Cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- co_hoi_va_thach_thuc_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_t.pdf
Nội dung text: Cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN
- CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN OPPORTUNITIES AND CHALLENGES OF VIETNAM’S COMMERCIAL BANKS WHEN ENTERING THE ASEAN ECONOMIC COMMUNITY TS. Phan Thế Công ThS. Phạm Thị Thanh Hà Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ mang lại rất nhiều các cơ hội phát triển nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Một số ngân hàng trong nước đã mở rộng hoạt động sang các nước trong khu vực, đánh dấu cơ hội phát triển của ngành ngân hàng. Ngược lại, ngày càng có nhiều ngân hàng từ các nước “đổ bộ” vào thị trường nước ta. Sự cạnh tranh tăng lên sẽ tạo sức ép để hệ thống ngân hàng Việt Nam tái cấu trúc mạnh mẽ, nhằm thích nghi với môi trường mới. Thách thức đôi vơi cac NHTM se không hề nhỏ khi phải cạnh tranh với các ngân hàng có nền tảng tốt hơn trong khu vực. Bài viết tập trung phân tích đưa ra những nhận định về cơ hội và thách thức mà các NHTM Việt Nam sẽ đối mặt khi AEC ra đời. Qua đó, bài viết đưa ra một số đê xuât va khuyến nghị nhằm tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiểu các thách thức giúp các NHTM Việt Nam tồn tại và đứng vững trong bối cảnh hội nhập quôc tê. Từ khóa: Cộng đồng kinh tế ASEAN, Ngân hang Thương mai, Ngân hang Thương mai ViêtNam, Cơ hôi va thach thưc cua NHTM. Abstract Establishment of the ASEAN Economic Community (AEC) will bring both significant development opportunities and challenges for Vietnam’s businesses in general and its banks in particular. A number of local banks have expanded their operation to regional countries, showing development opportunities in banking industry. In contrast, more regional countries’ banks will enter Vietnam. Increasing competition will certainly put more pressure on Vietnam’s banking restructuring for better adaptation in the new context. Challenges faced by commercial banks seem to be considerable when they have to compete with stronger banks in the region. The paper is to analyse and conclude assumptions of opportunities and challenges of Vietnamese commercial banks when AEC becomes valid. The paper then provides a number of implications for taking advantage of opportunities and mitigating challenges to help Vietnamese banks stay and stay strong in the international integration. Key words: ASEAN Economic Community; Commercial bank; Vietnamese Commercial Banks, Opportunities and Challenges of Commercial Banks. 161
- 1. Đặt vấn đề Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm 10 thành viên, trong đó có Việt Nam đã quyết tâm thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community - AEC) vào cuối năm 2015. AEC được thành lập nhằm mục đích tạo dựng một thị trường thống nhất cho các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề trong ASEAN. Mục tiêu của AEC là thúc đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao để ASEAN có thể hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các biện pháp chính là ASEAN sẽ xây dựng một thị trường ASEAN thống nhất bao gồm: hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và qui chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và thương mại, và hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ. Các biện pháp để xây dựng một cơ sở sản xuất ASEAN thống nhất sẽ bao gồm: củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, và phát triển các kỹ năng thích hợp. Các biện pháp nay đều đã và đang được các nước thành viên ASEAN triển khai trong khuôn khổ các thỏa thuận và hiệp định của ASEAN. AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên và nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN có bổ sung thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và di chuyển vốn tự do hơn. Xu hướng hội nhập sâu rộng này rõ ràng tạo ra những thuận lợi mang tính đột phá cho phát triển kinh tế các nước thành viên nhưng cũng ẩn chứa những thách thức không hề nhỏ, một trong những ngành chịu tác động rõ ràng, mạnh mẽ và có tính chất huyết mạch trong nền kinh tế chính là ngành ngân hàng, do vậy nhận diện những thuận lợi để tận dụng thời cơ cũng như chuẩn bị trước những hành trang cần thiết và dự đoán trước những thách thức để điều chỉnh là vấn đề quan trọng đặt ra cho các NHTM Việt hiện nay. Việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ mang lại rất nhiều các cơ hội phát triển nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Một số ngân hàng trong nước đã mở rộng hoạt động sang các nước trong khu vực, đánh dấu cơ hội phát triển của ngành ngân hàng. Ngược lại, ngày càng có nhiều ngân hàng từ các nước “đổ bộ” vào thị trường nước ta . Sự cạnh tranh tăng lên sẽ tạo sức ép để hệ thống ngân hàng Việt Nam tái cấu trúc mạnh mẽ , nhằm thích nghi với môi trường mới . Thách thức đôi vơi cac NHTM sẽ không hề nhỏ khi phải cạnh tranh với các ng ân hàng có nền tảng tốt hơn trong khu vực . Bài viết tập trung phân tích đưa ra những nhận định về cơ hội và thách thức mà các NHTM Việt Nam sẽ đối mặt khi AEC ra đời. Qua đó, bài viết đưa ra một số đê xuât va khuyến nghị nhằm tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiểu các thách thức giúp các NHTM Việt Nam tồn tại và đứng vững trong bối cảnh hội nhập quôc tê. 2. Tóm tắt các nội dung và tiến trình gia nhập AEC của các NHTM Việt Nam Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 ở Thái Lan, các Nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Cha-am/Hua Hin về Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (ASEAN Community Roadmap) và thông qua Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC Blueprint) đến năm 2015 (ISEAS, 2009). Kế hoạch nói trên đã quy định cụ thể các biện pháp nhằm thực hiện bốn trụ cột của AEC gồm: 162
- Thứ nhất, một thị trường hàng hóa và cơ sở sản xuất thống nhất, thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN với vai trò là một trung tâm sản xuất đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu; mang lại lợi ích cho các ngành được ưu tiên tham gia hội nhập, như nông nghiệp, hàng không, ô tô, e-ASEAN, điện tử, ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe, cao su, dệt may và thời trang, du lịch, ngành công nghiệp gỗ và các ngành dịch vụ khác. Thứ hai, một khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, trên cơ sở ưu tiên sáu yếu tố chủ chốt, bao gồm: Chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển kết cấu hạ tầng, hệ thống thuế và thương mại điện tử. ASEAN cam kết thúc đẩy cạnh tranh công bằng thông qua việc ban hành các chính sách và luật cạnh tranh, bảo đảm sân chơi bình đẳng trong ASEAN và hiệu quả kinh tế khu vực ngày càng cao. Thứ ba, một khu vực phát triển kinh tế đồng đều với hai điểm nhấn: (i).Hỗ trợ cho các DN vừa và nhỏ phát triển bằng cách thuận lợi hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ; (ii).Thực hiện các sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) để chỉ ra những lĩnh vực hoạt động cụ thể. IAI là các sáng kiến, chương trình hợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia thành viên ASEAN, nhất là giữa ASEAN 6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Singapore) và ASEAN 4 (Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan) qua đó thúc đẩy hội nhập kinh tế của nhóm nước Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV), cùng hướng tới một mục tiêu chung và bảo đảm tất cả các quốc gia này đều có được lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế. Thứ tư, một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới, nhằm giúp ASEAN có thể cạnh tranh thành công trên thị trường toàn cầu, đạt được mục đích sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế, đồng thời bảo đảm thị trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. AEC sẽ trở thành tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động tham gia cùng các đối tác thương mại tự do của ASEAN và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới cấu trúc khu vực. 163
- Sơ đồ 1: Bốn trụ cột của Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC sẽ biến ASEAN thành một khu vực với sự tự do dịch chuyển hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, lao động có kỹ năng và tự do dịch chuyển dòng vốn. Liên quan đến việc tạo lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, các quốc gia thành viên ASEAN đang tập trung thực hiện giảm và tiến tới xoá bỏ các rào cản để đảm bảo dòng chảy hàng hoá, dịch vụ và vốn trở nên tự do giữa các nước ASEAN. Hội nhập thị trường vốn và thị trường tài chính ASEAN vào năm 2015 là một vấn đề trọng tâm của AEC nhằm tạo ra hệ thống tài chính khu vực thông suốt với cơ chế tài khoản vốn tự do hơn, thị trường vốn các thành viên ASEAN được liên kết chặt chẽ hơn sẽ thúc đẩy cho hoạt động thương mại và đầu tư trong khu vực phát triển. Hội nhập tài chính được xây dựng trên cơ sở: Tự do hoá dịch vụ tài chính; tự do hoá tài khoản vốn và phát triển thị trường vốn nhằm thúc đẩy hợp tác, kết nối thị trường cũng như khả năng thanh khoản trên thị trường vốn trong ASEAN. Trước khi AEC chính thức đi vào hoạt động, các hàng rào về thuế quan cũng như thủ tục đang được gỡ bỏ. Vào tháng 5/2011, các Bộ trưởng Tài chính ASEAN đã đàm phán và ký kết nghị định thực hiện gói cam kết thứ 5 đối với dịch vụ tài chính theo Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS). Các hạn chế đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai, đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và danh mục đầu tư sẽ được xoá bỏ. Hạn chế đối với giao dịch mua bán ngoại tệ, thanh toán cho các giao dịch chuyển tiền cũng nới lỏng. Việc xoá bỏ hay nới lỏng các hạn chế nêu trên sẽ nâng cao lợi thế của dòng chu chuyển vốn tự do trong ASEAN. Nếu trở thành một thực thể kinh tế chung, AEC sẽ là nền kinh tế lớn thứ bảy trên thế giới với tổng sản phẩm nội khối (GDP) đạt khoảng 2.400 tỷ USD, thương mại nội khối ASEAN lên tới 608,6 tỷ USD, chiếm 24,2% tổng thương mại của khu vực, tổng vốn đầu tư 164
- trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước ASEAN lên tới 122,4 tỷ USD (cao nhất so với toàn cầu) trong năm 2013, và có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào năm 2050 nếu xu hướng này tiếp tục phát triển. Với dân số hơn 600 triệu người và cơ cấu dân số trẻ, thị trường tiềm năng của ASEAN lớn hơn nhiều so với thị trường EU và Bắc Mỹ, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ (Hình 1). Tỷ lệ nợ công ở các quốc gia ASEAN thấp hơn nhiều so với các quốc gia lớn về kinh tế như Mỹ, Nhật, Anh. Mức độ tiết kiệm cũng khá ổn định kể từ năm 2005, khoảng 1/3 GDP, mặc dù với sự khác biệt lớn về tiết kiệm giữa các nền kinh ế cao, chẳng hạn như Brunei, Malaysia, Singapore, và nền kinh tế thấp, như Campuchia, Lào, Philippines. Khu vực ASEAN nằm ở ngã tư của nhiều dòng chảy toàn cầu. Singapore hiện là quốc gia thứ tư có thứ hạng cao nhất trong sự kết nối toàn cầu, theo dõi dòng vốn vào và ra của hàng hoá, dịch vụ, tài chính và con người, cũng như các dòng cơ bản của dữ liệu và thông tin liên lạc cho phép tất cả các loại trao đổi chéo qua biên giới. Malaysia (18) và Thái Lan (36) cũng xếp hạng trong top 50 quốc gia kết nối nhất. ASEAN là vị trí tốt để được hưởng lợi từ sự tăng trưởng trong tất cả các dòng chảy toàn cầu. Chủ động và tích cực hội nhập khu vực ASEAN luôn là chính sách nhất quán của Việt Nam trong những năm qua. Điều này được thể hiện qua việc ASEAN luôn là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Năm 2013, ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ và EU, với kim ngạch 18,47 tỷ USD, tăng 4,4% so với năm trước đó. Về đầu tư, các dự án có xuất xứ từ ASEAN hoặc thông qua ASEAN ngày một gia tăng . Đồng thời, ASEAN cũng là thị trường đầu tư chủ yếu của các doanh nghiêp Việt Nam trong thời gian qua. Việt Nam được đánh giá là nước đứng thứ hai trong việc hoàn thành các cam kết xây dựng AEC. Đến đầu năm 2015, Việt Nam đã đạt được khoảng 90% khối lượng công việc, chỉ sau Singapore. Ngoài ra, Việt Nam còn dẫn đầu trong việc đưa dòng thuế về 0%. Theo thống kê, cho đến nay khoảng 90% dòng thuế Việt Nam đã về 0% và từ nay đến 2018, Việt Nam đưa tiếp 7% các dòng thuế về 0% (Hình 2). Điều này cho thấy mặc dù trong bối cảnh còn nhiều khó khăn và sự chênh lệch giữa Việt Nam và 6 thành viên cũ của ASEAN còn khá lớn, nhưng với nỗ lực, quyết tâm hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã khắc phục khó khăn, phấn đấu đạt tỷ lệ cao và được các nước ASEAN khác đánh giá cao. Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới các chính sách để thực hiện các cam kết trong từng ngành cụ thể, điển hình là trong các ngành dịch vụ phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông để phù hợp với các cam kết trong hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) cũng như GATS. Để thực hiện theo đúng các cam kết đã ký, Việt Nam đã và đang từng bước nới lỏng dần các quy định trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và hiện nay đối với lĩnh vực ngân hàng, giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tối đa là 30%, đối với lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán là 49%. Tuy nhiên, theo cam kết về tự do hóa dịch vụ trong AEC, đến hết năm 2015, các nước sẽ phải mở cửa tất cả các ngành dịch vụ và nhà đầu tư trong khối có thể tham gia tới mức 70% vốn tùy thuộc vào mức độ sẵn sàng của từng nước thành viên. Có thể nói, AEC đã là bước tiến đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa hơn nữa đối với lĩnh vực tài chính so với cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 165
- Bảng 1. Cam kết các chỉ tiêu ngành ngân hàng cần tự do hóa vào năm 2015 (Nguồn: ASEAN Economic Community blueprint, Bối cảnh mới này sẽ đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải sẵn sàng và chủ động tham gia vào quá trình hội nhập vì khi đó thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước, các NHTM sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn không chỉ trên sân nhà mà còn trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh việc nới lỏng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào sân chơi nội địa, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đối mặt với nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật để có thể thực sự tận dụng được những cam kết ưu đãi trong quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng hoạt động ra thị trường khu vực và quốc tế. Trong nội dung về cam kết hội nhập tài chính, các nước ASEAN đã xây dựng kế hoạch tổng thể chi tiết (AEC Blueprint- Bảng 1) để hỗ trợ và nâng cao nhận thức cho các NHTM và các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính trong khu vực nhằm đạt được bốn mục tiêu: (i) tự do hoá dịch vụ tài chính, (ii) tự do hoá tài khoản vốn, (iii) phát triển và hội nhập các thị trường vốn và (iv) phát triển các dịch vụ thanh toán. Trong đó, các nước ASEAN đang nỗ lực tìm ra một khuôn khổ chung cho các ngân hàng đạt chuẩn ASEAN (Qualified ASEAN Banks – QABs). Theo đó, chỉ những ngân hàng đạt tiêu chuẩn ASEAN mới được phép mở rộng hoạt động tại các nước thành viên khác và được đối xử như ngân hàng trong 11 nước của nước đó. Trong số các tiêu chí để được cấp chứng nhận QABs có hai yêu cầu bắt buộc là mức vốn đủ lớn và quản lý tốt. Như vậy, để có thể thực sự tận dụng được sân chơi chung do cộng đồng AEC tạo ra nói riêng và vươn ra các thị trường rộng lớn hơn để có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước khi gia nhập thị trường quốc tế, bản thân các ngân hàng Việt Nam phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định mà QAB tạo ra cũng như phải ngày càng tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế nói chung trong hoạt động ngân hàng. - Đối với việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và hiệu quả điều hành chính sách của của NHNN nói riêng: Với việc gia nhập WTO và mở rộng các hiệp định FTA song phương và đa phương, môi trường hoạt động kinh tế của Việt Nam đã ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, đặt ra những yêu cầu mới trong công tác quản lý và triển khai nhiệm vụ của các cơ quan trung ương. Trong bối cảnh mới, lộ trình hội nhập tài chính AEC đã, đang và sẽ đặt ra cho NHNN thêm nhiều vấn đề cụ thể, trực diện trong công tác quản lý và điều hành hoạt động ngân hàng nói riêng và việc góp phần duy trì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nói chung. Trong đó, hai lĩnh vực đáng chú ý là: Thứ nhất, yêu cầu tự do hóa giao dịch vốn và nhiệm vụ ổn định tài chính: kể từ khi gia nhập WTO cho đến nay, có thể nói Việt Nam đã khá mạnh dạn trong việc mở cửa thị trường nói chung và mở cửa cho các dòng lưu chuyển vốn xuyên biên giới. Tuy nhiên, nếu thực hiện đúng cam kết AEC, đến hết năm 2020, Việt Nam cũng như các nước trong khu vực còn cần phải tiếp tục tự do hóa các giao dịch vốn hơn nữa, tất cả các dòng vốn sẽ được tự do lưu chuyển, thị trường chứng khoán cũng phải được hội 166
- nhập sâu hơn. Bên cạnh những đòi hỏi này, khuôn khổ AEC rất coi trọng và đặt ra các điều khoản, điều kiện hỗ trợ và tạo lập ổn định tài chính cho các quốc gia thành viên. Một trong ba trụ cột xây dựng lộ trình hội nhập tài chính tiền tệ khu vực ASEAN hậu 2015 được đặt ra chính là yếu tố “Mạnh mẽ và bền vững” – đảm bảo ổn định hệ thống tài chính và kết cấu hạ tầng khu vực. Thứ hai, yêu cầu kết nối hệ thống tài chính ngân hàng và khả năng phát triển cơ sở hạ tầng theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Theo Kế hoạch tổng thể chi tiết (AEC Blueprint), các quốc gia cam kết áp dụng các tiêu chuẩn chung để phát triển hiệu quả tài chính xuyên biên giới; Cải thiện môi trường cơ sở hạ tầng và các khoản thanh toán hiện hành; Khai thác các tùy chọn của hệ thống thanh toán và giải quyết các mối liên kết trong ASEAN. Hết năm 2015, xây dựng và phát triển tiêu chuẩn thanh toán và cơ sở hạ tầng thanh toán, phấn đấu đến năm 2020 hội nhập Hệ thống thanh toán ASEAN. Như vậy, để chủ động và tích cực tham gia các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, việc hoàn thiện và thống nhất hệ thống thanh quyết toán quốc gia theo chuẩn mực khu vực và quốc tế để có thể thuận lợi tham gia vào cơ sở hạ tầng hệ thống thanh toán khu vực ASEAN phục vụ các luồng lưu chuyển vốn và hội nhập tài chính, tập trung vào cả các giao dịch giá trị lớn cũng như các giao dịch cá nhân là yêu cầu đặt ra đối với NHNN nói riêng cũng như các cơ quan, đơn vị quản lý liên quan 3. Điểm mạnh và điểm yếu của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC 3.1. Những điểm mạnh của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC Ở tầm vĩ mô các NHTM Việt Nam chịu sự ảnh hưởng tích cực từ phía NHNN cụ thể như: - NHNN đã chủ động, tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng tài chính, tiền tệ ngân hàng khu vực và quốc tế; mở rộng quan hệ với các đối tác tiềm năng nhằm tăng cường huy động hỗ trợ cả về tài chính và kỹ thuật cho hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thống như: (i) Tích cực tham dự các Hội nghị Thường niên của ADB, WB, IMF và có các cuộc tiếp xúc với Lãnh đạo cấp cao của các tổ chức; (ii) Tăng cường hợp tác song phương theo hướng mở rộng đối tác trên hầu hết các châu lục và ngày càng đi vào chiều sâu; (iii) Tích cực tăng cường hợp tác tài chính tiền tệ ngân hàng trong khuôn khổ WTO, ASEAN, ASEAN+3, SEACEN, APEC , NHNN đã chủ động tham gia tham gia các vòng đàm phán quốc tế, tăng cường các hoạt động hợp tác, đẩy mạnh tìm kiếm đối tác và nhà tài trợ tiềm năng, xúc tiến gia nhập các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mới như Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), Ngân hàng Phát triển Á Âu (EDB), Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á (AIIB) nhằm mở rộng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; chủ động nghiên cứu xây dựng Đề án vận động duy trì nguồn vốn vay ưu đãi IDA trong kỳ IDA 17 và 18; vận động WB cho phép Việt Nam được hưởng cơ chế chuyển đổi vay vốn IDA cho giai đoạn tiếp theo. - Hoạt động quản lý và điều hành chính sách của NHNN được tích cực dịch chuyển và triển khai hiệu quả theo hướng một NHTW hiện đại cả về mặt chức năng, nhiệm vụ và khuôn khổ mục tiêu cũng như điều hành chính sách để đáp ứng những nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh mới. Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ nhưng có độ mở lớn và thị trường vốn tương đối mở cửa để thu hút đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp nước ngoài. Do vậy, ảnh hưởng lan truyền từ kinh tế thế giới đến thị trường trong nước cũng ngày càng rõ rệt và mạnh mẽ hơn. Trước những diễn biến đó, trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Chính 167
- phủ đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc nhấn mạnh tới một nhiệm vụ cơ bản của NHNN là “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm” thay vì quy định chung chung “xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia”, Nghị định đã bổ sung thêm nhiệm vụ ổn định tiền tệ, tài chính nhằm phân tích, đánh giá tình hình tiền tệ, tài chính; đề xuất các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính; và Xây dựng chính sách, biện pháp ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống tiền tệ, ngân hàng, tài chính. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương trên 150% GDP (2014). Với chức năng nhiệm vụ của mình, NHNN đã kết hợp điều hành hợp lý và khéo léo chính sách tiền tệ, tỷ giá và quản lý vốn đã thúc đẩy dự trữ ngoại hối gia tăng đáng kể trong giai đoạn 2012-2014, tạo nguồn lực “vật chất” quan trọng để hỗ trợ ngược trở lại cho công tác quản lý ngoại hối và ổn định tỷ giá, đóng góp lớn vào việc ổn định kinh tế vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian qua. Điểm đáng chú ý là giai đoạn từ 2012 trở lại đây, chính sách tiền tệ của Việt Nam đạt được sự độc lập cao trong điều kiện tỷ giá hối đoái ổn định, tự do hóa luồng vốn mở rộng hơn cùng với sự gia tăng đáng kể dự trữ ngoại hối. - Cơ sở hạ tầng tài chính không ngừng được cải thiện, đáp ứng yêu cầu về khả năng kết nối (connectivity) trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực tài chính ngân hàng. Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống thanh toán và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế không ngừng được nâng cấp và cải tiến. Để tạo cơ sở thực hiện những đổi mới trong lĩnh vực này, NHNN đã chủ động triển khai thực hiện nhiều giải pháp tích cực trong việc hoàn thiện khuôn khổ thể chế liên quan đến hoạt động thanh toán, thành lập trung tâm chuyển mạch thống nhất quốc gia, phát triển sản phẩm dịch vụ mới và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thanh toán. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) tiếp tục phát huy vai trò là hệ thống thanh toán xương sống của quốc gia; hoạt động thông suốt, hiệu quả với số lượng và giá trị giao dịch tiếp tục tăng cao. Đối với việc tham gia các tổ chức ban hành chuẩn mực quốc tế về thanh toán như Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), trong thời gian qua, NHNN đã tích cực tham gia vào Nhóm đặc trách về Hoạt động thanh toán đối với tiếp cận tài chính (PAFI - Payment Aspects of Financial Inclusion) do WB và BIS chủ trì. Trong quan hệ với SWIFT, NHNN đã củng cố và hoàn thiện VIETSWIFT, làm cầu nối giữa SWIFT và các NHTM thành viên tại Việt Nam; phối hợp với SWIFT trong việc xây dựng, phát triển, nâng cấp dịch vụ của SWIFT tại Việt Nam, phục vụ giao dịch thanh toán và chuyển tiền quốc tế. Riêng đối với hệ thống NHTM giai đoạn 2011 – 2015 đã có bước phát triển bùng nổ về loại hình sản phẩm dịch vụ, đổi mới trong hoạt động quản trị điều hành và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại. Những điểm mạnh của NHTM thể hiện nổi bật những năm gần đây như: (i) Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ: bên cạnh nhóm dịch vụ ngân hàng truyền thống như nhận tiền gửi, cho vay , các ngân hàng thương mại đã phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ hiện đại, mang tính toàn cầu như các sản phẩm/dịch vụ ngoại hối và phái sinh, tư vấn đầu tư, quản lý tài sản hay mô hình liên kết giữa ngân hàng và bảo hiểm Ngoài ra, dịch vụ thanh toán trong thời gian qua có sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, đặc biệt là thị trường thẻ ngân hàng . 168
- (ii) Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin: Việc áp dụng các hệ thống ngân hàng lõi theo chuẩn mực quốc tế đã hỗ trợ nghiệp vụ ngân hàng nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm chi phí lao động. Việc ung dụng dịch vụ ngân hàng điện tử theo chuẩn mực quốc tế đã cho phép người dùng thực hiện các giao dịch trực tuyến mà không phải đến tận nơi, thành lập trung tâm quản lý dữ liệu tập trung, các trung tâm hỗ trợ khách hàng Call Center, hệ thống quản lý quan hệ khách hàng CRM giúp đáp ứng nhu cầu tốt nhất cho khách hàng, tạo tiện ích tối đa cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng. (iii) Không ngừng đổi mới quản trị điều hành: Để hội nhập được với nền kinh tế thế giới, hầu hết các ngân hàng đều đã chú trọng tăng cường năng lực quản trị, điều hành của ngân hàng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và khu vực. Thời gian qua, các ngân hàng đã tập trung kiện toàn bộ máy nhân sự chủ chốt, nhân sự cấp cao để nâng cao chất lượng quản trị, điều hành. Bên cạnh đó, các NHTM cổ phần đã ý thức rõ ràng hơn về việc nâng cao chất lượng hoạt động thông qua việc củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị rủi ro, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, quy trình nội bộ, đặc biệt là cấp tín dụng, đầu tư và huy động vốn. Trong giai đoạn tái cơ cấu ngành ngân hàng, các ngân hàng đã phải tăng cường cơ cấu lại quản trị, điều hành, trong đó yêu cầu tiệm cận với thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro cũng như minh bạch, công khai hóa trong hoạt động ngân hàng là tất yếu . (iv) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Để đáp ứng được đòi hỏi của quy trình, chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại đều tăng cường công tác tuyển dụng, đào tạo để tạo nguồn nhân lực có tri thức và trình độ. Bên cạnh đó, sự mở cửa nền kinh tế cũng góp phần thu hút một lượng lớn nguồn nhân lực có trình độ từ nước ngoài đến làm việc cho các ngân hàng tại Việt Nam 3.2. Những điểm yếu của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC Theo đánh giá của Brand Finance, năm 2015 Việt Nam chỉ có hai ngân hàng Vietinbank và Vietcombank được lọt vào top 500 thương hiệu ngân hàng có giá trị nhất trên thế giới, trong khi đó Singapore có 3 ngân hàng, Malaysia có 7 ngân hàng, Indonesia có 6 ngân hàng, Thái Lan có 8 ngân hàng, Philippines có 4 ngân hàng Có thể thấy trong bảng 1 ngân hàng Việt chưa có được thứ hạng cao, và số lượng ngân hàng góp mặt trong top 500 còn hạn chế. Một phần nguyên nhân đến từ việc các ngân hàng của Việt Nam còn chưa lớn, tiềm lực tài chính chưa mạnh và chưa tạo ra những dấu ấn nhất định trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. 169
- Bảng 1. Thứ hạng các ngân hàng khu vực ASEAN trong top 500 ngân hàng giá trị nhất thế giới theo đánh giá của Brand Finace (Nguồn: Banking 500 2015 The most valuable banking brands of 2015 - Brand Finance) Vốn chủ sở hữu, tổng tài sản là hai chỉ tiêu đánh giá quy mô hoạt động của một ngân hàng thương mại, giúp ngân hàng thể hiện được tiềm năng phát triển và tiềm lực kinh tế. Vốn điều lệ nằm trong vốn chủ sở hữu được đánh giá là vốn đệm dự phòng của ngân hàng thương mại, là vốn đảm bảo an toàn, giúp ngân hàng bù đắp các chi phí khi có rủi ro xảy ra. Tại Việt Nam vốn điều lệ là cơ sở để tính các tỷ lệ đảm bảo an toàn của ngân hàng như tỷ lệ cấp tín dụng cho khách hàng, giới hạn góp vốn, mua cổ phần vào công ty con, công ty liên kết, hệ số đảm bảo an toàn Theo Nghị định của Chính phủ 141/2006/NĐ-CP về việc ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, theo đó quy định các tổ chức tín dụng phải nâng vốn điều lệ lên 3000 tỷ VND vào ngày 31/12/2010, sau đó Nghị định được sửa đổi theo Nghị định số 10/2011/NĐ-CP Chính phủ quyết định gia hạn về việc nâng vốn điều lệ cho các tổ chức tín dụng đến ngày 31/12/2012. Nhận thấy được vai trò quan trọng của việc tăng vốn điều lệ, các ngân hàng thương mại đã cố gắng, tích cực để hoàn thiện theo quy định của Nhà nước. Điều này giúp các ngân hàng có một thể trạng tốt và tạo niềm tin cho khách hàng về sức mạnh tài chính. Tuy nhiên, so với các ngân hàng khu vực thì vốn tự có, tổng tài sản của ngân hàng Việt Nam còn chưa cao. Theo xu hướng mở rộng và phát triển, các nước trong khu vực đã hình thành các định chế tài chính để mở rộng quy mô, phân tán rủi ro, tối đa hóa lợi nhuận và đã mang đến những thành công nhất định điển hình như OCBC, DBS Group, Bangkok Bank. 170
- Bảng 2. Vốn chủ sở hữu, tổng tài sản của các định chế tài chính lớn trong khu vực ASEAN năm 2014 (đơn vị: tỷ USD) (Nguồn: Báo cáo thường niên của các định chế tài chính năm 2014) Chỉ tiêu về khả năng sinh lời ROA, ROE ROA (Return over Asset) lợi nhuận trên tổng tài sản và ROE (Return over Equity) lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Đây là hai chỉ tiêu đánh giá hoạt động hiệu quả của một ngân hàng, thể hiện phần lợi nhuận mà các ngân hàng thu về trên một đồng tài sản hoặc một đồng vốn chủ sở hữu. Bảng 3. Chỉ tiêu ROA, ROE của các định chế tài chính trong giai đoạn 2012-2014 (%) (Nguồn: Báo cáo thường niên của các định chế tài chính năm 2012 – 2014 ) 171
- So sánh với các định chế tài chính mạnh trong khu vực thì qua hai chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đang ở mức trung bình, thời gian vừa qua các NHTM Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều tồn tại như nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao, suy thoái kinh tế, làm tăng chi phí dự phòng rủi ro, giảm tài sản, lợi nhuận giảm nên các hệ số ROA, ROE qua đó cũng giảm theo. Theo bảng 3, có thể nói các NHTM Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, hoạt động kém hiệu quả hơn so với các ngân hàng trong khu vực, đó cũng là một quan ngại đối với ngành ngân hàng Việt Nam. Chỉ số CAR (Capital Adequacy Ratio) tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu được tính bằng vốn tự có trên tổng tài sản có hiệu chỉnh rủi ro. Chỉ số này là thước đo tỷ lệ an toàn vốn, là cơ sở để đánh giá mức độ bù đắp chi phí rủi ro hay khả năng chịu rủi ro của ngân hàng trước những rủi ro mà ngân hàng thường gặp phải như rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản Hệ số này do Ủy ban giám sát tài chính ngân hàng Basel đề xuất nhằm định hướng cho sự ổn định, an toàn trong hoạt động của các định chế tài chính. Theo Basel III cũng như Basel II quy định hệ số này là 8%, tuy nhiên ở Việt Nam, thông tư của Ngân hàng Nhà nước số 13/2010/TT-NHNN quy định tỷ lệ này là 9%, và hiện nay các ngân hàng thương mại đang đáp ứng rất tốt, duy chỉ các công ty tài chính có chỉ số này dưới 9% theo thông cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước năm 2014. Tuy nhiên khi so sánh chỉ số CAR với các định chế tài chính lớn trong khu vực, thì có thể nhận thấy khả năng chịu rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam kém hơn, đây cũng là một điều đáng lo ngại khi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các định chế khác trong khu vực. Bảng 4. Chỉ số an toàn vốn tối thiểu của các định chế tài chính trong năm 2014 (đơn vị: %) (Nguồn: Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016) Ngoài ra các NHTM Việt Nam hiện nay còn gặp phải những khó khăn khác như: - Đối với các NHTM Viêt Nam khi hoạt động ở nước ngoài là sự cạnh tranh trong môi trường khắc nghiệt với các NHTM ở nước sở tại. Trong khi các NHTM bản địa có sự am hiểu thị trường nội địa một cách chắc chắn về phong tục, tập quán, tâm lý khách hàng, có mạng lưới phát triển rộng khắp, có lượng khách hàng đông đảo thì các NHTM Viêt Nam lại có những hiểu biết hạn chế về những lĩnh vực này, chỉ có một vài chi nhánh hoạt động và chưa thu hút được nhiều khách hàng. 172
- - Mở rộng hoạt động ở nước ngoài sẽ làm phát sinh chi phí đầu tư ban đầu cho hoạt động rất lớn. Trong bối cảnh kinh tế phục hồi chậm chạp như hiện nay, phần lớn các NHTM gặp khó khăn trong kinh doanh, phải tiết giảm tối đa chi phí. Do đó, việc mở rộng mạng lưới đầu tư vào AEC trong bối cảnh này cần được cân nhắc kỹ. - Dù có những tương đồng nhất định về đặc điểm địa lý , kinh tế và đặc thù dân cư nhưng khi mở rộng hoạt động kinh doanh tại thị trường các nước ASEAN , các NHTM Viêt Nam sẽ gặp phải nhiều rủi ro. Các NHTM Viêt Nam vẫn kinh doanh dịch vụ ngân hàng truyền thống là chủ yếu, tín dụng là nguồn mang lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi hoạt động ở các nước ASEAN, hoạt động tín dụng sẽ chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với tín dụng trong nước bởi sự chênh lệch nguồn thông tin cũng như những phong tục, tập quán kinh doanh. Mặt khác, việc kiểm soát các khoản tín dụng ngoài nước sẽ khó khăn hơn và khi có có xảy ra tranh chấp thì việc giải quyết tranh chấp cũng không hề dễ đàng. - NHTM Việt Nam còn rất nhỏ bé. Hiện nay chưa có số liệu để bóc tách giá trị xuất khẩu dịch vụ ngân hàng, mà vẫn được thống kê chung trong giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính. Tuy nhiên quy mô của xuất khẩu tài chính rất nhỏ cho thấy mức độ hạn chế của xuất khẩu dịch vụ ngân hàng. Tính riêng trong năm 2014, giá trị khẩu dịch vụ tài chính của Việt Nam ước đạt 175 triệu USD, chiếm khoảng 3,3% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của cả nước. Giá trị xuất khẩu đã giảm dần từ năm 2007 dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu và đến năm 2014 mới tăng trưởng trở lại. Hiện giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính của Việt Nam tương đương với một số nước trong khu vực như Thái Lan (178 triệu USD), Malaysia (190 triệu USD), Indonesia (222,9 triệu USD), tuy nhiên thấp hơn nhiều so với các nước như Singapore (20 tỷ USD), Nhật Bản (7,2 tỷ USD), Ấn Độ (5,6 tỷ USD), Trung Quốc (4,5 tỷ USD). 4. Cơ hội và thách thức đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC 4.1. Cơ hôi đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC Theo Bộ Tài Chính, quy mô GDP của các nước ASEAN đạt trên 2,3 nghìn tỷ USD và tốc độ tăng trưởng trên 5% mỗi năm, lượng dân số khoảng trên 625 triệu người, cơ cấu dân số trẻ, mức thu nhập bình quân đầu người khoảng gần 4.000 USD/người/năm chắc chắn sẽ là cơ hội phát triển tốt nếu biết cách tận dụng đối với các NHTM Việt Nam. Khi AEC hình thành, việc tự do hóa dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Bên cạnh đó, với sự gia tăng của đầu tư nước ngoài trực tiếp và hoạt động kinh tế ở khu vực nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng cũng sẽ tăng mạnh. Theo báo cáo ngành ngân hàng Việt Nam, tính đến tháng 6 năm 2015, Việt Nam có 5 ngân NHTM nhà nước, 31 NHTM cổ phần, 6 ngân hàng liên doanh và 6 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Hội nhập tài chính AEC sẽ giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần và tiếp cận với công nghệ quản trị tiên tiến, hiện đại. Sự tự do luân chuyển các dòng vốn đầu tư của AEC sẽ có tác động tích cực đến phát triển hệ thống NHTM của Việt Nam không chỉ theo chiều rộng mà còn theo chiều sâu. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn tài chính lớn sẽ góp phần làm chuyên nghiệp hóa thị trường ngân hàng Việt Nam, từ đó tăng cường kinh nghiệm và nâng cao tiêu chuẩn về quản trị ngân hàng thương mại, quản trị rủi ro, kỹ năng phân tích, đầu tư cho các NHTM trong nước. 173
- Sự luân chuyển tự do của các dòng vốn cũng khiến cho quy mô của thị trường tài chính tăng lên đáng kể và trở thành kênh huy động vốn quan trọng của các ngân hàng. Sẽ có ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài hiện diện tại Việt Nam và những ngân hàng này sẽ rót vốn vào Việt Nam, đây cũng là nguồn lực bổ sung đáng kể đối với phát triển nền kinh tê. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, song song với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong bối cảnh chung đó, các NHTM Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập và cạnh tranh vì khi đó thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước, các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà. Thứ hai, thực tế cho thấy, không một ngân hàng nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì một ngân hàng có lợi thế về mặt này và hạn chế về mặt khác. Các ngân hàng phải nhận biết được điều này để tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua việc phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Có như vậy các ngân hàng mới có thể giữ vững và phát triển được thị phần, lợi nhuận trong điều kiện mở cửa thị trường, có sự tham gia ngày càng nhiều của các ngân hàng trong nước và nước ngoài. Thứ ba, một thực trạng phổ biến hiện nay là năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém nên khả năng tồn tại và khẳng định vị thế trên thị trường (đặc biệt là thị trường quốc tế) chưa cao. Từ những phân tích trên, cùng với tầm quan trọng và đặc điểm của ngành ngân hàng trong tiến trình phát triển kinh tế quốc dân, để có thể tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế thách thức, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là vấn đề tất yếu khách quan. Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện tự do hóa và mở rộng thị trường ngân hàng theo các cam kết quốc tế. Điều này đã và đang tạo ra cho các NHTM Việt Nam những cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít những thách thức khó khăn phải vượt qua. Vào AEC, các NHTM Việt có cơ hội mở rộng phát triển mạng lưới ra khỏi phạm vi quốc gia , điều này là dấu hiệu cho thấy sức cạnh tranh của các NHTM Viêt Nam đang từng bước được nâng cao. Hiện các NHTM Việt Nam đã và đang tận dụng những cơ hội để đầu tư sang các nước ASEAN như: Lào, Myanmar, Campuchia, Đầu tư ra sang các nước ASEAN giúp các NHTM đa dạng hóa hoạt động , tiếp cận với nhiều sản phẩm tài chính hiện đại và góp phần nâng cao kinh nghiệm , hình ảnh, vị thế của NHTM Viêt Nam trong khu vực ASEAN nói riêng và trên trường quốc tế nói chung. Việc mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép các NHTM trong và ngoài nước được hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và lớn mạnh trong một sân chơi công bằng và bình đẳng hơn còn tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước thâm nhập thị trường quốc tế và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hội nhập còn đem lại cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro và thanh toán, từ đó 174
- nâng cao vị thế và uy tín của các NHTM Việt Nam trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế, điều vốn là hạn chế của các NHTM Việt Nam hiện nay. Bảng 6. Thống kê số lượng chi nhánh, văn phòng đại diện của các NHTM Viêt Nam tại ASEAN Ngân hàng, Số lượng chi nhánh văn phòng đại diện Năm thành lập (VPĐD) tại ASEAN Quốc gia Vietcombank 01 VPGD Singapore 1997 Vietinbank 01 chi nhánh Lào 09/2/2012 BIDV 01 VPĐD Lào 22/7/2011 01 VPĐD, 5 chi Campuchia 8/2009 nhánh 01 VPĐD Myanmar 2011 Sacombank 01 chi nhánh (NHTM Lào 12/2008 100% vốn nước ngoài) 01 chi nhánh (NHTM Campuchia 6/2009 100% vốn nước ngoài MB 01 chi nhánh Lào 12/2010 01 chi nhánh Campuchia 12/2011 SHB 01 chi nhánh Campuchia 9/2/2012 AGRIBANK 01 chi nhánh Lào 01 chi nhánh Campuchia (Nguồn: Phát triển và hội nhập Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015 và tổng hợp của tác giả) Hội nhập vào AEC, các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý của các NHTM phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, các NHTM trong nước phải chủ động thực hiện cơ cấu lại tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tăng năng lực tài chính, thực hiện chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đó là những điều kiện quan trọng để các NHTM Việt Nam hoạt động kinh doanh hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh. Bên canh đo , hội nhập sâu rộng vào khu vực sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm của hệ thống NHTM Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của hội nhập và thực hiện các cam kết, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Đồng thời AEC sẽ giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận và phát triển đa dạng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng mới hiện đại, mở rộng hoạt động kinh doanh đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để cạnh tranh tốt hơn. Đổi mới sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Nhưng cũng đòi hỏi môi trường pháp lý phải được cải thiện hơn để thực hiện các cam kết quốc tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào trong nước thông qua đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo cơ hội để các NHTM cho vay và huy động vốn lớn hơn. 175
- 4.2. Thách thức đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC Theo thông tin từ trung tâm WTO của VCCI, tính đến cuối tháng 8/2015, các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết là 11 (trong đó bao gồm: ASEAN-AEC, ASEAN-Trung Quốc, Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu, ), đang đàm phán là 5 (trong đó bao gồm : TPP, Việt Nam-EU.) và đang xem xét là hiệp định giữa ASEAN và Canada. Hiên nay, Việt Nam phải mở cửa hơn trong ngành ngân hàng, bảo hiểm và thị trường vốn, nhằm thực hiện cam kết, theo đó, các nước sẽ phải mở cửa tất cả các ngành dịch vụ với mức sở hữu nước ngoài có thể lên đến 70%. Hiện nay, đối với lĩnh vực ngân hàng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tối đa là 30% (nếu nhiều hơn, cần có chấp thuận của Chính phủ), đối với lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán là 49%. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ bị chèn ép, nhấn chìm hoặc thâu tóm cao. Bên cạnh đó, gia tăng tính phụ thuộc, đối mặt với nguy cơ mất thị trường, thương hiệu. Các NHTM Việt yếu thế sẽ mất dần nguồn nhân sự chất lượng cao, công nghệ truyền thống không còn chỗ đứng; bị kiểm soát toàn diện thậm chí thua ngay “trên sân nhà”. Thị trường tài chính Việt Nam hiện đang là đích nhắm tới của nhiều ngân hàng ngoại trong khu vực. Gần đây nhất, Ngân hàng Kasikorn (Thái Lan) vừa khai trương 2 văn phòng đại diện ở Hà Nội và TP. HCM. Trước đó, Ngân hàng Public Bank Berhad (PBB) của Malaysia tại Việt Nam cũng đã hoàn thiện các thủ tục để trở thành ngân hàng 100% vốn nước ngoài thứ 6 hoạt động tại Việt Nam sau các ngân hàng HSBC, ANZ, Standard Chartered, Shinhan Vietnam và Hong Leong Bank. Ngoài ra, ngân hàng DBS của Singapore và Maybank của Malaysia cũng đã mở thêm chi nhánh tại Việt Nam, còn Ngân hàng UOB (Singapore) cũng đang xin nâng cấp hoạt động từ mô hình chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Các ngân hàng ở các nước ASEAN đã xuất hiện ngày càng nhiều cũng như mở thêm nhiều chi nhánh tại Việt Nam cho thấy các tổ chức tín dụng trong khu vực đã chuẩn bị mọi điều kiện để sẵn sàng đón cơ hội từ sự kiện AEC. Các NHTM Việt Nam sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn từ những hoạt động của những ngân hàng này. AEC sẽ tạo điều kiện cho dòng vốn đầu tư gián tiếp luân chuyển giữa các nước thành viên với nhau. Tuy nhiên, sự gia tăng dòng vốn đặc biệt từ nước ngoài vào cũng có thể làm gia tăng nguy cơ bong bóng giá tài sản và vấn đề rút vốn đột ngột gây bất ổn thị trong hệ thống NHTM và cho quốc gia nhận vốn. Việt Nam có thể phải đối mặt với nguy cơ đảo chiều dòng vốn và hạn chế tỷ giá hối đoái. Hơn nữa, vấn đề quản trị rủi ro trong các NHTM của Việt Nam thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, nợ xấu của các NHTM có xu hướng tăng. Theo ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống ngân hàng Việt tuy đã có sự cải thiện, đứng ở mức 13,6% (đầu năm 2014) nhưng vẫn thấp so với trung bình các nước trong khu vực như Thái Lan (15,7%), Philippines (15,2%), Malaysia (14,7%). Vào AEC, sẽ kèm theo các điều khoản mở rộng sự tiếp cận thị trường và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Như là kết quả của việc hội nhập kinh tế sâu rộng, dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng mạnh hơn, hiện tại đã và đang có nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài đổ bộ vào Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các khách hàng tiềm năng này, các ngân hàng trong nước cũng không có nhiều cơ hội. Thực tế cho thấy, khối FDI chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng hầu hết các doanh nghiệp FDI đều sử dụng các NHTM nước họ. Bên cạnh đó, những ngân hàng ngoại với uy tín thương hiệu và tiềm lực cũng như khả năng tài chính lớn 176
- đang ngày càng thu hút được nhiều khách hàng là các doanh nghiệp địa phương. Đây là một thách thức lớn đối với các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Tham gia vao AEC sẽ mang lại sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Các NHTM nước ngoài hiện chỉ nắm giữ thị phần thiểu số trên thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam nhưng sẽ có ưu thế gần như toàn diện trong tương lai khi mà các quy định hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với các NHTM và tai chinh tinh dung nước ngoài được nới lỏng dần để thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng . Viêc tham gia vao AEC làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng , trong khi cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam. Nếu như năng lực quản lý và lập pháp không theo kịp và không lường trước được sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch tài chính - ngân hàng, sẽ có 2 khả năng xảy ra: Hoặc là ngành ngân hàng mất khả năng kiểm soát dẫn tới khủng hoảng hoặc quốc gia sẽ tái áp dụng các hạn chế để duy trì kiểm soát . Cả 2 trường hợp này đều có hại cho sự phát triển của ngành ngân hàng . Thêm vao đo , khả năng kiểm soát tiền tệ còn nhiều hạn chế của NHNN Việt Nam trong điều kiện mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cũng rất dễ gây ra những rủi ro hệ thống cho các NHTM Việt Nam. Để tránh được rủi ro này, công tác thanh tra, giám sát vĩ mô và giám sát từ xa của NHNN đòi hỏi phải có năng lực lớn và dựa trên tiêu chuẩn thanh tra, giám sát quốc tế, điều mà NHNN Việt Nam chưa có được. Mặc dù trong thời gian qua, hệ thống NHTM đã có những bước phát triển nhất định song khoảng cách giữa các NHTM trong nước và NHTM trong khu vực và trên thế giới vẫn còn rất lớn về mọi phương diện. Vì vậy, khi hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam cũng gặp phải những thách thức và sức ép không nhỏ. Các NHTM Việt Nam hiện nay có tiềm lực tài chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh mục sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự hợp lý và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới. Các NHTM Việt Nam hiện nay chỉ có lợi thế về mạng lưới chi nhánh phân phối sản phẩm dịch vụ và khách hàng rộng rãi, am hiểu về tập quán địa phương và môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, đây không phải là những lợi thế lâu dài, mang tính quyết định và sẽ mất dần đi khi lĩnh vực ngân hàng thực sự tự do hóa hoàn toàn. 5. Các đề xuất và kiến nghị - Đối với công tác điều hành chính sách vĩ mô, thực hiện nhiệm vụ ổn định tiền tệ, tài chính và tạo lập cơ sở hạ tầng tài chính đồng bộ của NHNN: Thứ nhất, xác lập mục tiêu và khuôn khổ chính sách tiền tệ phù hợp cho từng giai đoạn. Khả năng kiểm soát lạm phát của ngân hàng trung ương chịu ảnh hưởng bởi độ mở của quốc gia. Vì vậy, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong xu thế hội nhập rõ ràng phải tính đến tác động của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước, mức độ ảnh hưởng của chính sách tiền tệ các nước lớn đến chính sách tiền tệ của nước nhỏ như Việt Nam để từ đó lựa chọn quan điểm chính sách tiền tệ phù hợp. Thành tựu của NHNN trong thời gian qua cho thấy chính sách tiền tệ vẫn có thể đạt được trạng thái độc lập ngay cả với quốc gia nhỏ và mở như Việt Nam. Tuy nhiên, sự kiểm soát đối với tỷ giá và dòng vốn ở mức độ nhất định vẫn cần thiết để hạn chế những tác động từ kinh tế quốc tế đến 177
- thị trường trong nước trước khi thực hiện tự do hóa hoàn toàn. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng để đảm bảo sự độc lập này là khả năng chống đỡ của dự trữ ngoại hối đối với các biến động trên thị trường. Cần tiếp tục thực thi các chính sách hạn chế đầu cơ, găm giữ ngoại tê và giảm dần mức độ đô la hóa nền kinh tế. Thứ hai, phát huy vai trò ổn định tài chính, đảm bảo an toàn hệ thống, an ninh tiền tệ. Hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo điều kiện cho dòng vốn đầu tư gián tiếp vào ra giữa các quốc gia với nhau mà còn có thể khuếch đại những rủi ro nội tại của nền kinh tế. Trong xu thế hiện nay, việc nhận diện và giám sát rủi ro hệ thống tài chính là yêu cầu thiết yếu đối với mọi quốc gia, nhất là với các nước đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, trong thời gian tới, cần tăng cường chuẩn hoá và tiếp cận chuẩn mực quốc tế về an toàn tài chính; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cấu trúc thể chế và đẩy mạnh sự phối hợp hoạt động của các cơ quan giám sát tài chính nhằm ngày càng cải thiện chất lượng giám sát và giảm thiểu các rủi ro hệ thống tài chính. Thứ ba, củng cố năng lực hệ thống thanh toán quốc gia trong việc đảm bảo luồng chu chuyển thông suốt khi hội nhập với khu vực và thế giới. Việc trở thành thành viên của AEC đồng nghĩa với việc hệ thống ngân hàng Việt Nam phải tham gia vào cơ sở hạ tầng hệ thống thanh toán khu vực ASEAN. Theo đó, chúng ta sẽ phải đối mặt và xử lý thanh toán một khối lượng lớn các luồng lưu chuyển vốn và hội nhập tài chính, tập trung vào cả các giao dịch giá trị lớn cũng như các giao dịch cá nhân, như: Thanh toán thương mại xuyên biên giới; Chuyển tiền xuyên biên giới; Hệ thống thanh toán bán lẻ xuyên biên giới; Thanh toán cho thị trường vốn. Vì vậy, kế thừa những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, định hướng đến năm 2020, việc củng cố cơ sở hạ tầng thanh toán để có thể kết nối với các ngân hàng khu vực là một nhiệm vụ trọng tâm cần được đặc biệt quan tâm. Đi kèm với việc gia tăng lưu chuyển vốn toàn khu vực, vấn đề an ninh tiền tệ cũng cần được nhấn mạnh hơn nữa. Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Xây dựng môi trường pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Bên cạnh đó tăng cường giám sát, tiếp tục đẩy nhanh tiến trình áp dụng các tiêu chuẩn của Basel II vào giám sát hệ thống ngân hàng, hoàn thiện trong việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống xếp hạng tín nhiệm khách hàng của toàn hệ thống. Thứ năm, thực hiện đúng các cam kết đã ký trong AEC blueprint: Tham gia vào cộng đồng kinh tế AEC, Việt Nam cũng như các nước trong khu vực sẽ phải tuân thủ và thực hiện nghiêm túc các lộ trình và chỉ tiêu đã ký kết. Theo lộ trình đã cam kết trong năm 2015, Việt Nam và các nước Lào, Campuchia, Myanmar sẽ phải thực hiện các chỉ tiêu tự do hóa lĩnh vực như tiền gửi, cho vay, thanh toán dịch vụ ngân hàng, cam kết và bảo lãnh. Điều này đòi hỏi vai trò rất lớn của Chính phủ trong việc chỉ đạo và hướng dẫn sát sao các bộ, ban ngành phối hợp thực hiện theo đúng lộ trình các chỉ tiêu đã cam kết. Thứ sáu, tiếp tục chủ trương tái cấu trúc tổng thể ngành ngân hàng (tài chính, nhân lực, quản trị, công nghệ). “Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm mục tiêu cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các tổ chức 178
- tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế. Sau hơn 4 năm nghiêm túc thực hiện đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đã xử lý được 9 ngân hàng hoạt động yếu kém, đề án cơ bản đã mang lại những mảng màu sắc tươi sáng cho ngành ngân hàng trong giai đoạn qua như thanh khoản được đảm bảo, nợ xấu giảm, các ngân hàng từng bước tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực quản trị rủi ro. - Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam: Các định chế tài chính (đặc biệt là các ngân hàng thương mại - kênh cung ứng vốn chính trong nền kinh tế Việt Nam) mặc dù đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong thời gian qua, đặc biệt là từ sau kết quả của chương trình tài cơ cấu cần phải nỗ lực hơn nữa để chuẩn bị các điều kiện cần và đủ về tài chính, năng lực quản trị kinh doanh, chiến lược hội nhập và cạnh tranh trong môi trường mới. Hệ thống tài chính tiền tệ trong nước phải được tiếp tục củng cố và hỗ trợ, cơ cấu lại toàn diện trước khi tự do hoá hoàn toàn. Mặc dù việc thành lập các ngân hàng lớn là đòi hỏi tất yếu của hội nhập quốc tế, tuy nhiên để có thể giành thế chủ động trong hội nhập khi những hàng rào bảo hộ được dỡ bỏ và lĩnh vực dịch vụ ngân hàng mở cửa hoàn toàn theo các cam kết quốc tế, đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình tái cơ cấu không chỉ tập trung vào số lượng mà phải thực chất về chất lượng. Cụ thể: + Các NHTM cần chủ động trang bị thông tin cần thiết khi Việt Nam tham gia vào cộng đồng kinh tế AEC. Với việc tham gia vào cộng đồng kinh tế AEC, bản thân nội tại các ngân hàng cũng tự phải trang bị các thông tin cần thiết về chỉ tiêu, hiệp định khung ngành ngân hàng trong AEC nói chung và thông tin chỉ đạo từ Ngân hàng Nhà Nước nói riêng qua việc nắm bắt các thông tin về tính pháp lý, thủ tục hành chính và cam kết tổng thể trong AEC blueprint. + Các ngân hàng phải được cải tổ về cách quản trị, điều hành, quản lý rủi ro cho phù hợp với các công ước và thông lệ quốc tế. - Một là phải xử lý cơ bản nợ xấu. Đây sẽ là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam trong một vài năm tới nhằm làm sạch bảng tổng kết tài sản, lành mạnh hoá tình hình tài chính, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. - Hai là phải nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu. Các NHTM Việt Nam cần phải xây dựng lộ trình và thực hiện tăng quy mô vốn tự có, cải thiện hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel II. - Ba là phải nâng cao năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro. Các NHTM cần phải thực hiện cơ cấu lại, chuyển đổi mô hình tổ chức theo hướng tập trung và chuyên môn hoá. Bên cạnh đó phải dần áp dụng các thông lệ tốt nhất trong quản trị rủi ro, trước mắt là tuân thủ Basel II. Theo đó, từng bước đạt được các yêu cầu về năng lực tài chính và quản trị tiến tới tiêu chuẩn ngân hàng khu vực ASEAN (QABs), tạo cơ sở cho việc hình thành 2-3 ngân hàng lớn có sức cạnh tranh và tầm ảnh hưởng trong khu vực. + Phải tích cực chuyển dịch cơ cấu hoạt động và tìm cách xuất khẩu dịch vụ ngân hàng. Sự phát triển của sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong những năm gần đây đã cho thấy sự năng động của hệ thống tài chính tín dụng trong việc khai thác và phát triển sản phẩm, đa dạng hóa đồng thời cá biệt hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến từng nhóm khách hàng mục tiêu. Thông qua đó, đã phát triển một hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, hướng theo nhu cầu của nền kinh tế. Nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại, nhất là các dịch vụ thanh toán 179
- không dùng tiền mặt dựa trên nền tảng công nghệ cao đã tiến kịp với trình độ phát triển của các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ trong bối cảnh hội nhập, các NHTM cần nỗ lực hơn nữa để: - Tăng tỷ trọng đóng góp của hoạt động bán lẻ, của thu nhập từ hoạt động dịch vụ nói riêng và thu nhập phi lãi nói chung trong cơ cấu thu nhập. Đó là xu hướng tất yếu cho sự phát triển bền vững của NHTM. Bên cạnh đó phải nỗ lực tăng trưởng các mặt hoạt động nhằm cải thiện các chỉ số hiệu quả, đồng thời kiểm soát chặt chẽ chất lượng tài sản và đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động. - Phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có khả năng cạnh tranh quốc tế. Với năng lực tài chính và quản trị hiện tại, hiện nay các NHTM Việt Nam mới chỉ tập trung phục vụ các doanh nghiệp trong nước hoạt động tại một số thị trường như Lào, Campuchia và Myanmar. Do vậy, để thực sự đạt được mục tiêu hình thành các 19 NHTM đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới, cùng với việc nâng cao năng lực quản trị và hoạt động nói trên, các NHTM Việt Nam cần phải đầu tư nghiên cứu và phát triển dịch vụ, tài chính hướng tới xuất khẩu để có thể đẩy mạnh hoạt động của mình tại thị trường nước ngoài. Ngoài ra, ngành ngân hàng cũng cần sự phối hợp của nhiều đơn vị bộ ngành liên quan khác để có thể tiếp tục kiện toàn cơ sở hạ tầng tài chính, từ hệ thống luật pháp đến thông lệ kế toán kiểm toán, lưu trữ và xử lý thông tin tín dụng, hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch, nguồn lực dành cho công tác thanh tra giám sát, các quy định và giám sát thực thi công bố thông tin. Tăng cường tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin trên thị trường (qua các tổ chức định mức tín nhiệm). 180
- TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tổng thuật hội thảo khoa học quốc gia (2015), Phát triển kinh tế - xã hội và ngành Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Truy cập từ website: ua%20Hoi%20thao.pdf Đại học Kinh tế Quốc Dân (2015), An ninh tài chính tiền tệ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia tháng 5-2015, Hà Nội. Frank C.Evans, David M.Bishop (2001), “Valuation for M&A – Building value in private companies”, John wiley & Sons, Inc. Hà Văn Hội (2013), “Tham gia cộng đồng Kinh tế ASEAN và những tác động đến thương mại quốc tế của Viêt nam” , Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Kinh tế và kinh Doanh, Tập 29, Số 4, 2013. Pham Thai Ha (2010), Ngân hàng thương mại Việt Nam hội nhập quốc tế, cơ hội và thách thức, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán số 38, tháng 12.2010. Nguyễn Mạnh Hùng, Tạ Thu Hồng Nhung (2016), Năng lực tài chính ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016. Trân Văn Hùng & Lê Thị Mai Hương (2015) “Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC): Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và hội nhập Số 20. Nguyễn Quốc Trường, Nguyễn Thế Cường (2014), Cộng đồng kinh tế ASEAN - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, website: 43&keyword=aec, truy cập ngay 20/10/2015. 181