Đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi về vấn đề ô nhiễm môi trường của người dân thôn nội thượng, xã An Viễn, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên

pdf 10 trang Gia Huy 21/05/2022 1770
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi về vấn đề ô nhiễm môi trường của người dân thôn nội thượng, xã An Viễn, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdanh_gia_nhan_thuc_thai_do_hanh_vi_ve_van_de_o_nhiem_moi_tru.pdf

Nội dung text: Đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi về vấn đề ô nhiễm môi trường của người dân thôn nội thượng, xã An Viễn, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên

  1. ĐÁNH GIÁ NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VỀ VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CỦA NGƯỜI DÂN THÔN NỘI THƯỢNG, XÃ AN VIỄN, HUYỆN TIÊN LỮ, HƯNG YÊN BS. Ngô Văn Tường Trung tâm Truyền thông GDSK Hưng Yên Tóm tắt nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên các đối tượng là chủ hộ gia đình tại thôn Nội Thượng, xã An Viễn, Tiên Lữ, Hưng Yên từ tháng 6/2012 đến tháng 10/2013 nhằm tìm hiểu kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường (VSMT) của người dân thôn Nội Thượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy: - Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: Chủ hộ ở nhóm tuổi từ 30 đến 50 chiếm 60%, 90% chủ hộ là nam giới, phần lớn có trình độ học vấn từ THCS trở lên (90%). - Nguồn cung cấp thông tin về các vấn đề y tế, VSMT: Trên 80% số người được hỏi đã trả lời được tiếp cận thông tin qua đài truyền hình, đài phát thanh. - Kiến thức về nước sạch, VSMT: Trên 90% số người được hỏi kể tên được một nguồn nước sạch, 76% số người được hỏi kể được từ 2 bệnh trở lên có nguyên nhân do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. - Thái độ của người dân với thực hành VSMT: 67% số người được hỏi quan tâm đến vấn đề vệ sinh môi trường, 30% không quan tâm và 3% trả lời cho rằng đó không phải là việc của họ. 100% người được hỏi cho rằng cần có nguồn nước hợp vệ sinh, 45% lo lắng về hệ thống thoát nước thải chung. - Thực hành VSMT: + Sử dụng nguồn nước sạch: Trên 90% số hộ gia đình sử dụng nguồn nước mưa để ăn uống, 85% sử dụng nước giếng khoan dùng trong sinh hoạt, 15% hộ dân chưa có nguồn nước sạch sinh hoạt nên thường xuyên phải dùng nước ao. + Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh: 93% số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh, trong đó 30% số hộ có nhà tiêu tự hoại, 55% có nhà tiêu hai ngăn, 8% hộ có nhà tiêu một ngăn. + Thu gom và xử lý rác: Trên 60% số hộ gia đình không thu gom rác để đúng nơi quy định, thậm chí đổ rác xuống các ao, hồ. + Xử lý nước thải sinh hoạt: 30% số hộ cho nước thải chảy trực tiếp xuống ao. Đa phần rãnh thoát nước của thôn không có nắp đậy. Từ các kết quả trên, nghiên cứu đã đưa ra các kiến nghị: (1) Các cấp chính quyền xã và thôn cần tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường, thường xuyên lồng ghép nội dung này vào trong các buổi họp chi bộ, họp thôn. Đưa tiêu chuẩn thực hiện VSMTvào quy ước của thôn để mọi gia đình đều phải có nghĩa vụ thực hiện. (2) Y tế thôn cần phát huy hơn nữa vai trò liên kết và phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia tuyên truyền, vận động các hộ gia đình thực hiện VSMT. 109
  2. KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG NHÀ VỆ SINH CỦA NGƯỜI DÂN VÙNG NÔNG THÔN TẠI CÁC HUYỆN CHÂU THÀNH, VĨNH THUẬN VÀ GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG, NĂM 2013 CN. Trần Hữu Lộc, BSCKII. Bùi Kim Chiên, CN. Nguyễn Quốc Oai, KS. Đào Thiện Trí, CN. Lâm Vĩ Hằng Trung tâm truyền thông GDSK Kiên Giang Tóm tắt nghiên cứu Với mục tiêu xác định tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ, thực hành đúng về sử dụng nhà vệ sinh và các yếu tố liên quan, nghiên cứu mô tả cắt ngang triển khai từ tháng 4/2013 đến hết tháng 10/2013 trên địa bàn 3 xã nông thôn là xã Vĩnh Hòa Phú (huyện Châu Thành), xã Vĩnh Bình Bắc (huyện Vĩnh Thuận), và xã Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện Gò Quao). Kết quả cho số hộ sử dụng nhà cầu hợp vệ sinh (NCHVS) chỉ chiếm 33,08%; về kiến thức chỉ có 13,08% người dân hiểu đúng về NCHVS; Vẫn còn 1,92% hộ dân chưa được tiếp cận thông tin về NCHVS. 70,38% người dân muốn xoá bỏ cầu tiêu ao cá (CTAC), 78,08% muốn xóa bỏ cầu tiêu trên sông đạt. Có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập bình quân. 1. Đặt vấn đề Phân và nước tiểu do con người và gia súc tạo ra, ngoài việc gây mùi hôi khó chịu và mất thẩm mỹ, còn mang nhiều mầm bệnh, nếu không được xử lý sẽ qua nguồn nước, đất, côn trùng, tay, chân người xâm nhập vào thực phẩm mang theo mầm bệnh trở lại cho chính con người và cộng đồng của họ. Vì vậy, các chất thải này cần phải có công trình tiếp nhận và xử lý tại chỗ trước khi cho vào hệ thống chung. Các nhà cầu tại gia đình hay tập thể trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong một xã hội hiện đại và văn minh. Theo báo cáo của khoa Sức khoẻ cộng đồng thuộc Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, trung bình hàng năm toàn tỉnh đã có trên 10 ngàn NCHVS của nhân dân được hướng dẫn xây dựng và sửa chữa. Cụ thể năm 2011 có 10.966 nhà cầu, năm 2012 có 11.487 NCHVS được hướng dẫn xây dựng và sửa chữa. Cũng theo báo cáo thống kê các bệnh truyền nhiễm năm 2012 của Trung tâm Y tế dự phòng, 10/28 bệnh truyền nhiễm gây dịch được giám sát có số mắc cao nhất theo thứ tự là tiêu chảy, cúm, tay chân miệng, sốt xuất huyết, thuỷ đậu, quay bị, lỵ trực khuẩn, lỵ amib, Như vậy, khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những bệnh có liên quan tới nước sạch vệ sinh môi trường (NSVSMT). Chỉ tính riêng bệnh tiêu chảy, năm 2010 toàn tỉnh có 12.910 ca; năm 2011 có 11.068 ca và năm 2012 có 9.466 ca mắc. Đối với bệnh tay chân miệng, năm 2010 có 383 ca mắc, tử vong 1; năm 2011 có 2.751 ca mắc, chết 4 và năm 2012 có 2.920 ca mắc, không có tử vong. Như vậy, xét về mặt lý thuyết thì theo báo cáo của Trung tâm Y tế dự phòng số NCHVS của nhân dân được hướng dẫn xây dựng và sửa chữa hàng năm đều tăng và luôn ở mức cao nhưng các bệnh lây truyền qua đường tiêu hoá thì không giảm. Ở đây có 110
  3. sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế. Phân tích các yếu tố khách quan như tăng dân số tự nhiên khiến cho tỷ lệ hộ dân sử dụng NCHVS không tăng hoặc người dân quá nghèo, không có tiền xây nhà vệ sinh thì chúng ta có thể loại trừ vì trong những năm gần đây kinh tế của nước ta, trong đó có Kiên Giang đều phát triển theo chiều hướng tốt. Mặt khác, nếu cho rằng báo cáo chưa chính xác thì cũng cần được loại trừ vì số liệu hàng năm có sự chênh lệch không đáng kể. Vậy tỷ lệ hộ sử dụng NCHVS ở nông thôn là bao nhiêu? Tại sao tỷ lệ hộ sử dụng NCHVS không tăng? Những nguyên nhân nào khiến cho tỷ lệ hộ sử dụng nhà cầu không hợp vệ sinh ở vùng nông thôn không giảm? 2. Mục tiêu nghiên cứu 1. Xác định tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng nhà vệ sinh. 2. Xác định các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng nhà vệ sinh. 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: - Chủ hộ gia đình (tuổi từ 18 -60) có khả năng cung cấp đầy đủ thông tin, cư trú tại địa phương từ 1 năm trở lên, phải đảm bảo mẫu đại diện cho: người dân tộc, người nghèo/cận nghèo; đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. 3.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4/2013 đến hết tháng 10/2013 3.3. Địa điểm nghiên cứu: 3 xã nông thôn: xã Vĩnh Hòa Phú (huyện Châu Thành), xã Vĩnh Bình Bắc (huyện Vĩnh Thuận), xã Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện Gò Quao). 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Thiết kế nghiên cứu: là một nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. 3.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: Được tính toán theo công thức ước lượng cho 1 tỷ lệ nghiên cứu mô tả cắt ngang: Trong đó: - n cỡ mẫu tối thiểu cần có - Z1-α/2: hệ số tin cậy cho kiểm định 2 phía (bằng 1,96) - α: mức ý nghĩa thống kê (bằng 0,05) - P: ước lượng tỉ lệ biến nghiên cứu trong quần thể bằng 0,2 - d: sai số cho phép (bằng 0,05) 111
  4. Vậy số lương mẫu cần thiết là 246 hộ và 5% dự phòng cho các trường hợp mất mẫu do bỏ cuộc là 13 mẫu. Tổng số hộ gia đình được khảo sát: n = 246+13 = 259, làm tròn 260 hộ. 3.4.3. Kỹ thuật thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi được thiết kế sẵn. 3.4.4. Xử lý số liệu: Số liệu nghiên cứu được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1; phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Tuổi của đối tượng đánh giá tập trung chủ yếu ở nhóm 30 đến 39 tuổi (40,77%), tiếp đến là nhóm 40 đến 49 tuổi (30,38%). Nhóm 15 đến 19 tuổi có tỷ lệ thấp nhất (5,38%). Bảng 1: Trình độ học vấn của đối tượng đánh giá Trình độ học vấn (n=260) Dân tộc Tổng Mù chữ Tiểu học THCS THPT Trên THPT Kinh n 4 76 113 6 3 202 % 1,98 37,62 55,94 2,97 1,49 100,00 Khơ me n 12 29 8 2 0 51 % 23,53 56,86 15,69 3,92 0,00 100,00 Hoa n 0 3 4 0 0 7 % 0,00 42,86 57,14 0,00 0,00 100,00 Tổng n 16 108 125 8 3 260 % 6,15 41,54 48,08 3,08 1,15 100,00 77,69% đối tượng được phỏng vấn là người dân tộc Kinh, dân tộc Hoa chỉ có 2,69%. Tỷ lệ đối tượng mù chữ của dân tộc Khơ me là nhiều nhất 23,53%, đây sẽ là đối tượng cần được quan tâm nhiều hơn. Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu tập trung chủ yếu ở nhóm Nông, Lâm, Ngư nghiệp (50,77%), kế đến là nhóm làm mướn (19,23%), thấp nhất là nhóm công nhân và cán bộ, viên chức nhà nước (1,92%). Đáng lưu ý là có tới 16% đối tượng thất nghiệp. Mức thu nhập bình quân từ 1 đến 2 triệu đồng/người/tháng chiếm đa số (33,46%), số hộ có thu nhập bình quân trên 4 triệu đồng/người/tháng chỉ chiếm 11,92%. Đặc biệt có 8,46% hộ có thu nhập dưới 1 triệu đồng/người/ tháng, điều này chỉ ra rằng đời sống người dân vùng nông thôn vẫn còn nhiều khó khăn. Thực trạng có NCHVS còn rất thấp chỉ 33,08%; trong khi đó có tới 66,92% là NCKHVS. 112
  5. 4.2. Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng NCHVS 4.2.1. Kiến thức người dân trong sử dụng NCHVS 50% 46,2% 40% 25,0% 30% 15,8% 13,1% 20% 10% 0% Không có mùi hôiKhông thải ra môiCó khả năng diệt Cả 3 ý trên trường xung được mầm bệnh quanh Biểu đồ 1: Người dân kể được các tiêu chí NCHVS Đa số người dân cho rằng NCHVS phải đạt tiêu chí không thải phân ra môi trường xung quanh (46,15%), trong khi đó tiêu chí không có mùi hôi chiếm 25% và NCHVS phải có khả năng diệt được mầm bệnh chỉ chiếm 15,77%. Số người trả lời có kiến thức đúng về NCHVS đạt cả 3 tiêu chí chiếm 13,08%. 4.2.2. Thái độ của người dân về sử dụng nhà cầu Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 70,03% xóa bỏ hình thức cầu tiêu ao cá, trong khi đó có tới 29,62% vẫn muốn duy trì. Cùng với thái độ muốn bỏ cầu tiêu ao cá thì có tới 78,08% mong muốn xóa bỏ cầu tiêu trên sông vì cho rằng nó gây ô nhiễm môi trường, mất mỹ quan. 4.2.3. Thực hành của người dân về sử dụng nhà cầu 5,0% 7,0% 33,0% Nhà cầu tự hoại Nhà cầu "cầu cá" nhà cầu trên sông Không có nhà cầu riêng 55,0% Biều đồ 2: Thực hành của người dân sử dụng nhà cầu Trong số 260 hộ gia đình, có 143 hộ sử dụng cầu cá (55%), nghĩa là quá nửa số hộ gia đình được điều tra làm nhà vệ sinh trên hầm nuôi cá tại gia đình và sử dụng phân tươi như một nguồn thức ăn cho cá, và vẫn còn 13 hộ (chiếm tỉ lệ 5%) đi ngoài thẳng ra sông, đưa số hộ sử dụng nhà tiêu không hợp vệ sinh lên 174/260 hộ (chiếm tỷ lệ 66,92%). Đây là vấn đề tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường sống và lây truyền các bệnh truyền nhiễm. 113
  6. Bảng 2: Lý do sử dụng cầu tiêu ao cá Ý kiến Hợp vệ Kín Thoáng mát, Thói Kinh tế Tăng thu Tổng sinh đáo thoải mái quen gia đình nhập cộng Tần số 43 25 18 23 32 2 143 Tỷ lệ % 30,07 17,48 12,59 16,08 22,38 1,40 100,00 Có đến 30,07% cho rằng việc sử dụng cầu cá là hợp vệ sinh vì đã có cá ăn; 17,48% cho rằng ao cá kín đáo, các chất thải không phát tán ra sông rạch được; 12,59% đi cầu cá với lý do thoáng mát, thoải mái; 22,38% do thói quen; 22,38% do kinh tế gia đình khó khăn nên không có đủ tiền xây nhà cầu hợp vệ sinh và chỉ có 1,4% sử dụng cầu các nhằm tăng thu nhập. 4.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng nhà vệ sinh của người dân. Bảng 3: Kiến thức, thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo nhóm tuổi Kiến thức đúng Thực hành đúng TT Độ tuổi Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 1 Từ 15 đến 19 tuổi 12 35,29 12 13,95 2 Từ 20 đến 29 tuổi 10 29,41 24 27,91 3 Từ 30 đến 39 tuổi 8 23,53 28 32,56 4 Từ 40 đến 49 tuổi 4 11,76 22 25,58 Tổng cộng 34 100,00 86 100,00 Trong số những người có kiến thức, thực hành đúng thì lứa tuổi 15-19 chỉ chiếm tỷ lệ tương ướng là 35,29% và 13,95%. Số người thực hành đúng ở độ tuổi từ 30 đến 39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (32,56%). Những người có trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên thì có kiến thức và thực hành tốt, tuy nhiên nhóm này lại rất ít chỉ có <5% số đối tượng. Trong 6,15% đối tượng là người mù chữ thì có dưới 10% số hộ có thực hành tốt. Điều này sẽ là khó khăn lớn đối với người làm công tác truyền thông tại địa phường bởi khả năng thu nhận kiến thức của họ bị hạn chế và họ khó thay đổi hành vi của mình. Bảng 4: Kiến thức, thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo nghề nghiệp Kiến thức đúng Thái độ thực hành đúng TT Độ tuổi Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 1 Nông/lâm/ngư nghiệp 10 29,41 32 37,21 2 Công nhân 4 11,76 3 3,49 3 CB, viên chức nhà nước 5 14,71 4 4,65 4 Buôn bán, dịch vụ 7 20,59 7 8,14 5 Thất nghiệp 4 11,76 15 17,44 6 Làm mướn 3 8,82 21 24,42 7 Khác 1 2,94 4 4,65 Tổng cộng 34 100.00 86 100.00 114
  7. Cán bộ, viên chức nhà nước có kiến thức đúng cao nhất 5/5 đối tượng khảo sát, tỷ lệ này thấp nhất ở nhóm đối tượng làm mướn. Thực hành đúng ở đối tượng Nông/lâm/ngư nghiệp tuy cao 37,21% nhưng so với nghề nghiệp của đối tượng khảo sát (biểu đồ 2) thì tỷ lệ ở đối tượng này thấp nhất (32/132=24,24%) Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ kiến thức và thực hành đúng ở người có mức thu nhập bình quân từ 3 đến 4 triệu đồng chiếm cao nhất (32,35% và 27,91%). Tỷ lệ này thấp nhất ở đối tượng có mức thu nhập dưới 1 triệu đồng (8,82%) Hầu hết các hộ đều được tiếp cận thông tin về NCHVS từ nhiều nguồn khác nhau, chiếm đa số là tình nguyện viên sức khoẻ và cán bộ y tế, đoàn thể. 5. Bàn luận Tỷ lệ hộ dân sử dụng NCHVS đạt 33,08% là quá thấp. Tuy nhiên, so với báo cáo của Cục quản lý môi trường Y tế (Bộ Y tế), năm 2012 đã tăng 4,50% và tăng 24,92% so với nghiên cứu năm 2002 của tác giả Nguyễn Thị Kim Tiến, Huỳnh Thu Thủy, Lương Chấn Quang và CS là phù hợp. Kiến thức đúng của người dân về NCHVS đạt 13,08%. Điều này cho thấy vẫn còn một khoảng trống khá lớn trong công tác truyền thông. Trong chiến dịch vận động dẹp bỏ cầu tiêu ao cá trước đây có thể nói việc trang bị kiến thức cũng như kỹ năng truyền thông cho đội ngũ TNV cũng như cán bộ ban ngành, đoàn thể xã, ấp chưa đáp ứng yêu cầu, thể hiện trong phỏng vấn cán bộ ban ngành, đoàn thể tham gia dự án NSVSMT ở 3 xã khảo sát, hầu như không người nào nêu được khái niệm nước sạch là gì và các bệnh nào liên quan đến nước sạch và nhà cầu. Điều quan trọng hơn là có trên 80% những người được phỏng vấn cũng không biết đầy đủ về tiêu chí nhà cầu hợp vệ sinh, qui cách xây dựng như thế nào, giá thành bao nhiêu. Vậy nếu muốn xoá bỏ NCKHVS thì phải giải quyết đồng bộ ít nhất hai vấn đề cơ bản: kiểu nhà cầu thích hợp cho vùng đồng bằng sông nước và kỹ năng truyền thông giáo dục người dân liên quan đến NSVSMT. Và chỉ có thể xoá bỏ từ từ, theo sự phát triển kinh tế và năng lực của cán bộ trong từng thời điểm. Thái độ đúng của người dân trong sử dụng nhà cầu chỉ đạt tỷ lệ 70,38%. Đáng lưu ý là có 29,62% người dân cho rằng không cần phải dẹp bỏ cầu tiêu ao cá. Hành vi đúng của người dân chỉ đạt 33,08%. Mặt khác, hành vi sử dụng nhà cầu của người dân hiện tại khá đa dạng, có thể tóm tắt như sau: - Nhà cầu bắc ra ngoài sông, rạch là một cái chòi khoảng 1m vuông, quây cao khoảng nửa mét đủ ngồi, bằng vật liệu như lá dừa nước, gỗ, tôn, người ta đi ngoài thẳng xuống sông. Nhà cầu kiểu này, theo người dân cho biết cách đây khoảng vài năm là khá phổ biến, đã được các chiến dịch vận động phá bỏ, chỉ còn lại rất ít nhưng nó vẫn tồn tại rải rác ở các điạ phương. Theo kết quả khảo sát, số này chiếm 5%. 115
  8. - Nhà cầu theo kiểu cầu tiêu ao cá là những nhà cầu theo kiểu nói trên nhưng không phải ở trên sông mà là bắc ngay trên những hầm nuôi cá của mỗi hộ gia đình, người dân đi ngoài thẳng xuống hầm cá (thường rộng khoảng 15 - 20 mét vuông). Đây loại nhà cầu này là phổ biến nhất ở các xã, chiếm đến 55%. Người dân sử dụng cầu tiêu ao cá như một nguồn cung cấp thức ăn cho cá nuôi. - Nhà cầu tự hoại, loại này được thiết kế giống như chương trình NSVSMT cung cấp. Có thể là hỗ trợ từ nhiều nguồn khác hoặc tự chi trả toàn bộ. Ước tính loại này chiếm dưới 10%. - Không có/không sử dụng nhà cầu, người ta có thể đi nhờ nhà hàng xóm, nhà bố mẹ, họ hàng gần nhà. Với trẻ em đi ngoài, hoặc người lớn vào ban đêm không tiện đi sang nhà hàng xóm người ta vứt xuống sông cạnh nhà. Số này chiếm 6,92%. Thực tế cho thấy, con số nhà cầu tự hoại tăng chưa phải là chỉ số nói lên sự chuyển đổi hành vi người dân, phần lớn các gia đình có nhà cầu tự hoại nhưng luôn tồn tại song song một cầu tiêu ao cá, loại này có thể coi như nhà cầu truyền thống hiện nay. Bên cạnh đó việc huy động sự tham gia của người dân cũng được coi như một nguyên tắc trong hoạt động, thí dụ như cùng đóng góp để hoàn thành mỗi công trình/mô hình, có thể là đóng góp bằng tiền, bằng công lao động để họ tự xác định được sự cần thiết, tầm quan trọng của việc họ làm và tự duy tu bảo dưỡng. Các kết quả đạt được từ Chương trình NSVSMT đã được địa phương ghi nhận và đang có một môi trường tốt để tiếp tục phát triển và bền vững đó là: nhà nước cho người dân vay vốn áp dụng các mô hình xây dựng 3 công trình vệ sinh, nước sạch và bảo vệ môi trường sống thông qua ngân hàng chính sách hoặc qua các Chương trình NSVSMT, Chương trình quốc gia như 134, Chương trình 127. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng cho thấy ở những người trẻ và tuổi trung niên, có học vấn bậc trung học cơ sở trở lên, cán bộ, viên chức nhà nước, có thu nhập khá là tiền đề để có kiến thức, thái độ, thực hành đúng, thể hiện ở nhóm đối tượng này chiếm tỷ lệ cao nhất. Đối với nguồn cung cấp thông tin về NCHVS cho người dân chưa được tốt, thể hiện người dân chưa từng nghe chiếm 1,92%. Từ các thông tin thu thập được về hành vi người dân, so sánh với tài liệu truyền thông cho thấy, nội dung các tài liệu này không cung cấp thông tin về sử dụng các công trình vệ sinh, tác hại, hậu quả của việc sử dụng phân tươi đối với sức khỏe và sự lây lan bệnh tật trong cộng đồng. Các phỏng vấn cho thấy có một vài người biết nhưng họ vẫn sử dụng vì lợi ích là nguồn thức ăn cho cá. Từ đây có thể thấy việc tuyên truyền cho người dân về các vấn đề này là chưa đầy đủ, đúng cách. 116
  9. 6. Kết luận Qua nghiên cứu tại 3 xã Vĩnh Hòa Phú (huyện Châu Thành), Vĩnh Bình Bắc (huyện Vĩnh Thuận), Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện Gò Quao), cho thấy số hộ sử dụng NCHVS chỉ chiếm 33,08% là quá thấp. Kiến thức, thánh độ thực hành đúng của người dân trong sử dụng nhà cầu: - Về kiến thức chỉ có 13,08% người dân hiểu đúng về NCHVS. - Thái độ đúng của người dân trong xoá bỏ CTAC đạt 70,38%, đối với cầu tiêu trên sông đạt 78,08%. - Hành vi đúng của người dân trong sử dụng NCHVS chỉ đạt 33,08%. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng - Theo độ tuổi: Kiến thức đúng tuổi 15-19 chiếm tỷ lệ cao nhất (85,71%). Thực hành đúng ở độ tuổi 30-39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (32,56%). - Theo trình độ học vấn: Trên trung học phổ thông có kiến thức và thái độ thực hành đúng 100%. Người mù chữ chiếm tỷ lệ có kiến thức và thái độ thực hành đúng thấp nhất. - Theo nghề nghiệp: Cán bộ, viên chức nhà nước có kiến thức đúng 100% đối tượng khảo sát, tỷ lệ này thấp nhất ở nhóm đối tượng làm mướn (8,42%). Thực hành đúng ở đối tượng Nông/lâm/ngư nghiệp thấp nhất (24,24%). - Theo thu nhập bình quân: Kiến thức và thái độ thực hành đúng ở người có mức thu nhập từ 3 đến 4 triệu đồng chiếm cao nhất (32,35% và 27,91%). Tỷ lệ này thấp nhất ở đối tượng có mức thu nhập dưới 1 triệu đồng (8,82%). - Vẫn còn 1,92% hộ dân chưa được tiếp cận thông tin về NCHVS. 7. Kiến nghị - Đối với Chương trình NSVSMT: + Nhà cầu được thiết kế của chương trình NSVSMT phù hợp với khu vực, nên khuyến cáo lấy làm mô hình kỹ thuật để các hộ gia đình khác áp dụng. - Đối với công tác TT-GDSK: + Phát huy hiệu quả kênh truyền thông sẵn có, phối hợp thêm các hình thức truyền thông khác để thay đổi hành vi người dân. + Dựa trên nền tảng sẵn có, xây dựng chiến lược truyền thông thay đổi hành vi về NSVSMT cho tỉnh, trong đó lưu ý: Các nội dung, thông điệp truyền thông phù hợp với các vấn đề hiện nay tại cộng đồng, đa dạng hóa tài liệu truyền thông, phối hợp/lồng ghép nhiều kênh truyền thông, không nên chỉ sử dụng một hình thức thăm hộ gia đình. 117
  10. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2013) - Nhà vệ sinh, Nông thôn Việt nam. 2. Bộ Y tế, Quyết định 08/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ Y tế về việc ban hành tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại nhà tiêu. 3. Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (Giai đoạn 2006 - 2010), tr: 4- 6. 4. Cục Quản lý Môi trường Y tế (2012); Báo cáo Kết quả thực hiện công tác năm 2012 và kế hoạch năm 2013, tr: 25, 26. 5. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 99/2002/QĐ-TTg ngày 23/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. 6. Lê Anh Tuấn (2005), Nhà vệ sinh nông thôn ở Việt Nam - hiện trang và vấn đề tr: 1-11. 7. Lê Đại Trí, Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ sức khỏe Công đồng (2010), Cầu tiêu ao cá: có thể dẹp bỏ. tr: 1-3 8. Nguyễn Thị Kim Tiến, Huỳnh Thu Thủy, Lương Chấn Quang và CS (2002), Thực trạng về xử lý phân, rác thải ở người và gia súc tại 3 tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, tr: 1. 9. Trung tâm TT-GDSK Kiên Giang, Báo cáo dự án nâng cao năng lực chăm sóc sức khoẻ và cải thiện điều kiện sống cho hộ nghèo ở các xã khó khăn (2007- 2013), tr: 10-12. 10. Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Kiên Giang (2012); Báo cáo tổng kết công tác Y tế dự phòng, tr: 9, 20. 118