Cơ hội và thách thức với ngành chăn nuôi Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 13 trang Gia Huy 18/05/2022 2610
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức với ngành chăn nuôi Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_voi_nganh_chan_nuoi_viet_nam_trong_qua.pdf

Nội dung text: Cơ hội và thách thức với ngành chăn nuôi Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

  1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI NGÀNH CHĂN NUÔI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬPKINH TẾ QUỐC TẾ OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR THE LIVESTOCK SECTOR OF VIETNAM IN THE PROCESS OF INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION TS. Vũ Duy Vĩnh Học viện Tài chính Tóm tắt Những năm gần đây, Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng thông qua việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như TPP, EV FTA Hội nhập kinh tế quốc tế đưa đến nhiều cơ hội phát triển cho các ngành kinh tế Việt Nam, nhưng các ngành kinh tế cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Ngành chăn nuôi Việt Nam đang tạo ra sinh kế cho khoảng 17 triệu hộ chăn nuôi với hơn 55 triệu người dân nhưng những cơ hội là không lớn, còn khó khăn, thách thức là vô cùng lớn bởi vì ngành chăn nuôi Việt Nam có trình độ thấp hơn nhiều các nước phát triển trong TPP hay EV FTA. Bài báo tập trung phân tích những cơ hội, thách thức đối với ngành chăn nuôi Việt Nam và đề xuất một số giải pháp từ phía Nhà nước, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề để ngành chăn nuôi đứng vững, phát triển và cạnh tranh được trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Từ khóa:Chăn nuôi, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam Abstract In recent years, Vietnam has deeply integrated in the international economic process when joining many new free trade agreements such as TPP, EV FTA, and so on. The international economic integration brings more opportunities of development for Vietnam's economic sectors, but it also poses many challenges for the economy.The livestock sector of Vietnam is creating jobs for about 17 million households with more than 55 million people. However, chances for this sector are not great when it still faces many difficulties and enormous challenges because the livestock sector of Vietnam has much lower level of development than that of developed countries in TPP or EV FTA. The article focuses on analyzing opportunities and challenges for the livestock sector of Vietnam and proposes a number of measures from the government, businesses and trade associations for the livestock sector to develop and compete in the context of international economic integration. In particular, the solution from the state only for support, solutions from enterprises is very crucial Key words:livestock, international economic integration, Vietnam TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN Trong thời gian qua đã có nhiều nghiên cứu về ngành chăn nuôi Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế quốc tế. GS. Lê Viết Ly trong bài báo: “ Chăn nuôi trước thềm TPP: Mong manh như đèn trước gió” đề cập đến những yếu kém của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam. Nghiên cứu của TS Hoàng Thanh Vân - Cục trưởng Cục Chăn nuôi - 565
  2. Bộ NN& PTNT cũ thì chỉ ra năng suất ngành chăn nuôi Việt Nam thấp hơn rất nhiều các nước ASEAN hay TPP. Nghiên cứu của TS Nguyễn Thanh Sơn - Viện trưởng Viện Chăn nuôi lại tập trung vào vấn đề liên kết chuỗi trong chăn nuôi và chỉ ra có quá nhiều khâu trung gian trong khâu phân phối sản phẩm là không cần thiết Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) là bao quát hơn cả. Nghiên cứu của VEPR tập trung vào việc phân tích tác động của TPP đối với ngành chăn nuôi Việt Nam từ đó đề xuất việc tái cấu trúc ngành chăn nuôi. Các nghiên cứu đó đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác liên quan đến cơ hội và thách thức đối với ngành chăn nuôi khi hội nhập kinh tế quốc tế nhưng không có tính hệ thống và không toàn diện. Tác giả đã hệ thống vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Từ thực trạng ngành chăn nuôi Việt Nam tác giả đề xuất các giải pháp từng bước củng cố phát triển ngành chăn nuôi Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. 566
  3. NỘI DUNG 1.HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra ngay sau khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, bắt đầu bằng việc Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 và tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tiến được những bước sâu, rộng hơn khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức ký Hiệp định thương mại song phương (BTA) năm 2000 và đặc biệt là việc Việt Nam đàm phán và chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào đầu năm 2007. Từ năm 2008 đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về chất bằng việc đàm phán và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với nhiều nội dung mới có trình độ cao hơn rất nhiều so với các hiệp định thương mại đã ký trước đây.Trong đó điển hình là các hiệp định như: Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và các nước đối tác (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á – Âu (VN-EAEU FTA). Đặc biệt là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EV FTA)ký ngày 2 tháng 12 năm 2015 và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ký ngày 4 tháng 2 năm 2016. Trong tất cả các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam và các bên tham gia cam kết dành cho nhau nhiều ưu đãi về thuế quan, mở cửa thị trường, thực hiện các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường, lao động Thực hiện những cam kết này, một mặt, tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế đứng trước những cơ hội lớn, nhưng mặt khác, cũng phải đối mặt với nhiều thách thức không dễ vượt qua. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành chăn nuôi của Việt Nam được cho là ngành cũng có một số cơ hội để phát triển, nhưng thách thức với ngành chăn nuôi là rất lớn, là ngành có thể phải chịu nhiều tổn thương nhất so với các ngành khác. Trong số các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, thì hiệp định TPP, AEC, EV FTA có tác động mạnh nhất đến ngành chăn nuôi Việt Nam. 2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH CHĂN NUÔI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.1. Những cơ hội đối với ngành chăn nuôi Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là tham gia TPP và các FTA thế hệ mới, ngành chăn nuôi Việt Nam cũng có một số cơ hội, tuy không lớn, nhưng vẫn có, cụ thể là: Thứ nhất, nhập được con giống, thiết bị, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi với giá thấp hơn. Khi Việt Nam tham gia TPP và các FTA thế hệ mới thì thuế nhập khẩu các yếu tố đó giảm xuống mức rất thấp, có thể về 0% thì chi phí cho ngành chăn nuôi sẽ giảm đáng kể, từ đó các sản phẩm chăn nuôi có thể cạnh tranh về giá. Việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ 567
  4. cho ngành chăn nuôi dễ hơn, chi phí thấp hơn cũng góp phần nâng các chất lượng các sản phẩm chăn nuôi. Thứ hai, chúng ta có một số giống gia súc, gia cầm đặc sản rất được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng. Một số loại đặc sản như lợn mán, lợn rừng, gà Đông Tảo, gà đồi Yên Thế có chất lượng tốt sẽ giữ chân người tiêu dùng Việt với sản phẩm chăn nuôi trong nước. Thứ ba, ngành chăn nuôi Việt Nam có lợi thế sân nhà. Với lợi thế sân nhà chúng ta thấu hiểu thị hiếu, tập quán tiêu dùng ở thị trường trong nước hơn các đối thủ. Bên cạnh đó là chi phí vận chuyển thấp hơn các đối thủ đến từ nước ngoài. Đây là lợi thế cho chăn nuôi trong nước vì chi phí vận chuyển chiếm 30% giá thành sản phẩm chăn nuôi. Giá nhân công trong nước thấp cũng là một lợi thế nhỏ so với chăn nuôi ở các nước khác với giá nhân công cao hơn nhiều Việt Nam. Thứ tư, người tiêu dùng Việt Nam vẫn có thói quen tiêu dùng thịt tươi, thịt nóng. Khoảng 80% dân số có thói quen tiêu dùng thịt tươi, thịt nóng. Thói quen này không dễ gì xóa bỏ được ngay. Chỉ khoảng 20% dân số, chủ yếu sống ở thành phố hay dùng thịt đông lạnh nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu sản phẩm chăn nuôi trong nước không đảm bảo chất lượng, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩmthì thói quen này sẽ dần thay đổi, người dân sẽ quay sang tiêu dùng sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu. Thứ năm, thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào ngành chăn nuôi trong nước. Khi Việt Nam tham gia TPP và các FTA thế hệ mới có thể sẽ có một làn sóng đầu tư vào Việt Nam, trong đó có đầu tư vào ngành chăn nuôi vì thị trường Việt Nam lớn với hơn 90 triệu người tiêu dùng, trong khi ngành chăn nuôi Việt Nam còn ít được đầu tư, kém phát triển. Khi các sản phẩm chăn nuôi được nhập vào Việt Nam, các doanh nghiệp FDI đầu tư vào ngành chăn nuôi Việt Nam thì một mặt, ngành chăn nuôi sẽ được tiếp cận nhanh hơn các khoa học công nghệ mới, giống vật nuôi mới, các sản phẩm mới, các hình thức sản xuất tiên tiến; mặt khác, ngành chăn nuôi chịu sức ép buộc phải thúc đẩy nhanh tái cơ cấu ngành; nhà quản lý, doanh nghiệp và người chăn nuôi đều phải thay đổi tư duy quản lý, sản xuất, kinh doanh để hội nhập. Thứ sáu, có thời gian, động lực để tái cơ cấu ngành chăn nuôi. So với các cơ hội ở trên thì đây là cơ hội lớn và đáng kể hơn cả. Khi Việt Nam tham gia TPP và các FTA thế hệ mới thì không phải ngay lập tức hàng rào thuế quan về 0% đối với tất cả các mặt hàng mà là xóa bỏ có lộ trình. Với những nền kinh tế trình độ còn thấp hay những ngành kinh tế còn yếu kém thì các nhà đàm phán luôn cố gắng có một khoảng thời gian đủ để tái cơ cấu, thích nghi với điều kiện hội nhập sâu, rộng. Theo cam kết trong các FTA, lộ trình cam kết mặt hàng chăn nuôi của Việt Nam, thuế suất về 0% vào năm 2018 đối với Hàn Quốc; vào năm 2020 với ASEAN - Nhật Bản, ASEAN - Australia và New Zealand, ASEAN - Ấn Độ, năm 2023 với Nhật Bản, 2026 với Chile và với TPP đến tận năm 2028 thuế suất mới về 0% (Khánh Vũ, 2015). Với hiệp định EV FTA chúng ta cũng có hơn 10 năm để thuế suất với sản phẩm chăn nuôi về 0%. Hai khu vực lớn mà Việt Nam có FTA là khu vực các nước thành viên TPP và khu vực EV FTA đều có thời gian trên 10 năm để thuế suất với các sản phẩm chăn nuôi về 0%. Đây là cơ hội tốt, một khoảng thời gian quý như vàng để ngành chăn nuôi Việt Nam cơ cấu lại, thích nghi được với hội nhập. 568
  5. Bên cạnh những cơ hội không lớn với ngành chăn nuôi, thì khi hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là tham gia các hiệp định tự do thế hệ mới như TPP, EV FTAngành chăn nuôi phải đối mặt với nhiều thách thức vô cùng lớn. Có thể nói, so với các ngành khác, ngành chăn nuôi gặp phải nhiều khó khăn, thách thức nhất khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. 2.2. Những thách thức với ngành chăn nuôi. - Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp Ngành chăn nuôi Việt Nam hiện nay đang là sinh kế của 17 triệu hộ nông nghiệp với khoảng 55-58 triệu người, chiếm 60 - 63% dân số (số liệu năm 2014). Trong đó, 4 triệu hộ nuôi lợn; 7,9 triệu hộ nuôi gà; 2,7 triệu hộ nuôi vịt; 2,5 triệu hộ nuôi bò thịt; 1,6 triệu hộ nuôi trâu và gần 24.000 hộ nuôi bò sữa. Phần lớn các hộ chăn nuôi Việt Nam có quy mô nhỏ. Mỗi hộ chăn nuôi số lượng rất ít gia súc, gia cầm, ví dụ chăn nuôi lợn: số hộ chăn nuôi dưới 10 con cho một hộchiếm tới 86,4%, tương tự như vậy, số hộ nuôi quy mô dưới 100 con chiếm tới gần 70% (Khánh Vũ, 2015). Cả nước có khoảng 23.000 trang trại nhưng có tới 90 – 95% là trang trại quy mô nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, chỉ có ít trang trại của những doanh nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai, TH Truemilk, Vinamilk là có quy mô vừa. Do chăn nuôi nhỏ lẻ, trong điều kiện chật chộinên không có điều kiện trang bị công nghệ, năng suất lao động thấp. Nếu như ở Mỹ chỉ cần 1 công nhân để quản lý một nông trại nuôi 1.000 lợn thì ở Việt Nam phải cần đến 15-20 người. Để quản lý một trại gà 20.000 con ở Thái Lan chỉ cần 1 người, trong khi ở Việt Nam cần đến 4 người.Ở Việt Nam, một con lợn nái sinh sản một lứa từ 12 - 16 con, trong khi tại Mỹ, một lứa lợn nái là 20-24 con. Nói chung, năng suất lao động trong ngành chăn nuôiViệt Nam chỉ bằng 25 – 30% so với các nước trong TPP (Ngô Gia, 2015). Với năng suất thấp như vậy thì chăn nuôi Việt Nam rất khó cạnh tranh với các nước khác, nhất là những nước có ngành chăn nuôi phát triển trong TPP hay EV FTA. - Chi phí sản xuất cao Ngoài năng suất lao động thấp thì vẫn còn nhiều yếu tố khác làm cho chi phí trong ngành chăn nuôi cao. Trong đó, thức chăn nuôi có ảnh hưởng đáng kể. Gía thức chăn nuôiở Việt Nam thường cao hơn các nước khác khoảng 20% do phải nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn từ nước ngoài và bị các công ty nước ngoài thao túng. Sản xuất, phân phối của ngành chăn nuôi qua nhiều khâu trung gian cũng làm tăng chí phí, giá thành sản phẩm cao khi đến tay người tiêu dùng. Hiện tại, sản xuất chăn nuôi chưa theo chuỗi giá trị mà bị cắt khúc, mỗi công đoạn người sản xuất lại phải tính toán để có một lợi nhuận nhất định nên buộc phải đẩy giá thành lên. Chi phí của doanh nghiệp chăn nuôi trong nước cao hơn doanh nghiệp có vỗn nước ngoài (DN FDI)còn bởi các doanh nghiệp chăn nuôi trong nước phải vay vốn lãi suất cao để sản xuất (khoảng 12 – 13%/năm) thì DN FDI lại được chính phủ của họ cho vay lãi suất thấp, khoảng 1 – 4%/năm để khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Ở Việt Nam, ngành chăn nuôi yếu kém dẫn đến chi phí cao hơn các nước phát triển 30-35%. Điều này làm giá thành sản phẩm chăn nuôi cao tương ứng. Theo điều tra của Hội chăn nuôi Việt Nam, giá thành sản xuất lợn thịt ở Mỹ thấp hơn 25 – 30% so với Việt Nam. Gía thành 1 kg thịt bò Úc sau khi đưa và Việt Nam giết mổ là 170 569
  6. – 180 nghìn đồng/kg, trong khi đó bò thịt nuôi tại Việt Nam giá không dưới 200 nghìn đồng/kg. Về chi phí sản xuất thịt gà công nghiệp của Việt Nam cũng vẫn cao hơn Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc. Hiện nay, TPP chưa có hiệu lực, sản phẩn chăn nuôi nhập khẩu từ các nước TPP vẫn phải chịu mức thuế quan tương đối cao, nhưng lại có giá thấp hơn sản phẩm tương tự của Việt Nam. Khi TPP có hiệu lực, thì tình hình còn khó khăn hơn rất nhiều. -Công nghệ chăn nuôi, chế biến, bảo quản còn yếu kém Ngành chăn nuôi Việt Nam mang tính nhỏ lẻ, sản xuất kiểu thủ công truyền thống. Chỉ một số ít doanh nghiệp lớn có công nghệ hiện đại, nhưng mới chỉ được đầu tư gần đây. Chăn nuôi ở Việt Nam chủ yếu là chăn thả tự nhiên, chuồng trại không đảm bảo nên rất khó kiểm soát dịch bệnh. Công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch trong lĩnh vực chăn nuôi còn rất yếu kém. Tổng thể cả nước hiện chưa có doanh nghiệp, nhà máy chế biến các sản phẩm thịt, trứng, sữa quy mô lớn. Trong khi đó ngành chăn nuôi ở phần lớn các nước trong EV FTA hay TPP đều rất hiện đại, quy mô rất lớn, được tự động hóa cao. Nếu ngành chăn nuôi Việt Nam không được hiện đại hóa thì rất khó cạng trạnh. -Nhiều khâu trung gian Ngành chăn nuôi Việt Nam từ khâu sản xuất, chế biến đến phân phối có quá nhiều khâu trung gian nhất là trong khâu phân phối sản phẩm. Điều này rất bất lợi vì qua mỗi khâu trung gian giá sản phẩm lại bị đẩy lên. Đây là một trong những yếu tố khiến giá sản phẩm chăn nuôi bị đẩy lên cao khi phải qua 5-7 khâu trung gian kiếm lời bằng cách mua đi bán lại. Mặt khác do phải qua nhiều khâu trung gian (trong khi ở nước ngoài chỉ 1-2 khâu trung gian) đã khiến cho sản phẩm có thời gian bị “giữ chân” quá lâu làm cho chất lượng sản phẩm bị giảm sút trước khi đến tay người tiêu dùng. Chưa kể, trong quá trình vận chuyển, mua đi bán lại đó, nhiều cá nhân đã tìm mọi cách để giữ cho sản phẩm được tươi và đẹp mắt bằng cách sử dụng những phụ gia độc hại. -Thiếu tính liên kết giữa các khâu trong ngành chăn nuôi Trong khi sản phẩm chăn nuôi phải qua nhiều khâu trung gian thì sự liên kết giữa các khâu này lại rất kém. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do lâu nay tổ chức sản xuất của Việt Nam không theo chuỗi, nhất là những sản phẩm của chăn nuôi nông hộ bị cắt khúc, tức là người nuôi giống chỉ biết giống, người nuôi thịt chỉ biết nuôi thịt, người giết mổ chỉ biết giết mổ, người kinh doanh chỉ biết kinh doanh, mạnh ai người ấy làm do đó mỗi người chỉ làm để được lợi cho mình, không quan tâm nhiều đến người khác, khâu khác thậm chí còn làm hại cho cả hệ thống sản xuất, phân phối. Thiếu tính liên kết giữa các khâu trong ngành chăn nuôi làm ảnh hưởng đến chất lượng, giảm sức cạnh tranh, nhất là trong điều kiện tham gia TPP, EV FTA -Đầu vào của ngành chăn nuôi phụ thuộc nhiều vào nước ngoài Hầu hết những giống bò, lợn hay gia cầm tốt Việt Nam đều phải nhập từ nước ngoài. Bên cạnh đó là thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi giàu đạm, giàu năng lượng, thức ăn bổ sung, vitamin, phụ gia, khoáng chất phải nhập khẩu tới gần 570
  7. 90%.Ngành chăn nuôi Việt Nam phát triển không ổn định, bị động do phụ thuộc nhiều từ nguồn cung từ nước ngoài và dễ gặp phải rủi ro bởi tỷ giá Thị trường thức ăn chăn nuôi trong nước phụ thuộc nhiều vào các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đến nay, trong tổng số 199 công ty thức ăn chăn nuôi hỗn hợp trên cả nước, có 67 công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhưng nắm giữ tới 60% thị phần (GS. Lê Viết Lý, 2014). Thị phần sản phẩm chăn nuôi của các công ty nước ngoài tại Việt Nam như CP Group, Japfa Comfeed ngày càng ở thế thượng phong, chứ chưa nói tới sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu từ nước ngoài về. Do chiếm được thị phần lớn nên các công ty nước ngoài tụ tung tự tác,chi phối thị trường, muốn chiết khấu, khuyến mại, khấu hao baonhiêu cũng được và thường tăng giá tùy tiện, có năm tăng giá tới 7 lần, đẩy giá thành thức ăn chăn nuôi lên cao. Trong khi đó ở Thái Lan khống chế lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp ngành này ở mức 5%. Để xảy ra tình trạng trên một phần là do công tác quản lý nhà nước đối với ngành chăn nuôi, nhất là thức ăn chăn nuôi còn lỏng lẻo, yếu kém nên mới có tình trạng như trên. -Truy xuất nguồn gốc còn nhiều khó khăn Do ngành chăn nuôi Việt Nam sản xuất còn lạc hậu,quy mô nhỏ lẻ, phân tán bởi hàng triệu hộ chăn nuôi, hơn nữa các khâu, sản xuất, chế biến, phân phối lại thiếu sự liên kết nên khó truy xuất nguồn gốc. Nhiều sản phẩm không có thương hiệu, không có bao bì, nhãn mác hoặc là có nhưng không đầy đủ thông tin vì vậy việc thu thập thông tin ngược dòng từ sản phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu là rất khó. Khi sản phẩm có vấn đề thì cũng khó truy xem nguyên nhân từ khâu nào. Khi Việt Nam hội nhập TPP hay EV FTA, thì đây là thách thức lớn vì các nước thành viên TPP, EV FTA rất chú trọng vấn đề truy xuất nguồn gốc để đảm bảo chất lượng và sự an toàn của sản phẩm. Sản phẩm chăn nuôi khó truy xuất nguồn gốc thì không thể xuất khẩu sang các nước khác, ngay tại thị trường trong nước cũng khó cạnh tranh. -Các nước đối tác áp dụng các biện pháp SPS và TBTkhắt khe hơn Tương tự như vấn đề tuy xuất nguồn gốc, các nước TPP, EV FTA phần lớn là những nước phát triển cao nên rất chú trọng việc bảo vệ người tiêu dùng và các ngành sản xuất trong nước. Vì vậy những nước này thường đặt ra các biện pháp vệ sinh, an toàn và kiểm dịch (SPS) hay các biện pháp kỹ thuật (TBT) ở mức cao. Trong khi đó, ngành chăn nuôi Việt Nam, chưa áp dụng được nhiều công nghệ hiện đại, chăn nuôi, giết mổ, chế biến còn mang tính thủ công nên chất lượng chưa cao. Đặc biệt là tình trạng người chăn nuôi vì chạy theo lợi ích trước mắt nên việc lạm dụng chất kháng sinh, chất tạo nạc, kích thích sinh trưởng khá phổ biến, thậm chí sử dụng cả chất cấm trong chăn nuôi.Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng hơn, nhất là tham gia TPP, EV FTA, dù những nước này có giảm thuế hay giành nhiều ưu đãi cho sản phẩm chăn nuôi Việt Namnhưng các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam không đảm bảo chất lượng, vệ sinh, an toàn thì khó cạnh tranh ở thị trường nội địa chứ chưa nói đến việc xuất khẩu sang các nước đối tác. 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CHĂN NUÔI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ NGÀY CÀNG SÂU, RỘNG 571
  8. Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng, nhất là tham gia các FTA thế hệ mới như TPP, EV FTA thì ngành chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn, thách thức rất lớn. Tuy nhiên cơ hội không phải là không có. Nếu tận dụng tốt thời gian khoảng 10 năm trước khi thuế nhập khẩu về 0% và có những giải pháp phù hợp thì chăn nuôi Việt Nam vẫn có thể vượt qua được thách thức, tồn tại và phát triển được. Một số giải pháp chủ yếu như sau: 3.1. Giải pháp từ phía nhà nước Một là, quy hoạch lại ngành chăn nuôi theo vùng miền, vật nuôi. Trên cơ sở điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai, kinh nghiệm sản xuất và thị trường mà lựa chọn các giống bò, lợn, gia cầm với cơ cấu phù hợp tại các khu vực trung du miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, miền Trung, đông Nam bộ, tây Nam bộ. Bên cạn đó cũng quy hoạch lại các khu vực trồng cây nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi. Có thể chuyển đổi những diện tích trồng cây lương thực giá trị thấp sang trồng cây nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi để giảm nhập khẩu nguyên liệu từ đó góp phần giảm giá thành chăn nuôi. Hai là, hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách về chăn nuôi. Quốc hội cần sớm ban hành luật Chăn nuôi, các cơ quan quản lý các văn bản hướng dẫn, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Chính sách về đất đai: cần có chính sách dành quỹ đất đủ lớn cho chăn nuôi tập trung, kéo dài thời gian cho thuê đất để người chăn nuôi có điều kiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chăn nuôi lâu dài. Chính sách về thuế, phí: có ưu đãi về thuế đối với những đơn vị nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, giảm thuế đối với thiết bị công nghệ, vacxin chăn nuôi; miễn thuế giá trị gia tăng (VTA) với sản phẩm thức ăn chăn nuôi; đánh thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô, khoai, sắn để hạn chế xuất khẩu, khuyến khích để lại trong nước làm nguyên liệu. Xem xét bãi bỏ một số loại phí với sản phẩm chăn nuôi. Không để tình trạng 1 quả trứng phải cõng 14 loại phí như thời gian qua. Chính sách về tín dụng: đa dạng hóa các hình thức và phương thức tín dụngtheo hướng để người chăn nuôi dễ tiếp cận các nguồn vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi. Chính sách về thương mại: đơn giản hóa các thủ tục hành chính để người chăn nuôi thuận lợi hơn trong tiêu thụsản phẩm trong nước vầ xuất khẩu. Chính sách về ứng dụng công nghệ cao: Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp hỗ trợ đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi bằng các hình thức ưu đãi khác nhau. Việc ứng dụng công nghệ cao sẽ góp phần cải tiến, nâng cao chất lượng giống, nâng cao năng suất vật nuôi từ đó làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chăn nuôi. Các biện pháp xử phạt nghiêm khắc: Trước đây, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ cảnh cáo, phạt một số tiền nhỏ nên không đủ sức răn đe. Người chăn nuôi, người kinh doanh sẵn sàng vi phạm và nộp phạt rồi lại vi phạm. Bộ Luật hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 đã quy định các hành vi sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, trong khâu tiêu thụ gia súc/gia cầm, trong bảo quản thực phẩm sẽ được xếp vào khung xử lý hình sự thay vì hành chính như trước đây. Chế tài xử phạt nghiêm khắc hơn trước rất nhiều, trường hợp vi 572
  9. phạmđặc biệt nghiêm trọng có thể bị phạt tiền gấp 10 lần trước đây, lên tới 1 tỷ đồng, phạt tù mức cao nhất là 20 năm. Vấn đề quan trọng làc các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ Luật hình sự phải quy định rõ ràng, cụ thể thế nào là hành vi sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, trong khâu tiêu thụ gia súc/gia cầm, trong bảo quản thực phẩm gây hậu quả “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” hay “đặc biệt nghiêm trọng” để không làm khó cho cơ quan thực thi khi tiến hành xử phạt. Việc sử dụng chất cấm cực kỳ nguy hiểm cho sức khỏe, là hành vi giết nhiều người một cách từ từ nên theo quan điểm của tác giả chỉ cần phát hiện có sử dụng chất cấm là có thể xử lý hình sự mà không cần thiết phải có hậu quả xảy ra. Ba là, tái cơ cấu quy mô tổng đàn. Các cơ quan quản lý nhà nước cần rà soát tính toán lại cơ cấu sản phẩm để cân đối chăn nuôi lợn, trâu, bò, gia cầm phát huy lợi thế của từng khu vực. Thịt lợn vẫn là chính nhưng thời gian tới sẽ giảm cơ cấu xuống một chút, còn 60 - 62% (hiện tại vẫn chiếm hơn 70%), (Thắng Văn, 2015). Đồng thời tăng cơ cấu sản phẩm thịt bò, thịt gia cầm, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào thị trường. Một vấn đề quan trọng nữa là chúng ta hạn chế tăng về số lượng vật nuôi, tập trung vào chất lượng, bao gồm cả chất lượng sản phẩm và con giống. Tương lai, số lợn nái sẽ giảm từ hơn 4 triệu con xuống còn dưới 3 triệu con nhưng vẫn đảm bảo cung cấp đủ nguồn giống trong nước. Phát triển thị trường ngách với một số giống vật nuôi đặc sản như gà Đông Tảo, lợn mán, chim trĩ, vịt trời để tận dụng thị hiếu người tiêu dùng trong nước, giữ thị phần trong nước, đồng thời tăng cường quảng bá tìm thị trường xuất khẩu. Bốn là, chú trọng sử dụng các rào cản kỹ thuật. Khi hàng rào thuế quan đã được rỡ bỏ, để bảo vệ thị trường trong nước, hạn chế một phần sản phẩm chăn nuôi nước ngoài nhập khẩu vào trong nước thì các cơ quan chuyên môn của nhà nước cần xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng (ISO, VietGAP, GlobalGAP), các hàng rào kỹ thuật như TBT, SPS ở mức cao như các nước phát triển. Khi đó sản phẩm chăn nuôi nước ngoài chất lượng chưa thực sự cao sẽ khó được nhập khẩu vào trong nước thì sẽ bảo vệ tốt hơn thị trường nội địa. Mặt khác, điều đó cũng góp phần để buộc sản phẩm chăn nuôi trong nước cũng phải đáp ứng tốt các tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn và kiểm dịch. Các cơ quan chuyên môn nhà nước cần từng bước bắt buộc áp dụng truy xuất nguồn gốc đối với sản phẩm chăn nuôi để đảm bảo sản phẩm an toàn ở tất cả các khâutừ trang trại tới bàn ăn.Nếu sản phẩm không đảm bảo chất lượng, không an toàn, khó truy xuất nguồn gốc thì ở trong nước cũng sẽ khó bán, còn xuất khẩu thì không thể. Vấn đề nổi cộm hiện nay là tình trạng người chăn nuôi sử dụng các chất cấm trong chăn nuôi khá bừa bãi. Cơ quan quản lý cần tăng cường kiểm soát, ngăn chặn việc sử dụng tùy tiện các loại kháng sinh, chất tạo nạc, kích thích tăng trưởng quá mức. Cần phải có những chế tài xử phạt nghiêm minh hơn để có tính răn đe. Nếu tình trạng sử dụng chất cấm như hiện nay kéo dàithì người tiêu dùng sẽ quay lưng lại với sản phẩm chăn nuôi nội địa và mua của nước ngoài thì ngành chăn nuôi sẽ thua trên sân nhà. Năm là, xây dựng mô hình liên kết theo chuỗi giá trị. Trong ngành chăn nuôi có quá nhiều khâu trung gian và các khâu này lại thiếu liên kết với nhau. Nhà nước cần có chính 573
  10. sách, định hướng đểtạo nên các chuỗi liên kết trong chăn nuôi giữa người chăn nuôi với người chăn nuôi thông qua mô hình hợp tác xã hoặc giữa người chăn nuôi với doanh nghiệp tạo một quy trình khép kín tự cung ứng, từ con giống đến thức ăn, thuốc thú y, giết mổ, thị trường nhằm giảm bớt những khâu trung gian không cần thiết, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh với các sản phẩm ngoại. Mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị của ngành chăn nuôi nên có hai hình thức: liên kết theo đường đi sản phẩm của người sản xuất đến người tiêu dùng (liên kết dọc) và liên kết các đối tượng cùng tham gia trong quá trình sản xuất kinh doanh (liên kết ngang). Trong mô hình liên kết dọc, doanh nghiệp đóng vai trò nhà đầu tư, người tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bảo đảm thị trường tiêu thụ. Còn người chăn nuôi nhận khoán theo định mức chi phí và được hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ bản ban đầu, chi phí lao động và sản xuất trên đất đai của họ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có vai trò quan trọng, là đầu tầu trong việc liên kết bốn nhà: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà chăn nuôi để ngành chăn nuôi vượt qua thách thức trong thời kỳ hội nhập sâu, rộng. Sáu là, khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư vào chăn nuôi. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư vào chăn nuôi bởi vì đây là cơ hội cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn mới có tiềm lực về vốn, công nghệ, phương pháp quản lý chuyên nghiệp, hiệu quả. Thực tế cho thấy một số doanh nghiệp tuy mới đầu tư vào chăn nuôi nhưng tín hiệu cho thấykhá hiệu quả và có thể cạnh tranh được như Hoàng Anh Gia Lai, Vinamilk, TH Truemilk, VinGroup, Bảy là,hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm chăn nuôi và quảng bá sản phẩm.Các sản phẩm nông nghiệp nói chung, sản phẩm chăn nuôi nói riêng của Việt Nam ít có thương hiệu. Thương hiệu của một số sản phẩm chỉ được biết ở Việt Nam, còn ở nước ngoài thì hầu như không được biết đến mặc dù những sản phẩm này cũng có tiếng là ngon, độc đáo. Nguyên nhân là do công tác xây dựng thương hiệu chưa được chú trọng. Trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế đang hội nhập sâu rộng, khả năng cạnh tranh và chinh phục thị trường của các sản phẩm và dịch vụ không chỉ được quyết định bởi giá thành và chất lượng mà ngày càng phụ thuộc vào giá trị thương hiệu. Công tác xúc tiến thương mại chỉ tập trung vào một số sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn như: dệt may, da giày, cà phê, gạo Các sản phẩm chăn nuôi ít được quảng bá, giới thiệu ở thị trường nước ngoài. Thực tế này đòi hỏi, các cơ quan nhà nước cần hỗ trợ nhiều hơn nữa để giúp doanh nghiệp ngành chăn nuôi xây dựng thương hiệu và tổ chức hội chợ, triển lãm nhằm quảng bá, giới thiệu sản phẩm chăn nuôi ở cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, nhất là những thị trường mà Việt Nam đã ký FTA như TPP, EV FTA. Tám là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền. Gần đây, Việt Nam đã đàm phán và ký được một số FTA thế hệ mới với nhiều cam kết ở mức độ cao. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam kể cả doanh nghiệp chăn nuôi vẫn “bình chân như vại”, coi đó là việc của Nhà nước và không nhận thức được sự ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp của mình. Nếu doanh nghiệp không nhận 574
  11. thức được, không có sự chuẩn bị cần thiết thì sẽ không kịp đối phó và sẽ thất bại. Do đó các cơ quan nhà nước cần tăng cường công tác tuyên truyền, sử dụng những hình thức tuyên truyền phù hợp để các doanh nghiệp nắm được những cam kết mở cửa, hội nhập nhất là những cam kết liên quan đến sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất, kinh doanh. 3.2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp Một là, huy động nguồn lực để sản xuất quy mô lớn. Doanh nghiệp chăn nôi các nước thành viên TPP, EV FTA như Mỹ, Nhật Bản, Australia đều có quy mô rất lớn. Tình trạng doanh nghiệp chăn nuôi Việt Nam quy mô nhỏ, đặc biệt là hàng chục triệu hộ chăn nuôi nhỏ lẻ thì sẽ rất khó cạnh tranh với đối thủ đến từ những nước có nền nông nghiệp phát triển. Chỉ có quy mô lớn thì mới dễ áp dụng công nghệ tiên tiến, phòng chống dịch bệnh, xử lý môi trường hiệu quả, năng suất chăn nuôi cao và đặc biệt là hạ được giá thành chăn nuôi. Các hộ chăn nuôi phải liên kết lại để trở thành thành viên trong hợp tác xã hoặc doanh nghiệp chăn nuôi. Từ hành chục triệu hộ chăn nuôi liên kết với nhau để chuyển đổi thành vài chục nghìn doanh nghiệp thì lực lượng cán bộ thú y, kiểm dịch mới kiểm soát được. Còn như hiện nay thì bao nhiêu cán bộ thú y, kiểm dịch cũng không đủ. Hai là, tận dụng sự hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư vào con giống, công nghệ, quy trình sản xuất. Trong điều kiện nguồn lực của doanh nghiệp có hạn thì các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa hỗ trợ của nhà nước đối với ngành chăn nuôi về vốn, tín dụng, đất đai để đầu tư con giống tốt, công nghệ hiện đại, quy trình sản xuất hợp lý, hiệu quả. Khi có giống tốt, công nghệ hiện đại, quy trình sản xuất hợp lý, hiệu quả thì mới nâng cao được năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm chăn nuôithì mới nói đến việc cạnh tranh với nước ngoài. Ba là, xây dựng cơ sở chăn nuôi an toàn sinh học, áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng.Bên cạnh việc tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất sản phẩm chăn nuôi để cạnh tranh với sản phẩm chăn nuôi ngoại nhập thì để phát triển bền vững các doanh nghiệp chăn nuôi phải chú ý xử lý môi trường, đảm bảo an toàn sinh học, dễ truy xuất nguồn gốc và đáp ứng tốt các tiêu chuẩn chất lượng của cơ quan quản lý nhà nước. Sản phẩm bán trong nước phải đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng ISO, HACCP, VietGap Sản phẩm xuất khẩu ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng ISO, HACCP còn phải, đáp ứng cả tiêu chuẩn GlobalGap, các biện pháp SPS, TBT Nếu không đáp ứng được như vậy thì người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm chăn nuôi ngoại nhập chất lượng tốt hơn, an toàn hơn còn sản phẩm trong nước sẽ khó bán ở thị trường nội địa và không xuất khẩu được. Bốn là, tích cực, chủ động xây dựng thương hiệu, tăng cường quảng bá sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng tốt, an toàn nhưng chưa có thương hiệu, không được quảng bá thì người tiêu dùng không biết đến và sẽ khó bán trong nước và khó xuất khẩu. Trong điều kiện Việt Nam đã hội nhập sâu, rộng phải cạnh tranh với cấc đối thủ mạnh đến từ những nước có nền nông nghiệp phát triển thì doanh nghiệp chăn nuôi Việt Nam càng phải chú ý xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm, trước hết là dựa trên nội lực của doanh nghiệp, sau đó là huy động các nguồn lực khác.Trong đó việc tận dụng sự hỗ trợ của Nhà nước là quan trọng và có ý nghĩa rất lớn. Doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào các chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia được bảo trợ bởi Nhà nước, tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của 575
  12. Nhà nước như các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước để giới thiệu cho nhiều người tiêu dùng có ấn tượngtốt về sản phẩm. Năm là, chủ động tìm kiếm thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian gần đây, Việt Nam đã tham gia một số FTA thế hệ mới với một số khu vực thị trường mà mức độ, nội dung cam kết có khác nhau. Doanh nghiệp cần phải nắm chắc thông tin liên quan đến mặt hàng của mình: ở mỗi thị trường mức độ ưu đãi, cắt giảm thuế đến đâu, cần phải đáp ứng những tiêu chuẩn nào Doanh nghiệp không nên thụ động ngồi chờ các cơ quan quản lý biến đến phổ biến thông tin mà phải chủ động tìm hiểu thông tin từ nhiều kênh khác nhau vì nó liên quan đến lợi ích sát sườn của doanh nghiệp. Bên cạnh các giải pháp từ phía Nhà nước, giải pháp từ phía doanh nghiệp thì giải pháp từ phía các hiệp hội ngành nghề cũng không kém phần quan trọng. Cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các hiệp hội ngành nghề với tư cách cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp để phổ biến chủ trương, chính sách của Nhà nước, để thực hiện tốt hơn việc liên kết theo chuỗi giá trị trong ngành chăn nuôi và đểphản hồi thông tin nhằm điều chỉnh chính sách. KẾT LUẬN Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng, ngành chăn nuôi Việt Nam có nhiều bất lợi so với ngành chăn nuôi của các nước phát triển trong TPP hay EV FTA. Song, nếu biết tận dụng cơ hội về thời gian, một số lợi thế và đặc biệt có sự quyết tâm cao, sự nỗ lực của cả hệ thống thì ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn có thể cạnh tranh và phát triển được. Vấn đề quyết định nhất là ở phía doanh nghiệp vì sự hỗ trợ của Nhà nước chỉ tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, Nhà nước không thể làm thay doanh nghiệp. Sự nỗ lực, quyết tâm, tích cực chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp chăn nuôi mới bảm bảo cho sự thành công của ngành chăn nuôi trong quá trình hội nhập. 576
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2014), Quyết định số 984/QĐ-BNN-CN phê duyệt đề án “Tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, ban hành ngày 9 tháng 5 năm 2014. 2. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2014), Quyết định số 985/QĐ-BNN-CN ban hành kế hoạch hành động thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, ban hành ngày 9 tháng 5 năm 2014. 3. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự 2015, ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015 4. Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển – VEPR (2015), Báo cáo “Tác động của TPP và AEC lên nền kinh tế Việt Nam: Khía cạnh kinh tế vĩ mô và trường hợp ngành chăn nuôi” 5. Khánh Vũ (2015), Ông lớn “TPP” có thực sự đáng sợ với ngành chăn nuôi, truy cập lần cuối ngày 5 tháng 4 năm 2016, từ: 387748.bld 6. GS.Lê Viết Ly (2014), Chăn nuôi trước thềm TPP: Mong manh như đèn trước gió!, truy cập lần cuối ngày 5 tháng 4 năm 2016, từ: post124267.html, 7. Nam Khánh (2015), TPP làm khó ngành Chăn nuôi?, truy cập lần cuối ngày 11 tháng 3 năm 2016, từ: 25046.aspx 8. Ngô Gia (2015), TPP: Thách thức cho ngành chăn nuôi, truy nhập lần cuối ngày 5 tháng 4 năm 2016, từ: nuoi-640950 9. Thắng Văn (2015), Ngành chăn nuôi đón “sóng” TPP truy nhập lần cuối ngày 5 tháng 4 năm 2016, từ: song-tpp 577