Fintech - Xu hướng phát triển và những tác động tới hoạt động ngân hàng
Bạn đang xem tài liệu "Fintech - Xu hướng phát triển và những tác động tới hoạt động ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- fintech_xu_huong_phat_trien_va_nhung_tac_dong_toi_hoat_dong.pdf
Nội dung text: Fintech - Xu hướng phát triển và những tác động tới hoạt động ngân hàng
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" Fintech - XU HƯỚNG PHáT TRIỂN VÀ NHỮNG TáC ĐỘNG TỚI HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG PGS. TS. Đào Minh Phúc, ThS. Nguyễn Hữu Mạnh Tạp chí Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tóm tắt Fintech là một phần của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, vốn đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, tác động và làm thay đổi mạnh mẽ hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính - ngân hàng. Cuộc cách mạng về công nghệ tài chính và khả năng các đối thủ mới gia nhập thị trường với công nghệ đột phá đã khuyến khích các ngân hàng phát triển công nghệ riêng của họ. Bên cạnh đó, các Fintech lại không ngừng mang đến những trải nghiệm mới cho khách hàng và thúc đẩy quá trình số hóa. Chúng ta đang nhìn thấy xu hướng rõ ràng, đặc biệt là trong dịch vụ thanh toán, cho vay cũng như nhiều lĩnh vực khác. Các công ty Fintech với cách tiếp cận đầy sáng tạo có thể hỗ trợ ngân hàng tăng cường chất lượng và chiều sâu mối quan hệ với khách hàng - đây là lợi thế cạnh tranh cốt lõi của các ngân hàng. Có thể nói, cạnh tranh hoàn toàn không phải là một xu hướng, thay vào đó sẽ là cộng hưởng và hợp tác. Bài viết nhận định xu thế phát triển của Fintech trong thời gian tới và những tác động của nó tới các ngân hàng thương mại, qua đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính tốt nhất phục vụ người dân và phát triển kinh tế. Từ khóa: Fintech, dịch vụ tài chính - ngân hàng 1. Xu hướng pháT triển Của Fintech 1.1. Tổng quan về sự hình thành và phát triển của Fintech Thuật ngữ “Fintech” là một từ mới có nguồn gốc từ 2 từ “tài chính”(financial) và “khoa học công nghệ” (technology), thường được mô tả là sự kết hợp chủ yếu giữa những công nghệ hiện đại dựa trên nền tảng Internet với những hoạt động kinh doanh của ngành dịch vụ tài chính. Có thể hiểu Fintech theo 2 nghĩa. Một mặt, Fintech có thể được xem như một dịch vụ tài chính được can thiệp bởi những công nghệ mới để thoả mãn những ràng buộc của tương lai: hiệu suất cao, giảm chi phí, cải tiến quy trình kinh doanh, nhanh chóng, linh hoạt và mới lạ (Dapp và các cộng sự, 2014). Mặt khác, Fintech cũng được hiểu là các công ty và cụ thể hơn là những công ty khởi nghiệp cung cấp những dịch vụ này. 51
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" Sự xuất hiện của điện báo (được sử dụng trong thương mại từ năm 1838) và việc lắp đặt thành công đường dây cáp đầu tiên xuyên qua Đại Tây Dương vào năm 1866 (bởi Công ty Điện báo Atlantic) đã cung cấp cơ sở hạ tầng căn bản cho giai đoạn toàn cầu hoá tài chính quan trọng đầu tiên diễn ra vào cuối thế kỷ 19. Giai đoạn này được công nhận từ năm 1870 bằng việc lắp đặt đường dây cáp xuyên Thái Bình Dương và những kết nối tương tự khác với sự bắt đầu của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Rồi sau đó, sự giới thiệu của Máy rút tiền tự động (ATM) vào năm 1967 bởi Ngân hàng Barclays (Thomas Lerner, 2013) được cho rằng đã đánh dấu sự khởi đầu của sự tiến triển của Fintech hiện đại ngày nay. Ảnh hưởng của ATMs đã khiến Paul Volcker, Cựu Chủ tịch của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (1979 - 1987), khi bình luận về vai trò của đổi mới tài chính trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, đã có phát biểu rất nổi tiếng năm 2009 như sau: “Đổi mới tài chính quan trọng nhất mà tôi từng thấy trong vòng 20 năm qua là máy rút tiền tự động, thứ thực sự giúp ích cho con người, giảm được việc đi đến ngân hàng và đó thật sự rất tiện lợi”(Paul Volcker, 2009). Tiếp tục sau đó là dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home Banking) được giới thiệu bởi ngân hàng Citibank và Chase Manhattan năm 1981 đã cho thấy sự thay đổi ngày càng nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính. Có thể nói, 1866 - 1987 là giai đoạn Fintech 1.0 với những nền tảng phát triển cho Fintech về sau. Đến đầu những năm 1990, thị trường tài chính toàn cầu chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc cách mạng Internet, một trong những ảnh hưởng chính là giảm các chi phí tài chính. Những tiến bộ khoa học dẫn dắt bởi cuộc cách mạng Internet đã thay đổi bộ mặt của ngành dịch vụ tài chính và dẫn đến sự phát triển của tài chính điện tử (e-finance). Tài chính điện tử bao gồm tất cả các hình thức dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử, bao gồm Internet và trang web. Tài chính điện tử cho phép các cá nhân hoặc các tổ chức tiếp cận với tài khoản, giao dịch kinh doanh và có được thông tin về các sản phẩm và dịch vụ tài chính mà không cần phải có mặt tại các tổ chức tài chính. Các mô hình kinh doanh điện tử tài chính nổi lên vào những năm 1990 phải kể đến là ngân hàng trực tuyến giới thiệu lần đầu tiên bởi Stanford Credit Union, giao dịch môi giới trực tuyến, thanh toán di động và ngân hàng qua điện thoại di động (giới thiệu đầu tiên bởi Ngân hàng Norwegian Fokus năm 1999). Có thể thấy, ngành dịch vụ tài chính đã trở thành một trong những khách hàng chủ đạo của các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin trên toàn cầu từ những năm 1990 với tổng chi tiêu lên đến hơn 197 tỉ đô la Mỹ tính đến 2014. Như vậy, từ 1987 - 2008 có thể xem như giai đoạn Fintech 2.0 với sự phát triển của các dịch vụ tài 52
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" chính kỹ thuật số truyền thống, sử dụng kỹ thuật công nghệ để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Giai đoạn từ 2009 - nay, rõ ràng là Fintech 3.0 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 chính là điểm chuyển tiếp. Cuộc khủng hoảng tài chính gây ra hai tác động về nhận thức của công chúng và nguồn vốn con người. Thứ nhất, do nguồn gốc của khủng hoảng tài chính được phổ biến rộng rãi đã khiến cho nhận thức của công chúng về ngân hàng xấu đi. Thứ hai, khi khủng hoảng tài chính chuyển sang khủng hoảng kinh tế, đã khiến cho khoảng 8.7 triệu người ở Mỹ mất việc làm. Có 2 nhóm người bị ảnh hưởng. Một mặt, công chúng nói chung trở nên mất tin tưởng vào hệ thống ngân hàng truyền thống. Mặt khác, nhiều chuyên gia tài chính cũng mất việc làm hoặc không còn được trả lương xứng đáng. Lực lượng lao động có trình độ không được sử dụng đúng mức này đã tìm ra một ngành mới để áp dụng kỹ năng của mình, Fintech 3.0. Cuối cùng, một thế hệ mới có trình độ cao, mới tốt nghiệp cũng đối mặt với vấn đề tìm việc khó khăn trong khi nền tảng giáo dục của họ đã trang bị cho họ những công cụ để hiểu được thị trường tài chính, và kỹ năng của họ có thể áp dụng vào Fintech 3.0. Từ góc nhìn chính trị, thất nghiệp gia tăng và việc cung cấp tín dụng giảm có thể thách thức trực tiếp tính pháp lý của những ứng cử viên được bình chọn. Đó chính là động lực chính trị đằng sau Đạo luật Khởi nghiệp (Jump Start Our Business Act - JOBs) 2012 của Mỹ. Đạo luật này khắc phục vấn đề thất nghiệp và cung tín dụng theo 2 cách. Về thất nghiệp, Đạo luật Khởi nghiệp nhắm vào việc thúc đẩy sáng tạo khởi nghiệp bằng cách cung cấp nhiều cách thức gọi vốn cho hoạt động kinh doanh. Lời mở đầu của đạo luật này nói rằng: “Để gia tăng sự sáng tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế bằng việc cải thiện việc tiếp cận những thị trường vốn công cộng cho những công ty mới tăng trưởng.” Về mặt tài chính, Đạo luật này đã giúp cho các công ty khởi nghiệp tránh được sự thu hẹp tín dụng do những chi phí ngân hàng tăng cao và khả năng bị giới hạn với những khoản vay cho khởi nghiệp. Đạo luật này cũng giúp cho các công ty khởi nghiệp gọi vốn trực tiếp cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách tăng vốn thay cho phần vốn từ hoạt động cho vay ngang hàng (P2P). Tóm lại, từ năm 2008, ngành dịch vụ tài chính bị ảnh hưởng bởi hàng loạt yếu tố từ tài chính, chính trị và cả công chúng tạo điều kiện cho một thế hệ mới về các thành phần của thị trường thiết lập một cơ chế sáng tạo được biết đến ngày nay với cái tên “Fintech”. 1.2. Fintech - xu hướng phát triển và kỳ vọng trong thời gian tới Một là, Fintech làm thay đổi hoạt động cung ứng dịch vụ tài chính ngân hàng Hầu như tất cả các loại hoạt động tài chính, từ ngân hàng, thanh toán cho đến quản 53
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" lý tài sản, đang được các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech (Fintech startup) định hình lại. Cách đây không lâu, mọi người còn đứng đợi xếp hàng tại ngân hàng với phiếu gửi tiền của họ và nhiều hình thức ID. Hiện nay, chúng ta thường không cần phải có mặt, đợi chờ tới lượt được thanh toán và hiếm khi chúng ta cần cung cấp chữ ký. Trên thực tế, khoảng 40% người Mỹ đã không tới ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng (khảo sát chỉ số an ninh ngân hàng trong năm 2017), điều này không đáng ngạc nhiên vì số lượng chi nhánh thực tế đã giảm đáng kể trong 10 năm - 15 năm qua. Điều này là do sự gia tăng ngân hàng trực tuyến. Khách hàng đang sử dụng nhiều nền tảng chăm sóc sức khỏe tài chính khác nhau, cho phép họ thực hiện giao dịch ngân hàng, đầu tư, kinh doanh, bảo hiểm mà không phải rời khỏi nhà của họ. Trong một không gian sáng tạo như vậy, rõ ràng là những nền tảng mới này sẽ tiếp tục nổi lên và tạo thêm cơ hội việc làm cho các nhà sáng tạo, kỹ sư, người quản lý dự án và nhóm sản phẩm. Hai là, công nghệ blockchain sẽ trở thành “dòng chảy” quan trọng Công nghệ này ban đầu được phát triển như một cách để đảm bảo các giao dịch tiền điện tử. Bởi vì phương pháp khối chuỗi, về cơ bản, cho phép giao dịch an toàn bất cứ điều gì, chẳng hạn như tiền bạc, bất động sản, ý tưởng và thậm chí bản quyền. Blockchain là sổ cái công khai, nhưng cũng có khóa truy cập được mã hóa. Do tính năng bảo mật tiên tiến của nó, nhiều công ty dịch vụ tài chính đang tìm kiếm các phương pháp để thực hiện công nghệ này trong các tổ chức của họ. Công nghệ blockchain được cho là sẽ phát triển mạnh mẽ và hoàn toàn có thể là cuộc cách mạng cho ngành dịch vụ tài chính. Ba là, nhiều loại công nghệ di động được áp dụng Một nghiên cứu gần đây của Google cho thấy 82% người dùng điện thoại thông minh chuyển sang thiết bị di động của họ để đưa ra quyết định về sản phẩm. Giống như nhiều ngành công nghiệp khác, ngành Tài chính đang được thúc đẩy bởi công nghệ di động và đang trở nên tập trung vào khách hàng hơn. Xu hướng sử dụng điện thoại di động trong ngân hàng dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Bốn là, thế hệ Gen Y định hình lại nơi làm việc Lực lượng lao động hàng năm đang chuyển dịch “văn hóa” làm việc theo hướng “thích nghi để sống sót”. Họ phải thích nghi dần với điều kiện làm việc luôn linh hoạt, thích nghi với công nghệ tiên tiến và năng động hơn. Chất lượng, sáng tạo là rất quan trọng đối với ngành công nghiệp Fintech, vì thế việc thu hút và giữ lại thế hệ nhân viên mới sẽ là chìa khóa để cung cấp các chiến lược dài hạn. Gần đây, người lao động có thể làm việc từ xa mà không cần đến công sở, và tư duy sáng tạo đang trở thành tiêu chuẩn. 54
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" Vìh thế, t ế hệ Gen Y sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn nhằm thích ứng với môi trường công việc vốn ngày một ứng dụng nhiều các công nghệ mới, hiện đại. Năm là, đồng tiền kỹ thuật số và vật chất Không có cơ sở rõ ràng nào để cho rằng đồng tiền vật chất trở nên lỗi thời trong một vài năm tới, cũng như việc sử dụng đồng tiền kỹ thuật số tăng lên, chẳng hạn như Bitcoin. Mặc dù Bitcoin không được hỗ trợ bởi bất kỳ chính phủ nào hoặc được công nhận là tiền lưu thông chính thuộc bất kỳ quốc gia nào, nhưng nó đang được nhiều người, nhiều tổ chức giao dịch. Với ngành công nghiệp Fintech, không gian tài chính truyền thống sẽ nhanh chóng bị thay đổi. Và đồng tiền kỹ thuật số nói chung sẽ tác động nhiều tới công tác điều hành chính sách tiền tệ của các Ngân hàng Trung ương trên thế giới. Sáu là, những thách thức xung quanh vấn đề an ninh, riêng tư và niềm tin Các công ty dịch vụ ngân hàng và tài chính trong lịch sử đã do dự khi thực hiện các công nghệ mới bởi quan ngại về các vi phạm về quyền riêng tư và bảo mật. Điều quan trọng là tìm cách tốt nhất để cân bằng bảo mật và tuân thủ cùng với các công nghệ mới này trước khi thêm chúng vào hệ thống. Trong năm 2017, ngành công nghiệp Fintech đã có sự thay đổi đáng kể đối với việc xác thực cá nhân, chẳng hạn như quét mống mắt và nhận diện khuôn mặt - iPhone X mới phát triển theo xu hướng này. Rõ ràng, điều duy nhất giữ lại những đổi mới và công nghệ mới là an ninh. 2. TáC động Của Fintech Tới ngành tài chính - ngân hàng Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ, Fintech đang làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của nghành công nghiệp tài chính. Dưới đây là một số tác động nổi bật của Fintech tới các hoạt động tài chính - ngân hàng: Cho vay/gọi vốn cộng đồng Một trong những ngành có lợi nhuận cao nhất trong ngành tài chính là lĩnh vực cho vay. Hầu hết các tổ chức tài chính sử dụng các mô hình sẵn có để tạo ra những mô hình mới phù hợp hơn với mô hình kinh doanh và đạt được mục tiêu lợi nhuận. Ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa những cá nhân, tổ chức có tiền tiết kiệm với những cá nhân, tổ chức thiếu nguồn vốn bổ sung với hoạt động chính là chuyển tiết kiệm thành đầu tư để sinh lời đồng thời chấp nhận một phần rủi ro trong giao dịch. Fintech đang thay đổi mô hình kinh doanh này với sự xuất hiện của các khoản cho vay ngang hàng trực tuyến (P2P) loại bỏ hoàn toàn trung gian và kết nối trực tiếp cả hai bên giữa người cho vay và người đi vay nhằm mục đích giảm chi phí trong quá trình vay mượn. Loại hình cho vay 55
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" này đã trở nên phổ biến trong vài năm qua và được rất nhiều tổ chức doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô nhỏ áp dụng. Thanh toán Một vai trò quan trọng khác của các ngân hàng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển tiền giữa các bên. Fintech đang nỗ lực cung cấp các điều khoản tốt hơn khi thực hiện chuyển tiền giữa các cá nhân, tổ chức. Sự phát triển đáng chú ý nhất là trong các khoản thanh toán nội địa và quốc tế. Một số công ty Fintech như Paypal, TransferWise, và Stripe đang từng bước tạo ra sự dễ dàng và nhanh chóng trong quá trình chuyển tiền và thanh toán. Sự đổi mới của các dịch vụ như M-Pesa - giải pháp ngân hàng di động để thanh toán nội địa đã làm thay đổi cách mọi người gửi tiết kiệm và thanh toán. Là một khách hàng, bạn cũng có thể xác định dịch vụ nào tốt nhất, phù hợp nhất bằng cách sử dụng các dịch vụ như WireCompare. Mua sắm trực tuyến Trong khi hình thức kinh doanh bán lẻ chịu ảnh hưởng tiêu cực và phải thu hẹp quy mô, các cửa hàng trực tuyến lại ngày càng được mở rộng và thu hút được số lượng lớn khách hàng. Chính xác mà nói, khách hàng bị hấp dẫn bởi trải nghiệm mua sắm trực tuyến không chỉ vì khả năng nhanh chóng mà còn là sự an toàn mà nó mang lại. Khi mọi người được thông tin nhiều hơn về hình thức lừa đảo trực tuyến, họ sẽ tìm cách có thể mua và bán hàng hóa mà không phải lo sợ bị lừa mất tiền. Hình thức chợ trực tuyến chỉ phát triển khi có càng nhiều lượt người truy cập trực tuyến, do đó, các công ty như Stripe và PayPal đang tìm cách xây dựng môi trường an toàn nhất có thể phục vụ khách hàng trong quá trinh mua bán như dịch vụ Flint và WePay hỗ trợ thanh toán từ khu vực bán lẻ. Tạo điều kiện để thanh toán nhanh chóng Để phát triển, các doanh nghiệp cần thu hồi các hóa đơn nợ đúng hạn, đúng theo quy định. Việc tích lũy nợ xấu chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp phát triển trì trệ do thiếu vốn quay vòng sản xuất. Khi không thể giải quyết ổn thỏa các hóa đơn, chủ doanh nghiệp phải tìm mọi cách khác để thanh toán cho chủ nợ. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ mất khả năng tạo lợi nhuận, có thể phải ngừng hoạt động sản xuất và đóng của bất cứ lúc nào. Với mục tiêu giảm thiểu tối đa các khoản nợ xấu, nhiều công ty như Invoice Ninja đang nỗ lực trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ thu hồi các khoản nợ để tăng doanh thu hằng tháng. Bằng cách lập hóa đơn và yêu cầu người nợ trả đúng hạn, doanh nghiệp không chỉ có vốn để quay vòng sản xuất mà còn tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh và sinh lời. 56
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" 3. Những ứng phó Của hệ thống ngân hàng trướC xu thế pháT triển Của Fintech Ứng phó của các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước đối với sự phát triển của Fintech: i) Coi các công ty Fintech là đối tác trong hoạt động kinh doanh. Các công ty Fintech cung cấp các giải pháp công nghệ ứng dụng trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong thời gian đầu, nhiều ngân hàng lớn đã xem nhẹ sự xuất hiện của các startup về Fintech. Song, hiện nay, các ngân hàng đã chấp nhận thực tế rằng công nghệ sẽ tác động mạnh mẽ, khiến ngành ngân hàng thay đổi một cách căn bản như các ngành khác trong nền kinh tế. Dịch vụ tư vấn tự động cho khách hàng và các công nghệ khác do Fintech cung cấp có thể giúp ngân hàng phục vụ khách hàng tốt hơn, hàng nghìn nhân viên có thể bị thay thế bằng máy móc, công nghệ. Các ngân hàng, công ty môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, truyền thống khác cũng lo ngại rằng họ chậm thay đổi nên đang bị các công ty Fintech sử dụng lợi thế lớn trong cuộc đua giành thị phần. Nhiều người lo ngại rằng, làn sóng công nghệ thay thế những phương thức truyền thống, công việc kinh doanh của nhiều ngân hàng sẽ khó khăn hơn rất nhiều nếu như họ không bắt kịp được với công nghệ. ii) Lựa chọn đầu tư mạo hiểm. Các ngân hàng coi đây là một lĩnh vực đầu tư, sẵn sàng đầu tư vốn vào các công ty Fintech. Trên toàn thế giới, các công ty đầu tư mạo hiểm đã rót hơn 17 tỷ USD vào các công ty khởi nghiệp Fintech trong năm 2016, tăng gấp 6 lần so với 2012. Năm ngoái, Trung Quốc vượt Mỹ trở thành điểm đến nóng nhất cho làn sóng đầu tư vào Fintech. Chỉ ở riêng Singapore cũng có hơn 100 startup hoạt động trong lĩnh vực Fintech. Mới chỉ có 1 phần nhỏ lên sàn chứng khoán, vì thế nhà đầu tư dự đoán sẽ có một làn sóng M&A và lên sàn trong thời gian tới trong bối cảnh các ngân hàng săn lùng những công nghệ mà họ có thể sử dụng, đồng thời các công ty startup sẽ đạt được độ trưởng thành. Các ngân hàng khác như Citigroup hay Banco Santander SA đã thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm mua cổ phần của các công ty Fintech. iii) Các ngân hàng cân nhắc về việc mua bán sáp nhập với các công ty Fintech, nâng cao năng lực cạnh tranh. iv) Các ngân hàng sẵn sàng hợp tác thúc đẩy sự phát triển của các công ty Fintech. Trong thời gian gần đây, các ngân hàng châu Á hiện có xu hướng hợp tác với các công ty Fintech. Tuy nhiên mức độ đầu tư của ngân hàng vào lĩnh vực Fintech còn nhỏ, chỉ 57
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" chiếm khoảng 2% nguồn vốn. Đó là con số chung cho các ngân hàng ở châu Á. Fintech có khả năng gây ảnh hưởng cao đối với các ngân hàng và định chế tài chính cũng như các doanh nghiệp ở Trung Quốc, thấp với Singapore và cao với Việt Nam. Ở Singapore, mô hình Fintech hợp tác với ngân hàng có xu hướng thu hút được vốn đầu tư ngày càng nhiều hơn. Trong lĩnh vực ngân hàng, Fintech dễ tác động nhất tới nhóm khách hàng cá nhân, tiếp theo là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cuối cùng là doanh nghiệp lớn, tập đoàn. Tính sáng tạo của Fintech đặt ra những yêu cầu mới về quản lý. Thực tế ở các nước khu vực châu Á như Hongkong, Thailand, Indonesia, Malaysia, ngân hàng trung ương của các nước này đều có xu hướng có các chính sách, hành động hỗ trợ ngày một nhiều hơn cho sự đổi mới và phát triển Fintech. Singapore, với tư cách một trung tâm tài chính của châu Á, Chính phủ Singapore có những sáng kiến và nỗ lực mạnh mẽ để hỗ trợ cho sự phát triển và đổi mới Fintech. v) Chủ động nghiên cứu và phát triển Fintech trong nội bộ hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đang cố gắng đi trước một bước. Một số ngân hàng sử dụng sức mạnh thương hiệu và công nghệ để tự mình thử nghiệm với Fintech. Các phương thức tiếp cận phổ biến ở thung lũng Silicon thường được áp dụng trong trường hợp này. Tuy nhiên, rất khó để các ngân hàng lớn tích hợp công nghệ mới vào hệ thống máy tính đã lỗi thời của họ. Do đó các ngân hàng lớn đang tỏ ra khá chậm chạp, dù tiền đầu tư không phải là ít. Dù các công ty Fintech cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ tài chính, từ các khoản vay thế chấp trực tuyến, đến tất cả các loại tài khoản nghỉ hưu, quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm, nhưng sự thuận tiện có thể khiến một số khách hàng tham gia những dịch vụ mà họ không thực sự hiểu về các quyền hạn nghĩa vụ của bản thân. Một số người lo ngại Fintech cũng có thể thay thế các ngân hàng truyền thống, khiến các hộ gia đình và có thu nhập thấp không thể tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với việc ứng dụng công nghệ tiên tiến Vừa qua, NHNN đã đưa vào vận hành Hệ thống SG3.1 - hệ thống ngân hàng lõi, kế toán, lập ngân sách và tích hợp sau hơn 30 tháng triển khai. Toàn bộ các hoạt động, nghiệp vụ kế toán, tài chính trên toàn quốc của NHNN đang thực hiện phân tán và trên nhiều hệ thống ứng dụng khác nhau trước đây đã được thay thế bằng một Hệ thống SG3.1 duy nhất. Trong đó các nghiệp vụ đã được chuẩn hóa và cung cấp dịch vụ theo nhiều kênh khác nhau cho 17 Vụ, Cục, cơ quan, đơn vị sự nghiệp của NHTW; 63 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố và hơn 100 Tổ chức tín dụng (TCTD) trên toàn quốc. Bên 58
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" c ạnh các thay đổi về quy trình nghiệp vụ thì hệ thống SG3.1 cũng được coi là bước tiến dài về mặt ứng dụng công nghệ của NHNN. Có thể khẳng định, Hệ thống SG3.1 được triển khai thành công, là một bước chuyển lớn của NHNN. Hệ thống SG 3.1 có phạm vi triển khai phức tạp, không chỉ có cấu phần Ngân hàng lõi (Core banking) mà còn bao gồm cả các cấu phần: Lập kế hoạch quản lý nguồn lực (ERP), quản lý ngân sách và xây dựng nền tảng tích hợp với các hệ thống ứng dụng khác của NHNN. Với phạm vi triển khai này, NHNN là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam triển khai đồng thời hai cấu phần Core banking và ERP, điều mà các NHTM Việt Nam đang cố gắng tránh do tính phức tạp của nghiệp vụ và khối lượng công việc phải triển khai rất lớn. Hệ thống Core banking của NHNN ngoài các chức năng tương tự như hệ thống tại TCTD, còn có thêm các chức năng đặc biệt để giúp NHNN thực thi các nhiệm vụ với vai trò của NHTW, như: Nghiệp vụ thị trường mở, đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước, tín phiếu NHNN, trái phiếu VAMC, đấu thầu vàng; nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ quản lý dự trữ bắt buộc, quản lý hệ thống tài khoản tập trung của các TCTD, quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia, quyết toán giao dịch giấy tờ có giá, quyết toán kết quả thanh toán từ các hệ thống thanh toán liên ngân hàng, bù trừ, chuyển mạch Ngoài ra, hệ thống SG3.1 sẽ phải tích hợp, trao đổi dữ liệu với nhiều hệ thống thông tin khác nhau về nền tảng kỹ thuật, công nghệ đã có của NHNN, hoặc đang được triển khai trong phạm vi Dự án FSMIMS, như: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS), Hệ thống quản lý và phát hành kho quỹ (CMO), Hệ thống báo cáo thống kê (SG4), Hệ thống quản lý nguồn nhân lực (SG3.2) Với 4 cấu phần chính, giờ đây, NHNN đã có được một hệ thống giúp thay đổi căn bản những hạn chế còn tồn đọng, đổi mới về mô hình tổ chức nghiệp vụ, phân công lao động, phương thức quản lý điều hành, tác nghiệp hàng ngày và công nghệ của NHNN. Dự án không chỉ tạo nên những bước tiến lớn cho NHNN về mặt công nghệ mà còn giúp NHNN rút gọn, hiện đại hoá các quy trình nghiệp vụ từ xử lý, hạch toán thủ công, phân tán sang tự động hoá, xử lý và kiểm soát tập trung. Với sự vận hành chính thức của hệ thống, đã hoàn thành một hệ thống công nghệ thông tin quan trọng góp phần đưa NHNN tiến tới các chuẩn mực NHTW trên thế giới. NHNN với việc tạo sự liên kết phát triển giữa ngân hàng thương mại và công ty Fintech Có thể nói, lĩnh vực Fintech tại Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của Fintech đối với khu vực ngân hàng - tài chính và tiềm năng phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam, cùng với chủ trương 59
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp theo Quyết định 844/QĐ-TTg ngày 18/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 16/3/2017, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 328/ QĐ-NHNN thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech tại NHNN. Trên cơ sở phân tích các lĩnh vực, nghiệp vụ liên quan đến Fintech, qua khảo sát đánh giá thực trạng, cũng như thông qua đối thoại, trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp Fintech trong nước, Ban Chỉ đạo Fintech tại NHNN xác định nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt là xây dựng khung pháp lý cho lĩnh vực Fintech, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực chính như: sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp lý cho hoạt động của các công ty cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về các khía cạnh trong lĩnh vực Fintech như công nghệ chuỗi khối (Blockchain); nền tảng huy động vốn và cho vay ngang hàng (P2P lending); kết nối, chia sẻ dữ liệu mở qua ứng dụng (Open API); nhận diện, định danh khách hàng điện tử (e-KYC/e-ID) Những khó khăn, vướng mắc về mặt pháp lý đối với từng vấn đề cũng như nhận biết những rủi ro tiềm ẩn có thể phát sinh trong từng lĩnh vực, từ đó đưa ra những định hướng phát triển hợp lý và dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Bên cạnh đó, NHNN xác định mục tiêu ưu tiên triển khai thời gian tới là tập trung xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng; đồng thời bổ sung, sửa đổi quy định của ngành Ngân hàng nhằm tương thích với môi trường số và sự phát triển ngày một mạnh mẽ của các DN Fintech. Trong khi đó, với những giải pháp, nghiệp vụ mới của các công ty Fintech mà khung khổ pháp lý hiện hành chưa quy định, điều chỉnh, NHNN báo cáo, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép nghiên cứu, áp dụng phương thức quản lý theo khung khổ pháp lý thử nghiệm phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế, tiến tới việc ban hành khung khổ pháp lý và quản lý chính thức. 4. mộT số khuyến nghị Cũng như trên thế giới, lĩnh vực Fintech ở Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn xét về quy mô dân số và lợi thế so sánh về nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Nhằm tận dụng tối đa những lợi ích mà lĩnh vực Fintech có thể đem lại cho thị trường tài chính - ngân hàng Việt Nam nói riêng và cho tăng trưởng kinh tế nói chung, tạo ra sự phát triển hài hòa giữa lĩnh vực ngân hàng - Fintech, đồng thời khuyến khích, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, bài viết có một số khuyến nghị sau: Một là, do con người luôn là nhân tố quan trọng hàng đầu, đóng vai trò quyết định đến việc xây dựng hệ sinh thái Fintech của mọi quốc gia trước trào lưu phát triển của 60
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" công nghệ, vì vậy, việc ươm mầm phát triển, thu hút, đào tạo và hỗ trợ các chuyên gia công nghệ/nhân tài am hiểu về công nghệ số và kiến thức về lĩnh vực tài chính - ngân hàng cần được các cơ quan quản lý ở Việt Nam hướng đến trên cơ sở nghiên cứu mô hình quản lý và kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển trong khu vực như Singapore, Hong Kong, Indonesia, Úc Hai là, Nhà nước cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hướng đến xây dựng một “sân chơi bình đẳng” trong tương lai cho các công ty Fintech và ngân hàng thương mại, qua đó khuyến khích sự “hợp tác - cạnh tranh” cùng có lợi giữa 2 chủ thể này. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hạ tầng thị trường tài chính, tăng cường kết nối liên thông giữa các hạ tầng thị trường. Cần nghiên cứu các mô hình phù hợp với đặc thù Việt Nam để có lộ trình ban hành văn bản điều chỉnh cũng như xây dựng lộ trình cho Fintech trong thời gian tới. Ba là, các NHTM cũng như các công ty Fintech Việt, cần có chiến lược, bước đi, giải pháp như thế nào để theo kịp sự bùng nổ của thị trường dịch vụ tài chính số để không tụt hậu, không thua trên sân nhà. Bốn là, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành có liên quan (Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước ) trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý/quản lý đồng bộ và nhất quán, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của Fintech nhằm thúc đẩy sự phát triển năng động, bền vững và ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam cũng như bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, quyền lợi của khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính - ngân hàng. Tài liệu THAM Khảo 1. Lee P (2015a) The Fintech entrepreneurs aiming to reinvent finance. Euromoney (UK) 46(552):42-48 2. Dapp, T. F., Slomka, L., AG, D. B., and Hoffmann, R. 2014. “Fintech-The digital (r) evolution in the financial sector,” Deutsche Bank Research (available at dbresearch.com/PROD/DBR_Internet_EN-PROD/PROD0000000000345837.pdf). 3. Thomas Lerner, “Mobile Payment” (2013) Springer, page 3. 4. Accenture. (2016a). Global Fintech investment growth continues in 2016 driven by Europe and Asia, Accenture study finds. Available at com/news/global-Fintech-investment-growth-continues-in-2016-driven-by- europe-and-asia-accenture-study-finds.htm 61
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA "CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG" 5. Holland Fintech. (2015, March 20). The future of finance: The socialization of finance. Available at com/the-future-of-finance-the-socialization-of- finance/ 6. Sanicola, L. (2016, May 26). Will Fintech help or hurt traditional advisors? CNBC. Available at 05/25/will-Fintech-help-or-hurt- traditional-advisors.html 7. Tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho hoạt động của Fintech webcenter/portal/vi/menu/trangchu/hdk/cntt/clptcntt/clptcntt 8. Nguyễn Thị Thanh Nhàn: “Các mô hình kinh doanh Fintech trên thế giới và gợi ý cho Việt Nam”. Tạp chí Ngân hàng số 9, tháng 5/2018. 9. TS. Đặng Công Thức: “Bàn về xu hướng Fintech trong lĩnh vực ngân hàng và những chuyển động ban đầu ở Việt Nam”. Tạp chí Ngân hàng số 19, tháng 10/2017. 10. Một số tài liệu tham khảo khác. Ngày gửi bài: 19/5/2018 Ngày gửi lại bài: 30/5/2018 Ngày duyệt đăng: 02/06/2018 62