Cư dân và văn hóa các tộc người thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên
Bạn đang xem tài liệu "Cư dân và văn hóa các tộc người thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- cu_dan_va_van_hoa_cac_toc_nguoi_thieu_so_o_mien_nui_dong_nam.pdf
Nội dung text: Cư dân và văn hóa các tộc người thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9+10 (205+206) 2015 209 CƯ DÂN VÀ VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở MIỀN NÚI ĐÔNG NAM BỘ - NAM TÂY NGUYÊN VÕ CÔNG NGUYỆN Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên là nơi tụ cư của các tộc người thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer miền núi (Xtiêng, Chơ Ro, Mạ và Mnông). Khác với người Việt, Khmer, Hoa và Chăm tại đây, các tộc người trên có chung nguồn gốc cư dân và văn hóa. Họ được coi là hậu duệ của các lớp cư dân Môn cổ ở Nam Đông Dương thời tiền sử và là một bộ phận cư dân của vương quốc Phù Nam ở Nam Bộ vào đầu Công nguyên. Sự hình thành các tộc người và các nhóm địa phương của người Xtiêng, người Chơ Ro, người Mạ và người Mnông ở miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên được cho là do quá trình phân ly khi họ chuyển đến cư trú đan xen với cư dân Nam Đảo trên vùng đất Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ. Cho đến nay các tộc người này vẫn còn bảo lưu khá đậm nét các yếu tố văn hóa vật chất và tâm linh của cư dân tiền sử Đồng Nai. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Chơ Ro, người Mạ và người Mnông, Nam Bộ là vùng đất bản lề của các là những cộng đồng cư dân thuộc cuộc thiên cư từ đất liền ra hải đảo và ngôn ngữ Môn của nhóm ngôn ngữ từ hải đảo vào đất liền trong thời kỳ Môn - Khmer, ngữ hệ Nam Á, là hệ tiền sử và sơ sử, nên nơi đây từng là ngôn ngữ phổ biến ở Việt Nam và địa bàn cư trú của các lớp cư dân Nam Đông Dương. Họ đã định cư, lập thuộc ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Nam nghiệp lâu đời trên vùng đất Đông Đảo. Trên vùng đất Nam Bộ nói chung Nam Bộ - Nam Tây Nguyên, muộn từ khoảng 200 năm trước Công nguyên, nhất cũng từ trước Công nguyên. Các đã bắt đầu hình thành một nền văn lớp cư dân thời tiền sử và sơ sử, cư hóa đa sắc dân hay đa tộc người, bao dân Phù Nam và các tộc người thiểu gồm văn hóa của cư dân Môn cổ và số ở miền núi Đông Nam Bộ - Nam văn hóa của cư dân Nam Đảo. Tây Nguyên được coi là những chủ Các tộc người thiểu số ở miền núi nhân đầu tiên và nối tiếp nhau trên Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên vùng đất Nam Bộ, trước khi có mặt hiện nay, gồm có người Xtiêng, người người Khmer, người Việt, người Hoa và người Chăm ở vùng này. Bài viết này nghiên cứu cư dân và văn Võ Công Nguyện. Tiến sĩ. Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam hóa các tộc người thiểu số ở miền núi Bộ. Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên
- 210 VÕ CÔNG NGUYỆN – CƯ DÂN VÀ VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI dưới góc nhìn lịch đại và trong sự so tiếng ấy (tức văn hóa Đồng Nai thời sánh để tìm hiểu, nhận diện sự tương kim khí) ở miền Đông Nam Bộ (Phan đồng về nguồn gốc, đặc điểm cư dân Xuân Biên, 2007, tr. 87). Một vài giả và diện mạo văn hóa của vùng Nam thuyết cho rằng, các tộc người này Bộ và vùng Tây Nguyên. còn là một bộ phận của cư dân Phù 2. NGUỒN GỐC CƯ DÂN VÀ TỘC Nam, một quốc gia cổ đại đa chủng DANH tộc từng tồn tại ở Nam Đông Dương vào đầu Công nguyên. Sau những Về nguồn gốc cư dân, các tộc người biến cố về địa lý và lịch sử, khi vùng thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - đất này bị ngập nước, họ di chuyển Nam Tây Nguyên (Xtiêng, Chơ Ro, Mạ đến Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên, và Mnông) thuộc loại hình Indonesien, nơi có gò đồi tương đối cao, phần cuối chủng Mongoloid phương Nam ở Việt của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên Nam và Nam Đông Dương (Mạc (Phan An, 2008; Ngô Văn Lệ, 2008). Đường, 2007, tr. 74-77). Đặc trưng về Trong khi đó, theo một giả thuyết khác nhân chủng Indonesien thể hiện khá thì các tộc người này “không chịu Ấn rõ trong nhóm các tộc người này (tầm hóa, nên kéo nhau lên cao nguyên vóc người nhỏ, da sẫm màu, hộp sọ hoặc sang những vùng hẻo lánh để tròn và ngắn, tóc dợn sóng, mũi tẹt ). giữ lấy lối sống và tập quán riêng” (Võ Nhìn chung, lịch sử hình thành loại Sĩ Khải, 2014, tr.118-119). hình nhân chủng Indonesien gắn với quá trình di cư và sự hòa huyết của Vào thế kỷ II-III sau Công nguyên, các đại chủng Mongoloid và đại chủng tộc người thiểu số ở miền núi Đông Australoid ở khu vực Nam Á và Nam Nam Bộ - Nam Tây Nguyên phát triển Đông Dương từ nhiều thiên niên kỷ mở rộng địa bàn cư trú dọc theo lưu trước đây. vực hệ thống sông Đồng Nai từ Các tộc người thiểu số ở miền núi thương nguồn đến gần biển trên vùng Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên được đất này. Theo Đường thư, cư dân Bà coi là hậu duệ của những lớp cư dân Lợi (tức Bà Rịa) trước khi bị Chân Lạp Môn cổ - chủ nhân văn hóa Đồng Nai xâm chiếm (khoảng năm 650-655 sau thời kim khí - đã chuyển cư từ phía Công nguyên) “có tục xỏ tai đeo hoa, bắc xuống phía nam bán đảo Đông lấy một tấm vải thô quấn ngang lưng” Dương, cùng thời với những đợt thiên (dẫn theo Trịnh Hoài Đức, 1972, tr. cư lớn ở Đông Nam Á lục địa và định 36). Từ thế kỷ X trở về sau, người Mạ, cư, lập nghiệp trên vùng đất này từ người Xtiêng đã trở thành những tộc thời tiền sử. Sau này người Mạ đã lập người khá hùng mạnh và có nhiều thế nên “vương quốc Mạ” cùng thời với các lực ở vùng Nam Tây Nguyên - Đông vương quốc cổ đại trong vùng như Nam Bộ với sự xuất hiện của “vương Champa, Chân Lạp và như thế hẳn quốc Mạ”, mà J. Boulbet cho rằng đây rằng có mối quan hệ nào đó với chủ là “Xứ người Mạ, lãnh thổ của thần nhân của nền văn hóa vật chất nổi linh” trong thời kỳ trước thế kỷ XVIII.
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9+10 (205+206) 2015 211 Lúc đó, người Chơ Ro được xem là người miền xuôi. Trước năm 1975, một bộ phận cư dân của “vương quốc dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, các Mạ” và được gọi là người Mạ vùng tộc người này được gọi là “người Việt bình nguyên, hay người Mạ vùng gốc Thượng” để phân biệt với “người đồng bằng (J. Boulber, 1999, tr. 270- Việt gốc Miên” (người Khmer) và 271; Mạc Đường, 1983, tr. 32). Theo “người Việt gốc Chàm” (người Chăm). Đặng Nghiêm Vạn, văn hóa của người Tuy nhiên trước đó, vào đầu thế kỷ Mạ, người Cơ Ho, người Mnông, XX, tộc danh của các tộc người thiểu người Xtiêng không khác nhau mấy, số ở miền núi Đông Nam Bộ - Nam nhất là đối với người Cơ Ho và người Tây Nguyên đã được Henri Maitre đề Mạ, họ có những nét tương đồng với cập đến trong công trình Các xứ Mọi ở nhau đến nỗi có thể hợp nhất hai tộc Nam Đông Dương (1909) và Rừng người này thành một (Đặng Nghiêm Mọi (1912) (Nhiều tác giả, 2001, tr. 23). Vạn, Lưu Hùng, 1988, tr. 43-44). Henri Maitre đã chia các tộc người ở Từ thế kỷ VI-VII, địa vực cư trú của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và các tộc người này là vùng tranh chấp Đông Nam Bộ ra làm hai nhóm dựa giữa Chân Lạp và Champa; cho đến vào tiêu chí ngôn ngữ. Trong các tộc thế kỷ XIV-XV, vương quốc Champa người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - thắng thế và mở rộng ảnh hưởng của Khmer, ngữ hệ Nam Á có người họ trên toàn Đông Nam Bộ - Nam Tây Stieng (Xtiêng), người Mnong (Mnông) Nguyên (Phan An, 2007, tr. 50 - 51). Người Chro (Chơ Ro) được Henri Vào thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Maitre xếp vào một nhóm địa phương Nguyễn, các tộc người này đã biết cày của người Mạ, (nhưng sau này cấy làm ruộng, làm gác (nhà sàn) để Boulbet (1967) lại không đưa người ở, nhưng chưa biết tính ngày tháng, Chơ Ro vào danh sách các nhóm địa “khi nào thu hoạch xong thì giết sinh phương của người Mạ). Sau Henri vật hội họp ăn uống, đánh trống, giục Maitre, các học giả người Pháp và đồng la vui chơi cùng nhau, gọi là tết người Mỹ như Gerber, Condominas nhật (ngày tết)” (Quốc sử quán triều (1955), Boulbet (1967) và Joann L. Nguyễn, 1973, tr. 10). Schrock (1966) cũng thống nhất với Về tộc danh, trong thời kỳ các chúa tộc danh của đa số các tộc người ở Nguyễn và triều Nguyễn, các tộc người vùng Trường Sơn - Tây Nguyên mà thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - Henri Maitre đã đưa ra trong cuốn Nam Tây Nguyên thường được gọi “Les Jungles Mois” (Rừng Mọi), trong chung một từ mang tính miệt thị là đó có người Xtiêng (Stieng), người “Man” hay “Man tộc”. Trong dân gian Mnông (Mnong) và người Mạ (Ma) ở người Việt, các tộc người này được miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây gọi là người “Thượng”, tức người ở Nguyên. Trước năm 1975, trong cuốn vùng cao, người miền núi khác với Các nhóm thiểu số ở Việt Nam Cộng người “Kinh”, người ở vùng thấp, hòa (Minority Groups in the Republic
- 212 VÕ CÔNG NGUYỆN – CƯ DÂN VÀ VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI of Vietnam của Joann L. Schrock và Đen của tỉnh Tây Ninh (Phan An, 2007, các tác giả, 1966), người Chơ Ro tr. 27). Trong khi đó, địa bàn cư trú cũng được xếp vào nhóm địa phương người Chơ Ro trước đây trải rộng tới của người Mạ (dẫn theo Phan Ngọc tận khu vực Ngã Bảy, TPHCM, sau Chiến, 2005, tr. 39-41). Sau năm 1975, này họ chuyển cư lần hồi ngược lên tộc danh của người Mnông, người vùng trung lưu sông Đồng Nai (Huỳnh Xtiêng, người Mạ, người Chơ Ro và Tới, 1977, tr. 11). những nhóm địa phương của các tộc Do nhiều lý do về lịch sử, xã hội, nhất người này đã được các nhà nghiên là do sự gia tăng dân số của người cứu dân tộc học Việt Nam xác định và Việt, người Hoa từ thời kỳ các chúa được đưa vào Bản danh mục các Nguyễn và triều Nguyễn, sau đó là thành phần dân tộc Việt Nam do Nhà việc mở rộng các đồn điền trồng cây nước Việt Nam ban hành ngày cao su và các loại cây công nghiệp 2/3/1979. khác trong thời kỳ Pháp thuộc, và việc gom dân vào các ấp chiến lược, khu 3. LÃNH THỔ TỘC NGƯỜI định cư trong thời kỳ chiến tranh Theo các bộ sử triều Nguyễn, “nước” (1954 - 1975), địa bàn cư trú của các Bà Lợi (Bà Rịa) và “nước” Xích Thổ tộc người này ở Đông Nam Bộ có (Đất Đỏ) từng là địa bàn cư trú của nhiều hướng thu hẹp và lùi dần về người Mạ. “Nước” Xương Tinh từng là phía bắc và tây bắc. Các tộc người địa bàn cư trú của người Xtiêng, có thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ hiện địa giới vượt qua Bình Dương, tiếp nay sinh sống tập trung ở Bình Phước giáp ngoại vi TPHCM hiện nay. Nhìn (Xtiêng: 13.737 người; Mnông: 7.316 chung, lãnh thổ của các tộc người người), Đồng Nai (Chơ Ro: 13.733 thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - người; Mạ: 2.186 người; Xtiêng: 1.135 Nam Tây Nguyên trong nhiều thế kỷ người), Bà Rịa - Vũng Tàu (Chơ Ro: trước đã trải rộng gần khắp vùng này. 6.328 người) và Tây Ninh (Xtiêng: Địa bàn cư trú - vùng lãnh thổ tộc 1.468 người, chủ yếu là nhóm Tàmun) người của người Xtiêng, người Chơ (Tổng cục Thống kê, 2010). Ro phân bố chủ yếu ở Đông Nam Bộ (Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - 4. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ Vũng Tàu, ). Trong khi đó, địa bàn Hoạt động kinh tế truyền thống của cư trú – vùng lãnh thổ tộc người của các tộc người thiểu số ở miền núi người Mnông và người Mạ phân bố Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên chủ chủ yếu ở Nam Tây Nguyên (Đắc yếu là sản xuất nông nghiệp nương Nông, Lâm Đồng, ). Địa bàn cư trú rẫy (mir) du canh. Đây là phương thức của người Xtiêng trước thế kỷ XIX khá canh tác điển hình trong các tộc người rộng, chiếm phần lớn vùng đất phía thiểu số ở vùng cao. Nương rẫy du bắc, gồm toàn bộ tỉnh Bình Phước, canh của họ trước đây được thực một phần tỉnh Bình Dương, lan sang hiện theo phương thức quay vòng đất, phần phía tây, ở vùng chân núi Bà theo chu kỳ thường là từ 10 - 15 năm,
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9+10 (205+206) 2015 213 đủ để cây rừng tái sinh nuôi dưỡng Budek và người Châu Ro, đã biết đất đai, tái tạo lại sự cân bằng của hệ cách khai thác đất đai ở những nơi sinh thái rừng. Hiện nay, đất rừng trũng thấp để làm ruộng nước. Chăn không còn nhiều nên các tộc người nuôi gia súc, gia cầm cũng đã được thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - các tộc người này chú ý, nhưng còn ở Nam Tây Nguyên phải thực hiện định quy mô kinh tế hộ gia đình, mang canh, chủ yếu là trồng các loại cây nặng tính tự cấp, tự túc. Trong nền công nghiệp (điều, cà phê, tiêu ), cây sản xuất nông nghiệp nương rẫy du ăn trái và hoa màu (khoai mì, khoai canh trước đây, việc chăn nuôi gia lang, các loại đậu, bầu bí ) trên nền súc (heo, trâu, dê) và gia cầm (gà) đất rẫy cũ. Canh tác nương rẫy của thường chỉ để sử dụng trong các lễ họ được tiến hành qua các khâu phát hiến sinh của cộng đồng, lễ tang, lễ rẫy, phơi cây, đốt, dọn rẫy, trồng trỉa, cưới của gia đình chăm sóc, bảo vệ rẫy và thu hoạch Sinh sống gắn bó với núi rừng, cư dân cây trồng theo mùa vụ, nhất là vào các tộc người thiểu số ở miền núi mùa vụ bắp và lúa trong khoảng thời Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên đã gian tương ứng với một năm. Họ sắp lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ xếp lịch thời vụ các loại cây trồng trên khác những tri thức bản địa liên quan cùng mỗi đám rẫy theo thứ tự thời đến sản xuất nông nghiệp nương rẫy gian để khoảng tháng 6, tháng 7 (âl) rất đáng quan tâm. Họ truyền thụ cho thu hoạch bắp, các loại đậu, bầu, bí, nhau cách tìm chọn đất rừng, cách mướp, sau đó thu hoạch khoai (khoai phát đốt rẫy, cách xua đuổi, bẫy bắt mì, khoai lang) và đến tháng 10, tháng thú chim để bảo vệ mùa màng. Đặc 11 (âl) thu hoạch lúa, kết thúc mùa vụ biệt tri thức thiên văn của họ đã được trong một năm. Cách thức canh tác tích lũy từ lâu đời, họ xem xét thiên này là để bảo đảm các nguồn lương nhiên, quan sát bầu trời, cảnh vật thực, thực phẩm thường xuyên đáp chung quanh, nghe ngóng tiếng kêu ứng nhu cầu ăn uống, sinh hoạt hàng của các loài động vật, côn trùng, mà ngày và phần nào đó, dù rất ít ỏi, đoán biết thời tiết, khí hậu buổi giao được đem trao đổi ở mỗi gia đình. mùa để phát, đốt, dọn rẫy, trỉa hạt bắp, Ngoài nương rẫy, nông nghiệp lúa lúa, các loại đậu và trồng khoai củ, trái nước là phương thức canh tác điển cây kịp thời, đúng lúc theo lịch thời vụ hình của một bộ phận cư dân tại các cây trồng. vùng thấp ở đồng bằng. Phương thức Các tộc người thiểu số ở miền núi canh tác này đã được áp dụng khá lâu Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên có đời. Theo tài liệu, do quá trình tiếp xúc một số nghề thủ công cổ truyền để tạo với người Chăm trước đó và người ra những vật dụng cần thiết trong sản Việt sau này, nhất là tiếp xúc với xuất và sinh hoạt thường ngày. Với người Việt từ thời kỳ các chúa nếp sống nương rẫy “du canh, du cư”, Nguyễn và triều Nguyễn, người Xtiêng gắn bó với núi rừng, họ chủ yếu dùng
- 214 VÕ CÔNG NGUYỆN – CƯ DÂN VÀ VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI các nguồn nguyên vật liệu sẵn có từ nhân và gia đình không được buôn thiên nhiên để làm thành các sản bán, sang nhượng đất rẫy cho người phẩm thủ công hữu dụng, như đan lát ngoài cộng đồng. Ở vùng có ruộng đồ bằng tre nứa, song mây; đan chiếu nước, các gia đình, cá nhân có quyền bằng lá dứa rừng, cây nứa, dệt vải sử dụng đất đai để trồng lúa, hoa màu bằng bông hoặc làm vải mặc bằng vỏ trong thời gian dài, và có thể duy trì cây; xây cất nhà cửa, làm đồ gia dụng quyền canh tác qua nhiều thế hệ. bằng gỗ, tre nứa; rèn công cụ và vũ Trong các tộc người thiểu số ở miền khí bằng sắt để canh tác nương rẫy, núi Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên, săn bắt và hái lượm của cải trong tộc người Chơ Ro, nhóm Xtiêng Budek rừng. Hoạt động săn bắt và hái lượm và nhóm Tàmun huyết thống gia đình vẫn còn duy trì và đôi khi chiếm vị trí được tính theo dòng mẹ, tức theo chế quan trọng trong đời sống kinh tế của độ mẫu hệ. Trong khi đó, người Mạ, các hộ gia đình. Họ săn bắt các loại nhóm Xtiêng Bulơ, huyết thống được thú, chim rừng bằng bẫy, ná; đánh bắt tính theo dòng cha, tức theo chế độ cá ở sông, suối với các loại ngư cụ phụ hệ. Mối liên kết giữa những đơn giản (nơm, rổ xúc ). Phụ nữ người cùng huyết thống của các tộc thường vào rừng tìm kiếm các loại rau người này khá chặt chẽ. Luật tục có rừng (măng tre, lá “bép”, đọt mây, nhiều quy định về hôn nhân, tập tục nấm) và trái cây rừng. Ngoài cung cấp ngoại hôn của các nhóm huyết thống. thêm thực phẩm cho bữa ăn gia đình, Trước năm 1975, các thành viên và việc săn bắn và hái lượm còn phục vụ gia đình của những người cùng huyết cho các lễ hội của cộng đồng. thống thường cư trú trong các ngôi 5. TỔ CHỨC XÃ HỘI nhà dài. Mỗi nhà dài có nhiều gia Về mặt xã hội, cho đến đầu thế kỷ XX, đình nhỏ theo dòng mẹ, hoặc dòng các tộc người thiểu số ở miền núi cha và người chủ nhà thường là đàn Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên vẫn ông. Chủ nhà lo việc quản lý, điều đang trong thời kỳ tan rã của chế độ hành chung cho cả nhà. Vào những công xã nguyên thủy. Chế độ sở hữu thập niên cuối của thế kỷ trước, ngôi công cộng vẫn còn chiếm một vai trò, nhà dài của các tộc người có chiều vị trí quan trọng trong quan hệ xã hội hướng phân rã. Các gia đình nhỏ và tổ chức xã hội. Đất rừng là tài sản trong ngôi nhà dài dần dần tách riêng quan trọng nhất thuộc sở hữu của ra. Hiện nay, gia đình nhỏ 2 - 3 thế hệ cộng đồng. Các thành viên, gia đình trở nên phổ biến trong các tộc người trong cộng đồng có quyền sử dụng này. đất đai chung đó để canh tác nông Các tộc người thiểu số ở miền núi nghiệp nương rẫy. Tất cả các thành Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên lâu viên của làng (bon, palei) đều có thể nay cư trú theo bon, palei, tức làng săn bắt, hái lượm, khai thác gỗ (còn gọi xóm hay ấp tùy theo bon, trong các khu rừng của làng. Các cá palei nhỏ hay lớn) và có người chủ
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9+10 (205+206) 2015 215 làng được dân làng hay đại diện của thì khác, do quá trình chung sống gần dân làng bầu ra. Địa vực cư trú của gũi với người Việt, nhưng quan trọng mỗi làng thường là ở trên những vùng hơn là do sự chuyển đổi dần từ nếp đất cao tương đối bằng phẳng, gần sống nương rẫy du canh du cư sang nguồn nước (sông suối, ao hồ). Làng nếp sống định canh và làm ruộng truyền thống của họ là một tập hợp nước, nên nhà của người Chơ Ro ở những nhà sàn dài thuộc đại gia đình Đông Nam Bộ hầu hết là nhà đất hay mẫu hệ hay phụ hệ. Chủ làng có trách nhà trệt, tương tự như nhà của người nhiệm lo việc quản lý bon, palei. Giúp Việt. Loại hình nhà sàn, cả nhà sàn việc cho chủ làng có một số vị già làng. dài và nhà sàn nhỏ, hay còn gọi là nhà Chủ làng và các già làng điều hành sàn kép và nhà sàn đơn, chỉ còn tồn cộng đồng bon, palei dựa trên các tập tại trong trí nhớ của những người Chơ quán hoặc luật tục. Bon, palei của các Ro cao tuổi. Trang phục truyền thống tộc người thiểu số ở miền núi Đông của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên thực chất Nam Bộ - Nam Tây Nguyên phổ biến là những công xã nông nghiệp hay là áo chui đầu (poncho), đàn ông đóng công xã láng giềng có tính phổ biến ở khố, đàn bà quấn váy. Trước đây, đàn nhiều nơi trong khu vực Đông Nam Á ông đóng khố và ở trần, còn đàn bà và châu Á cổ đại. mặc váy và có mặc yếm che ngực (đối 6. ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH với người Chơ Ro). Có lẽ yếm là cách THẦN may mặc do ảnh hưởng từ phía người Nhà ở của các tộc người thiểu số ở Việt. Váy và khố được các tộc người miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây dệt từ sợi bông hoặc được làm bằng Nguyên trước đây chủ yếu là nhà sàn. vỏ cây rừng. Tùy theo mỗi tộc người Nhà được làm bằng các loại nguyên mà có hoa văn trang trí và màu sắc vật liệu của rừng (gỗ, tranh, tre, lồ ô ). khác nhau trên trang phục. Phần lớn Bên trong nhà phân thành nơi tiếp váy, khố có màu đen hoặc xanh thẫm. khách, nơi chủ nhà và các thành viên Hiện nay, trang phục các tộc người nghỉ ngơi, sinh hoạt. Trong ngôi nhà này đã có sự thay đổi, chịu ảnh dài có nhiều bếp cho các gia đình hưởng của người Việt và phương Tây. thành viên và cho khách. Tùy theo mỗi Những trang phục truyền thống chỉ tộc người mà kiến trúc ngôi nhà có sự còn tìm thấy trong dịp lễ hội. Lương khác biệt ít nhiều ở độ cao của sàn, thực chủ yếu của các tộc người ở cầu thang lên xuống, vòm cửa Nhà miền núi Đông Nam Bộ - Tây Nguyên của nhóm Xtiêng Bù Lơ có sàn bằng là lúa gạo, bắp, khoai mì Gạo được tre, lồ ô kéo suốt chiều dài của căn nấu thành cơm, cháo và dành ủ các nhà, nơi sinh hoạt trong nhà được bố loại rượu cần dùng cho lễ tết. Thực trí thành nhiều gian. Mọi sinh hoạt gần phẩm phần nhiều là các loại thịt thú như diễn ra trên sàn, chỉ có bếp lửa là rừng, cá, rau, củ và trái cây rừng. Việc đặt trên mặt đất. Với người Chơ Ro chế biến thức ăn cũng đơn giản, chủ
- 216 VÕ CÔNG NGUYỆN – CƯ DÂN VÀ VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI yếu là nướng, luộc chín, nấu canh. chiêng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ Rượu cần là loại thức uống dùng trong đã được tổ chức UNESCO công nhận các nghi lễ và quan hệ giao tiếp. là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tín ngưỡng tôn thờ vạn vật hữu linh phổ biến trong hầu hết các tộc người 7. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH thiểu số ở miền núi Đông Nam Bộ - Các tộc người thiểu số ở miền núi Nam Tây Nguyên. Bên cạnh đó, các Đông Nam Bộ - Nam Tây Nguyên hiện tộc người còn lưu giữ nhiều loại hình nay đã định cư, lập nghiệp có tính liên tín ngưỡng nguyên thủy khác như tục và ổn định lâu dài trên vùng đất tôtem giáo, nghi lễ phồn thực, nghi lễ Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ từ nông nghiệp Trong mỗi cộng đồng, trước Công nguyên cho đến nay. Họ có một số người chuyên thực hiện các có chung nguồn gốc nhân chủng, nghi lễ ma thuật giúp con người giao ngôn ngữ và văn hóa với các lớp cư tiếp với thần linh và ma quỷ. Trong dân Môn cổ ở Nam Đông Dương và là cuộc sống hàng ngày, cá nhân và một bộ phận của cư dân Phù Nam từ cộng đồng luôn thực hiện các nghi thế kỷ I đến thế kỷ VI sau Công thức kiêng kỵ (tabu) khi có người sinh, nguyên. Hiện nay, đời sống vật chất người chết Việc sinh nở, cưới hỏi, và tinh thần, tâm linh của các tộc tang ma đều có các nghi lễ để cầu sự người này đã có nhiều thay đổi, giúp đỡ của thần linh và ngăn ngừa nhưng họ vẫn còn bảo lưu đậm nét ma quỷ quấy phá. Niềm tin vào thế các yếu tố văn hóa truyền thống trong giới siêu nhiên, sức mạnh siêu nhiên sản xuất nông nghiệp nương rẫy, hoạt vẫn còn bảo lưu khá sâu sắc, tạo nên động săn bắt, hái lượm và cả một hệ nét văn hóa riêng trong đời sống tâm thống tín ngưỡng bản địa tôn thờ vạn linh của các tôc ngươi này. Tuy nhiên, vật hữu linh của người tiền sử Đồng trong thời kỳ Pháp thuộc đã có một bộ Nai - Đông Nam Bộ. phận các tộc người tin theo Công giáo. Quá trình tộc người diễn biến trong Vào thập niên 1990 và đầu thế kỷ XXI, các lớp cư dân Môn cổ ở Nam Đông đạo Tin Lành gia tăng một cách đột Dương vẫn còn nhiều điều chưa được ngột trong các tộc người thiểu số ở sáng tỏ cho lắm, vì chưa nhận biết miền núi Đông Nam Bộ - Nam Tây được một cách đầy đủ về sự chuyển Nguyên, tác động nhiều đến đời sống cư ban đầu của họ. Tuy nhiên, quá văn hóa tinh thần, tâm linh của họ. trình phân ly trong các cộng đồng cư Kho tàng văn hóa dân gian của các dân thuộc ngôn ngữ Môn của nhóm tộc người khá phong phú với nhiều ngôn ngữ Môn - Khmer, ngữ hệ Nam loại hình và sắc thái độc đáo, như các Á ở miền núi Nam Tây Nguyên - Đông huyền thoại, dân ca, tục ngữ, âm nhạc, Nam Bộ là xu hướng chủ yếu dẫn đến điêu khắc , đặc biệt là một kho tàng việc hình thành các tộc người độc lập sử thi đồ sộ và không gian văn hóa và những nhóm địa phương của các cồng chiêng. Năm 2005, văn hóa cồng tộc người này.
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9+10 (205+206) 2015 217 Đồng thời, quá trình đồng hóa tự trên mọi lĩnh vực của đời sống cư dân, nhiên và hòa hợp, hội nhập giữa các từ đời sống vật chất đến đời sống tinh tộc người thiểu số ở miền núi Đông thần tâm linh và đời sống chính trị - xã Nam Bộ - Nam Tây Nguyên, giữa họ hôi, đã góp phần hình thành nền văn với người Việt, người Khmer, người hóa đa tộc người, đa sắc thái của các Hoa và người Chăm ở đây, biểu hiện tộc người ở vùng đất này. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Boulbet, J. 1999. Xứ người Mạ, lãnh thổ của thần linh (Bản dịch của Đỗ Vân Anh). Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai. 2. Đặng Nghiêm Vạn, Lưu Hùng. 1988. Những điều cần biết khi lên Trường Sơn - Tây Nguyên. Ha Nôi: Nxb. Sự thật. 3. Huỳnh Tới (chủ biên). 1977. Người Châu Ro ở Đồng Nai. Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai. 4. Mạc Đường (chủ biên). 1983. Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng. Sở Văn hóa tỉnh Lâm Đồng xuât ban. 5. Mạc Đường. 2007. Những đặc trưng nhân chủng tộc người ở Việt Nam trong Trân Văn Giau, Trân Bach Đăng, Mac Đương (chu biên). Lịch sử Việt Nam, Tập I. TPHCM: Nxb. Trẻ. 6. Ngô Văn Lệ. 2008. Về mối quan hệ của cư dân Nam Bộ thời cổ đại với một số tộc bản địa ở Tây Nguyên, trong sách Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam. Ha Nôi: Nxb. Thế giới. 7. Nhiêu tac gia. 2001. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX. Ha Nôi: Nxb. Chính trị Quốc gia. 8. Phan An. 2007. Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ thế kỷ XIX đến năm 1975). TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 9. Phan An. 2008. Vương quốc Phù Nam tiếp cận dưới góc độ dân tộc học, trong sách Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam. Ha Nôi: Nxb.Thế giới. 10. Phan Ngoc Chiên (chu biên). 2005. Ngươi Kơho ơ Lâm Đông - Nghiên cưu nhân hoc vê dân tôc va văn hoa. TPHCM: Nxb. Tre. 11. Phan Xuân Biên. 2007. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong Trân Văn Giau, Trân Bach Đăng, Mac Đương (chu biên). Lịch sử Việt Nam, Tập I. TPHCM: Nxb. Trẻ. 12. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1973. Đại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam Việt), Tập Thương, tỉnh Biên Hoa. Sài Gòn: Nha Văn hoa, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuât ban. 13. Tổng cục Thống kê. 2010. Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 14. Trịnh Hoài Đức. 1972. Gia Định thành thông chí, Tập Thượng (Bản dịch của Tu trai Nguyễn Tạo). Sài Gòn: Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản. 15. Võ Sĩ Khải. 2014. Vùng đất Nam Bộ từ khởi thủy đến đầu thế kỷ XVII, trong Trần Đức Cường (chủ biên). Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ (Từ khởi thủy đến năm 1945). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.