Đánh giá các tác động của ngân hàng nhà nước đến xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại

pdf 5 trang Gia Huy 23/05/2022 1750
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá các tác động của ngân hàng nhà nước đến xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdanh_gia_cac_tac_dong_cua_ngan_hang_nha_nuoc_den_xu_ly_no_xa.pdf

Nội dung text: Đánh giá các tác động của ngân hàng nhà nước đến xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐÁNH GIÁ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC ĐẾN XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Dương Thị Ngọc Sáu Giảng viên Khoa KT-DL, Trường Đại học Quảng Bình TÓM TẮT Các Ngân hàng thương mại (NHTM) đánh giá vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu là vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay. Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước (NHNN), xử lý nợ xấu ở các NHTM được thực hiện thông qua việc đánh giá lại một cách minh bạch, chính xác các khoản nợ xấu; sử dụng cơ quan chuyên xử lý nợ xấu – Công ty quản lý tài sản (VAMC) để mua bán nợ xấu; trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro ở bản thân các NHTM để bù đắp nợ xấu. Bài viết chủ yếu nhằm phân tích tình hình nợ xấu và đánh giá các tác động của NHNN đến xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM ở Việt Nam. 1. Đặt vấn đề Thời gian qua, hoạt động của các NHTM đang gặp phải những khó khăn, thách thức. Trong đó, xử lý nợ xấu là bước đi quan trọng trong việc tái cấu trúc ngân hàng. Những bất cập trong việc phân loại nợ góp phần làm cho nợ xấu tăng cao như hiện nay. Nợ xấu hiện đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước, đến lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế, đến tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các NHTM. Bài viết đề cập đến tình hình nợ xấu của hệ thống NHTM tính tới thời điểm 6/2014 và đánh giá những chỉ đạo của NHNN tác động tích cực hay tiêu cực đến vấn đề xử lý nợ xấu ở mỗi NHTM, qua đó làm cơ sở để tiến hành các biện pháp xử lý nợ xấu trong thời gian tới. 2. Tình hình nợ xấu của hệ thống Ngân hàng thƣơng mại sáu tháng đầu năm 2014 Tính đến cuối tháng 6/2014, nợ xấu của toàn hệ thống là 160,94 nghìn tỷ đồng, tăng 21,5% so với cuối tháng 5/2014 và tăng 38,2% so với cuối năm 2013. Số dư nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu đã tăng đáng kể trong tháng 6/2014, đặc biệt sau khi Thông tư 02 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài chính thức được áp dụng từ 1/6/2014. Bảng 1: Tình hình nợ xấu một số NHTM tính đến 30/06/2014 Tên ngân hàng Nợ xấu tại Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Nợ nhóm 5 tại Tỷ lệ nợ nhóm 30/6/2014 tại 30/6/2014 tại 31/12/2013 30/6/2014 5/Nợ xấu (tại (tỷ đồng) (tỷ đồng) 30/6/2014) Vietcombank 8.967 3,1% 2,7% 4.725 52,6% Vietinbank 9.577 2,5% 1% 3.173 33,1% BIDV 8.958 2,3% 2,4% 5.651 63,1% ACB 4.037 3,6% 3,1% 2.616 64,8% MB 2.855 3,1% 2,5% 995 34,9% Sacombank 1.812 1,5% 1,5% 1.334 73,6% Eximbank 2.364 2,9% 2% 1.458 61,7% Techcombank 3.048 4,1% 3,6% 1.685 55,3% (Nguồn: Tổng hợp từ BCTC Quý II/2014 của các NHTM) 358
  2. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" Báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm của nhiều NHTM cho thấy nợ xấu đang tăng lên, hầu hết tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 30/6/2014 cao hơn hẳn so với tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2013, đáng chú ý là một số NHTM đã có tỷ lệ nợ xấu vượt mức an toàn 3% như Vietcombank, ACB, MB, Techcombank; trong đó có nợ thuộc nhóm 5 “ nợ có khả năng mất vốn” chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng nợ xấu ( hầu hết chiếm hơn 50%). Nợ xấu tăng là do những thay đổi trong các quy định mới của NHNN nhằm yêu cầu các NHTM đánh giá nợ xấu một cách chính xác hơn để có các biện pháp xử lý thích hợp. 3. Tác động của Ngân hàng nhà nƣớc đến xử lý nợ xấu của Ngân hàng thƣơng mại 3.1. Xử lý nợ xấu thông qua công ty mua bán tài sản VAMC Công ty Quản lý tài sản (VAMC) được thành lập và hoạt động theo Nghị định 53/2013/NĐ- CP của Chính phủ, Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. VAMC là công cụ đặc biệt của Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý nền kinh tế. Giai đoạn mua nợ xấu mạnh mẽ nhất của VAMC từ 1/10/2013 đến 31/12/2013, VAMC đã mua gần 39.000 tỷ đồng dư nợ gốc, tương đương 32.400 tỷ đồng giá trị trái phiếu đặc biệt. Trái phiếu đặc biệt trên đều có kỳ hạn 5 năm và lãi suất là 0%/năm, vượt kế hoạch 35.000 tỷ đồng được giao. Chủ trương của VAMC là các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp sẽ xây dựng các phương án tái cấu trúc các khoản nợ xấu, VAMC sẽ lựa chọn phương án tối ưu nhằm đem lại hiệu quả cho tổ chức tín dụng và cho nền kinh tế. VAMC mua nợ xấu với các điều kiện chọn lọc, các khoản nợ đáp ứng đủ một số tiêu chí: (i) Có tài sản bảo đảm; (ii) Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ; (iii) Khách hàng vay còn tồn tại; (iv) Số dư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không thấp hơn mức quy định của ngân hàng nhà nước. Các NHTM vẫn phải chịu trách nhiệm chính với các khoản nợ xấu của mình. VAMC được phép ủy quyền cho tổ chức tài chính bán nợ thực hiện xử lý nợ xấu. Trong trường hợp không ủy quyền, các ngân hàng cũng vẫn phải phối hợp với VAMC trong quá trình xử lý nợ xấu. Trong thời hạn của trái phiếu, tổ chức tài chính phải trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu đặc biệt vào chi phí hoạt động. Tổ chức tài chính không phải trích lập dự phòng chung, dự phòng cụ thể hàng năm bằng mệnh giá trái phiếu/thời hạn trái phiếu. Hiện nay, xử lý nợ xấu của Việt Nam thông qua VAMC mới chỉ đạt đến giai đoạn đầu, VAMC mua nợ xấu từ các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu đặc biệt để tài trợ các khoản nợ này. Tính đến tháng 6/2014, tổng số nợ xấu được mua lại khoảng gần 51 nghìn tỷ đồng. Về định hướng, lãnh đạo chuyên trách của Ngân hàng Nhà nước tin tưởng rằng, mục tiêu mua lại tổng từ 70 - 100 nghìn tỷ đồng nợ xấu đến cuối năm nay là có thể thực hiện. Theo cơ chế của mô hình VAMC, sau khi mua lại nợ xấu từ các TCTD, trái phiếu đặc biệt được phát hành và nó được dùng để vay tái cấp vốn tại NHNN với lãi suất ưu đãi. Với việc VAMC đã mua gần 51 nghìn tỷ đồng nợ xấu, quy mô tái tạo vốn cho các ngân hàng qua kênh này đã có thể lên tới 35 nghìn tỷ đồng (theo hạn mức tối đa cho phép 70%), lãi suất chỉ 4,5%/năm. Tuy nhiên kể từ khi đi vào hoạt động đến nay các NHTM vẫn chưa tiếp cận được dòng vốn này. Với các NHTM, nợ xấu và xử lý nợ xấu không chỉ gói gọn ở con số của mỗi khoản vay không/chưa đòi được. Ngoài phần vốn đã ra đi chưa trở về, hàng tháng các NHTM còn phải trả lãi cho nguồn vốn huy động dùng để cho vay đó, phải trích lập dự phòng và trả chi phí cho nguồn trích lập đó Với diễn biến nợ xấu tăng lên trong 6 tháng đầu năm nay, nhất là từ tháng 6/2014 các ngân hàng phải thực hiện vùng nhận diện nợ xấu rộng hơn, áp lực đang lớn lên. Một nguồn vốn hỗ trợ có chi phí dễ chịu hơn từ trái phiếu đặc biệt VAMC là nhu cầu thực. Tuy nhiên, trước trạng thái thanh khoản tốt và dư thừa vốn của hệ thống kéo dài thời gian 359
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG qua, NHNN có lý do để thận trọng khi xem xét tái tạo nguồn vốn có quy mô lớn, nhất là dòng tiền đi ra này có nhiều ràng buộc. Đó là về áp lực lạm phát, về cân đối lãi suất USD - VND với ứng xử của dòng tiền gửi dân cư, về yêu cầu giữ cam kết ổn định tỷ giá Nếu bơm thêm lượng tiền lớn nữa qua kênh trái phiếu VAMC, sẽ càng khó giữ được các cân bằng. Như vậy, các khoản nợ xấu vẫn còn tại VAMC mà chưa được xử lý, các tổ chức tín dụng cũng phải trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu, đồng nghĩa với việc nợ xấu chỉ tạm thời ra khỏi bảng cân đối của các tổ chức tín dụng mà chưa xử lý tận gốc nợ xấu. VAMC sau khi mua nợ xấu từ các tổ chức tín dụng, cần phải có các giải pháp xử lý các khoản nợ xấu. Các quốc gia như Trung Quốc và Hàn Quốc đã xử lý nợ xấu bằng phương pháp cơ cấu lại các khoản nợ xấu và bán trên thị trường tài chính, các khoản nợ xấu được tài trợ bằng phát hành trái phiếu, cổ phiếu và được bán cho các nhà đầu tư trong nước hoặc chuyển nợ xấu cho các nhà đầu tư nước ngoài, góp phần làm sạch bảng cân đối của các ngân hàng, tăng năng lực tài chính cho các doanh nghiệp. 3.2. Xử lý nợ xấu bằng định giá các khoản nợ xấu một cách công khai, minh bạch và thống nhất trong hệ thống NHTM Hoạt động của VAMC – cơ quan chuyên xử lý nợ phụ thuộc rất lớn vào việc xác định được chính xác và đầy đủ con số nợ xấu, từ đó đưa ra kế hoạch và lộ trình mua lại các khoản nợ xấu từ các NHTM và có phương án phát hành trái phiếu đặc biệt dựa trên việc phân bổ trái phiếu đó theo các thời điểm trong năm và theo các TCTD. Tuy nhiên một điều đáng lo ngại là thông tin công bố nợ xấu của các NHTM chưa chính xác và có sự khác biệt so với thông tin của NHNN. Do vậy, VAMC phải dựa vào các nguồn số liệu không thống nhất cho quá trình mua và xử lý nợ xấu. Đó cũng là một trong những lý do mà VAMC chưa phát huy được hết hiệu quả như mong đợi. Việc làm cần thiết mà NHNN thực hiện là tiến tới xác định được bức tranh toàn diện về tình hình nợ xấu một cách thống nhất, chính xác giữa các NHTM thông qua những quyết định, thông tư hướng dẫn. Để xử lý nợ xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng, NHNN đã ban hành Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 và Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 9/11/2012. Theo đó, cho phép TCTD giữ nguyên nhóm nợ như trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ nhằm tháo gỡ khó khăn cho khách hàng trong việc trả nợ vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất - kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án, phương án vay vốn, khả năng trả nợ của khách hàng. Quyết định số 780 về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ được NHNN đưa ra có ảnh hưởng rộng lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn với cả hệ thống NHTM. Tính đến cuối năm 2013, đã có khoảng trên 300 nghìn tỷ đồng nợ đã được cơ cấu lại theo chính sách trên. NHNN cho biết, nếu tính toán một cách thận trọng, nợ xấu bao gồm cả nợ xấu được cơ cấu lại theo Quyết định 780/QĐ-NHNN thì tỷ lệ nợ xấu ở thời điểm 2/2014 ở khoảng 9%. Như vậy, quyết định 780 góp phần giúp các NHTM xử lý nợ xấu giảm xuống một cách tạm thời. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro về việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Thông tư số 12/2013/TT-NHNN ngày 27/5/2013 sửa đổi Thông tư số 02 để đảm bảo phản ánh đúng chất lượng tín dụng đối với nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện có hiệu quả Thông tư số 02 khi có hiệu lực thi hành. So với quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 thì Thông tư 02 có một số thay đổi quan trọng sát với thông lệ quốc tế như phạm vi tài sản có phải phân loại, định giá tài sản bảo đảm, sử dụng thông tin tín dụng, tiêu chuẩn phân loại nợ, để bảo đảm góp phần phản ánh đầy đủ hơn chất lượng tài sản của TCTD. 360
  4. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" Ý nghĩa lớn nhất của thông tư 02 là để minh bạch hóa số liệu, giúp cho việc xác định đúng và đủ nợ xấu, đưa ra một bức tranh chân thực về tình hình nợ xấu của từng ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung cũng như dần hướng tới việc tuân theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro. Trên cơ sở đó, những bất cập trong hệ thống ngân hàng sẽ dần dần được cải tổ, giúp hệ thống ngân hàng có thể tăng trưởng an toàn và bền vững hơn. Thông tư 02 mang đến một hy vọng về một cuộc cải cách trong việc phân loại nợ, kiểm soát rủi ro, giải quyết nợ xấu cũng như tính minh bạch hơn về hoạt động của các ngân hàng. Thông tư 02 đã được trì hoãn 1 năm kể từ ngày 01/06/2013. Thông tư 02 tiếp tục được NHNN bổ sung bằng thông tư số 09/2014/TT-NHNN ban hành ngày 18/3/2014, với nội dung chủ yếu là đẩy lùi thời hạn hiệu lực của nhiều quy định, cụ thể bổ sung nội dung TCTD, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài được thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ từ ngày 20/3/2014 đến hết ngày 31/3/2015 và chưa phải thực hiện điều chỉnh kết quả phân loại nợ theo kết quả tổng hợp phân loại nợ của CIC cho đến hết ngày 31/12/2014; bổ sung quy định trích lập dự phòng trong trường hợp bán nợ xấu cho VAMC. Mục tiêu chính của thông tư 09 là để tránh gây sốc cho thị trường và có tác động tới việc xử lý nợ xấu của NHTM. Việc điều chỉnh thời hạn hiệu lực các quy định của Thông tư 09 trong ngắn hạn sẽ làm giảm và trì hoãn áp lực về nợ xấu đối với các NHTM, giúp các NHTM có thêm thời gian để điều chỉnh hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình theo hướng áp dụng từng bước các quy định của Thông tư 02, đồng thời tránh được cú sốc về nợ xấu tăng đột biến và lợi nhuận kế toán sụt giảm mạnh. Theo Thông tư 09, các NHTM có thể chưa phải trích ngay số tiền dự phòng rủi ro cho những khoản nợ được cơ cấu nợ và giữ nguyên nhóm nợ, NHTM sẽ có thêm nguồn vốn để cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên để giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 09, các NHTM phải đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ hơn so với quy định 780/QĐ- NHNN và không dễ để che dấu nợ. Cụ thể, các NHTM phải ban hành quy định nội bộ về kiểm soát, giám sát việc cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ chỉ được thực hiện một lần. Điều này nhằm tránh hiện tượng các NHTM lợi dụng việc cơ cấu nợ nhiều lần, làm sạch khoản vay và làm đẹp bản báo cáo tài chính, nhờ vậy nợ xấu sẽ được phản ánh đầy đủ hơn. Khi xét tác động của Thông tư 09 trong dài hạn, bất kể sự trì hoãn những quy định của Thông tư 02 cũng sẽ khiến cho tiến trình tái cơ cấu mất nhiều thời gian hơn để thực thi và đem lại hiệu quả và cũng đẩy lùi tiến độ của việc tiếp cận những chuẩn mực của Basel II và Basel III mà NHNN còn theo đuổi. Thông tư 09 chỉ là một phần trong nhiều giải pháp xử lý nợ xấu mà NHNN đưa ra nhưng chưa đánh trúng vào điểm mấu chốt trong việc khắc phục nợ xấu, khó có thể kỳ vọng Thông tư 09 sẽ tạo ra một bước đột phá trong quá trình giải quyết nợ xấu của NHTM. Cái quan trọng ở đây là những cải cách về pháp lý để tăng thêm quyền cho VAMC, qua đó tăng tính hiệu quả của cơ quan chuyên xử lý nợ này. 3.3. Xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro, thu hồi nợ, tài sản bảo đảm của các NHTM Với việc VAMC chưa phát huy được hiệu quả của mình trong việc xử lý nợ xấu thì xử lý nợ xấu hiện nay do nội lực của các NHTM và chủ yếu từ việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Về vấn đề trích lập dự phòng rủi ro, từ năm 2012, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng các TCTD vẫn tích cực trích lập dự phòng rủi ro, giảm chi phí hoạt động, lợi nhuận và hạn chế chia cổ tức để tạo nguồn xử lý nợ xấu. Số dư dự phòng rủi ro đã trích lập chưa sử dụng tăng từ mức 59,4 nghìn tỷ đồng cuối tháng 01/2012 lên mức cao nhất 78,6 nghìn tỷ đồng cuối tháng 11/2012 và giảm xuống còn 64,2 nghìn tỷ đồng trong tháng 12/2012 do các TCTD đã sử dụng để xử lý nợ xấu. Đến cuối tháng 4/2013, số dư dự phòng rủi ro đã trích lập chưa sử dụng đạt 73,6 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6% so với cuối năm 2012. Đây là nguồn vốn quan trọng mà TCTD có thể sử dụng ngay để xử lý 361
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nợ xấu. Nhờ đó, trong năm 2012 và 4 tháng đầu năm 2013, tổng số nợ xấu đã được các TCTD xử lý bằng dự phòng rủi ro là 76,7 nghìn tỷ đồng (năm 2012 là 69,2 nghìn tỷ đồng và 4 tháng đầu năm 2013 là 7,5 nghìn tỷ đồng). Đến cuối tháng 6/2014, số dư dự phòng còn lại của toàn hệ thống đạt mức 77,3 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% so với cuối năm 2013. Việc trích lập dự phòng rủi ro trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng nguyên nhân do tỷ lệ nợ xấu còn cao 4,84 %. Dự phòng rủi ro tăng lên đồng nghĩa việc bảo đảm an toàn cho ngân hàng đang lớn hơn sức ép lợi nhuận từ cổ đông. Trên thực tế, lợi nhuận của các NHTM chủ yếu có từ hoạt động tín dụng (70-80%), nhưng theo thống kê của NHNN tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm 2014 mới đạt được ¼ kế hoạch ( 3,52% so với mục tiêu 12%). Như vậy, bên cạnh tín dụng vẫn giẫm chân tại chỗ, các NHTM còn phải giảm lãi suất để chia sẻ khó khăn với các doanh nghiệp, cùng với việc tăng cường trích lập dự phòng để hoạt động lành mạnh, an toàn chứ không phải là sự đánh bóng với con số lợi nhuận không phản ánh đúng tình trạng sức khỏe của các NHTM. Ngoài ra, kết quả việc xử lý nợ xấu sẽ được thể hiện qua con số “Sử dụng dự phòng” trên báo cáo tài chính của các ngân hàng. Đây là “tiền” mà trước đó, các ngân hàng đã trích ra từ lợi nhuận kinh doanh, để dự phòng cho khoản nợ xấu theo quy định. Khi khoản nợ xấu được xử lý (tất toán khoản vay), số dự phòng này sẽ được sử dụng. Một thống kê từ 10 ngân hàng lớn (không bao gồm Agribank và SCB) cho thấy, trong nửa đầu năm 2014, gần 3.500 tỷ đồng dự phòng đã được sử dụng. Ngoài ra 970 tỷ dự phòng cho các khoản vay mà ngân hàng đã bán cho VAMC cũng giảm. Trong quý 2/2014 các ngân hàng đã trích lập thêm 10.980 tỷ đồng dự phòng, nâng số dư dự phòng của 10 ngân hàng được thống kê lên hơn 31.000 tỷ đồng, cao hơn khoảng 25% so với đầu năm. Cả năm ngoái, các ngân hàng này đã trích lập khoảng 19.000 tỷ đồng dự phòng và sử dụng 17.660 tỷ đồng. Trước đó năm 2012, số dự phòng và trích lập tương đương nhau, khoảng 16.000 tỷ đồng. Tính ra, số dự phòng được sử dụng trong 6 tháng đầu năm 2014 chỉ bằng khoảng 25% so với năm 2013 và 28% so với năm 2012. Nếu tính tới thời điểm 6/2014, toàn bộ số dự phòng của hệ thống 77,3 nghìn tỷ đồng được các NHTM đưa ra để xử lý nợ xấu thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống sẽ giảm xuống còn 2,2%. Như vậy, quỹ dự phòng của các NHTM đang ở mức khá và là nguồn lực chủ yếu để xử lý nợ xấu hiện nay. 4. Kết luận Tóm lại, ba phương án xử lý nợ xấu hiện nay có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu như phương án đánh giá lại các khoản nợ xấu một cách minh bạch, thống nhất theo thông tư 02 sớm được NHNN triển khai thực hiện không trì hoãn, thì nó sẽ cho toàn ngành, toàn xã hội có một cái nhìn chính xác hơn về thực trạng nợ xấu thực sự của các NHTM; khi đã có bức tranh tòa diện về nợ xấu, VAMC sẽ có cơ sở hơn để tiến hành xử lý nợ xấu, nếu NHNN trao thêm quyền lực hơn nữa cho VAMC thì VAMC sẽ hoàn thành tốt hơn sứ mệnh giải quyết nợ xấu của mình; và cuối cùng, nếu VAMC làm việc có hiệu quả hơn, nợ xấu được xử lý tận gốc thì NHTM không cần phải trích lập và sử dụng rủi ro để bù đắp nợ xấu, lợi nhuận sẽ vì vậy mà tăng lên, và hoạt động của hệ thống NHTM sẽ lành mạnh, an toàn hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đào Thị Hồ Hương, “Những vấn đề cần chú ý trong xử lý nợ xấu tại Việt Nam” [2] Bùi Khắc Hoài Phương, Dương Thị Ngọc Sáu (2014), “Xử lý nợ xấu của NHTM Việt Nam qua công ty quản lý tài sản”, Tạp chí công nghệ Ngân hàng số 96 [3] Báo cáo tài chính quý 2/2014 của một số NHTM [4] Các thông tin công bố của Ngân hàng nhà nước 362