Công nghiệp văn hoá ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn

pdf 9 trang Hùng Dũng 05/01/2024 170
Bạn đang xem tài liệu "Công nghiệp văn hoá ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcong_nghiep_van_hoa_o_viet_nam_tu_ly_luan_den_thuc_tien.pdf

Nội dung text: Công nghiệp văn hoá ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn

  1. TNghiênạp chí cKhoaứu trao họ cđổ - iTr ●ườ Research-Exchangeng Đại học Mở Hà of N ộopinioni 66 (4/2020) 25-33 25 CÔNG NGHIỆP VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN CULTURE INDUSTRY IN VIETNAM FROM THEORETICAL TO PRACTICE Hoàng Minh Phúc* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/10/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/04/2020 Tóm tắt: Trong những thập niên gần đây, công nghiệp văn hóa thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sự phát triển của công nghiệp chế tạo, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình toàn cầu hoá của nhân loại đã tạo nên sự thay đổi rất lớn trên nhiều lĩnh vực trong đó có văn hoá và công nghiệp văn hoá. Với nhiều quốc gia, công nghiệp văn hoá đã trở thành lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và là trọng điểm trong chiến lược phát triển đất nước. Sản phẩm công nghiệp văn hoá không chỉ góp phần nâng cao vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế mà còn tạo ra những hiệu ứng mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục Bài viết này dựa trên các nghiên cứu về công nghiệp văn hoá với cách tiếp cận nghệ thuật học phân tích những dịch chuyển về không gian sáng tạo và vị thế người thực hành nghệ thuật để phác thảo và nhìn nhận vấn đề thực tiễn trong nghiên cứu. Từ khoá: Công nghiệp văn hoá, không gian văn hoá sáng tạo, giá trị văn hoá. Abstract: In recent decades, the cultural industry has attracted research interest from many countries around the world, including Vietnam. The development of manufacturing industry, the industrial revolution 4.0 and the globalization process of mankind have made a great change in many fi elds including culture and cultural industry. For many countries, cultural industry has become a key economic sector and a key point in the country’s development strategy. Cultural and industrial products not only contribute to enhancing the position of countries in the international arena but also create strong political, economic, cultural and educational eff ects This article is based on The study of cultural industry with the approach of the arts analyzes the movement of creative space and the position of people practicing art to outline and recognize practical issues in research. Keywords: Cultural industry, creative cultural space, cultural value. * Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai
  2. 26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 1. Đặt vấn đề phủ Việt Nam trong phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa là loại hình công nghiệp văn hoá “Các ngành công công nghiệp đặc biệt thể hiện cái nhìn mới nghiệp văn hoá là bộ phận cấu thành quan về vấn đề kinh tế trong văn hoá. Nhiều thập trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa niên gần đây, ngành công nghiệp văn hoá nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời phát triển các ngành công nghiệp văn hoá. sống văn hoá và kinh tế thế giới, những Phát triển các ngành công nghiệp văn hoá hiệu ích về kinh tế - xã hội mà công nghiệp dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ văn hoá mang lại làm thay đổi chính sách và bản quyền trí tuệ; khai thác tối đa yếu tố đầu tư cho văn hoá của nhiều quốc gia. So kinh tế của các giá trị văn hoᔇ. Điều này với các nước trên thế giới và trong khu vực, cho thấy, nhu cầu về sáng tạo và hưởng thụ Việt Nam bước vào quá trình phát triển các giá trị văn hoá không ngừng gia tăng. công nghiệp văn hoá muộn hơn, thuật ngữ Sự xuất hiện ngày càng nhiều các thông công nghiệp văn hoá đến năm 2014 mới báo quyết định thừa nhận sự đóng góp của được đề cập tới trong Nghị quyết số 33/ văn hoá đối với việc tăng trưởng kinh tế NQ-TW của BCHTW khoá XI “Phát triển cho thấy văn hoá đang dần tìm con đường công nghiệp văn hoá nhằm khai thác và hướng tới thị trường và cho thấy những thay phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc đổi cơ bản về cách thức nhân loại sáng tạo, của văn hoá Việt Nam; khuyến khích xuất tiêu dùng và hưởng thụ các sản phẩm văn khẩu sản phẩm văn hoá, góp phần quảng bá hoá. Thị trường các sản phẩm văn hoá cũng văn hoá Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu giống như các thị trường khác, đa dạng và sản phẩm văn hoá, góp phần quảng bá văn phân khúc phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, hoá Việt Nam ra thế giới Đổi mới, hoàn thu nhập, tuổi tác của khách hàng đã góp thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận phần thúc đẩy nội lực của quốc gia về văn lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá, thúc đẩy được sức sáng tạo của người hoá và công nghiệp văn hoᔆ. Đến nay, hệ nghệ sĩ và sự phát triển mạnh mẽ của các thống các văn bản liên quan đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá. ngành công nghiệp văn hoá đã được Nhà nước quan tâm, ban hành góp phần định 2. Công nghiệp văn hoá hướng các chuẩn giá trị của văn hoá và tạo Thuật ngữ Công nghiệp văn hoá điều kiện phát huy được hiệu ích kinh tế (Cultural Indusstries) lần đầu tiên năm được của các hoạt động văn hoá. Năm 2016, Thủ bàn tới năm 1947 trong tác phẩm Dialectic tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược of Enlightenment “văn hoá bị thống trị bởi phát triển các ngành công nghiệp văn hoá các hàng hoá được sản xuất bởi công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm văn hoá và các hàng hoá này trong khi nhắm 2030” khẳng định quan điểm của Chính đến mục đích là những hàng hoá mang tính † Nghị quyết số 33/NQ-TW Hội nghị lần thứ chín BCHTW khoá XI ngày 09 tháng 6 năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. ‡ Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
  3. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 27 dân chủ, cá nhân và đa dạng hoá, trên thực Theo UNESCO và một số quốc gia tế lại có tính chuyên chế, hòa đồng và tiêu công nhận “công nghiệp văn hoá là các chuẩn cao Chữ “công nghiệp” không ngành công nghiệp kết hợp sự sáng tạo, nhằm chỉ quá trình sản xuất mà chỉ sự tiêu sản xuất và khai thác các nội dung có chuẩn hoá các sản phẩm cũng như hợp lý bản chất phi vật thể và văn hoá. Các nội hoá kỹ thuật liên quan đến việc cung ứng, dung này thường được bảo vệ bởi luật bản phân phối sản phẩm”§. Sự phát triển mạnh quyền và thể hiện dưới dạng sản phẩm hay mẽ của các ngành công nghiệp văn hoá đã dịch vụ” và công nghiệp văn hoá là sự thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu kết hợp 3 yếu tố: trên nhiều lĩnh vực. Khái niệm công nghiệp văn hoá xuất hiện và được định nghĩa đơn giản là các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá văn hoá. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hoá đã dần trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, do vậy tuỳ thuộc vào vị trí trung tâm của ngành, mỗi quốc gia lại có một cách định nghĩa khác nhau về ngành công nghiệp văn Từ đó mới sinh ra các sản phẩm văn hoá. Nếu như khái niệm văn hoá thường hoá nhằm đem lại lợi ích kinh tế. diễn đạt ý niệm trừu tượng về giá trị thì Thông thường, khi nói tới văn hoá khái niệm công nghiệp liên quan đến sản là nói đến sự sáng tạo, sự tự do sáng tạo, phẩm hàng hoá. Khái niệm này đã bộc lộ đến sự thể hiện năng lực cá nhân (cũng những sức mạnh tiềm ẩn của văn hoá về là bản chất của văn hoá, nghệ thuật). Vì phương diện kinh tế mà trước đây ít được vậy những sáng tạo văn hoá, sản phẩm chú ý. UNESCO cũng thừa nhận văn hoá văn hoá xuất hiện luôn gắn với những cá là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, nhân cụ thể, hoặc dấu ấn cá nhân thể hiện tính độc đáo, tính đơn nhất giúp cho người có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết hưởng thụ sở hữu những giá trị văn hoá xã hội. “Trong những nước tiên tiến, sự chi mang tính sáng tạo, đặc sắc thay vì những tiêu cho văn hoá ngày càng lớn, vượt quá sản phẩm hàng hoá được sản xuất hàng cả sự chi tiêu để sinh sống. Kinh doanh văn loạt. Điều đó được hiểu là, thay vì xem hoá trở thành một ngành lớn đem lại thu sản phẩm văn hoá, tác phẩm nghệ thuật nhập không kém thu nhập công nghiệp và trên phương diện thẩm mỹ, giá trị thẩm thương nghiệp”¶. mỹ mà sản phẩm mang lại thì công nghiệp § Thuật ngữ công nghiệp văn hoá do hai nhà nghiên cứu thuộc trường phái Frankfurt là Max Horkheimer (1895- 1973) và Theodor W.Adorno (1903-1969) sáng tạo và được coi là thuật ngữ chủ chốt trong tác phẩm Dialectic of Enlightenment (Phép biện chứng và khai sáng) của Horkheimer và Adorno của Nxb Stanford University năm 2006. Thuật ngữ này được các quốc gia chính thức công nhận năm 1998 trong Hội nghị Thượng đỉnh về văn hoá tại Stockholm, Thuỵ Điển ¶ Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, tr.19, 2013. UNESCO, Các ngành công nghiệp văn hoá - Tâm điểm của văn hoá trong tương lai, web: htttp//portal. unesco.org/culture/en/ev, 2009.
  4. 28 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion văn hoá xem xét văn hoá trên phương diện ứng nhu cầu văn hoá đa dạng của xã hội, hàng hoá, tác phẩm nghệ thuật được xác các hoạt động đó được bảo vệ bởi bản định bởi giá trị kinh tế, chứ không phải quyền”‡‡. Quan điểm này đã nêu ra được bởi các giá trị thẩm mỹ, điều này khiến những đặc trưng cơ bản của ngành công cho việc phân tích nghệ thuật độc lập thay nghiệp văn hoá là một ngành công nghiệp đổi. Hiểu rộng hơn, trí tuệ con người vẫn nhưng mang tính đặc thù so với các ngành là yếu tố then chốt trong việc tạo tác sản khác, được thể hiện ở những sản phẩm tạo phẩm, còn việc kết hợp với tiến bộ của ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật công nghệ nhằm mục đích tạo nên giá trị, cao với các giá trị văn hoá, giá trị kinh tế, thương hiệu và mức độ phổ biến của các các sản phẩm đó hướng tới phục vụ cộng sản phẩm công nghiệp văn hoá. Chính vì đồng, phục vụ xã hội. Năm 2016, khái có nhiều cách hiểu như vậy, nên thuật ngữ niệm công nghiệp văn hoá được Chính công nghiệp văn hóa đã được các quốc gia phủ thông qua trong Chiến lược phát triển nghiên cứu, bàn bạc và chính thức công bố các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam ở Hội nghị Thượng đỉnh về hoạt động văn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 hoá tổ chức tại Stockholm (Thuỵ Điển) như sau: công nghiệp văn hoá “là sự ứng tháng 4 năm 1998. Mặc dầu còn nhiều ý dụng của những tiến bộ khoa học - công kiến†† nhưng tựu trung thống nhất công nghệ và kỹ năng kinh doanh, sử dụng năng nghiệp văn hoá là sự tập hợp các ngành lực sáng tạo, nguồn vốn văn hoá để tạo ra kinh tế khai thác và sử dụng hiệu quả tính các sản phẩm, dịch vụ văn hoá, đáp ứng sáng tạo, kỹ năng, sở hữu trí tuệ, sản xuất nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hoá của các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn người dân”§§. Nhìn chung, nhiều khái niệm hóa xã hội; nhấn mạnh đến yếu tố đặc đều ghi nhận văn hoá là một ngành công trưng của ngành là công nghiệp và sáng nghiệp đặc biệt trong bối cảnh bùng nổ của tạo. Điều này có nghĩa là năng lực sáng công nghệ thông tin, là sản phẩm của cuộc tạo cá nhân, thông qua phương tiện công cách mạng công nghệ “Công nghiệp văn nghệ hiện đại tạo nên một ngành kinh hóa là lĩnh vực công nghiệp đặc trưng của doanh hàm chứa giá trị kinh tế và văn hoá. thế kỷ XXI, được phát triển dựa trên cơ Ở Việt Nam, công nghiệp văn hoá là sở sử dụng kỹ thuật số hoá, dựa vào công một khái niệm khá mới, còn nhiều tranh nghệ kết nối thông tin và mạng Intenet, lợi luận nhưng nhìn chung thống nhất “Công dụng tài nguyên thông tin và tài nguyên nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp liên quan nhằm phục vụ quá trình sáng sáng tạo, sản xuất, tái sản xuất, phổ biến tác, phát triển, phân phối, tiêu thụ và tiêu biêu dùng các sản phẩm và dịch vụ văn dùng sản phẩm văn hoá trên phạm vi toàn hoá bằng phương thức công nghiệp hoá, cầu”¶¶. Các ngành công nghiệp văn hoá ở tin học hoá, thương phẩm hoá, nhằm đáp Việt Nam bao gồm ngành quảng cáo, kiến †† Một số quốc gia như Anh, Úc, New Zealand, Singapore sử dụng khái niệm “các ngành công nghiệp sáng tạo” (creative industries); Úc và Đài Loan sử dụng thuật ngữ “các ngành công nghiệp văn hoá và sáng tạo” (cultural and creative industries); một số nhà nghiên cứu Mỹ và Canada dùng khái niệm “công nghiệp nghệ thuật” (Arts Industriel). ‡‡ Nguyễn Thị Hương, Đề tài Phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, 2009. §§ Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2016 về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đd. ¶¶ Phạm Hồng Thái, Sự phát triển của công nghiệp văn hoá ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Nxb Khoa học xã hội, 2015.
  5. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 29 trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, phát triển văn hoá, thay đổi về kinh tế và thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất xã hội. Phát triển văn hoá đã được đưa lên bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ làm một trong những trụ cột chính bên thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình cạnh phát triển kinh tế và xã hội trên con và phát thanh, du lịch văn hoá . đường tiến tới tăng trưởng bền vững. Phát Toàn cầu hoá và việc hội tụ của các triển các ngành công nghiệp văn hoá trở ngành công nghệ truyền thông đa phương thành những ngành kinh tế dịch vụ quan tiện đã biến đổi người tiêu dùng từ những trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, người tiếp nhận các thông điệp văn hoá đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh thụ động thành những người đồng sáng tế, phấn đấu doanh thu của các ngành tạo chủ động. Ví dụ như việc sử dụng kỹ công nghiệp văn hoá đóng góp khoảng thuật số trong lĩnh vực thiết kế mỹ thuật, 3% GDP (2020) và 7% GDP (2030) và sân khấu điện ảnh và âm nhạc đã làm thay giải quyết việc làm cho xã hội thông qua đổi thị trường toàn cầu, dẫn đến sự xuất việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, hiện của các ngành công nghiệp mới và dịch vụ văn hoá đa dạng, chất lượng cao, người tiêu dùng mới. Sự phát triển mạnh đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu mẽ của khoa học kỹ thuật làm gia tăng dùng văn hoá của người dân trong nước và vai trò của các ngành công nghiệp văn xuất khẩu góp phần quảng bá hình ảnh đất hoá tạo sự gắn kết đối với đời sống kinh nước, con người Việt Nam, xác lập được tế - xã hội, sự sáng tạo của người nghệ các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn ††† sĩ trong lĩnh vực văn hoá, xu thế kinh tế hoá . Trong lĩnh vực công nghiệp văn của quốc gia Như vậy, từ những sáng hoá, sự sáng tạo được coi là yếu tố then tạo cá nhân nhưng nhờ sự trợ giúp của chốt chi phối mọi lĩnh vực về kinh tế và khoa học kỹ thuật và tài năng của nhà sản ngành nghề, do vậy kiến thức chuyên môn xuất, sản phẩm công nghiệp văn hoá được và sự sáng tạo tài năng cá nhân sẽ tạo ra phổ biến tới mọi đối tượng, mọi tầng lớp nét đặc sắc riêng. Trên thực tế, trong bất công chúng trong xã hội. Nhìn chung, các kỳ lĩnh vực nào sáng tạo cũng đóng vai trò ngành công nghiệp văn hoá là sự kết hợp rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi chặt chẽ giữa văn hoá, nghệ thuật, kinh mới, là chất xúc tác cho sự thay đổi, kích tế và công nghệ. Các ngành này đều sáng thích phát minh và tiến bộ. Sản phẩm văn tạo, sản xuất, phân phối các sản phẩm và hoá cũng như các sản phẩm khác, cần đáp dịch vụ sử dụng nguồn lực trí tuệ của con ứng nhu cầu của thị trường, marketing, người, điều đó có nghĩa là hoạt động của xây dựng thương hiệu, mang bản sắc ngành công nghiệp văn hoá dựa trên năng riêng Bất cứ một quốc gia nào, dù giàu lực và kỹ năng sáng tạo của con người. hay nghèo đều có những biểu tượng cho một hình ảnh tiêu biểu được hình thành 3. Công nghiệp văn hoá và sáng tạo từ những nhận thức của con người, nền Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã văn hoá và trình độ phát triển kinh tế của có những thay đổi lớn từ các chính sách quốc gia đó. Do vậy, trong mỗi sản phẩm Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2016 về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đd. ††† Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2016 về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đd.
  6. 30 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion công nghiệp văn hoá đều cần phải phản 4. Không gian sáng tạo và nghệ sĩ ánh văn hoá, tinh thần của quốc gia để khi Công nghiệp sáng tạo như đã bàn ra khỏi biên giới lãnh thổ, các sản phẩm luận ở trên là ngành công nghiệp sáng tạo công nghiệp văn hoá trở thành đại sứ văn sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp văn hoá dân tộc. Nếu các sản phẩm văn hoá đó hoá, sản phẩm của công nghệ văn hoá liên chỉnh chu cả về hình thức lẫn nội dung sẽ quan mật thiết với sáng tạo, với vai trò của góp phần quảng bá hình ảnh văn hoá quốc người nghệ sĩ và không gian thực hành gia, dân tộc với quốc tế từ đó tạo ra những nghệ thuật, sáng tạo của người/nhóm nghệ cơ hội mới trong hợp tác và đầu tư. sĩ đó (cá nhân hoặc tập thể). Người/nhóm Thực hiện nhiệm vụ quảng bá nghệ sĩ là chủ thể sáng tạo, họ có thể là nhà thương hiệu quốc gia và hình ảnh đất văn, nhà thơ, họa sĩ, ca sĩ, nhà thiết kế, đạo nước, con người Việt Nam, Bộ Văn hoá diễn, nhà biên kịch, nghệ sĩ múa , dựa Thể thao và Du lịch đã triển khai và ban vào tài năng, khả năng của cá nhân hình hành các quyết định liên quan như “Đề án thành ý tưởng và hiện thực hoá ý tưởng Quảng bá thương hiệu quốc gia lĩnh vực trong thực tế để tạo nên sản phẩm văn hoá. điện ảnh”, “Đề án thương hiệu quốc gia Quá trình này bao gồm cả việc lưu thông, lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh - Thành phố phân phối sản phẩm công nghiệp văn hoá, Nhiếp ảnh Việt Nam”, “Nghệ thuật sơn đưa sản phẩm văn hoá tới người tiêu dùng mài Việt Nam” Điều này cho thấy, để thông qua không gian sáng tạo. quảng bá thương hiệu quốc gia và phát Không gian sáng tạo là một môi triển chiến lược công nghiệp văn hoá, trường mở và thân thiện để mọi người có trước hết bản thân mỗi người Việt Nam thể gặp gỡ, trao đổi ý tưởng, đối thoại với cần phải đánh giá, nhận thức về “sức hấp nghệ sĩ, sáng tạo, thử nghiệm các hình dẫn” của Việt Nam ở đâu để giúp củng cố thức nghệ thuật hoặc thể hiện bản thân. tính độc đáo của quốc gia và bản sắc văn Tuỳ thuộc vào sở thích và sự quan tâm hoá dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới của bản thân, những người tham dự tự do đã tận dụng ngành công nghiệp văn hoá quyết định địa điểm và hình thức tham dự. để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội mang Tại các không gian văn hoá sáng tạo này, lại dấu ấn đặc trưng của dân tộc họ, ví dụ họ cũng có thể tiếp nhận những kiến thức, anime, manga Nhật Bản, làn sóng văn hoá kỹ năng hoặc những giá trị mới. “Không Hàn Quốc Hallyu, Kpop Với trường hợp gian sáng tạo là một địa điểm, có thể là của Việt Nam, việc phát triển ngành công địa điểm thực hoặc địa điểm trực tuyến, nghiệp văn hoá “đậm đà bản sắc văn hoá”, là nơi đem những con người sáng tạo lấy văn hoá truyền thống làm cốt lõi phát đến với nhau. Đó là nơi tụ họp, chia sẻ triển có thể được xem là ưu thế, là nguồn không gian và hỗ trợ cho các hoạt động tài nguyên văn hoá lâu dài. Bản sắc văn kết nối, phát triển kinh doanh và thu hút hoá, những giá trị văn hoá được nhân dân cộng đồng trong các lĩnh vực sáng tạo, ta bồi đắp từ bao đời nay chính là nguồn văn hoá và công nghệ”‡‡‡. Các không gian vốn văn hoá, là cơ sở để tạo ra các sản sáng tạo nhanh chóng trở thành một hiện phẩm văn hoá độc đáo. tượng toàn cầu, trở thành một cách thức tổ ‡‡‡ Theo báo cáo trong chương trình Kinh tế sáng tạo của Hội đồng Anh năm 2014.
  7. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 31 chức đổi mới. Các loại hình hoạt động của và sáng tạo. Những tổ chức này đóng vai không gian văn hoá vì thế bao gồm: trò quan trọng trong lĩnh vực văn hóa và có tiềm năng trong việc tham gia và hỗ trợ các biểu đạt nghệ thuật cũng như các cơ hội tiếp cận với đời sống văn hóa. Như vậy, văn hoá cũng là một nhân tố quan trọng kết nối với cộng đồng, cung cấp công cụ và không gian cho những biểu đạt có tính sáng tạo và đưa đến tiếng nói cho các cá nhân để tăng sự hiểu biết, sự đồng cảm, và khuyến khích những thay đổi tích cực. Như vậy, không gian văn hóa sáng tạo một địa điểm, nơi mọi người có thể cùng nhau thể hiện những ý tưởng nghệ thuật và sáng tạo trong một môi trường tự do và cởi mở, từ đó chia sẻ những sản phẩm nghệ thuật tới cộng đồng. Tại Việt Nam, phần lớn các không gian văn hoá này đều hoạt Trên thực tế, ở Việt Nam đã hình động độc lập và thường tập trung ở một số thành hệ thống mạng lưới không gian văn thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, hoá sáng tạo. Thành phố Hà Nội vừa được thành phố Hồ Chí Minh, có thể trực tuyến, UNESCO công nhận là Thành phố Sáng có thể tại một địa điểm thực cố định/di tạo ngày 30 tháng 10 năm 2019 là một chuyển (do thuê, mượn để tổ chức sự kiện). minh chứng§§§. Thành phố Hồ Chí Minh Đó là những không gian linh hoạt (là kinh và Đà Nẵng là 2 trong 3 trung tâm công doanh tư nhân được đăng ký hoạt động với nghiệp văn hoá của cả nước được nhà tư cách pháp nhân là doanh nghiệp, chỉ có nước quan tâm đầu tư nguồn lực để hình một số ít là tổ chức phi chính phủ) có thể thành và phát triển thị trường đã được nêu là thư viện, quán cafe, phòng tranh, studio, trong Chiến lược phát triển các ngành trường học, nhà riêng, xưởng họa (studio), công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm không gian công cộng như Sàn Art, Cafe 2020, tầm nhìn đến năm 2030¶¶¶. Từ đầu thứ Bảy, Gallery Quỳnh, Nhà ga 3A, ADC thập niên 80 của thế kỷ 20, nếu như công Academy, trung tâm nghệ thuật Factory chúng chỉ biết tới các trung tâm triển lãm thường được dẫn dắt và quản lý bởi các như Giảng Võ, Vân Hồ, một vài gallery nghệ sỹ hoặc người thực hành nghệ thuật bán tranh nghệ thuật (phần lớn là nghệ §§§ Mạng lưới các thành phố sáng tạo của Unesco thành lập từ năm 2004 với sự tham gia của 180 thành phố thuộc 72 quốc gia trên thế giới. Mạng lưới nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các thành phố được vinh danh với tôn chỉ hướng tới thúc đẩy nguồn lực văn hoá và sáng tạo văn hoá làm nền tảng cho quá trình phát triển đô thị bền vững. ¶¶¶ Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2016 về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đd.
  8. 32 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion thuật bình dân), một vài rạp chiếu phim diễn đàn (lợi nhuận/phi lợi nhuận) nhằm (Rạp Tháng Tám, Rạp Vinh Quang ), nơi xây dựng các mối quan hệ giữa nghệ sĩ thưởng thức nghệ thuật (nhà hát Thành (người sáng tạo/chủ thể) và công chúng phố, hòa Bình, Bến Thành, Đại Đồng ). (người thụ hưởng/khán giả) trong lĩnh vực Đến khi nghệ thuật đương đại Việt Nam công nghiệp văn hoá. Mạng lưới không định hình và phát triển, không gian sáng gian hướng đến các hoạt động cụ thể để tạo mang tính quy mô được công chúng phát triển chuyên môn, trao đổi học thuật biết tới nhiều nhất như L’Espace (Hà Nội), (kết nối), thực hành sáng tạo (sáng tạo) L’Indicaf (Tp Hồ Chí Minh), Viện Goethe hướng tới việc làm gia tăng các giá trị văn (Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh), Hội đồng Anh, hoá (có định hướng kinh doanh). Quỹ Ford và đến những năm đầu của thế kỷ 21, các không gian độc lập được mở ra như Heritage Space, Zone 9, X98 cho thấy quy mô và tiêu chí phục vụ thay đổi theo xu hướng xã hội. Gallery Mùa hạ triển lãm của nghệ sĩ Mami Những không gian sáng tạo này, trở thành những địa chỉ văn hoá nghệ thuật, Không gian trưng bày của Gallery The Factory nơi công bố những tác phẩm nghệ thuật Những không gian này đồng thời là đương đại, nơi kết nối và truyền cảm hứng những trung tâm năng động, nơi cung cấp cho cả nghệ sĩ, công chúng và người thực sự hỗ trợ cần thiết cho các nghệ sĩ và người hiện. Là nơi các nghệ sĩ (bán chuyên) hiện thực hành sáng tạo, giúp họ có một địa thực hoá ước mơ và cũng là nơi hình thành chỉ, một không gian để làm việc và tương thị trường (theo một cách riêng) “tiêu thụ” tác với công chúng. Điều này làm cho những sản phẩm công nghiệp văn hoá tiếng nói nghệ thuật trở nên đa dạng, góp Theo thời gian, những địa chỉ này cũng là phần biểu đạt sáng tạo giúp cho văn hóa nơi cung cấp kiến thức, kỹ năng, nâng cao sáng tạo của Việt Nam phát triển, mang trình độ thẩm mỹ, truyền cảm hứng, thực tính độc đáo. Mạng lưới không gian văn hiện dự án và hoàn thiện cá nhân. Mỗi hoá sáng tạo khuyến khích sự tự do biểu không gian sáng tạo còn là nơi làm việc đạt nghệ thuật và thúc đẩy quyền sáng tạo, lý tưởng cho các nhân viên/cá nhân/người thưởng thức và tiếp cận đời sống văn hoá. kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp Không gian văn hoá sáng tạo giúp người văn hoá và thể hiện trình độ hưởng thụ văn nghệ sĩ tham gia vào hội thoại giao thoa hoá của tầng lớp nhân dân trong xã hội. văn hoá, giải quyết vấn đề sáng tạo tập thể 5. Kết luận và tăng cường năng lực sáng tạo. Họ là những tổ chức trung gian (chuyên nghiệp/ Sự mới mẻ trong lãnh địa mới về bán chuyên/tư nhân), là nơi tạo ra các công nghiệp văn hoá đã cho thấy sự dịch
  9. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 33 chuyển về khái niệm trong lĩnh vực văn triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng hoá nói chung và nghệ thuật nói riêng. Hệ yêu cầu phát triển bền vững đất nước. thống thuật ngữ và khái niệm mới ra đời, sự 6. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb thay đổi về chủ thể và không gian sáng tạo, về các giá trị thẩm mỹ Mặc dù Việt Nam Văn hoá - Thông tin, 2013. tiếp cận với lĩnh vực công nghiệp văn hoá 7. Quyế t đị nh số 581/QĐ-TTg ngà y 06 thá ng muộn hơn so với thế giới và các quốc gia 5 nă m 2009 củ a Thủ tư ớ ng Chí nh phủ về việ c khác trong khu vực, nhưng Đảng và Nhà phê duyệ t Chiế n lư ợ c phá t triể n vă n hó a đế n nước luôn xác định được tầm quan trọng nă m 2020. của văn hoá trong tiến trình phát triển của đất nước với quan điểm chỉ đạo “Văn hóa 8. Quyết định số 4661/QĐ-UBND ngày 17 là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, tháng 10 năm 2012 của UBND thành phố Hà động lực phát triển bền vững đất nước. Văn Nội về việc phê duyệt quy hoạch phát triển hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, văn hoá thành phố Hà Nội đến năm 2020, định chính trị, xã hội” . Định vị văn hoá như là hướng đến năm 2030 và Kế hoạch số 112/KH- một công cụ cho sự phát triển kinh tế, bước UBND ngày 29 tháng 5 năm 2017 về việc đầu thiết lập những chính sách, luật định, thực hiện chiến lược phát triển ngành công cơ chế để Việt Nam có thể trở thành một nghiệp văn hoá thủ đô Hà Nội đến năm 2020, trung tâm lớn và đứng đầu thị trường về các tầm nhìn đến năm 2030. ngành công nghiệp văn hoá ở Đông Nam Á vào năm 2020 - 2030./. 9. Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 08 tháng Tài liệu tham khảo: 9 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công 1. Phạm Bích Huyền, Đặng Hoài Thu, 2014), nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm Giáo trình các ngành công nghiệp văn hoá, nhìn đến năm 2030. Nxb Lao động, Hà Nội. 10. Phạm Hồng Thái, Sự phát triển của công 2. Nguyễn Thị Hương, Đề tài Phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam - Thực trạng và nghiệp văn hoá ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Giải pháp, 2009. Nxb Khoa học xã hội, 2015. 3. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 11. Vai trò của các Không gian Văn hoá Sáng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây tạo trong nền Kinh tế Sáng tạo Việt Nam, Dự dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong án Không gian Văn hoá Sáng tạo Việt Nam, thời kỳ mới. 11/2018, British Council. 4. Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13 tháng 5 12. portal.unesco.ort/culture/en/ev năm 2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị Địa chỉ tác giả: Trường Cao đẳng Mỹ thuật quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013. Trang trí Đồng Nai 5. Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 09 tháng 6 Email: hoangminhphuc@gmail.com năm 2014 của BCHTW về xây dựng và phát Nghị quyết 33-NQ/TW Hội nghị lần thứ Chín BCHTW Khoá XI ngày 14 tháng 5 năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.