho chính các tổ chức tín dụng giấu con số nợ xấu thực sự của mình? Nguyên nhân nào khiến ngay cả Ngân hàng Nhà nước cũng dè dặt trong việc đưa ra con số nợ xấu thật của hệ thống ngân hàng? Việc không công khai minh bạch trong con số thực về nợ xấu cũng như quá trình và cách thức xử lý nợ xấu càng làm tăng thêm mối nghi ngờ và mất niềm tin của xã hội đối với hệ thống ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu. 2.2. Thực trạng xử lý nợ xấu của VAMC Con số nợ xấu đã mua Tính đến hết năm 2014, VAMC đã mua được 137 nghìn tỷ đồng nợ gốc với giá trị trái phiếu 108.000 tỷ đồng. Về hoạt động xử lý nợ, tính đến 31/12/2014, VAMC xử lý được trên 5.100 tỷ đồng bằng các biện pháp thu hồi nợ, phát mại, đấu giá, bán tài sản, bán khoản nợ thông qua hình thức xử lý trực tiếp hoặc ủy quyền cho các tổ chức tín dụng, mới đạt khoảng 3,72% tổng số nợ đã mua. Dự kiến năm 2015 VAMC sẽ mua khoảng từ 70.000 đến 100.000 tỷ đồng nợ xấu. Về bán nợ, kế hoạch của Ngân hàng Nhà nước là sẽ xử lý gấp đôi hoặc gấp rưỡi so với năm 2014, tức là khoảng 8.000 tỷ - 10.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 8%-10%. Theo yêu cầu của NHNN trong chỉ thị 02/CT-NHNN về tăng cường xử lý nợ xấu của TCTD, đến 30/6 các TCTD cần phải bán tối thiểu 75% tổng số nợ xấu dự kiến bán cho VAMC cả năm 2015. Cụ thể: − NHNN yêu cầu đẩy nhanh xử lý nợ xấu
  32. 31 − Các TCTD phải xử lý được tối thiếu 60% số nợ xấu cần xử lý trong năm 2015 trước 30/6 − Bán nợ cho VAMC phải đạt tối thiểu 75% trong 6 tháng đầu năm − Các TCTD phải tập trung nguồn lực xử lý nợ xấu − VAMC có kế hoạch mua 70.000 - 100.000 tỷ đồng nợ xấu trong năm nay Ngày 05/3/2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có văn bản số 1264/NHNN- TTGSNH chấp thuận phương án phát hành trái phiếu đặc biệt năm 2015 của Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Cụ thể, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận phương án phát hành trái phiếu đặc biệt của VAMC trong năm 2015 với các nội dung cơ bản sau: − Tổng giá trị trái phiếu đặc biệt phát hành trong năm 2015 tối đa là 80.000 tỷ đồng − Thời điểm phát hành trái phiếu đặc biệt từ 01/01/2015 đến 31/12/2015 − Thời hạn trái phiếu đặc biệt tối đa là 05 năm. − VAMC quyết định cụ thể thời hạn đối với từng trái phiếu đặc biệt phù hợp với từng khoản nợ xấu được mua và thỏa thuận mua bán, xử lý nợ xấu giữa VAMC và các tổ chức tín dụng. Đánh giá hiệu quả thực sự của cách giải quyết nợ xấu. Cho đến nay, theo như con số mà ngân hàng nhà nước đưa ra, VAMC đã mua được 137 nghìn tỷ đồng nợ gốc với giá trị trái phiếu 108.000 tỷ đồng, nhưng con số nợ được xử lý thực sự rất khiêm tốn chỉ khoảng 5.100 tỷ đồng. Nợ xấu ở đây không được mua bằng tiền mà chỉ được trả bằng trái phiếu đặc biệt. Các ngân hàng có thể mang trái phiếu này đến Ngân hàng Nhà nước để vay tới 70% giá trị của trái phiếu trên để có thanh khoản tiếp tục cho hoạt động của mình. Như vậy việc mua nợ của VAMC chỉ là một cách để Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại. Nợ xấu chỉ được chuyển từ sổ sách của các Ngân hàng thương mại sang bên VAMC chứ thực sự được xử lý. Có ý kiến cho rằng, ngay cả con số 5.100 tỷ đồng nợ xấu đã được VAMC xử lý cũng
  33. 32 là các khoản nợ thực sự hấp dẫn. Kể cả không có VAMC thì cũng có đối tác sẵn sàng mua lại mà không cần đến vai trò của VAMC. Một điều đáng bàn nữa, các Ngân hàng thương mại bán nợ xấu cho VAMC có trách nhiệm trích lập dự phòng 20% mỗi năm, trong 5 năm. Và sau 5 năm họ có thể phải nhận lại khoản nợ của mình nếu VAMC không xử lý được, bởi VAMC không có trách nhiệm bắt buộc phải xử lý triệt để khoản nợ nói trên. Việc mua bán ở đây không phải là “mua đứt bán đoạn” điều đó có nghĩa là VAMC dường như chỉ là người giữ hộ nợ xấu cho các ngân hàng và cố gắng bán hộ nếu có thể. Nếu không thể xử lý khoản nợ đó thì sau 5 năm, các ngân hàng thương mại có nợ xấu vẫn sẽ nhận lại khoản nợ đó. Do đó dường như không có động lực nào để VAMC đẩy mạnh xử lý nợ xấu triệt để, vậy nên con số nợ xử lý được chỉ đạt khoảng 3,72% tổng số nợ đã mua. Như vậy, có thể nói VAMC chưa có động lực thực sự để xử lý nợ xấu của các ngân hàng. VAMC tạm thời mua bằng các trái phiếu đặc biệt để các ngân hàng sử dụng trong thời gian 5 năm rồi sau đó lại trả lại cho VAMC, VAMC trả lại cho Ngân hàng Nhà nước. Và sau đó, trả các khoản nợ lại về với các ngân hàng thương mại. Nguyên nhân dẫn của sự kém hiệu quả trong xử lý nợ xấu. Thứ nhất, một điều vô cùng quan trọng đó là việc công khai minh bạch trong thông tin về con số nợ xấu thực sự của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện tại. Các ngân hàng thương mại không công bố con số thật về tỷ lệ nợ xấu của mình, có thể nợ xấu trong các ngân hàng thương mại lớn hơn con số mà họ công bố rất nhiều khiên họ giấu con số thực sự tránh gây những cú sốc. Thực tế những lùm xùm, bế bối về đạo đức các cán bộ ngân hàng gần đây càng gia tăng thêm nghi ngờ về con số nợ xấu thực sự tại các ngân hàng, có ý kiên cho rằng nợ xấu thậm chí đã ăn cả vào vốn cổ phần của ngân hàng. Ở một vị trí khác, chính Ngân hàng Nhà nước dường như cũng mập mờ trong việc đưa ra con số thật về nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sự không trùng khớp về con số trong mỗi lần công bố của Ngân hàng Nhà nước, khiến cho người ta không thể biết đâu mới là con số thực sự của nợ xấu. Việc thiếu công khai minh bạch này là một rào cản lớn cho việc xử lý thực sự nợ xấu.
  34. 33 Thứ hai, VAMC chưa thực sự mạnh trong việc xử lý để bán các tài sản thế chấp của các hợp đồng tín dụng. Lý do ở đây là do khuôn khổ pháp lý của hoạt động mua bán nợ chưa hoàn thiện. Phần lớn các tài sản thế chấp là bất động sản, mà luật sở hữu đất đai ở Việt Nam không cho phép người chủ nợ được bán các bất động sản này. Điều này, khiến VAMC và các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc thanh lý loại tài sản này để thu hồi vốn. Mặt khác, theo quy định pháp luật của Việt Nam các quy chế về vấn đề phá sản không cho phép chủ nợ phát mãi tài sản của người nợ mà phải qua tòa án xét xử, phải chờ rất lâu để tòa xử xong mới thi hành án. Cũng có những kỳ vọng về việc bán nợ xấu trên thị trường mở hay thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua các khoản nợ xấu. Nhưng bán thì ai mua, và giá cả xác định như thế nào khi chưa có phương pháp định giá cụ thể cho các khoản nợ xấu này. Chưa hết, mua rồi thì các nhà đầu tư sẽ làm gì, nếu dùng tiền mua nợ về nhưng vướng mắc trong việc bán các tài sản đảm bảo thì ai dám mua. Thứ ba, việc VAMC dùng một loại giấy nợ là trái phiếu đặc biệt để mua một khoản nợ trong 5 năm mà không cam kết sẽ xử lý, cho thấy sự bế tắc trong việc tìm kiếm một hướng đi cho việc xử lý khối nợ xấu này. Dường như những người làm chính sách đang chờ đợi một điều gì đó trong 5 năm tới, đó có thể là họ chờ đợi sự phục hồi của thị trường bất động sản như thời hoàng kim, khi đó thì việc thanh lý khối tài sản đảm bảo là vô cùng dễ dàng. Vì thế, hiện nay, Chính Phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước chỉ tìm một giải pháp trước mắt là tạm cất khoản nợ sang bên VAMC, trước hết là làm đẹp sổ sách cho các ngân hàng giúp khai thông hoạt động của họ, và sau là chờ đợi một viễn cảnh tốt đẹp trong thời gian tới. Một số đề xuất về phương hướng xử lý nợ xấu Một là, phải công khai minh bạch con số nợ xấu thực sự của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặc dù việc này có thể gây ra một cú sốc lớn cho thị trường nhưng không minh bạch là nguyên nhân của mọi sự thất bại. Chừng nào nợ xấu còn được giấu thì niềm tin của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hệ thống ngân hàng ngày càng giảm sút. Vì vậy, trước hết các Ngân hàng thương mại phải công khai
  35. 34 toàn bộ các khoản nợ xấu của mình, đặc biệt là tuyệt đối không được giấu các khoản nợ xấu do liên doanh liên kết, sở hữu chéo. Đồng thời, VAMC phải công khai sổ sách về số nợ xấu thực sự mua được, số nợ đã được xử lý, lịch trình xử lý các khoản nợ xấu mình đã mua. Về phần mình, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh quản lý hướng các tổ chức tín dụng cũng như VAMC công khai minh bạch hóa thông tin của mình. Hai là, đã đến lúc cần sự giúp sức của khối tư nhân trong nền kinh tế. Trong thời gian qua, chúng ta đã khá thành công khi dùng nội lực để giải quyết nợ xấu thông qua VAMC và việc trích lập dự phòng của các Ngân hàng, nhưng đó chỉ là các biện mang tính kỹ thuật. Chúng ta còn đang bỏ ngỏ một nguồn nội lực rất mạnh trong nền kinh tế đó là khối kinh tế tư nhân. Việt Nam có một lực lượng tư nhân rất lớn, họ có tiềm lực tài chính mạnh, nguồn tiền sạch, và luôn sẵn sàng tham gia giải quyết nợ xấu vì lợi ích quốc gia cũng như lợi ích kinh doanh. Tuy nhiên, để nhận được sự giúp sức của khối kinh tế tư nhân, nhất thiết phải giảm thiểu thủ tục hành chính, minh bạch hóa các thông tin về thực trạng nợ xấu. Ba là, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một khung pháp lý giúp VAMC có thể xử lý các khoản nợ, thanh lý tài sản bảo đảm hay hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường mua bán nợ của Việt Nam.Cùng với đó, chúng ta nên khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu, tạo điều kiện để phát triển thị trường nợ tại Việt Nam. Bốn là, về phía các Ngân hàng thương mại, cần phải công khai minh bạch thông tin, tăng cường quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro đạo đức nhằm hạn chế các khoản nợ xấu mới phát sinh. Cần thận trọng hơn trong hoạt động cho vay, tiến tới xây dựng các sản phẩm mới giảm bớt sự lệ thuộc vào tín dụng truyền thống, tiến tới một môi trường ngân hàng lành mạnh hơn. Năm là, phải có hướng giải quyết về phía các doanh nghiệp vay nợ. Chúng ta cần có những biện pháp giúp đỡ các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể thanh toán các khoản nợ. Sự hỗ trợ này có thể là về mặt tài chính như tiếp tục cho vay, có thể là về mặt chính sách như ưu đãi lãi suất, ưu đãi về
  36. 35 thuế. Những doanh nghiệp nào khó có khả năng cứu vãn cần cho phá sản, đặc biệt không có sự ưu tiên nào với các doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, dù lựa chọn phương án nào để giải quyết vấn nạn nợ xấu thì để thành công, nhất thiết phải có sự tham gia đồng thời của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại và của cả các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác. Minh bạch thông tin, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hay phát triển thị trường mua bán nợ ở Việt Nam là những điều cần thiết để giải quyết vấn đề nợ xấu hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ThS. Đào Thị Hồ Hương: “Bàn về hướng xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, Ngân hàng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2013, Số 4, tr.32-35 2. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh: “Lựa chọn mô hình xử lý nợ xấu ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính số 11/2012. 3. 201410081604495577.chn 4. 5.
  37. 36 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011-2015 HIỆU QUẢ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN KHẮC PHỤC Nguyễn Thị Thùy Linh, K14-TTQTA Với xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, những biến động của nền kinh tế thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam. Dưới sự biến động không ngừng của nền kinh tế trong nước và thế giới, chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn tới các biến số như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm Ở Việt Nam hiện nay chính sách tiền tệ đang phát huy tác dụng trong việc là công cụ giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện các biện pháp “điều hành vĩ mô thành công”. Với mục đích trau dồi kiên thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về Chính sách Tiền tệ, em quyết định lựa chọn đề tài “ Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015, hiệu quả và những vấn đề cần khắc phục”. Đề tài sẽ giúp cung cấp cho người đọc những biến động của nền kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện Chính sách Tiền tệ như thế nào trước những biến động đó? Hiệu quả của những chính sách đó ra sao? Những vấn đề nào cần khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN bằng chính sách tiền tệ. 1. Bối cảnh kinh tế thế giới trong nước và thế giới (2011 - 2015) 1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tín dụng và nhà đất của Mỹ. Việc cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Trong tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD của các hợp đồng cho vay bất động sản thế chấp thì có 3 đến 4 ngàn tỷ USD là dưới chuẩn, khó đòi. Những hợp đồng đó
  38. 37 được các chuyên gia tài chính phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phát sinh được bảo đảm bởi những hợp đồng cho vay thế chấp này để bán ra trên khắp thị trường quốc tế. Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có người mua nên các Ngân hàng, công ty Bảo hiểm các tổ chức Tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được, mất khả năng thanh khoản và mất cả khả năng thanh toán dẫn tới gục ngã hoặc phá sản. Điển hình là sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers. Cuộc khủng hoảng tài chính này đưa nước Mỹ rơi vào suy thoái, Nhật Bản, Tây Âu tăng trưởng âm, các nước công nghiệp rơi vào tình trạng của Nhật Bản những năm 90 là lãi suất 0% và giá cả giảm xuống không có tăng trưởng. Các nền kinh tế có mức tăng trưởng âm đứng đầu là Anh (-1,3%), Đức (-0,8%), Mỹ và Tây Ban Nha (-0,7%), một số nước như Nga cũng chỉ 3,5% và Trung Quốc từ trên 10% xuống còn 8% vào 2008. Để kích thích tăng trưởng kinh tế, chính phủ các nước EU (theo quan điểm của lý thuyết kinh tế Keyness) tích cực đi vay nước ngoài để tăng cường chi tiêu công. Việc các nước đi vay quá nhiều là nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Khơi mào là Hi Lạp, dư âm của cuộc khủng hoảng vẫn còn cho tới bây giờ. Tại Châu Á, cuối năm 2014 phải kể đến cuộc khủng hoảng của Nga mà nguyên nhân chủ yếu khiến Nga rơi vào cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc xung đột tại Ukraina. Nền kinh tế Nga vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường năng lượng. Đây chính là yếu điểm, khiến Mĩ quyết định áp dụng lệnh trừng phạt Nga thông qua công nghệ dầu đá phiến làm tăng nguồn cung dầu, kéo theo giá năng lượng trên toàn thế giới giảm. Khi giá dầu giảm mạnh, đáng lý các quốc gia OPEC phải giảm sản lượng dầu, nhưng vì lo ngại việc Mĩ sẽ nắm luôn thị phần này nên vẫn giữ nguyên lượng cung, khiến cho giá cả năng lượng thế giới ngày càng giảm sâu. Trong giai đoạn này, Nhật là một mảng tối trong nền kinh tế chung của thế giới với tình trạng giảm phát gia tăng ở quốc gia mặt trời mọc này. Lí thuyết kinh tế Abenomics được ủng hộ nhiệt liệt trong thời gian đầu, tuy nhiên sau đó lại bị lên án do tập trung bảo vệ quyền lợi cho thiểu số giàu có trong xã hội. Cũng trong năm 2014 Trung quốc vượt lên Nhật Bản trở thành cường quốc đứng thứ hai thế giới sau Mỹ và luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá ổn định 10%/năm. Trong giai đoạn này,
  39. 38 khi mà các nước đầu tàu của kinh tế trên thế giới đều chịu tác động lớn của các cuộc khủng hoảng kinh tế nền kinh tế tăng trưởng thấp thì nền kinh tế các nước đang phát triển có mức độ tăng trưởng cao hơn đã trở thành động lực phôi phục và phát triển nền kinh tế toàn cầu. Nhìn chung: Trong giai đoạn này kinh tế thế giới có nhiều biến động, nền kinh tế phát triển do chịu tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho nền kinh tế suy thoái. Các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng cao hơn tạo động lực khôi phục và phát triển nền kinh tế toàn cầu. Giá cả hàng hóa thế giới như giá dầu và lương thực có xu hướng biến động, nhất là giữa năm 2014. 1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với Việt Nam. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, nền kinh tế thế giớ biến động ảnh hưởng và tác động rất lớn tới nền kinh tế của Việt Nam.Chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng của nền kinh tế lớn thế giới trong giai đoạn từ năm 2011- 2015 nền kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng chậm tuy nhiên đang dần phục hồi.  Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2014.
  40. 39 Biểu đồ 1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: % Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2011-2014 20 18.13 15 10 6.81 6.03 4.09 5 5.89 5.25 5.42 5.98 0 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Tốc độ tăng trưởng kinh tế Lạm phát Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Chính phủ Năm 2011: Kinh tế - xã hội phục hồi sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại đạt mức 5,89%. Giá hàng hóa, giá dầu mỏ và giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở trong nước, lạm phát cao ở mức hai con số là 18,13% và mặt bằng lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư. Năm 2012: Tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải quyết. Suy thoái trong khu vực đồng Euro cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn. Hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Sự tăng trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo đã kéo theo sự sụt giảm của các nền kinh tế khác. Nhất là khi, một số nước và khối nước lớn có vị trí rất quan trọng trong quan hệ thương mại với nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức.
  41. 40 Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, thu nhập trung bình của người dân giảm xuống đã làm sức mua trong dân giảm, thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể. Chính những điều này là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt đáy là 5,25%, lạm phát ở mức 1 con số 6,81% giảm rất nhiều so với năm 2011 là 18,13% Trong giai đoạn từ năm 2013- 2015: Nền kinh tế thế giới có dấu hiệu chuyển biến tích cực nhưng khá mờ nhạt Những yếu tố không thuận lợi đó từ thị trường thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta. Ở trong nước nền kinh tế có dấu hiệu khởi sắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, năm 2013 đạt 5,42% cao hơn năm 2012 là 5,25%, tiếp tục tăng 0,56% trong năm 2014 đạt 5,98% và vẫn có xu hướng tăng trong năm 2015. Lạm phát vẫn luôn được duy trì ở mức một con số khá ổn định, năm 2013 là 6,03%, năm 2014 lạm phát ở mức 4,09 là mức thấp nhất trong 13 năm gần đây.  Xuất nhập khẩu Xuất khẩu trong nước được đẩy mạnh. Trong đó, thị trường chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta phải kể đến là Mĩ, Nhật, Singapore. Hay nói cách khác, xuất khẩu vẫn đóng một vai trò to lớn trong phát triển kinh tế tại Việt Nam trong thời gian này. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao các nước phát triển đang suy thoái như vậy mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn không bị ảnh hưởng nhiều. Nguyên nhân cho vấn đề này, một phần là do những cải cách đáng kể trong nước, một phần là do Trung Quốc, một trong những quốc gia hút nguồn vốn FDI nhất, mất lợi thế về nhân công giá rẻ (kinh tế phát triển, điều kiện sống của người dân tăng lên, khiến cho thu nhập của người dân cũng tăng theo), điều này thúc đẩy nguồn vốn FDI chuyển hướng ra các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam  Lãi suất, tỉ giá
  42. 41 Nhìn một cách tổng quát, kinh tế nước ta trọng giai đoạn 2011- 2014 khá ổn định thể hiện ở việc ổn định tỉ giá cũng như lãi suất. Người dân tin tưởng và nắm giữ VND thay vì USD như trước đây. Điều này không chỉ góp phần tăng dự trữ ngoại hối trong nước mà còn giúp bình ổn nền kinh tế, thu hút nguồn vốn FDI vào trong nước. Biểu đồ 1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay từ 2009 - 2013 Đơn vị: % Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam  Nợ công tăng Trong những năm gần đây thâm hụt ngân sách đã kéo theo sự gia tăng của nợ công. Tổng nợ công của Việt Nam tăng từ khoảng 57% GDP từ cuối năm 2010 lên khoảng 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Thâm hụt ngân sách gia tăng điều này đã và đang tác động tiêu cực tới nền kinh tế và đời sống xã hội. Đồng thời cũng gây khó khăn đối với Chính phủ trong việc thực hiện các CSTK và CSTT  Cán cân thanh toán thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng Cuối năm 2011, cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng thâm hụt nhưng đến cuối năm 2014 đã đạt mức thặng dư lớn, bổ sung cho dự trữ ngoại hối và đóng góp đáng kể vào việc hỗ trợ duy trì tỷ giá ổn định. Theo NHNN cán
  43. 42 cân tổng thể thặng dư ở mức hơn 10 nghìn tỷ USD , dự trữ ngoại hối nhờ đó cũng được cải thiện, tăng lên mức kỷ lục hơn 36 nghìn tỷ USD 2. Chính sách vĩ mô giai đoạn 2011-2015 2.1. Chính sách tài khóa chưa phát huy được hiệu quả Dưới tác động của cuộc suy thoái kinh tế giới đi kèm với các áp lực của suy giảm kinh tế trong nước, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp nhằm kích thích tổng cầu của nền kinh tế chẳng hạn như miễn, giảm, hoãn thuế cho các tổ chức và cá nhân, đồng thời thực hiện một số chính sách tăng chi tiêu và đầu tư của khu vực chính phủ và đặc biệt là gói hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay lưu động cho các khu vực doanh nghiệp. Cho đến nay hiệu quả của các chính sách kích thích này vẫn còn là một chủ đề gây không ít tranh cãi. Mặc dù các chính sách kích cầu kịp thời của Chính phủ đã giúp đẩy lùi được suy giảm kinh tế hay ít nhất là không làm cho nền kinh tế rơi vào khó khăn của đáy suy thoái. Tuy nhiên các chính sách kích cầu đó đã không giúp lấy lại sức tăng trưởng vững chắc cho nền kinh tế mà còn gây ra nhiều hệ quả mới về bất ổn vĩ mô. Trong điều kiện Ngân sách thâm hụt quá lớn và gánh nặng nợ công quá cao thì chính phủ rất khó để thực hiện chính sách tài khóa hiệu quả, khi mà nguồn thu ngân sách chủ yếu từ thuế giảm trong khi chi ngân sách lớn càng làm cho gánh nặng nợ công càng gia tăng. Hiệu quả của chính sách mang lại không mang tính chất ổn định lâu dài. Nếu ngân sách thâm hụt thì chính phủ sẽ phải đi vay để tài trợ cho phần thâm hụt đó. Có một số cách để chính sách tài trợ thâm hụt ngân sách, chẳng hạn như phát hành tín phiếu/trái phiếu chính phủ (nghĩa là đi vay trong nước hoặc nước ngoài), bán bớt các tài sản quốc gia (chẳng hạn bán tài nguyên hay bán cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước) hoặc thậm chí có thể in tiền. Tất nhiên chính phủ sẽ phải cân nhắc các lựa chọn này vì mỗi một lựa chọn như vậy đều có lợi ích và chi phí kinh tế đi kèm. Chẳng hạn như vay nợ sẽ phải trả lãi suất, thậm chí vay nước ngoài (vay ngoại tệ) sẽ còn chịu rủi ro biến động tỷ giá hối đoái. Tương tự, nếu bán tài sản quốc gia có thể làm suy giảm nguồn lực của thế hệ tương lai, hay in tiền có thể gây áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô ). Ngoài vấn đề lựa chọn kênh tài trợ thâm hụt, việc sử dụng nguồn tài trợ đó như thế nào cũng là một thách thức không nhỏ. Một thực tế cho thấy việc nâng trần nợ công không phải là một vấn đề dễ chấp nhận vì nếu vay nợ
  44. 43 quá nhiều, các quốc gia sẽ dẫm phải vết xe đổ của Hi Lạp. Hay năm 2012, nhu cầu nợ công của Mĩ tăng cao, nhưng vấp phải sự phản đối về việc tăng trần của Quốc hội, đã dẫn đến việc đóng cửa Quốc hội trong khoảng 10 ngày. Trong tình hình như hiện nay, CSTT thực sự phát huy sức mạnh của nó. Mặc dù có thời điểm một số ý kiến cho rằng, NHNN chỉ áp dụng CSTT lấn át CSTK, song cần nhìn nhận việc hỗ trợ các thuế cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các gói tiêu dùng nhằm kích thích tiêu dùng là khá đồng bộ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế vĩ mô. Như vậy nước ta đang sử dụng phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. 2.2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2011-2015 2.2.1. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ  Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chính của công cụ CSTT. Các chỉ tiêu này bao gồm: tổng dự trữ của các NHTM, lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất tín phiếu kho bạc. Bằng việc đạt được mục tiêu về các chỉ tiêu này, NHTW có thể đạt được mục tiêu trung gian và do đó mục tiêu cuối cùng sau một khoảng thời gian nhất định. Sự phản ứng nhanh chóng và chính xác của các chỉ tiêu này mỗi khi NHTW điều chỉnh CSTT giúp cho NHTW có thể kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định trong điều hành CSTT hàng ngày. Việc lựa chọn mục tiêu hoạt động phụ thuộc vào việc lựa chọn mục tiêu trung gian, ở Việt Nam NHNN lựa chọn mục tiêu hoạt động dự trữ của các NHTM  Mục tiêu trung gian là mục tiêu trung gian là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục đích cuối cùng của CSTT. Các chỉ tiêu thường được sử dụng làm mục tiêu trung gian là tổng khối lượng tiền cung ứng (M1, M2 hay M3) hoặc mức lãi suất thị trường (ngắn và dài hạn)s, tùy thuộc vào vào chính sách của từng nước, mục tiêu mà họ muốn hướng tới mà tại các nước khác nhau thì mục tiêu này là khác nhau, ở Pháp và Đức là M2, ở Mỹ là M2, M3. Ở Việt Nam lựa chọn mục tiêu trung gian là lượng tiền cung ứng M2  Mục tiêu cuối cùng
  45. 44 Năm 2010 luật NHNN đã được thay đổi, thay vì CSTT cùng một lúc hướng tới rất nhiều mục tiêu như ổn định lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo an ninh quốc gia (luật NHNN 1997), theo luật mới năm 2010 chỉ rõ mục tiêu cuối cùng là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát mục tiêu lạm phát. Việc xác định được mục tiêu ưu tiên đã tạo ra được những thay đổi lớn trong hiệu quả của CSTT mang lại. Một thực tế cho thấy việc có quá nhiều mục tiêu khiến cho việc điều hành nền kinh tế trở nên khó thực hiện. Nếu không thống nhất các mục tiêu, nền kinh tế sẽ trở nên bất ổn. Đồng thời việc thiếu nhất quán trong hệ thống các mục tiêu cũng sẽ dẫn tới việc thiếu nhất quán trong công tác điều hành, sẽ gây mất niềm tin trong dân chúng đối với NHNN.  Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Theo điều 10 chương 3 của Luật NHNN số 46/2010/QH12: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ. 2.2.2. Chính sách tiền tệ được sử dụng trong giai đoạn 2011-2015 Năm 2011: Kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn, những biến động xấu của nền kinh tế Thế giới đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước, lạm phát cao ở mức hai con số là 18,13%, kiềm chế lạm phát là mục tiêu được đặt lên hàng đầu. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống 22% đến 30/6/2011 và xuống 16% đến 31/12/2011. Lãi suất được điều chỉnh giảm, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,5-1%/năm và dao động ở mức 14,5-17%/năm, thậm chí chỉ còn 13,5%/năm. Riềng trong năm 2011 NHNN đã 5 lần thay đổi lãi suất TCV tăng từ 11% đầu năm tăng lên 15% vào tháng 10/2011.
  46. 45 Biểu đồ 2.1. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu của NHNN năm 2011 Đơn vị: % Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Năm 2012: Lạm phát đã có dấu hiệu được cai thiện, tuy nhiên kiềm chế lạm phát vẫn là mục tiêu hàng đầu. Ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã qui định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống 12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của trần lãi suất tiền gửi VND. Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007. Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác và cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
  47. 46 Năm 2013-2014: giống như các năm trước mục tiêu kiềm chế lạm phát vẫn được ưu tiên hàng đâu mặc dù lạm phát vẫn luôn duy trì ở mức một con số. Trên cơ sở kết quả điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được, và các mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ. Cụ thể là  Năm 2013: Đến cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,16% so với cuối năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong năm 2013, thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt được điều hành theo hướng giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm 2013 đã giảm khoảng 2-5%/năm so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho vay giảm 3-5%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các TCTD cũng chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng.Đến nay, trần lãi suất huy động đã giảm về mức 7%/năm và chỉ áp dụng đối với kỳ hạn dưới 6 tháng, trần lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là 9%/năm, tỉ trọng những khoản cho vay có lãi suất đến 13%/năm chiếm khoảng 74,97%.  Năm 2014: Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách hàng, giảm các loại lãi suất. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau: Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17/3- /2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống 6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5
  48. 47 lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm. Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 2910- 2014, lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm. Ngân hàng Nhà nước cũng ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng quy mô và linh hoạt điều hành thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, trung hòa số tiền bơm ra để mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ ngoại hối. Kèm theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nếu nhìn vào động thái diễn biến lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước kể từ giữa năm 2013 đến nay, rõ ràng là chính sách tiền tệ đang theo hướng nới lỏng, song thực tế thì tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của năm 2014 chỉ tăng theo dự kiến  Năm 2015: Dự báo trong năm 2015 điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng như sự phối hợp với CSTK tiếp tục được dựa trên nền tảng của năm 2014, dựa trên bài học kinh nghiệm của các năm trước. Trong ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước chưa dỡ bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn, giới hạn lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên. Những quy định hay biện pháp điều hành này sẽ được thay thế bằng cơ chế điều hành gián tiếp khi điều kiện chín muồi. Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng đạt được các mục tiêu cơ bản và thị trường tiền tệ phát triển Kết luận: Từ năm 2011- 2015 mục tiêu kiềm chế lạm phát luôn được đặt lên hàng đầu, Ngân hàng Nhà nước điều hành một cách đồng bộ, đã có sự phối hợp nhuần nhuyễn các công cụ: trực tiếp, gián tiếp đến truyền thông định hướng (đây là điểm mới so với các giai đoạn trược). Đã có chiến lược tương đối mạch lạc, nâng cao tính minh bạch của CSTT. Việc định hướng chính sách rõ ràng hơn đã hỗ trợ doanh đưa ra được các mục tiêu, chiến lược cụ thể, nâng cao uy tín của Ngân hàng Nhà nước. 3. Tác động của chính sách tới nền kinh tế 3.1. Hiệu quả của chinh sách tiền tệ tới nền kinh tế
  49. 48 Năm 2014, hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch đã nâng xếp hạng nhà phát hành nợ nội tệ và ngoại tệ dài hạn của Việt Nam từ B+ lên BB-. Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, bà Victoria Kwakwa cho biết: “Chúng tôi nghĩ việc đánh giá gần đây của tổ chức Fitch là một bước tiến tốt đối với Việt Nam”, bởi kinh tế vĩ mô ổn định, khu vực đối ngoại, xuất khẩu được đẩy mạnh, khiến môi trường kinh doanh lành mạnh hơn trước. Ngân hàng nhà nước được được đánh giá là “điều hành vĩ mô thành công” được thể hiện ở:  Lạm phát giảm Biểu đồ 3.1. Lạm phát của Việt Nam từ 2011-2014 Đơn vị: % Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và giữ cho tỷ giá ở mức ổn định, Năm 2014, tỷ giá của VND so với USD nói chung tương đối ổn định và hoàn toàn nằm trong giới hạn kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Thanh khoản của thị trường ngoại hối tốt. Do nhu cầu cung - cầu của thị trường đôi lúc tỷ giá có biến động tăng giảm nhẹ nhưng nhìn chung thị trường hiện nay đang khá cân bằng giữa sức mua và lực bán. Biên độ giao động trong phạm vi 21.200đ/USD đến 21.300đ/USD trong năm 2014 được coi là khá ổn định so với các cặp ngoại tệ khác trong khu vực và trên thế giới.  Giảm được tình trạng đô la hóa:
  50. 49 Tỷ giá ổn định và lạm phát giảm được duy trì ở mức hai con số làm cho niểm tin của dân chúng vào VNĐ tăng, giảm tình trạng Đô la hóa. Hiện nay mức chênh lệch của trần lãi suất của VNĐ và USD được cho là đủ hấp dẫn để người gửi tiếp tục duy trì gửi tiền VNĐ. Đây là những dấu hiệu tích cực và cũng là thành tựu đáng ghi nhận của công tác quản lý điều hành vĩ mô của Nhà nước trong năm qua. Điều này tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có chiều hướng ổn định hơn.  Lãi suất thị trường và lãi suất liên ngân hàng biến động theo xu hướng giảm Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng dồi dào. Biểu đồ 3.2 và 3.3. Lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất cho vay và huy động trên thị trường từ 2011 – 2014 Đơn vị: %  Thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại tệ quốc gia tăng cao, thị trường vàng được kiểm soát tốt, các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được triển khai quyết liệt, phối hợp đồng bộ với tháo gỡ khó khăn về thuế, phí;  Hệ thống các ngân hàng thương mại đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ của thời điểm 2011 đầu năm 2012, nhất là đối với một số ngân hàng thương mại nhỏ; thanh khoản cải
  51. 50 thiện mạnh, chủ động cân đối vốn; nợ xấu được tích cực xử lý bằng nội lực của các ngân hàng; khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế được mở rộng theo hướng ổn định; năng lực quản trị và năng lực tài chính một số ngân hàng tăng lên; thông tin về hoạt động của hệ thống ngân hàng ngày càng minh bạch hơn. . 3.2. Những vấn đề cần giải quyết để nâng cao hiệu quả CSTT trong thời gian tới Thứ nhất là tình trạng Đô la hóa giảm nhưng vẫn vẫn tiềm ẩn  Đô la hóa trong nền kinh tế khiến việc quản lý của NHNN trở nên kém hiệu quả do NHNN không nắm quyền in đồng tiền này, làm cho MB kém quyền lực hơn  Đô la hóa cũng dẫn đến tình trạng hoán đổi tài sản liên tục. Điều này sẽ tác động không nhỏ tới tỉ giá cũng như lãi suất trên thị trường.  Đo lường tổng khối lượng tiền cung ứng M2 và việc xác định mục tiêu CSTT khó khăn hơn  Hiệu quả của công cụ CSTT hạn chế Thứ hai là việc xử lý nợ xấu, thực hiện tái cơ cấu tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến điều hành chính sách tiền tệ cần phải có lộ trình và có các biện pháp thích hợp, không thể nôn nóng. Dự báo trong năm 2015, thị trường bất động sản sẽ sôi động hơn, chủ yếu là các nhu cầu đích thực về nhà ở, quy mô giao dịch của thị trường vẫn nhỏ. Một số ngân hàng thương mại năng lực quản trị có nhiều yếu kém so với thực tiễn đặt ra, năng lực tài chính không tương xứng với quy mô, tốc độ gia tăng tài sản; Tình trạng sở hữu, đầu tư chéo, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn cả về khối lượng và cơ cấu thời hạn; Thứ ba là việc điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình chuyển đổi, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tham khảo những nguyên lý chung, những cách làm của các quốc gia khác nhưng phải vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam
  52. 51 Tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước năm 2011 2. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước năm 20112 3. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước năm 2013 4. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2011 5. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2012 6. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2013 7. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2014 8. Bản báo cáo định hướng phản triển kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2015 9. Luật NHNN số 46/2010/QH12 10. Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng của Học viện Ngân hàng do PTS. Tô Kim Ngọc (chủ biên) Danh mục các từ viết tắt EU: Liên minh châu Âu NHNN: Ngân hàng nhà nước TCK: Tái chiết khấu TCV: Tái cấp vốn CSTT: Chính sách tiền tề CSTK: Chính sách tài khóa
  53. 52 ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ HẠN MỨC TÍN DỤNG TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2011 ĐẾN NAY Vũ Thị Kim Xuyến, K14 – NHTMI Nguyễn Thị Thu Hương, K14 – NHTMK Hạn mức tín dụng (HMTD) được định nghĩa là việc Ngân Hàng Trung Ương (NHTW) quy định tổng mức dư nợ tối đa mà các tổ chức tín dụng (TCTD) buộc phải tuân 1 thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế0F . Trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng nóng, tín dụng tăng trưởng quá nhanh những năm 2007 – 2008, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã sử dụng nó như một trong những công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ (CSTT). Tuy nhiên, HMTD lại là một công cụ trực tiếp và mang tính hành chính, nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, vì vậy, không thấy được hiệu quả của cơ chế truyền tải, đồng thời, mang tính áp đặt và bó buộc cho các ngân hàng thương mại (NHTM), làm giảm đi tính chủ động, cạnh tranh trong kinh doanh, làm giảm hiệu quả phân bổ nguồn vốn, thậm chí, dễ dẫn đến những tiêu cực nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN. Chính vì vậy, việc NHNN có nên sử dụng HMTD trong điều hành CSTT tại Việt Nam hay không luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà điều hành thời gian qua. Bài viết sẽ tập trung làm rõ thực trạng sử dụng công cụ HMTD của NHNN giai đoạn 2011 – 2014, phân tích những hiệu quả và hạn chế mà công cụ này đem lại, từ đó có những khuyến nghị trong việc sử dụng HMTD trong điều hành CSTT của NHNN. 1. Bối cảnh kinh tế từ năm 2011 đến nay 1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 với khởi đầu là chấn động mạnh trên thị trường bất động sản và chứng khoán Mỹ đã dẫn đến một cuộc suy thoái kinh tế nặng nề trên phạm vi toàn cầu. GDP năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm 2008, và là năm đầu tiên GDP toàn cầu tăng trưởng âm trong vòng 20 năm trở lại. Tốc độ tăng trưởng bình quân giảm từ 4,04%/năm giai đoạn 2001-2007 bị kéo xuống còn 3,2% tính chung 1TheoThs. Đặng Thị Việt Đức - Ths. Phan Anh Tuấn
  54. 53 cho cả giai đoạn 2001-2010. Thời kì này, hầu hết các nước đều có tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với giai đoạn trước khủng hoảng. Đặc biệt, kinh tế Nhật Bản được xem là một mảng tối trong nền kinh tế chung của thế giới với sự thiếu hiệu quả của chính sách kinh tế Abenomics. Kế đến là sự trì trệ của khu vực Đồng tiền chung Châu Âu, hay sự cấm vận của Mĩ với Nga liên quan đến vấn đề Crimea . Điểm sáng kinh tế thời kì này phải kể đến khu vực Châu Á, khu vực năng động nhất thế giới khi mà tốc độ tăng trưởng tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức cao (khoảng 6 – 8%). Trước tình trạng đó, Mỹ đã tung ra các gói QE thông qua nghiệp vụ thị trường mở với việc mua vào và hoán đổi kỳ hạn trái phiếu nhằm duy trì mức lãi suất siêu thấp 0- 0,25% để kích thích nền kinh tế. Cũng trong thời gian trên, vấn đề nợ công Châu Âu với xuất phát điểm là Hy Lạp, sau đó là Cộng Hòa Síp, Tây Ban Nha .đã dẫn đến khủng hoảng niềm tin, rồi sau đó là suy giảm kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao Trước tình trạng đó, hàng loạt các gói cứu trợ được tung ra kèm theo điều kiện thắt chặt chi tiêu đã giúp các nước Châu Âu thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ. Tuy nhiên, nền kinh tế về tổng thể vẫn chưa có nhiều khởi sắc. Bước sang năm 2011, kinh tế Thế Giới đã cho thấy những dấu hiệu lạc quan về phục hồi và phát triển, tuy nhiên vẫn còn lại nhiều hệ lụy tiêu cực. Trong đó, có ba vấn đề chính nổi lên là: (i) rủi ro khủng hoảng nợ công; (ii) rủi ro rủi ro trở lại vòng luẩn quẩn “thất nghiệp cao – tiêu dùng thấp – đầu tư ít – thất nghiệp cao”; (iii) rủi ro giảm sút sự 2 phối hợp chính sách phục hồi kinh tế các quốc gia1F . Cùng với đó là những tác động từ sự bất ổn về chính trị của nhiều nước trên thế giới đã đẩy kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn và thách thức không hề nhỏ. Giai đoạn 2013-2014, lạm phát và thất nghiệp đã giảm thiểu một cách đáng kể, kinh tế thế giới cũng đã có những dấu hiệu phục hồi tích cực, tạo cơ sở cho sự phục hồi nền kinh tế Việt Nam. 1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước 2Theo Hoàng Thị Tư, 2010. “Kinh tế Thế giới sau khủng hoảng, tình hình nợ công và tái cấu trúc nền kinh tế”.
  55. 54 Trước những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014 suy giảm đáng kể so với giai đoạn từ đầu thập kỉ đến năm 2010 (trung bình 5.58% so với 7.25%). Trước thực trạng đó, Chính phủ, cùng với các cơ quan chức năng, trong đó, đặc biệt là NHNN đã thực hiện những giải pháp nhằm kích thích tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá và giá trị đồng tiền bằng các công cụ như lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng hay nghiệp vụ thị trường mở, Nhờ vậy, chỉ số lạm phát đã được kiểm soát ở mức một con số. Trung bình giai đoạn 2011 – 2014, CPI hàng năm duy trì tương đối ổn định ở mức 8.32% trong khi giai đoạn 2008 – 2010 là 13.01% (Hình 1.1). Hình 1.1: Diễn biến tăng trưởng tín dụng, GDP và CPI của Việt Nam 2000-2014 Nguồn: IMF, Tổng cục thống kê Cùng với việc ổn định giá trị đồng tiền thông qua chỉ số lạm phát, tăng trưởng tín dụng nền kinh tế giai đoạn này cũng đã chững lại. Năm 2014, tăng trưởng tín dụng đạt cao nhất so với các năm trong giai đoạn, nhưng cũng duy trì ở mức 12.62%, nếu so với mức 51.39% năm 2007 (Hình 1.1). Tuy nhiên, cần nhìn nhận một điều là, tăng trưởng tín dụng tuy giảm, nhưng không đồng nghĩa với việc suy giảm chất lượng do đã hạn chế được những ảnh hưởng của việc tăng trưởng nóng, mở rộng tín dụng quá mức, tạo ra tình trạng bong bóng như thời kì trước khủng hoảng. Bên cạnh đó, tỷ giá được duy trì ổn định với những cam kết của NHNN đã tạo điều kiện cho sự gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia cũng như tình trạng thặng dư cán cân
  56. 55 thương mại (Hình 1.2). Tất cả những yếu tố đó đã tạo thành điểm sáng trong kinh tế Việt Nam thời kì phục hồi kinh tế sau khủng hoảng. Hình 1.2: Tỷ giá năm 2014 (VND/USD) Nguồn: HSC Thực trạng trên đã đặt ra những yêu cầu trong điều hành CSTT của NHNN trong thời gian tới là cần tiếp tục ổn định lạm phát, tỷ giá, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế vĩ mô, đưa đất nước bước thoát khỏi suy thoái. 2. Thực trạng sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ năm 2011 đến nay 2.1. Mục tiêu điều hành CSTT của NHNN CSTT là một trong những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó NHTW sử dụng các công cụ, biện pháp nhằm đạt được những mục tiêu của mình, bao gồm mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu cuối cùng của CSTT là mục tiêu dài hạn mà NHTW muốn đạt được trong việc điều hành chính sách. Ở Việt Nam, giai đoạn 1997-2009, NHNN theo đuổi CSTT đa mục tiêu như được thể hiện rõ trong luật NHNN 1997: “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân”. Tuy nhiên, việc điều hành CSTT gặp rất nhiều khó khăn do các mục tiêu đều là dài hạn, khó định lượng, đặc biệt, tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai mục tiêu khó có thể đạt được đồng thời trong ngắn hạn.