Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong chuyển đổi nền kinh tế số

pdf 10 trang Gia Huy 18/05/2022 2810
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong chuyển đổi nền kinh tế số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_viet_nam_trong_chuyen_doi_nen_k.pdf

Nội dung text: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong chuyển đổi nền kinh tế số

  1. 24 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ SỐ TS. Ngô Tuấn Anh Đại học Kinh tế quốc dân TÓM TẮT Bài viết này đánh giá, phân tích những cơ hội và thách thức đối với sự chuyển đổi nền kinh tế số của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Trên cơ sở những thách thức đó, bài viết cũng đưa ra các khuyến nghị đối với chính phủ, doanh nghiệp và người dân nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế số của Việt Nam thời gian tới. Từ khoá: Kinh tế số, chuyển đổi nền kinh tế số, ICT 1. GIỚI THIỆU Kinh tế số có thể được hiểu là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet” (theo định nghĩa chung của nhóm cộng tác Kinh tế số của Oxford). Tuy có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau nhưng rõ ràng rằng kinh tế số với nền tảng là công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) có sự đóng góp lớn vào tăng trưởng, phát triển và mang đến diện mạo mới cho nền kinh tế thế giới và từng quốc gia trong suốt vài thập kỷ gần đây.Theo Báo cáo kinh tế thông tin năm 2019 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (United Nations Conference on Trade And Development: UNCTAD, 2019) cho biết đóng góp vào tài khoản quốc gia tính trên toàn thế giới của kinh tế ICT (kinh tế số lõi) là 4,5% GDP và kinh tế số (phạm vi hẹp) là 15,5%, con số tương ứng tại nước Mỹ là 6,9% GDP và 21,6% và tại Trung Quốc là 6% và 30%; xuất khẩu dịch vụ công nghệ thông tin (CNTT) toàn cầu tăng từ 175 tỷ đô la Mỹ (năm 2005) lên 568 tỷ đô la Mỹ vào năm 2018, dịch vụ cung cấp số toàn cầu tăng từ 1200 tỷ đô la Mỹ (năm 2005) lên 2900 tỷ đô la Mỹ (năm 2018); giá trị thương mại điện tử (TMĐT) toàn cầu năm 2017 lên tới 29000 tỷ đô la Mỹ. Hiện nay với sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động sâu rộng đến nền kinh tế thế giới, thúc đẩy nền kinh tế số phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, công nghệ thông tin và truyền thông là động lực chính của nền kinh tế số. Để chuyển đổi nền kinh tế số cần dựa vào 3 yếu tố quan trọng, đó là: hạ tầng số làm nền tảng cho các dịch vụ số hoạt động; tài nguyên số, dữ liệu số để vận hành các dịch vụ số; và chính sách chuyển đổi số, đào tạo nhân lực số chất lượng cao, chính sách đầu tư kinh doanh số, chính sách an toàn thông tin, chủ quyền số và sở hữu trí tuệ để đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế số.
  2. 25 Các nước trên thế giới có nhiều thành công đáng kể trong chuyển đổi nền kinh tế số để Việt Nam học hỏi, như Singapore là quốc gia đi đầu trong ASEAN về phát triển các cơ sở cho thúc đẩy kinh tế số, với các bước triển khai phù hợp, như việc xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), đưa vào sử dụng mạng cáp quang (2010) và mạng di động 4G (2011). Việc triển khai mạng lưới viễn thông mới đã giúp Singapore cải thiện đáng kể tốc độ đường truyền thông tin của quốc gia. Về chính sách định hướng phát triển, chính phủ Singapore xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, đưa ra những chính sách ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, khuyến khích các công ty đa quốc gia đặt trụ sở tại quốc gia mình. Trong lĩnh vực kinh tế số, Singapore hiện là mái nhà của rất nhiều ông lớn trong lĩnh vực công nghê toàn cầu như Google, Facebook, Alibaba, hay những doanh nghiệp dẫn đầu trong khu vực như Grab, Lazada Chính phủ Singapore còn thúc đẩy sự phát triển thông qua các dự án khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và khoa học bằng cách đưa ra những chính sách ưu đãi về tài chính, hỗ trợ định hướng doanh nghiệp, xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp với mục đính làm cầu nối trong việc hợp tác, kết hợp những giá trị cốt lõi giữa các tổ chức, doanh nghiệp, và nhà đầu tư. Ở Nga, theo chương trình "Kinh tế số của Liên bang Nga", tạo các điều kiện cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế số với quy mô lớn, với việc thiết lập các mục tiêu sau: Hoàn thiện thể chế và nâng cấp cơ sở hạ tầng để phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao, và thiết lập hệ sinh thái của nền kinh tế số dựa trên định dạng dữ liệu số được sử dụng trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Theo đuổi và thực thi các xu hướng toàn cầu chủ yếu trong lĩnh vực số hóa là Internet di động, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử, trong đó, các xu hướng bền vững và đột phá được gọi là blockchain và nhận dạng cá nhân qua hình ảnh. Phấn đấu đưa Liên bang Nga lên mức thứ 11 trong bảng xếp hạng phát triển xu hướng số hóa toàn cầu. Hay để chuyển đổi nền kinh tế số, Hàn Quốc đã chủ động thực hiện chính sách phổ cập Internet cho người dân. Tỷ lệ số hộ gia đình Hàn Quốc kết nối mạng Internet đạt 99,2%, đứng đầu trong số 175 quốc gia thuộc Liên minh viễn thông quốc tế (ITU). Theo tổ chức nghiên cứu Internet Akamai, Hàn Quốc hiện là quốc gia có tốc độ kết nối Internet nhanh nhất thế giới, vượt trên cả Nhật Bản và Mỹ. Có được thành công trong việc phổ cập Internet tốc độ cao ở Hàn Quốc trước hết là nhờ Chính phủ nước này đã kịp thời và triển khai mạnh mẽ các sáng kiến về giáo dục và hạ tầng công nghệ thông tin nên đã tạo được một khởi đầu hoàn hảo và các chính sách này đang tiếp tục được thực hiện hiệu quả. Đặc biệt, Chính phủ nước này cũng khuyến khích xây dựng mối quan hệ hợp tác gắn kết giữa khu vực tư nhân được Chính phủ hậu thuẫn với khu vực công trong xây dựng hạ tầng mạng Internet.
  3. 26 Việt Nam là một trong các quốc gia đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế số trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam trở thành thị trường đón nhận nguồn đầu tư đứng thứ 3 trong khu vực sau Indonesia và Singapore trong những năm gần đây. Nền kinh tế số sẽ đẩy mạnh việc tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong một nghiên cứu của Trung tâm kinh doanh toàn cầu của Đại học Tufts (Mỹ) đã cho thấy hiện nay Việt Nam đang đứng ở vị trí 48/60 quốc gia có tốc độ chuyển đổi kinh tế số hóa nhanh trên thế giới, đồng thời đứng ở vị trí 22 về tốc độ phát triển số hóa, đã chứng tỏ sự thay đổi lớn trong mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu gia tăng, việc chuyển đổi nền kinh tế số ở Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức. 2. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ SỐ 2.1. Những thuận lợi Thứ nhất, hạ tầng về công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) phát triển với tốc độ nhanh Bốn thập kỷ gần đây chứng kiến cuộc cách mạng khoa học công nghệ, mà nền tảng là công nghệ thông tin và truyền thông có những bước tiến nhảy vọt, đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin và truyền thông vừa là mũi tiên phong, vừa là động lực phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa, làm ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội trên toàn thế giới. Do đó, Việt Nam đã luôn xác định sẽ bị tụt hậu nếu không tận dụng được cơ hội này, nhằm tạo ra bước ngoặt đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế không thể dựa mãi vào FDI, ODA, tài nguyên thiên nhiên, giá nhân công rẻ , là nền tảng cho phương thức phát triển mới, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Tại Việt Nam thời gian qua đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ tài chính như Mobile Banking, Mobile Commerce, E – Commerce và các ngành dịch vụ theo kịp cách mạng công nghiệp 4.0, và hơn nữa là thúc đẩy sự văn minh của người tiêu dùng trong bối cảnh mới mà không có gì đo đếm được. Sự tăng trưởng của ngành dịch vụ tài chính thường được thúc đẩy bởi ba yếu tố chính gồm sự gia tăng trong việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng, tiến bộ của công nghệ tài chính, và sự hội nhập không ngừng. Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) cũng ngày càng được hoàn thiện với những nỗ lực cả từ chính phủ, doanh nghiệp và người dân. đa số doanh nghiệp đều trang bị máy tính PC, laptop và các thiết bị di động để hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Hệ thống đường truyền
  4. 27 quốc gia, đường truyền cung cấp cho doanh nghiệp và người dân đã được xây dựng đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Thứ hai, sự phát triển của thương mại điện tử, chính phủ điện tử Việt Nam đang có nhiều thuận lợi để phát triển bởi hiện tại hơn 70% dân số Việt Nam đang sử dụng điện thoại thông minh, trong đó 70% thuê bao di động đang sử dụng mạng 3G, 4G. Tỷ lệ sở hữu điện thoại trung bình là 1,7 máy/người, số người truy cập các trang thương mại điện tử thông qua điện thoại di động chiếm 72%, mua hàng trực tuyến online qua điện thoại chiếm 53%. 70% 58.10% 60% 60% 54.20% 50% 40% 30% 20% 10% 3% 3.20% 4.60% 0% 1 2 3 Tỷ trọng doanh thu TMĐT B2C so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước Tỷ lệ người dân sử dụng Internet Hình 1: Tỷ lệ người dân sử dụng Internet và tỷ trọng doanh thu TMĐT B2C giai đoạn 2016-2018 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo chỉ sô thương mại điện tử 2019 của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam Năm 2019, doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam ước đạt 211 tỷ USD, trong đó doanh thu thương mại điện tử đạt khoảng 10,4 tỷ USD tương ứng 4,92% thị phần bán lẻ. Chỉ trong một thời gian ngắn, thương mại điện tử tại Việt Nam đã có sự bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng trung bình từ 25% -30%/năm, dự tính sẽ đạt mốc 50 tỷ USD chiếm khoảng 12% thị trường bán lẻ trong nước đến năm 2025. Thương mại điện tử là xu thế tất yếu của nền kinh tế số.
  5. 28 250 202 200 186 170 150 100 50 33.6 39.9 21.7 0 2016 2017 2018 Ước tính số người tham gia mua sắm trực tuyến (triệu người) Ước tính giá trị mua sắm trực tuyến của một người (USD) Hình 2: Số lượng và giá trị mua sắm trước tuyến giai đoạn 2016-2018 tại Việt Nam Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo chỉ sô thương mại điện tử 2019 của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam Đối với doanh nghiệp, ICT giúp các doanh nghiệp chuyển từ cạnh tranh về chi phí nhân công thấp và tài nguyên thiên nhiên sang cạnh tranh về lợi thế so sánh của hàng hoá và dịch vụ dựa trên giá trị tri thức, có giá trị gia tăng cao. Các doanh nghiệp cũng ngày càng sử dụng các phần mềm hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh như kế toán tài chính, năm 2018 cũng có tới 88% doanh nghiệp có sử dụng phần mềm kế toán tài chính. Ngoài ra, nhóm phần mềm chuyên sâu ở mức cao hơn một chút như quản lý khách hàng (CRM), quản lý chuỗi cung ứng (SCM) và quản trị nguồn lực doanh nghiệp (ERP) cũng ngày càng được sử dụng phổ biến. Công nghệ thông tin và truyền thông là nền tảng cho sự hình thành và phát triển của Internet và thương mại điện tử. Thương mại điện tử cho phép các công ty dễ dàng cung cấp cho khách hàng sự hiện diện toàn cầu và có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và nhỏ. Vì sân chơi bình đẳng hơn nên thông qua các Website của mình, các công ty nhỏ cũng có thể đạt được một doanh thu như một công ty lớn mà điều này dường như không tưởng trong môi trường thương mại truyền thống. Thứ ba, sự quyết tâm của chính phủ và doanh nghiệp trong xây dựng nền kinh tế số Nhận thức rõ tầm quan trọng của ICT trong thời kỳ mới, Đảng và Chính phủ Việt Nam quyết tâm đẩy mạnh ứng dụng ICT trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia; Cụ thể như: Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
  6. 29 nghiệp lần thứ tư với mục tiêu tổng quát là “Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.”; Trước đó, năm 2012, tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 về Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trong đó nêu rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và toàn bộ nền kinh tế. Coi thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong lộ trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong từng ngành, từng lĩnh vực. Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ thông tin, thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm phát triển nhanh, bền vững”, và quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại phải là công nghiệp hóa gắn kết với hiện đại hóa, phát triển công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ thông tin, xây dựng nền kinh tế tri thức. Chính phủ cũng đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, mang lại nhiều lợi ích cho người dân, cho phép người dân có cơ hội tiếp cận với bộ máy chính quyền thông qua cơ chế “một cửa điện tử” (theo nghĩa “chỉ cần vào 1 cửa là được đáp ứng mọi yêu cầu từ bộ máy chính quyền”), các cơ quan nhà nước có thể phối hợp với nhau một cách dễ dàng để thực thi các quy trình nghiệp vụ quản lý nhà nước, phục vụ người dân, tiến tới trở thành trung tâm của hệ thống chính phủ điện tử. Ứng dụng ICT trong các cơ quan nhà nước được đánh giá là một trong những biện pháp tích cực nhằm xây dựng cơ quan hành chính các cấp hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, công khai và minh bạch. ICT sẽ giúp Chính phủ phục vụ người dân, doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Đối với phát triển chính phủ điện tử cũng nhận được sự quan tâm và quyết tâm của các cấp các ngành. Chính phủ tại Nghị quyết 17 ngày 7/3/2019 đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải đạt mục tiêu cung cấp 30% dịch vụ công trực tuyến mức 4 trong năm 2020, tính đến cuối tháng 4/2020, tổng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 đang được các bộ, ngành, địa phương cung cấp cho người dân, doanh nghiệp là hơn 54.000 dịch vụ, trong đó số dịch vụ công trực tuyến mức 4 là trên 16.000. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 có phát sinh hồ sơ trực tuyến là 25,3%. Các dịch vụ công cũng được cung cấp trên cổng dịch vụ công quốc gia tại địa chỉ đã cho thấy có
  7. 30 nhiều chuyển biến tốt trong lĩnh vực này mang lại nhiều tiện lợi cho người dân và doanh nghiệp. 2.2. Những thách thức đối với sự chuyển đổi nền kinh tế số tại Việt Nam Thứ nhất, sư e ngại về an ninh, an toàn, bảo mật thông tin Mặc dù ngày càng có nhiều khách hàng đến với thương mại điện tử hơn nữa, nhưng cũng có không ít người cảm thấy lo ngại khi tham gia vào thương mại điện tử nhất là trong việc bảo vệ tính riêng tư, thông tin cá nhân cũng như khả năng tiềm tàng trở thành nạn nhân của bao thành phần nguy hiểm đang tồn tại trên mạng. Rất nhiều khách hàng bị lộ mã thẻ tín dụng của họ khi mua hàng trên mạng. Theo một cuộc khảo sát riêng biệt do Conference Board tiến hành năm 2018 cho thấy có hơn một nửa số lượng khách hàng trực tuyến do lo ngại về mức độ an toàn đã phải thay đổi cách thức sử dụng Internet, và họ cũng đã ít mua hàng trực tuyến hơn, gần 70% số lượng khách hàng trực tuyến đã phải cài đặt thêm các phần mềm bảo mật cho máy tính cá nhân của mình, 54% bỏ qua mọi lời đề nghị đặc biệt và 41% ít mua hàng trên mạng hơn. Như vậy, chỉ cần thông qua những khảo sát riêng lẻ nhưng lại được tiến hành trên một thị trường thương mại điện tử lớn nhất trên thế giới - nước Mỹ, đã cho thấy những thách thức đối với sự phát triển của nền thương mại điện tử trên toàn thế giới. Lòng tin của người tiêu dùng vào giao dịch mua bán trực tuyến còn thấp. Nguyên nhân lớn nhất ảnh hưởng đến tâm lý người dùng vẫn là chất lượng hàng hóa. Và còn nhiều lý do khác như: Giá cả không rẻ hơn khi mua ngoài cửa hàng trong khi đã được khuyến mãi, thông tin cá nhân bị rò rỉ, mua hàng ở cửa hàng dễ và nhanh gọn hơn, người tiêu dùng chưa có thẻ ngân hàng để thanh toán, cách thức mua hàng qua mạng vẫn phức tạp với nhiều người Tuy nhiên, sự bùng nổ của kinh tế số cũng đặt Việt Nam trước nhiều thách thức trong đó có vấn đề về mặt pháp lý, an toàn tấn công mạng về việc đảm bảo quyền riêng tư của người dùng. Theo thống kê của hãng bảo mật Kaspersky, năm 2017 có 35,01% nguời dùng Internet Việt Nam có khả năng bị tấn công mạng, xếp thứ 6 thế giới. Trung tâm ứng cứu sự cố máy tính Việt Nam (VNCERT) cho biết, có tổng cộng 10.000 vụ tấn tấn công mạng nhằm vào Internet Việt Nam năm 2017, gây thất thoát 12,3 nghìn tỷ đồng. Thứ hai, thói quen của người tiều dụng và sự e ngại trong mua sắm trực tuyến Người tiêu dùng vẫn còn thói quen phải nhìn tận mắt, mặc cả trực tiếp khi mua hàng cũng như thói quen sử dụng tiền mặt trong tiêu dùng còn phổ biến. Mặc dù doanh số thương mại điện tử ở Việt Nam tăng nhưng việc người mua hàng thanh toán bằng tiền mặt khi nhận hàng vẫn rất phổ biến. Nhiều giao dịch mua bán phổ thông được thanh toán theo hình thức trả tiền mặt khi nhận hàng (Cash On Delivery – COD).
  8. 31 Thứ ba, môi trường pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện Để Việt Nam chủ động phát triển kinh tế số và tham gia cuộc CMCN 4.0 và phát triển kinh tế số cần đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội. Cùng với việc tuyên bố chiến lược chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam sẽ ban hành các Khung về Chính phủ điện tử, thành phố thông minh, Nghị định về đầu tư và thuê công nghệ thông tin; xây dựng các Nghị định quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số, định danh và xác thực điện tử, thúc đẩy Chính phủ điện tử mà trọng tâm là cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 với mục tiêu đạt 30% đến hết năm 2019. Cần tạo được khung pháp lý, môi trường cần thiết để đẩy mạnh ứng dụng ICT, hỗ trợ doanh nghiệp ICT phát triển; chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu; hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này còn hạn chế. 3. KHUYẾN NGHỊ 3.1. Chính phủ tạo môi trường và nhu cầu, đẩy mạnh hỗ trợ cho các doanh nghiệp chuyển sang nền kinh tế số Điều đầu tiên Việt Nam cần chú trọng là xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số Cải cách thể chế để thu hút đầu tư cho các công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số 3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành ICT. Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư các cơ sở đào tạo. Tăng cường loại hình đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên, đào tạo nghề, mô hình đào tạo liên kết 3 bên (doanh nghiệp - viện, trường - cơ quan quản lý nhà nước). Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ chuyên ngành thương mại điện tử, an ninh mạng, công nghệ thông tin, truyền thông chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sản xuất và việc làm trên môi trường Internet là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của nền kinh tế số. Chính phủ cần có một chiến lược được hoạch định rõ ràng trong việc chống lại vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó giai đoạn đầu cần đẩy mạnh tuyên truyền thực thi quyền sở hữu trí tuệ tới cộng đồng doanh nghiệp và người dân, phổ biến các cam kết và
  9. 32 công ước quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ khi Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO và các hiệp định song phương và đa phương khác. Tiếp đó cần có các chế tài xử phạt đủ sức răn đe đối với việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, cần có sự chung tay của nhà sản xuất, các nhà phân phối, các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP), khách hàng và đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vi phạm bản quyền không chỉ kìm hãm sự phát triển của nền công nghiệp phần mềm, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và làm tổn hại đến hình ảnh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. 3.3. Phát triển thương mại điện tử, chính phủ điện tử và cơ sở hạ tầng công nghệ số Muốn thành công trong ứng dụng ICT thì phải có cơ sở hạ tầng ICT đủ mạnh, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các ứng dụng. Chính phủ, các địa phương cần tập trung xây dựng, phát triển hạ tầng số đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin, hạ tầng số sử dụng các công nghệ tiên tiến, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin. Các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương phải được kết nối mạng diện rộng của Chính phủ và Internet băng thông rộng, đủ năng lực cung cấp các dịch vụ công, và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng chính phủ điện tử. 4. KẾT LUẬN Chuyển đổi nền kinh tế số là tất yếu trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi càng nhanh sẽ càng tạo nhiều cơ hội bứt phá trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cơ hội luôn song hành với những thách thức đan xen, vấn đề cần tận dụng cơ hội và chuyển hoá thách thức thành cơ hội đòi hỏi nỗ lực rất lớn của quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và các thành viên trong xã hội. Bài viết này đã phân tích tổng quan về chuyển đổi nền kinh tế số tại Việt Nam thời gian qua, đánh giá những cơ hội trong chuyển đổi nền kinh tế số tại Việt Nam hiện tại và tương lai, mang lại những góc nhìn đa chiều đối với quá trình chuyển đổi này, giúp các cơ quan quản lý và doanh nghiệp có những điều chỉnh hợp lý. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). 2. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (2020), Sách trắng về thương mại điện tử 2019.
  10. 33 4. Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (2020), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2019. 5. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT”. 6. Các trang Web: ; 7. United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD). Digital Economy Report 2019. Value Creation and Capture: Implications for Developing Countries. UNCTAD, 2019 December. 8. Singapore Economic Development Board (01/012/2019). Pioneer Certificate Incentive and Development And Expansion Incentive.