Giáo trình Tài chính tiền tệ (Phần 2) - Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính tiền tệ (Phần 2) - Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tai_chinh_tien_te_phan_2_dai_hoc_kinh_doanh_va_co.pdf
Nội dung text: Giáo trình Tài chính tiền tệ (Phần 2) - Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội
- CHƯƠNG VI TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1. Khái niệm Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh nhằm mục đích sinh lời được pháp luật thừa nhận, được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định, có từ một chủ sở hữu trở lên và chủ sở hữu phải đảm bảo trước pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình, có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định. Trong nền kinh tế thị trường các loại hình doanh nghiệp phát triển một cách đa dạng, phong phú. Có nhiều cách tiếp cận về doanh nghiệp. Nếu xét trên một góc độ cung cầu vốn trong nền kinh tế thì doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp tài chính kinh doanh tiền tệ và doanh nghiệp phi tài chính kinh doanh hàng hoá dịch vụ thông thường. Nếu dựa vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất thì doanh nghiệp được chia thành doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần. Nếu dựa vào hình thức pháp lý tổ chức của doanh nghệp thì doanh nghiệp được phân chia thành doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân. Dù là cách phân chia nào thì đối với một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều phải sử dụng tài chính doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Trong chương này chỉ đề cập đến doanh nghiệp phi tài chính. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có những yếu tố cần thiết là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Muốn vậy doanh nghiệp phải hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, phát sinh và hình thành các luồng tiền tệ gắn liền với các hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Các luồng tiền tệ bao hàm các 117
- luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp. Bên trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế, các quan hệ này được gọi là các quan hệ tài chính và bao gồm các quan hệ như: - Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác thể hiện trong việc góp vốn, vay vốn, cho vay vốn , trong việc thanh toán cho việc mua hoặc bán tài sản, vật tư, hàng hoá, dịch vụ - Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp: trả lương, thưởng, phạt vật chất. - Quan hệ giữa các bộ phận trong doanh nghiệp như thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, hình thành và sử dụng quỹ của doanh nghiệp. - Quan hệ tài chính nảy sinh trong các hoạt động xã hội của doanh nghiệp như tài trợ cho các tổ chức xã hội, các quỹ từ thiện, thể dục, thể thao, văn hoá - Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp nước ngoài như liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ Từ các dạng quan hệ tài chính trên có thể kết luận tài chính doanh nghiệp xét về nội dung vật chất là quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp được tạo lập, sử dụng cho mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, xét về thực chất là những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Từ đó, có thể khái quát tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp. 2. Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính và là khâu cơ sở, nên có những đặc điểm sau đây: 118
- Thứ nhất, gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có các quan hệ tài chính doanh nghiệp đa dạng phát sinh như quan hệ nộp, cấp giữa doanh nghiệp với nhà nước, quan hệ thanh toán với các chủ thể khác trong xã hội, với người lao động trong doanh nghiệp. Thứ hai, sự vận động của quỹ tiền tệ, vốn kinh doanh có những nét riêng biệt đó là: sự vận động của vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố vật tư là lao động: ngoài phần tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung từ kết quả kinh doanh; sự vận động của vốn kinh doanh vì mục tiêu doanh lợi. Cũng giống như các khâu tài chính khác, tài chính doanh nghiệp có chức năng khách quan đó là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Nhờ có chức năng phân phối mà doanh nghiệp có khả năng động viên khai thác và thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đã hình thành vốn kinh doanh, để sử dụng vốn, một lần nữa phải có sự tham gia của chức năng phân phối. Lúc này phân phối vốn lại đồng nghĩa với việc đầu tư vốn: đầu tư bên trong hay đầu tư bên ngoài. Lợi nhuận thu được là yếu tố quan trọng nhất, quyết định phương hướng và cách thức đầu tư của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp là thu lợi nhuận, vì thế bên cạnh khả năng phân phối để thoả mãn về vốn kinh doanh, tài chính doanh nghiệp còn có khả năng giám sát dự báo hiệu quả của quá trình phân phối. Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp có khả năng phát hiện những khuyết tật trong khâu phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình phân phối nhằm thực hiện phương hướng mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song chức năng khách quan đó của tài chính doanh nghiệp phát huy đến mức nào thì phụ thuộc vào sự nhận thức một cách tự giác và hoạt động chủ quan của người quản lý. Đó chính là vai trò của tài chính doanh nghiệp. 3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có những vai trò chủ yếu sau đây: - Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 119
- Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trước hết phải có một yếu tố tiền đề đó là vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết được thể hiện ở việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất. - Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư tối ưu; huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, phân bổ hợp lý các nguồn vốn, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. - Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu, hàng hoá bán, dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thưởng, quỹ tiền lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế - Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó có thể đánh giá khái quát và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định. Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết là phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp. 120
- II. TỔ CHỨC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Để sử dụng tốt công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong sản xuất kinh doanh cần phải tổ chức tài chính. Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Song việc tổ chức tài chính doanh nghiệp lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố (như sự khác nhau về hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành, môi trường kinh doanh ) và các nguyên tắc cần quán triệt. 1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức TCDN 1.1. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, ở nước ta hiện nay có các loại hình doanh nghiệp sau đây: - Doanh nghiệp nhà nước. - Công ty cổ phần. - Công ty trách nhiệm hữu hạn. - Công ty hợp danh. - Doanh nghiệp tư nhân. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau chi phối đến việc tổ chức, huy động vốn cũng như việc phân chia lợi nhuận cũng khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà nước được Ngân sách nhà nước đầu tư vốn toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu. Ngoài vốn nhà nước đầu tư, doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới các hình thức phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận góp liên doanh nhưng không thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế được thực hiện theo quy định của chính phủ. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn là do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra, cũng có thể huy động thêm từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Loại doanh nghiệp này không được phép phát hành một loại chứng khoán nào trên thị trường để tăng vốn. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn 121
- thì vốn điều lệ của công ty là do các thành viên đóng góp. Trong quá trình hoạt động vốn có thể tăng nên nhờ kết nạp thêm thành viên mới, trích từ quỹ dự trữ hoặc đi vay bên ngoài nhưng không được phép phát hành chứng khoán. Việc phân chia lợi nhuận sau thuế do các thành viên quyết định, mức lợi nhuận các thành viên nhận được phụ thuộc vào vốn đóng góp 1.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh Tổ chức tài chính doanh nghiệp còn dựa vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh. Mỗi ngành kinh doanh có đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật riêng. Những đặc điểm đó đã ảnh hưởng đến cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp (ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến vốn cố định chiếm tỷ trọng khác nhau trong tổng số vốn kinh doanh); ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn (tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp sản xuất chậm hơn tốc độ luân chuyển vốn của các doanh nghiệp thương mại dịch vụ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có tính chất thời vụ khác với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh liên tục ). 1.3. Môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, việc tổ chức tài chính doanh nghiệp phải tính đến tác động của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm: sự ổn định về kinh tế, thị trường, lãi suất, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chính sách kinh tế, tài chính của nhà nước Sự ổn định của nền kinh tế sẽ tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế biến động có thể gây nên những rủi ro cho kinh doanh, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí đầu tư, ảnh hưởng nhu cầu về vốn, ảnh hưởng tới thu nhập của doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển cũng ảnh hưởng đến tiết kiệm chi phí trong kinh doanh Thị trường, gia cả, lãi suất đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường tài chính, thị trường hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài cũng như mua vật tư, thiết bị bán hàng hoá của doanh nghiệp được dễ dàng. 122
- Giá cả, lãi suất đều ảnh hưởng tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy động vốn vay. Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ đảm bảo cho sản phẩm của doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đứng vững trong cạnh tranh. Từ đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn đầu tư lớn và chọn hướng đầu tư thích hợp Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước đối với doanh nghiệp (như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách tín dụng và lãi suất, chính sách ngoại hối, chế độ khấu hao ) phù hợp với môi trường tài chính vĩ mô sẽ ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp tích tụ vốn, sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. 2. Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp Tổ chức tài chính của doanh nghiệp không những chỉ dựa vào các nhân tố trên mà còn phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc sau đây: Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng luật pháp Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều hướng tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh với bất cứ giá nào có thể phương hại tới lợi ích quốc gia, đến lợi ích của các doanh nghiệp khác. Do đó, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường phải có bàn tay hữu hình của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các công cụ như luật pháp, chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các công cụ đó một mặt tạo điều kiện kích thích mở rộng đầu tư, tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh doanh rất chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải tôn trọng luật pháp. Doanh nghiệp phải hiểu luật để đầu tư đúng hướng – nơi được nhà nước khuyến khích (như giảm thuế, tài trợ tín dụng ) Thứ hai: Nguyên tắc hạch toán kinh doanh Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu tối cao của nguyên tắc này là lấy thu bù chi, có doanh lợi. Nó hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của các 123
- doanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa. Do có sự thống nhất đó nên hạch toán kinh doanh không chỉ là điều kiện để thực hiện mà còn là yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nếu như không muốn doanh nghiệp bị phá sản. Thế nhưng hạch toán kinh doanh chỉ có thể được phát huy tác dụng trong môi trường đích thực là nền kinh tế hàng hoá mà đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường và doanh nghiệp được tự chủ về mặt tài chính, tự chủ trong kinh doanh. Doanh nhiệp được quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư kinh doanh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác; lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, chủ động tìm kiếm thị trường khách hàng và ký kết hợp đồng; tuyển thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; chủ động áp dụng phương thức quản lý khoa học hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Mục tiêu hiệu quả kinh tế phải được coi là mục tiêu bao trùm chi phối hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Thứ ba: Nguyên tắc giữ chữ tín Giữ chữ tín không chỉ là một tiêu chuẩn đạo đức trong cuộc sống đời thường mà còn là nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung và trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Trong thực tế kinh doanh cho thấy, kẻ làm mất chữ tín, chỉ ham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là nguy cơ dẫn đến phá sản. Do đó trong tổ chức tài chính doanh nghiệp để giữ chữ tín cần tôn trọng nghiêm ngặt các kỉ luật thanh toán, chi trả các hợp đồng kinh tế, các cam kết về góp vốn đầu tư, và phân chia lợi nhuận. Mặt khác để giữ chữ tín doanh nghiệp cũng cần mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm để luôn giữ được giá trị của nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp. Thứ tư: Nguyên tắc an toàn phòng ngừa rủi ro Đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc cũng được coi là nguyên tắc quan trọng trong kinh doanh nói chung và tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp: an toàn trong việc lựa chọn nguồn vốn, an toàn trong việc lựa chọn đối tác đầu tư liên doanh, an toàn trong việc sử dụng vốn An toàn và mạo hiểm trong kinh doanh là hai thái cực đối lập nhau. Mạo hiểm trong đầu tư thường phải chấp nhận nhiều rủi ro lớn, nhưng cũng thường thu được lợi nhuận cao và 124
- ngược lại. Điều này đòi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết sách đúng đắn trong các thời cơ thích hợp để lựa chọn phương án đầu tư vừa đảm bảo an toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phương án an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc tham gia bảo hiểm. Mặt khác, việc thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu cũng là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các cổ đông nhằm tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trên đây là những nguyên tắc rất cơ bản cần được quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp. Để sử dụng tốt công cụ tài chính doanh nghiệp, cần thiết phải tìm hiểu những nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp. III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của tài chính doanh nghiệp có vị trí quan trọng đặc biệt, chi phối tất cả các khâu của quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà có những nội dung hoạt động tài chính khác nhau, trọng tâm và mức độ quản lý trong từng khâu cũng khác nhau. Ở phần này chỉ giới thiệu nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp phi tài chính (doanh nghiệp sản xuất kinh doanh). Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: 1. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp Trong nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh bao gồm nhiều khâu như xác định nhu cầu vốn kinh doanh, khai thác tạo lập vốn kinh doanh, đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh Vậy vốn kinh doanh là gì, nó có những đặc trưng gì trong quá trình vận động của nó. Nhận thức được vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong việc định ra những luận cứ cho các phương pháp quản lý vốn. 125
- 1.1.Vốn kinh doanh và những đặc trưng của nó Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp dùng vốn đó để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy, số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà nó còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tư tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh tức là mục đích tích luỹ. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, nó vừa tồn tại dưới hình thái tiền vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền. Ở đây cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thỏa mãn những điều kiện sau đây: Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định (tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực). Thứ hai, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh. Thứ ba, khi đã đủ về số lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau: 126
- SLĐ T – H SX H’ - T TLSX Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại T – H – T Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu trái phiếu, góp vốn liên doanh T – T Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể vận dụng đồng thời cả ba phương thức đầu tư vốn tiền tệ theo các mô hình trên miễn sao đạt được mục tiêu có mức doanh lợi cao và nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Mục đích vận động của tiền vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, giá trị thực của một doanh nghiệp không phải chỉ là phép cộng giản đơn các loại vốn cố định và vốn lưu động hiện có, mà còn tính đến giá trị của những tài sản khác có khả năng sinh lời của doanh nghiệp như vị trí địa lý của doanh nghiệp, bí quyết về công nghệ chế tạo sản phẩm, mức độ uy tín của nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường, uy tín của người lãnh đạo doanh nghiệp, trình độ tay nghề công nhân Những tài sản trên được gọi là tài sản vô hình. Những tài sản này có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì thế, khi góp vốn liên doanh, các hội viên có thể góp bằng tiền, vật tư, máy móc thiết bị, nhà xưởng, đất kinh doanh và cả bí quyết kỹ thuật hoặc khả năng uy tín kinh doanh . Tất nhiên, khi góp vốn, những tài sản đó đều phải được lượng hoá để quy về giá trị, đó chính là giá trị thực của doanh nghiệp. Những nhận thức trên đây về vốn kinh doanh không chỉ giúp cho việc xác định giá trị thực của một doanh nghiệp, mà còn giúp cho công tác quản lý vốn có tầm nhìn rộng để khai thác, sử dụng những tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp phục vụ cho đầu tư kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 1.2 Đầu tư vốn kinh doanh Căn cứ vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, vốn đầu tư được đồng nghĩa với vốn kinh doanh. Đó là số vốn được dùng vào kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích sinh lời. Đầu tư vốn là hoạt động chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào một mục tiêu kinh doanh nào đó với hy vọng sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao trong tương lai. Việc bỏ vốn vào mục đích 127
- kinh doanh nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận thì được gọi là đầu tư vốn. Trong thực tế, giữa khả năng thu lợi nhuận cao với khả năng an toàn về vốn thường mâu thuẩn với nhau: mức lợi nhuận càng cao thì độ rủi ro càng lớn. Do đó, người đầu tư cần phải lựa chọn hướng đầu tư và phương án đầu tư thích hợp. Theo phạm vi đầu tư, đầu tư của doanh nghiệp chia ra đầu tư vào bên trong và đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Đầu tư vào bên trong doanh nghiệp được chia làm hai loại, đó là đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư vốn lưu động. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là vốn đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định của doanh nghiệp (TSCĐ). Theo tính chất công việc, đầu tư xây dựng cơ bản chia làm ba loại: đầu tư cho xây và lắp, đầu tư mua máy móc thiết bị và đầu tư xây dựng cơ bản khác. Theo hình thái vật chất của kết quả đầu tư, đầu tư XDCB chia làm hai loại: đầu tư TSCĐ hữu hình và đầu tư TSCĐ vô hình (mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền, quy trình công nghệ sản xuất mới, nhãn hiệu thương mại .). Đầu tư vốn lưu động (VLĐ): doanh nghiệp cần dự trữ thường xuyên về nguyên vật liệu, bán thành phẩm, công cụ sản xuất nhỏ tương ứng với quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện. Ngoài ra phải có một số vốn lưu động bằng tiền mặt. Đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp là góp vốn liên doanh với doanh nghiệp khác, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nhgiệp khác hoặc của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, để phát triển và bảo toàn vốn phòng ngừa rủi ro, doanh nghiệp thường dành một tỷ lệ vốn đầu tư nhất định đầu tư tài chính ra bên ngoài. Việc phân loại vốn đầu tư theo cơ cấu vốn giúp doanh nghiệp xem xét tính hợp lý các khoản đầu tư trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của môi trường cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao. Trong mục tiêu đầu tư cụ thể của doanh nghiệp, đầu tư của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: - Đầu tư cho việc tăng năng lục sản xuất của doanh nghiệp. - Đầu tư cho đổi mới sản phẩm. - Đầu tư thay đổi thiết bị công nghệ. - Đầu tư để mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh. - Đầu tư tài chính ra bên ngoài. 128
- Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được tình hình thực hiện đầu tư dài hạn theo những mục tiêu nhất định, qua đó có thể tập trung vốn cho những mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất hoặc những mục tiêu nằm trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư dài hạn của doanh nghiệp là một nhân tố quyết định sự phát triển của doanh nghiệp, do đó việc lựa chọn hướng đầu tư có tầm quan trọng quyết định. Về mặt kinh tế kỹ thuật và công nghệ, quyết định đầu tư dài hạn có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt một thời gian dài, ảnh hưởng có tính chất quyết định đến quy mô, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đến tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận đạt được trong tương lai. Về mặt tài chính, quyết định đầu tư dài hạn là một quyết định tài chính dài hạn và thường là phải vay hoặc huy động từ bên ngoài. Đầu tư sai sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp, lãng phí vốn, gây nên tình trạng nợ nần, hoạt động kém hiệu quả và có thể dẫn đến phá sản. Để có quyết định dầu tư dài hạn đúng đắn, doanh nghiệp phải quyết định hợp lý các quan hệ cấu thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp như: - Quan hệ hợp lý giữa vốn cố định và vốn lưu động. - Quan hệ gữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình. - Quan hệ giữa đầu tư bên trong và đầu tư bên ngoài. - Quan hệ giữa đầu tư ban đầu và đầu tư mở rộng, đầu tư đổi mới. - Quan hệ đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài. 1.3. Nguồn vốn kinh doanh Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có vốn: vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể có các nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp, nguồn vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, nguồn vốn tích lũy được trong quá trình kinh doanh, nguồn vốn do liên doanh, nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu và nguồn vốn huy động khác. 129
- Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước: là nguồn vốn do Ngân sách nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp. Nguồn vốn Ngân sách nhà nước cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng. Các doanh nghiệp nhà nước phải chủ dộng bổ sung vốn bằng các nguồn tài trợ khác. Nguồn vốn tự có là nguồn vốn do chủ đầu tư bỏ ra. Nguồn vốn gốc của vốn tự có là tiền để dành, tích lũy được từ lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp hoặc huy động vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của số vốn đã góp vào công ty cổ phần và nhờ đó được hưởng những quyền lợi của doanh nghiệp. Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có một số vốn lớn, ổn định cho đầu tư kinh doanh. Theo luật kinh doanh, để được kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định, vốn tự có của doanh nghiệp đạt đến một quy mô nhất định. Nhà nước quy định bắt buộc khi doanh nghiệp ra đời phài có vốn pháp định ở mức mà luật pháp quy định cho từng ngành nghề, đồng thời phải có vốn điều lệ để hoạt động với yêu cầu vốn điều lệ không nhỏ hơn vốn pháp định. Nguồn vốn liên doanh: là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ giữa các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn tùy theo từng loại hình doanh nghiệp, có thể là liên doanh giữa nguồn vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của tư nhân, liên doanh giữa vốn ngân sách của quốc gia này với quốc gia khác hoặc liên doanh giữa tư nhân với nhau Hình thức góp vốn liên doanh thích hợp với các công ty có quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất và quản lý vốn, chia lãi giản đơn. Nguồn vốn tín dụng: là khoản vốn mà doanh nghiệp có thể vay dài hạn của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác, huy động của cán bộ công nhân viên làm việc trong doanh nghiệp hoặc vay nước ngoài theo cơ chế tự vay tự trả, cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư kinh doanh. Trái phiếu là phiếu nhận nợ do doanh nghiệp phát hành khi vay vốn của người khác để kinh doanh, cam kết trả lợi tức và hoàn trả vốn vay theo thời hạn nhất định. Theo định kỳ, doanh nghiệp phải trả cho người có trái phiếu một khoản lợi tức cố định và 130
- đến thời hạn thanh toán doanh nghiệp phải thanh toán số tiền vay. Đối với doanh nghiệp, trái phiếu là phương tiện tài chính để vay vốn trên thị trường. Tuy nhiên vay được hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố của doanh nghiệp. Các chủ nợ cho doanh nghiệp vay thường quan tâm đến các vấn đề như: tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp có lành mạnh không, mà trước tiên là khả năng thanh toán, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, cho vay có bị mất vốn hay không. Ở đây có tác động của yếu tố lạm phát làm giảm sức mua của vốn cho vay, có cả rủi ro của doanh nghiệp, lãi suất thực tế có được bao nhiêu Còn đối với doanh nghiệp khi vay cần phải cân nhắc xem xét kỹ: - Nếu hiệu quả thực tế của khoản vay không đủ để trả giá cả khoản vay thì không nên vay. - Nếu hiệu quả thực tế của khoản vay tương đương với giá cả khoản vay thì cân nhắc kỹ, nhất là phải tính tới các rủi ro có thể xảy ra. - Nếu hiệu quả thực tế các khoản vay cao hơn giá cả các khoản vay thì nên vay, vì vay tốt hơn là phát hành cổ phiếu (bán bớt quyền sở hữu tài sản) Nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn nguồn vốn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu và khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp. Mỗi một loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Chẳng hạn, đối với doanh nghiệp nhà nước được phép huy động nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước, còn các loại hình doanh nghiệp khác thì không có khả năng. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, ngoài nguồn vốn tự có của mình, thì có thể vay của các tổ chức tài chính trung gian để bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, nhưng không được phát hành chứng khoán. Trong khi đó, đối với các công ty cổ phần, để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh thì thông qua việc phát hành chứng khoán lại là chủ yếu. Việc nghiên cứu các nguồn vốn không chỉ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn và khai thác các nguồn vốn đó phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn tạo cho doanh nghiệp có biện pháp huy động vốn nhanh, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu của doanh nghiệp với chi phí (giá cả) thấp nhất, đồng thời có phương hướng sử dụng hợp lý số vốn đã huy động được từ các nguồn vốn khác nhau cho các nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi cần huy động vốn bổ sung cho quá trình kinh doanh của mình thì 131
- doanh nghiệp có thể xem xét, lựa chọn hình thức nào có lợi nhất để phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, đi vay vốn của các tổ chức tài chính trung gian hay gọi vốn liên doanh. Dù huy động dưới hình thức nào cũng phải trả một khoản chi phí và đảm bảo những điều kiện nhất định, đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả, cân nhất lãi suất, thời hạn và điều kiện. Đối với doanh nghiệp cũng cần phải hiểu rằng khi có nhu cầu đầu tư vốn dài hạn, trước hết doanh nghiệp phải huy động tối đa nguồn vốn từ bên trong để thực hiện kế hoạch đầu tư của mình. Chỉ khi nguồn vốn từ bên trong không đủ đáp ứng thì doanh nghiệp mới bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài. Việc huy động nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Nguồn tài trợ từ bên ngoài là cần thiết nhưng không nên mong đợi quá mức vào nguồn vốn đó. 1.4. Sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh Căn cứ vào công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính. Các loại vốn này có đặc điểm chu chuyển khác nhau. Chính sự khác nhau về đặc điểm chu chuyển đó đã chi phối đến phương thức quản lý, phương thức bù đắp và bảo toàn vốn cũng khác nhau. 1.4.1. Vốn cố định Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động. TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành hai loại: - Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như chi phí để mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả TSCĐ có những đặc điểm là: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ không thay đổi hình thái hiện vật, nhưng năng lực sản xuất và kèm theo đó là giá trị của chúng bị giảm dần. Đó là do 132
- chúng bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn có liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của TSCĐ. Hao mòn vô hình lại có liên quan tới việc mất giá của TSCĐ. Việc mất giá của TSCĐ có nhiều nguyên nhân: - TSCĐ cũ có thể bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra với giá như cũ nhưng có năng lực sản xuất cao hơn hoặc TSCĐ cũ bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra có công suất bằng tài sản cũ nhưng giá trị lại rẻ hơn. - TSCĐ cũ bị mất giá do sản phẩm của chúng sản xuất ra không còn phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Đối với TSCĐ hữu hình thì thường bị cả hai loại hao mòn hữu hình và vô hình, còn TSCĐ vô hình thì chỉ bị hao mòn vô hình. Bộ phận giá trị đại diện cho phần hao mòn được gọi là tiền khấu hao. Tiền khấu hao là một yếu tố của chi phí sản xuất, một bộ phận của giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, tiền khấu hao được trích lại hình thành nên quỹ khấu hao. Từ đặc điểm vận động của TSCĐ đã quyết định đến đặc điểm vận động của vốn cố định.: Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm và chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định. Vốn cố định được thu hồi dần từng phần tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định, đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được thu hồi về đủ thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đã chi phối đến phương thức bù đắp và phương thức quản lý vốn cố định. Vốn cố định được bù đắp (thu hồi) bằng biện pháp khấu hao, tức là trích lại phần giá trị hao mòn của tài sản cố định. Tiền trích lại đó hình thành nên quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để duy trì năng lực sản xuất bình thường của TSCĐ và dùng để tái sản xuất toàn bộ tài sản cố định. Việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Nói cách khác, quản lý vốn cố định là quản lý quỹ khấu hao. Để quản lý tốt quỹ khấu hao cần phải đánh giá và đánh giá lại tài 133
- sản cố định một cách thường xuyên và chính xác, tạo cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn. Mặt khác, cần phải lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp để đảm bảo thu hồi vốn nhanh và bảo toàn được vốn. Quản lý mặt hiện vật của vốn cố định là quản lý TSCĐ. Để quản lý tốt tài sản cố định cần phải phân loại TSCĐ theo những tiêu thức khác nhau (phân loại theo hình thái biểu hiện, theo mục đích sử dụng, theo công dụng kinh tế, theo tình hình sử dụng) để từ đó xác định trọng tâm của công tác quản lý. Do đặc điểm tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị lại chuyển dần vào giá trị sản phẩm nên nội dung bảo toàn vốn cố định bao gồm hai mặt giá trị và hiện vật. Trong đó bảo toàn về hiện vật là tiền đề để bảo toàn vốn cố định về giá trị. Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Điều đó đòi hỏi trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ không làm mất tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ, không để TSCĐ hư hỏng trước thời hạn quy định. Bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị là phải duy trì được sức mua của vốn cố định ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể sự biến động của giá cả, tỷ giá hối đoái, tiến bộ khoa học kỹ thuật. Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần đánh giá đúng đắn các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn để có biện pháp xử lý đúng (như phải đánh giá đúng giá trị của TSCĐ để trích đủ, trích đúng chi phí khấu hao, không để mất vốn; lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp không để mất vốn, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình; chú trọng đổi mới trang thiết bị; thực hiện chế độ bảo dưỡng sửa chữa; thực hiện các biện pháp đề phòng rủi ro trong kinh doanh ) Một trong các biện pháp chủ yếu bảo toàn phát triển vốn cố định là sử dụng có hiệu quả vốn cố định. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể sử dụng một số chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau đây: 134
- Doanh thu (doanh thu thuần) trong kỳ Ch ỉ tiêu hi ệ u su ấ t = v ố n c ố đị nh Số vốn cố định bình quân trong kỳ Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Lợi nhuận trước thuế Chỉ tiêu tỷ suất lợi = nhuận vốn cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hoặc chỉ tiêu hệ số hao mòn TSCĐ. Số tiền khấu hao luỹ kế Hệ số hao mòn tài = sản cố định NG TSCĐ ở thờ i điểm đánh giá Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. NG TSCĐ bình quân trong kỳ Hệ số trang bị tài = sản cố định Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất 135
- Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có ý nghĩa to lớn về kinh tế tài chính: giúp cho doanh nghiệp tăng được khối lượng sản phẩm sản xuất ra, tiết kiệm chi phí đầu tư, giảm hoặc tránh được hao mòn vô hình, hạ giá thành đơn vị sản xuất, từ đó tăng doanh lợi. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ; nâng cao chất lượng quản lý vốn cố định và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho công nhân. 1.4.2. Vốn lưu động Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản lưu động của doanh nghiệp chia làm hai loại: - Tài sản lưu động sản xuất (nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang ) - Tài sản lưu thông (sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, chi phí trả trước ) Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục. Đặc điểm của tài sản lưu động là tham gia vào từng chu kỳ sản xuất, tài sản lưu động bị tiêu dùng hoàn toàn trong việc chế tạo ra sản phẩm và thay đổi hình thái biểu hiện. Đặc điểm của tài sản lưu động đã chi phối đến đặc điểm của vốn lưu động. Vốn lưu động chuyển một lần toàn bộ vào giá thành sản phẩm mới được tạo ra. Vốn lưu động được thu hồi một lần toàn bộ sau khi bán hàng và thu tiền về và lúc đó kết thúc vòng tuần hoàn của vốn. Từ đặc điểm về phương thức vận động của tài sản lưu động và phương thức chuyển dịch giá trị của vốn lưu động đã ảnh hưởng chi phối đến công tác quản lý sử dụng vốn lưu động. Muốn quản lý tốt vốn lưu động thì phải quản lý trên tất cả các hình thái biểu hiện của vốn. Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động theo các tiêu thức khác nhau: phân loại theo vai trò của từng loại vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh (vốn lưu dộng ở khâu dự 136
- trữ, khâu sản xuất và khâu lưu thông); phân loại theo hình thái biểu hiện gồm vốn vật tư hàng hoá và vốn bằng tiến; phân loại theo quan hệ sở hữu hoặc theo nguồn hình thành. Mỗi một cách phân loại đều đạt được những yêu cầu nhất định trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động. Nó giúp doanh nghiệp xác định đúng trọng điểm và biện pháp quản lý vốn có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp có thể được đánh giá bởi các chỉ tiêu sau đây: - Chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm có thể đo bằng chỉ tiêu số lần luân chuyển và kỳ luân chuyển. Công thức xác định số lần luân chuyển (L): M L = V Trong đó : L : số lần luân chuyển trong kỳ . M : Tổng mức luân chuyển V : Vốn lưu động bình quân trong kỳ. Công thức xác định kỳ luân chuyển (K):\= 360 K = L Trong kỳ : K : kỳ luân chuyển L : Số lần luân chuyển . Chỉ tiêu mức doanh lợi vốn lưu động: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy tổng số lợi nhuận trước thuế chia cho vốn lưu động bình quân trong kỳ. Ngoài ra, còn có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác như mức tiết kiệm vốn, hàm lượng vốn 137
- Việc tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế và tài chính: có thể tăng được khối lượng sản phẩm sản xuất ra, tiết kiệm vốn, hạ giá thành đơn vị sản phẩm và tăng doanh lợi. Đối với doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cần phải thực hiện các biện pháp sau đây: - Xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, tiết kiệm với hiệu quả kinh tế cao. Việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động giúp cho doanh nghiệp tránh được tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, không gây sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn doanh nghiệp và là căn cứ quan trọng cho việc xác định các nguồn tài trợ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. - Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn ở mọi khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ: ở khâu dự trữ thì có mức dự trữ tồn kho hợp lý giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn sản xuất và tối thiểu hoá các chi phí dự trữ; ở khâu sản xuất cần áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ; ở khâu tiêu thụ thì cần lựa chọn khách hàng, phương thức thanh toán để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. - Áp dụng các biện pháp bảo toàn vốn như xử lý các vật tư ứ đọng, hàng hoá chậm luân chuyển một cách kịp thời ngăn chặn các hiện tượng chiếm dụng vốn - Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng. 1.4.3. Vốn đầu tư tài chính Một bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư dài hạn ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời gọi là vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: Doanh nghiệp bỏ vốn mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn về vốn. Đối với doanh nghiệp, trước khi đi tới quyết định đầu tư tài chính ra bên ngoài cần phải hết sức thận trọng, cân nhắc độ an toàn và độ tin cậy 138
- của dự án, am hiểu tường tận những thông tin cần thiết, phân tích đánh giá các mặt lợi hại của dự án để chọn đúng đối tượng và hình thức đầu tư thích hợp. 2. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. 2.1. Chi phí sản xuất kinh doanh Thực hiện các mục tiêu của kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu bằng tiền của các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bao gồm chi phí cho việc sản xuất sản phẩm, chi phí tổ chức tiêu thụ sản phẩm và những khoản tiền thuế gián thu nộp cho nhà nước theo luật thuế quy định (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu ). Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nội dung cơ cấu chi phí sẽ không giống nhau. Điều quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp là phải luôn quan tâm đến tiết kiệm chi phí vì nếu chi phí không hợp lý, không đúng với thực tế của nó đều gây ra những trở ngại trong quản lý và đều giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải kiểm soát được chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo tiết kiệm chi phí. Muốn tiết kiệm chi phí, doanh nghiệp phải tính toán trước mọi chi phí sản xuất kinh doanh kỳ kế hoạch, phải xây dựng được ý thức thường xuyên tiết kiệm để đạt được mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra. Cần phân biệt rõ các loại chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh để tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với từng loại chi phí đó. 2.2. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giữa chi phí sản xuất sản phẩm và giá thành sản phẩm có sự giống nhau và khác nhau. Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm nhưng không phải toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm chỉ biểu hiện lượng chi phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm. Còn chi phí sản xuất và tiêu thụ thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ trong một thời kỳ nhất định. 139
- Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải dự kiến giá thành sản phẩm và đề ra các biện pháp thực hiện dự kiến đó, hay nói cách khác, doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng kế hoạch giá thành. Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu giá thành giữ vai trò quan trọng và được thể hiện trên các mặt sau: - Giá thành là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh. - Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức, kỹ thuật. Do đó, trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp đều quan tâm đến việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Việc hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa to lớn: là một trong những nhân tố tạo điều kiện thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, trực tiếp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất Từ đó doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm như: áp dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất; tổ chức và sử dụng con người một cách hợp lý nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, tổ chức quản lý tốt sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính. Nhờ vào việc bố trí hợp lý các khâu sản xuất có thể hạn chế sự lãng phí nguyên liệu, giảm thấp tỷ lệ sản phẩm hỏng; tổ chức sử dụng hợp lý đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu tránh được những tổn thất trong sản xuất Việc giảm chi phí sản xuất góp phần tích cực đến hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. 3. Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp 3.1. Doanh thu của doanh nghiệp Kết thúc quá trình kinh doanh , doanh nghiệp thu được một khoản tiền nhất định, đó là doanh thu của doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu được nhờ đầu tư kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Doanh thu từ các hoạt động liên doanh liên kết với các đơn vị và tổ chức khác, từ các nghiệp vụ đầu tư tài chính. Doanh thu khác như thu về nhượng bán vật tư ứ đọng, các khoản được bồi thường, các khoản nợ vắng chủ hay nợ không ai đòi 140
- Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Nó là nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các khoản chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo thực hiện quá trình tái sản xuất giản đơn cũng như tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với khách hàng, đối với các cổ đông tham gia các hoạt động liên doanh Do đó, mọi doanh nghiệp cần phải phấn đấu để tăng doanh thu của mình. Muốn tăng doanh thu trước hết doanh nghiệp phải phấn đấu để tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, đây là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh thu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau đây: - Doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm vì chất lượng sản phẩm luôn gắn liền với uy tín của doanh nghiệp trong giới kinh doanh và trong công chúng. Doanh nghiệp cũng cần mở rộng các hoạt động tiếp thị nhằm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. - Doanh nghiệp phải xác định giá bán hợp lý. Việc xây dựng giá hết sức mềm dẻo và linh hoạt để tác động vào cầu, kích thích tăng cầu của người tiêu dùng để tăng doanh thu tiêu thụ. - Doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt các khoản nợ phải thu, xử lý tốt những khoản nợ nần dây dưa để đảm bảo thực hiện chỉ tiêu doanh thu. 3.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng từ hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại. Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhậun từ các hoạt động khác như hoạt động liên doanh, liên kết, các hoạt động thuộc các dịch vụ tài chính Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra 141
- được lợi nhuận không. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời còn là chỉ tiêu cơ bản để đánh gía hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận còn là nguồn tích lũy cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì không chỉ dùng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối mà còn dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối (tỷ suất lợi nhuận vốn, tỷ suất lợi nhuận giá thành, tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng ) Việc phấn đấu tăng lợi nhuận và tăng tỷ suất lợi nhuận là nhiệm vụ thường xuyên của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải phấn đấu giảm chi phí hoạt động kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm, tăng thêm sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Sau khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận sẽ tiến hành phân phối lợi nhuận đó. Phân phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: Giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và công nhân viên một cách hài hoà. Phải giành phần lợi nhuận để lại thích đáng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đơn vị mình. Lợi nhuận của doanh nghiệp được phân phối theo trình tự: (1) Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho NSNN, (2) Nộp tiền thu sử dụng vốn NSNN “nếu có”, (3) Trả các khoản tiền bị phạt, bồi thường, (4) Trừ các khoản lỗ, (5) Trả lợi tức cổ phiếu, trái phiếu, lợi tức cho các bên tham gia liên doanh, (6) Bù đắp bảo toàn vốn và (7) Phần còn lại, trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. 142
- IV.QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Quản lý nhà nước về tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng để Nhà nước XHCN điều hành và quản lý nền kinh tế đất nước, hình thành và đảm bảo các cân đối chủ yếu và tỷ lệ phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước sử dụng tài chính, tiền tệ để kích thích doanh nghiệp quan tâm đến việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch, nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất xã hội và thực hiện việc kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản lý nhà nước về tài chính thực chất là sử dụng và phát huy vai trò của hệ thống tài chính thông qua Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua cơ chế hoạt động và vận động của tài chính phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước XHCN, kết hợp với quản lý vi mô của cơ sở doanh nghiệp thích ứng với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội, nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi lên CNXH. Trong khi thực hiện việc quản lý nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp, Nhà nước phải tôn trọng quyền chủ động sản xuất và tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Đơn vị kinh tế là cơ sở, là tế bào của nền kinh tế, có quan hệ sử dụng phân phối đan xen chặt chẽ về mặt giá trị của các nguồn tài sản. Việc quản lý đó được thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự chủ tài chính, tự trang trải, tự phát triển của doanh nghiệp và doanh nghiệp phải đảm bảo nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhà nước quản lý tài chính doanh nghiệp trước mắt theo hướng sau đây: Xác định những hình thức thích hợp để đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền sở hữu trong sở hữu nhà nước đối với những tài sản giao cho doanh nghiệp sử dụng. Mặt khác, giao quyền tự chủ đầy đủ, rõ ràng tạo điều kiện cho doanh nghiệp cạnh tranh theo đúng pháp luật. Quan hệ phân phối giữa xí nghiệp và ngân sách được phân định qua cơ chế phân phối thu nhập: doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp các thứ thuế theo luật định, phần còn lại sau khi bù đắp chi phí, bảo toàn vốn, thanh toán với khách hàng, xí nghiệp được lập quỹ chuyên dùng của mình. 143
- Bằng các công cụ chính sách biện pháp kinh tế vĩ mô của Nhà nước để quản lý tài chính doanh nghiệp, tác động đến phát triển và mục đích của sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn Định hướng và chỉ đạo sự phát triển, tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa mặt tiêu cực, khắc phục mặt khuyết tật của cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp được quyền tiêu thụ, bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, được quyền định giá, bảo đảm nguyên tắc xã hội chấp nhận, phù hợp với chính sách, lợi ích quốc kế dân sinh, làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê, tăng cường hệ thống kiểm toán Nhà nước, thực hiện có hiệu lực việc thanh tra kiểm tra đối với doanh nghiệp. 144
- CHƯƠNG VII HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I. LịCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG: Nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với quan hệ thương mại. Việc giao lưu thương mại được thực hiện bằng những loại tiền khác nhau ở mỗi quốc gia đã tạo điều kiện cho sự ra đời của nghề kinh doanh tiền tệ. Khi nhu cầu giao lưu thương mại phát triển thì càng có nhiều người có tiền dư muốn cất giữ, nhưng việc cất giữ tại nhà không làm cho họ an tâm, vì thế họ đem gởi cho người mà họ tin tưởng nhất đó chính là nhà thờ. Lúc đầu số lượng người gởi tiền cho nhà thờ cất giữ không nhiều, nhưng do độ an toàn cao nên ngày càng có nhiều người có nhu cầu gởi tiền vào nhà thờ và những người này sẽ chi trả cho nhà thời một khoản tiền vì công cất giữ. Số tiền nhà thời cất giữ ngày càng nhiều, trong khi đó nhà thờ cũng nhận thấy rằng, trong khi có một lượng tiền tạm thời dư thừa thì đồng thời cũng có những người đang cần tiền để vì thế nhà thờ đã tiến hành kinh doanh tiền tệ. Như vậy, trước công nguyên 3500 năm nghề kinh doanh tiền tệ do nhà thờ tổ chức vì đây là nơi mà dân chúng tin tưởng để ký gởi tài sản của mình, không sợ mất. Vậy là, ngay từ buổi đầu chữ tín là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Dần dần các thương gia nhận thấy rằng, đây là một nghề mang lại nhiều lợi nhuận nên đã tham gia vào hoạt động này. Đến thế kỷ VI trước công nguyên, hoạt động kinh doanh này đã phát triển ở 3 khu vực: nhà thờ, tư nhân và Nhà nước. Lúc bấy giờ, nghề kinh doanh tiền tệ đã có thêm một số nghiệp vụ mới như: hối đoái, chuyển tiền. Hoạt động của ngân hàng ở khu vực NN giống như hoạt động của kho bạc ngày nay: thu nhận tài nguyên vào công quỹ và chi trả thay cho NN. 145
- Thế kỷ thứ V trước công nguyên (thời kỳ đế chế La Mã): các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát triển nhanh và có thêm nhiều nghiệp vụ mới như: thanh toán bù trừ, ghi chép sổ sách và tài khoản, nghiệp vụ bảo lãnh, Từ thế kỷ thứ V - X sau công nguyên, đây là thời kỳ suy thoái của hoạt động của ngân hàng do sự suy thoái của nền kinh tế và nhà thờ cho ra luật cấm cho vay nặng lãi. Đến thế kỷ thứ XIII, hoạt động cho vay được phép hoạt động trở lại, nhưng chi có người Do Thái và người Ý mới được thực hiện. Lợi dụng sự độc quyền, nạn cho vay nặng lãi xảy ra, nên hoạt động cho vay lại bị lên án. Sau đó ngân hàng bị phá sản do cho nhà vua vay quá nhiều nhưng nhà vua không trả nợ Thời kỳ cận đại, được đánh dấu với sự ra đời của ngân hàng Hà Lan Amsterdam vào năm 1609. Ngân hàng này tiến hành phát hành tiền giấy bất khả hoán, nhận ký gởi tiền, đúc vàng, bạc, phát hành giấy chứng nhận là một tín phiếu chứng nhận nợ và quyền được hoàn trả. Sau đó hàng loạt các ngân hàng khác đã ra đời như: Ngân hàng Hamburg của Đức (1619) Ngân hàng cổ phần Anh quốc (1694), . II. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG: 1. Bản chất của ngân hàng trung ương: Để có thể hiểu được bản chất của ngân hàng trung ương chúng ta nên lướt sơ qua lịch sử hình thành của ngân hàng trung ương (NHTW) Các ngân hàng thương mại, dưới tác động của qui luật cạnh tranh đã dẫn đến tình trạng có một số ngân hàng có ưu thế đã giành được quyền phát hành “kỳ phiếu ngân hàng”. Từ đó các ngân hàng phát hành đã được phân định rõ với các ngân hàng thương mại khác. Các ngân hàng phát hành ít dần các nghiệp vụ vốn có của mình và chỉ tiến hành giao dịch với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác bằng hình thức nhận tiền gởi và tiếp vốn cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng phát hành là công cụ mạnh mẽ của các trùm tư bản tài chính, có khả năng gây lũng đoạn cả về kinh tế lẫn chính trị. Vì vậy, NN đã từng bước can 146
- thiệp vào tổ chức cũng như hoạt động của các ngân hàng này. Nhưng các ngân hàng phát hành lúc này vẫn là các ngân hàng của tư nhân. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính vào năm 1929 – 1933 và sau cuộc chiến tranh thế giới 2, người ta nhìn thấy vai trò to lớn của ngân hàng phát hành nên tất cả các nước thực hiện quốc hữu hoá các ngân hàng, bằng cách NN bỏ tiền ra mua lại toàn bộ cổ phiếu của ngân hàng phát hành. Quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành là biện pháp tập trung toàn bộ quyền lực và quyền lợi to lớn vào tay của NN. NH phát hành lúc này có một tên gọi mới đó chính là NH trung ương. NHTW vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, vừa thực hiện chức năng quản lý NN về mặt tiền tệ – tín dụng – ngân hàng. Như vậy, về mặt bản chất, NHTW là ngân hàng phát hành, là nơi tập trung các quyền lực của nhiều NH vào một NH, là một bộ máy quyền lực to lớn có khả năng chi phối cả về mặt kinh tế và chính trị trong nước. NHTW dù được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: NH NN, NH quốc gia, NH dự trữ, nhưng đều thể hiện là một trung tâm tài chính tiền tệ lớn của quốc gia, đóng vai trò rất to lớn trong hệ thống tín dụng của và NH ở các nước. 2. Chức năng của ngân hàng trung ương 2.1. Phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của NHTW. Thực hiện chức năng này có ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ của quốc gia, do đó có thể ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế – xã hội. Việc phát hành tiền được tập trung tuyệt đối vào NHTW theo chế độ NN nắm độc quyền phát hành tiền. Trong luật NHNN có ghi rõ: “NHNN là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN bao gồm tiền giấy và tiền kim loại”. Ngoài việc phát hành tiền để đảm bảo cho sự vận động của hàng hoá thì NHTW còn có thể phát hành tiền để cho ngân sách vay, tham gia bình ổn thị trường hối đoái, . Do việc phát hành tiền có ảnh hưởng rộng lớn đến lưu thông tiền tệ của đất nước, nên đòi hỏi công việc phát hành phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Đồng thời việc phát hành tiền phải đi đôi với việc điều tiết lưu thông tiền tệ, nhằm đảm bảo cung ứng một khối lượng tiền phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế 147
- (khối lượng tiền vừa đảm bảo cung ứng đủ phương tiện lưu thông vừa không gây ra lạm phát). 2.2. NHTW là ngân hàng của ngân hàng Chức năng này được thể hiện ở chỗ đối tượng giao dịch chủ yếu của NHTW là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế. Cụ thể: NHTW nhận tiền gởi và bảo quản tiền tệ cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng: các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ không sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay mà sẽ giữ lại một khoản nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Khoản tiền này được gởi cho NHTW bảo quản. NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Hoạt động này của NHTW nhằm đảm bảo cung ứng cho nền kinh tế có đủ phương tiện thanh toán trên cơ sở thực hiện các chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này, NHTW đóng vai trò là người chủ nợ và là người cho vay cuối cùng, do đó nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng thương mại có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động tín dụng của cả nền kinh tế. Với việc nhận tiền gởi và cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại, NHTW đã trở thành trung tâm tín dụng của cả nền kinh tế, trung tâm thanh toán giữa các ngân hàng thương mại. Với tư cách đó, NHTW đứng ra tổ chức thanh toán bù trừ hay thanh toán tứng lần giữa các ngân hàng thương mại. Nhờ hoạt động thanh toán này của NHTW mà quá trình chu chuyển thanh toán của nền kinh tế mới phát triển thuận lợi. 2.3. NHTW là ngân hàng của Nhà nước Chức năng này được thể hiện thông qua một số điểm: - Thuộc sở hữu của NN - Ban hành các văn bản pháp qui về tín dụng, tiền tệ, ngoại hối, ngân hàng và thực hiện kiểm tra công tác thi hành các văn bản này. - Mở tài khoản và giao dịch với kho bạc NN - Làm đại lý cho kho bạc NN - Tổ chức thanh toán giữa kho bạc và các ngân hàng - Cung cấp tín dụng và tạm ứng cho ngân sách NN trong những trường hợp cần thiết. 148
- Tóm lại, với tư cách là NH của NN, NHTW đảm nhiệm những công việc thuộc chức năng quản lý của NN, và thay mặt chính phủ làm đại diện tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. 3. Vai trò của ngân hàng trung ương NHTW có vai trò rất quan trọng đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế – xã hội. Vai trò đó của NHTW Việt Nam được thể hiện thông qua việc thực hiện các chức năng của mình ở những mặt sau: - Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội - Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng. - Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ban hành các văn bản luật liên quan đến hoạt động tiền tệ và ngân hàng. - Cấp, thu hồi giấy phép thành lập, giấy phép hoạt động ngân hàng của , các tổ chức tín dụng; quyết định giải thể, hợp, tách các tổ chức tín dụng. - Thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng. - Thực hiện việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo qui định của CP. - Chủ trì lập, theo dõi việc thực hiện bảng cán cân thanh toán quốc tế, quản lý hoạt động ngoại hối, kinh doanh vàng. - Tham gia ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đại diện cho CP tại các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế khi được uỷ quyền. - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các nghiệp vụ ngân hàng; tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ ngân hàng. - Thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi và tiêu huỷ tiền; tổ chức in, đúc và bảo quản việc chuyển tiền. 149
- - Tổ chức cấp tín dụng và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. - Kiểm soát và quản lý ngoại hối Nhà nước, kiểm soát ngoại hối của các tổ chức tín dụng. - Tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân hàng - Làm đại lý và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho kho bạc NN. II. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Định nghĩa Ngân hàng thương mại (ngân hàng trung gian) là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gởi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Hệ thống ngân hàng nước ta là hệ thống ngân hàng 2 cấp, trong đó NH nhà nước làm nhiệm vụ của NHTW, còn các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác hoạt động như là các ngân hàng trung gian thực hiện chức năng kinh doanh. 2. Các chức năng của ngân hàng thương mại (NHTM) 2.1. Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng Đây là chức năng đặc trưng của ngân hàng thương mại, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thực hiện chức năng này, NHTM đã huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cơ quan, đoàn thể, tiền tiết kiệm của dân cư, và sử dụng cho vay nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Khi thực hiện chức năng làm trung gian tín dụng, NHTM đã tiến hành điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, kích thích quá trình luân chuyển vốn của toàn xã hội và thúc đẩy quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp. 2.2. NHTM làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán NHTM với tư cách là thủ quỹ của các doanh nghiệp đã tạo điều kiện để ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Trong quá trình thanh toán ngân hàng đã sử dụng giấy bạc ngân hàng thay cho vàng, sau đó sử 150
- dụng các công cụ lưu thông tín dụng thay cho giấy bạc ngân hàng (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán, ). Khi khách hàng gởi tiền vào trong ngân hàng, họ sẽ được ngân hàng đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, cùng khắp địa phương, mà nếu tự khách hàng thực hiện sẽ tốn kém và khó khăn, vì thế đã tiết kiệm được cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông. 2.3. NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ ngân hàng có điều kiện thuận lợi về kho qũy, thông tin quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp, nên có thể thực hiện thêm một số dịch vụ khác kèm theo như: tư vấn tài chính, đầu tư, giữ hội giấy tờ, chứng khoám, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp, để được hưởng hoa hồng, sẽ vừa tiết kiệm được chi phí, vừa đạt hiệu quả cao. 2.4 NHTM “tạo ra tiền” Quá trình tạo ra tiền của ngân hàng thương mại được thực hiện nhờ vào hoạt động tín dụng và nhờ vào việc các ngân hàng thương mại hoạt động trong cùng một hệ thống. Tiền ở đây chính là bút tệ. Bút tệ chỉ được tạo ra thông qua hoạt động tín dụng giữa các ngân hàng. VD: NHTW đưa ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, NHTM A nhận được 100 triệu đồng từ một khách hàng. Bảng cân đối kế toán của NHTM A TÀI SẢN NGUỒN VỐN -Thiết lập dự trữ: 10 - Tiền gửi của khách hàng: 100 - Tín dụng: 90 NHTM A cho NHTM B vay hết 90 triệu đồng Bảng cân đối kế toán của NHTM B TÀI SẢN NGUỒN VỐN -Thiết lập dự trữ: 9 - Tiền gửi của khách hàng: 90 - Tín dụng: 81 NHTM B cho NHTM C vay hết 81 triệu đồng 151
- Bảng cân đối kế toán của NHTM C TÀI SẢN NGUỒN VỐN -Thiết lập dự trữ: 8,1 - Tiền gửi của khách hàng: 81 - Tín dụng: 72,9 Tổng số bút tệ được tạo ra = Tiền gửi ban đầu của khách hàng/tỷ lệ dự trữ bắt buộc 3. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại: 3.1. Nghiệp vụ tạo vốn: Là nghiệp vụ hình thành nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, nằm bên Nguồn vốn trên bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại. Các nguồn vốn của ngân hàng bao gồm: - Vốn tự có và quỹ ngân hàng: Vốn tự có là vốn điều lệ của ngân hàng, khi mới thành lập, mức vốn này phải lớn hơn mức vốn tối thiểu (vốn pháp định) do NN qui định. Quỹ ngân hàng là các quỹ được trích lập từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Ngoài các quỹ được thành lập từ lợi nhuận thì ngân hàng còn có những quỹ khác như: quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, . Nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, nhưng nó đóng vai trò quan trọng vì đó là cơ sở để tiến hành kinh doanh, tiến hành thu hút những nguồn vốn khác. - Tiền gởi của khách hàng: Trước đây, người ta đem tiền, vàng vào ngân hàng gởi nhờ bảo quản dùm và yêu cầu phải được hoàn trả đủ và đúng những gì đã gởi vào. Về sau, họ không đòi hỏi phải được hoàn trả đúng nữa (chỉ cần đủ) và thời hạn gởi dài hơn, nên ngân hàng có thể đem lượng tiền, vàng gởi này đem cho vay để kiếm lời; những người gởi tiền bây giờ không những không phải trả tiền thuê giữ tiền mà còn được trả lãi từ số tiền gởi đó. Trong tổng nguồn vốn hoạt động, vốn tiền gởi là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng, nó chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM. - Nguồn vốn đi vay: + Vốn vay bằng hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gởi, nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn tiền gởi chưa đáp ứng đủ yêu cầu kinh doanh. 152
- + Vốn vay của NHNN: khi NHNN cho vay, nhận chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của NHTM. + Vay các NHTM và các tổ chức tín dụng khác: nhằm giải quyết vấn đề thiếu khả năng thanh toán tiền mặt tạm thời. + Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài - Nguồn vốn tiếp nhận: đây là những nguồn vốn mà NHTM được các tổ chức trong và ngoài nước, ngân sách NN uỷ thác cho vay trung trung và dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản, các chương trình và các dự án có mục tiêu định hướng trước trong sản xuất kinh doanh. - Các nguồn vốn khác: các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như: làm đại lý, dịch vụ thanh toán, làm trung gian thanh toán, . 3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: Là nghiệp vụ sử dụng các nguồn vốn đã hình thành của ngân hàng, chúng thuộc bên Tài sản của bảng tổng kết tài sản của NHTM. Bao gồm: - Thiết lập dự trữ: dự trữ nhằm duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của khách hàng và bản thân ngân hàng. Trong nghiệp vụ này ngân hàng phải duy trì các khoản sau: + Tiền mặt tại quỹ: ngân hàng phải để tại quỹ của mình một số tiền theo một tỷ lệ nhất định trên tiền gởi của khách hàng đế đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt của khách hàng. + Tiền gởi tại NHNN: bao gồm 2 phần: • Phần dự trữ bắt buộc theo qui định của NHNN để bảo đảm hoàn trả tiền gởi của khách hàng khi ngân hàng bị phá sản. NHTW thực thi chính sách giới hạn khối lượng tiền lưu hành trong thời kỳ lạm phát hoặc tăng thêm khối lượng tiền vào lưu thông, mở rộng mức cho vay của NHTM. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay qui định từ 0 – 15% • Phần còn lại dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ với các tổ chức tín dụng và NHTM khác. + Tiền gởi của NHTM tại các tổ chức tín dụng và các NHTM khác: đế đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách hàng. + Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá. 153
- - Nghiệp vụ tín dụng: nghiệp vụ này của NHTM sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt động của NH. Nghiệp vụ tín dụng bao gồm: + Chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá khác: đây là việc ngân hàng sẽ mua lại những thương phiếu còn trong thời hạn của khách hàng. + Nghiệp vụ tín dụng thế chấp: đây là hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp của khách hàng. + Nghiệp vụ tín dụng ứng trước vào tài khoản: đây là thể thức cấp tín dụng mà ngân hàng đồng ý cho khách hàng sử dụng một mức tín dụng nhất định trong một khoản thời gian nhất định. Được thực hiện dưới 2 hình thức: chuyển tất cả khoản vay vào tài khoản vãng lai của khách hàng, hoặc khách hàng sử dụng dần khoản vay bằng hình thức phát hành séc hoặc các công cụ thanh toán khác ngay trên tài khoản vãng lai. + Nghiệp vụ tín dụng thuê mua và tín dụng đầu tư: • Tín dụng thuê mua: là hình thức ngân hàng mua tài sản để cho thuê đối với người có nhu cầu sử dụng. Hết thời hạn của hợp đồng, người thuê có thể gia hạn thuê tiếp hoặc có thể mua lại theo giá thoả thuận với ngân hàng. • Tín dụng đầu tư: thực chất đây là những khoản vay trung và dài hạn, ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp, các dự án xây dựng cơ bản mới, cải tạo và mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, - Nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng: đây là hình thức cho vay để mua hàng tiêu dùng. - Nghiệp vụ đầu tư: trong nghiệp vụ này, ngân hàng thực hiện kinh doanh kiếm lãi như các doanh nghiệp như: + Đầu tư chứng khoán + Hùn vốn liên doanh. Theo qui định, NHTM chỉ được phép sử dụng nguồn vốn tự có để thực hiện nghiệp vụ đầu tư. 3.3. Nghiệp vụ trung gian – nghiệp vụ kinh doanh: Đây là những nghiệp vụ mà NHTM thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng được hưởng hoa hồng như: - Chuyển tiền. 154
- - Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt ngân hàng để thu các khoản kỳ phiếu đến hạn, chứng khoán, tiền bán hàng hoá, . - Uỷ thác: là nghiệp vụ ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của khách hàng để quản lý hộ tài sản, chuyển gia tài, bảo quản chứng khoán, vật có giá trị, thực hiện thanh lý tài sản của các doanh nghiệp bị phá sản. - Mua bán hộ: theo sự uỷ nhiệm, ngân hàng đứng ra phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho công ty, cho Nhà nước, hoặc mua ngoại tệ, đá quý, cho khách hàng. - Kinh doanh vàng, bạc đá quý để kiếm lời. - Làm tư vấn về tiền tệ, tài chính như: cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tài chính tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, uỷ thác đầu tư 4. Khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại Khả năng này được hiểu như là năng lực trả tiền kịp thời đối với các khách hàng của mình. Bao gồm 2 khoản chính sau đây: - Tiền mặt tại quỹ và tiền gởi tại tài khoản vãng lai của ngân hàng tại NHTW. Đây là năng lực thanh toán thường trực và nhanh nhất của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu rút tiền của khách hàng. - Các khoản cho vay dưới hình thức tín dụng không kỳ hạn, chiết khấu những loại giấy tờ có giá, mà ngân hàng có thể thu nợ nhanh hoặc mang tái chiết khấu tại NHTW Khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: tính chất của khoản tiền gởi (tiền gởi không kỳ hạn thì ngân hàng phải đảm bảo năng lực thanh toán thường trực hơn so với khoản tiền gởi có kỳ hạn), tình trạng bất ổn của nền kinh tế làm ảnh đến lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng thương mại. Do đó, ngân hàng cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa yêu cầu duy trì khả năng thanh toán và khả năng sinh lời của tiền vốn. 155
- Chương VIII LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ I. LẠM PHÁT 1. Khái niệm Tiền giấy là dấu hiệu của vàng, thay thế cho vàng làm chức năng thanh toán và làm phương tiện trao đổi. Tiền giấy bản thân nó không có giá trị mà chỉ có giá trị danh nghĩa, cho nên nó không thể tự điều hoà giữa chức năng lưu thông và tích trữ, do đó tiền giấy bị mất giá là trở thanh một hiện tượng phổ biến và thường xuyên trong xã hội ngày nay. Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn gập trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hoá làm cho tiền giấy bị mất giá và giá cả hàng hoá được biểu hiện bằng đồng tiền mất giá không ngừng tăng lên. Khi nói đến lạm phát thì cũng nên nói đến giảm phát. Giảm phát là một hiện tượng trái ngược lại hiện tượng lạm phát. Trong tình trạng đó dẫn đến một loạt các doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp gia tăng, sức sản xuất giảm, nền kinh tế bị khủng hoảng. Trong khi đó, Keynes lại cho rằng, hiện tượng giảm phát có thể xảy ra nếu nhà nước tăng lượng tiền vào lưu thông nhưng không làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Trong thực tế, hiện tượng giảm phát ít xảy ra một cách tự nhiên mà thường là một việc làm chủ quan của NN nhằm hạn chế ngay nhu cầu để giảm những mất cân đối trong nền kinh tế. 2. Một số luận thuyết về lạm phát 2.1. Lạm phát lưu thông tiền tệ Tiêu biểu cho quan điểm này là J.Bodin và M. Friedman cho rằng: lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên. Friedman nói: “Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền trong lưu thông tăng lên với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất”. 156
- 2.2. Lạm phát cầu dư thừa tổng quát Lý thuyết này do J.M.Keynes đề xướng. Ông cho rằng nguyên nhân cơ bản của lạm phát là do sự biến động cung cầu. Khi mức cung vượt quá mức cầu thì dẫn đến tình trạng đình đốn sản xuất. Nhà nước cần tăng lượng tiền vào lưu thông, tăng chi tiêu nhà nước, tăng tín dụng nghĩa là tăng cầu để đạt được mức cân bằng giữa cung và cầu và vượt cung. Khi đó lạm phát xuất hiện. Ở đây, lạm phát có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, chống suy thoái. 2.3. Lạm phát chi phí Luận thuyết này cho rằng: lạm phát nảy sinh do mức tăng chi phí sản xuất kinh doanh nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng này chủ yếu là tăng về tiền lương, giá các nguyên, nhiên, vật liệu, . 2.4. Lạm phát cơ cấu Lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu của nền kinh tế (mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa sản xuất và dịch vụ, ), chính sự mất cân đối này làm cho nền kinh tế phát triển không có hiệu quả. 3. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát Từ những luận thuyết trên ta có thể thấy nguyên nhân và bản chất của lạm phát được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng chung qui lại lạm phát xuất hiện do những nguyên nhân sau: - Sự mất cân đối của nền kinh tế quốc dân, sản xuất thấp kém, thâm hụt ngân sách quốc gia. Đây được coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Nói cách khác, sự khủng hoảng của nền kinh tế và tài chính của một quốc gia là nguyên nhân cơ bản và sâu xa đưa đến lạm phát. - Lượng tiền cung cấp vào lưu thông quá mức cần thiết cũng là nguyên nhân trực tiếp của lạm phát. - Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài, làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ NN bị ảnh hưởng, từ đó làm uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút. 157
- - Nguyên nhân chủ quan khác đó là do NN chủ động sử dụng lạm phát như là một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của mình. Từ những phân tích trên có thể nói rằng lạm phát vừa là một phạm trù kinh tế khách quan, vừa là một công cụ kinh tế được NN sử dụng để phát triển kinh tế. Vì việc phân phối sản phẩm và thu nhập đều được thực hiện thông qua tiền tệ nên lạm phát là biện pháp để phân phối lại sản phẩm và thu nhập trong nền kinh tế. Như vậy lạm phát mang bản chất kinh tế – xã hội sâu sắc chứ không phải là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế. 4. Phân loại lạm phát Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là giá cả hàng hoá tăng liên tục nên người ta thương căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hoá tăng để làm căn cứ phân thành 3 loại lạm phát: - Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số): biểu hiện chỉ số giá cả tăng chậm trong khoảng 10% trở lại. Do đó, đồng tiền mất giá không nhiều, không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Ở hầu hết các nước trên thế giới áp dụng và xem đó là chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển. - Lạm phát phi mã: giá cả hàng hoá bắt đầu tăng vởi tỷ lệ 2 hoặc 3 con số. Khi lạm phát này xuất hiện thì bắt đầu gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hội. - Siêu lạm phát: xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã. Nếu trong điều kiện của lạm phát phi mã vẫn có một số trường hợp nền kinh tế vẫn phát triển tốt như Brazil, thì một khi siêu lạm phát xảy ra thì chắt chắc nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của quốc gia 5. Tác động của lạm phát Trừ lạm phát một chữ số thì hầu hết các loại lạm phát khác đều gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Cụ thể: Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh: do lạm phát, giá cả hàng hoá, nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh doanh và kết quả cuối cùng ngày càng giảm sút và không chính xác, dẫn đến sự phát triển không đồng đều, mất cân đối giữa các ngành (ngành có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài ngày càng bị thua lỗ nặng 158
- nề, trong khi ngành có chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn thì có thể trụ được nhưng vẫn gặp không ít khó khăn. Lĩnh vực lưu thông buôn bán: giá cả hàng hoá tăng dẫn đến tình trạng tích đầu cơ tích trữ hàng hoá, gây hỗn loạn quan hệ cung cầu, tạo sự mất cân đối giả tạo làm cho lĩnh vực lưu thông cũng bị rối loạn. Tuy nhiên, với mức lạm phát cao cũng là một điều kiện để thực hiện khuyến khích xuất khẩu. Lĩnh vực tiền tệ tín dụng: Lạm phát làm cho sức mua của đồng tiền giảm, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên càng làm cho sức mua của đồng tiền giảm xuống nhanh chóng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do lượng tiền gởi vào ngân hàng giảm mạnh làm cho nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán, thu lỗ trong kinh doanh. Tình hình đó làm cho hệ thống tiền tệ bị rối loạn và không kiểm soát nổi. Lĩnh vực tài chính NN: tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập chi ngân sách NN qua cơ chế phân phối lại thu nhập và kể cả qua cơ chế phát hành. Nhưng ảnh hưởng nặng nề và lâu dài của lạm phát lại làm giảm nguồn thu của ngân sách, chủ yếu là thuế do sản xuất bị sút kém, nhiều doanh nghiệp, công ty bị phá sản, giải thể, . Trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề. Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội của một nước. Lạm phát làm cho quá trình phân hoá giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho nhóm này kiếm được lợi lộc nhưng lại làm cho nhóm khác thiệt hại nặng nề, nhất là đối với người lao động. 6. Đo lường lạm phát Để đánh giá mức độ lạm phát người ta căn cứ vào tỷ lệ lạm phát được xác định theo công thức: Mức giá năm t - Mức giá năm (t -1) Tỷ lệ lạm phát năm t = Mức giá năm (t -1) Mức giá được đo bằng giá cả trung bình của các loại hàng hoá và dịch vụ. Trên thực tế, người ta đo mức giá bằng tỷ số giá Chỉ số giá: 159
- Chỉ số giá là 1 chỉ tiêu phản ảnh sự thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ của 1 năm nào đó so với năm gốc. Tuỳ theo nhu cầu phân tích, chí số dùng để tính tỉ lệ lạm phát là chỉ số giá toàn bộ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế hoặc là tính theo giá của một nhóm hàng hoá tiêu biểu. Chỉ số giá tiêu dùng: (CPI: Consumer price index): Được tính theo giá bán lẻ của 1 giỏ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, các giỏ hàng hoá chính là lượng thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, thuoosc men. Giỏ hàng hoá được chọn với cơ cấu và số lượng cố định. t 0 Σ Pi qi CPIt = 0 0 x 100 Σ Pi qi Trong đó: Pit , Pi0 : giá cả của sản phẩm i ở năm t và năm 0 qi0 : số lượng của sản phẩm i dùng để tính ở năm 0. Năm 0 được chọn là năm gốc. CPIt : chỉ số giá tiêu dùng của năm t. Chỉ số giá sản xuất: (PPI: procuder price index) Được tính theo giá bán buôn của các nhóm hàng hoá như lượng thực, thực phẩm, thực phẩm của ngành chế tạo, khia khoáng. Chỉ số này được các doanh nghiệp sử dụng, cách tính hoàn toàn giống như tính CPI, các số đo về tỷ trọng nhằm phản ảnh tầm quan trọng của từng loại sản phẩm, sản phẩm càng chiểm tỷ trọng lớn thì sự thay đổi giá cả của nó càng ảnh hưởng mạnh đến mức giá chung. 7. Đường cong Philips Lạm phát 160
- Thất nghiệp Năm 1960, nhà kinh tế gia Philips đã định lượng được các yếu tố gây nên thất nghiệp và lạm phát. Ông đã mô tả mối quan hệ gữa lạm phát và thất nghiệp bằng 1 đường cong mà sau này người ta gọi là đường cong Philips. Lạm phát và thất nghiệp đều có tác hại đối với nền kinh tế. Việc tìm cách thủ tiêu cả 2 nhân tố này đều là mong muốn của mọi chính phủ. Tuy nhiên, trong thực tế có sự đánh đổi giữa chúng với nhau, nghĩa là: việc giảm tỷ lệ lạm phát sẽ làm tăng lượng thất nghiệp và ngược lại. Chính đều này đã đưa đến sự lựa chọn của chính phủ trong việc giải quyết vấn để ổn định giá cả và vấn đề việc làm. Tất nhiên, nếu giảm lạm phát bằng các chính sách thay đổi về phía cung thì sẽ không có sự đánh đổi, nghĩa là sự giảm lạm phát sẽ kèm theo sự gia tăng số lượng và việc làm, nhưng những chính sách này rất khó thực hiện. Phần lớn các chính phủ đều giảm lạm phát theo hướng cắt giảm tổng cầu và vì thế sẽ làm cho thất nghiệp tăng lên và ngược lại khi thực hiện chính sách mở rộng tổng cầu để thúc đẩy sản lượng tăng lên nhằm giảm thất nghiệp thì phải chấp nhận 1 tỷ lệ lạm phát cao hơn. Mối quan hệ trên được thể hiện bằng đường cong Philips. Nó minh hoạ cho lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Mức độ đánh đổi phụ thuộc vào độ dốc của đường cong. Nhưng đây là đường cong Philips áp dụng cho ngắn hạn bởi vì nó chỉ đúng trong ngắn hạn. Trong dài hạn, khi nghiên cứu thực tế của nền kinh tế, người ta nhận thấy rằng, có thời kỳ thất nghiệp ở mức cao nhưng lạm phát vẫn không giảm. Thực tế là giá cả và tiền lương không được hình thành trên thị trường cạnh tranh, mà chúng được quyết định vởi các nhân tố kinh tế khác như doanh nghiệp và công đoàn. Ở bất kỳ thời kỳ nào, một số khu vực phát triển trong khi vẫn có những khu vực bị trì trệ. Ở khu vực phát triển thì giá cả và tiền lương tăng, còn ở khu vực bị trì trệ thì giá cả và tiền lương tương đối ổn định. Như vậy, tính trung bình, giá cả vẫn tăng khi có sự trì trệ vừa phải. Trong dài hạn, không có mối quan hệ trao đổi nào của lạm phát và thất nghiệp. 8. Các biện pháp kiềm chế lạm phát Trong trường hợp có lạm phát xảy ra, Nhà nước thường áp dụng các giải pháp sau: 161
- 8.1 Thắt chặt khối cung tiền tệ Khi khối cung tiền tệ trong lưu thông tăng lên sẽ làm tăng tổng cầu và giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát NHTW sẽ thực hiện chính sách thắt chặt khối cung tiền tệ bằng các công cụ của mình như tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, tăng tỷ lệ dự trữ pháp định, không phát hành thêm tiền vào lưu thông. 8.2 Kiềm giữ giá cả Bằng các biện pháp: - Nhập khẩu lượng hàng mà nền kinh tế thiếu - Xuất kho dự trữ ra bán - Thực hiện chính sách kiểm soát giá 8.3 Ấn định mức lãi suất cao Khi lãi suất tiền gửi được ấn định ở mức cao sẽ thu hút bớt tiền trong lưu thông về, tuy nhiện sử dụng biện pháp này cần sự hỗ trợ của NHTW và NSNN 8.4 Giảm chi tiêu ngân sách: Chi tiêu ngân sách là 1 bộ phận quan trọng của tổng cầu, giảm chi ngân sách những khoản chưa thật sự cần thiết sẽ làm giảm sức ép đối với tổng cầu và giá cả sẽ hạ xuống. 8.5 Hạn chế tăng tiền lương Tiền lương là 1 bộ phânh quan trọng trong chi phsi sản xuất, tăng tiền lượng sẽ làm tăng tổng chi phí sản xuất dẫn đến làm giá cả tăng lên, đồng thời tăng tiền lương cũng làm tăng thu nhập cho dân chúng gây sức ép làm tăng tổng cầu. 8.6 Lạm phát chống lạm phát Nhà nước gia tăng đầu tư mở rộng sản xuất, kết quả của đầu tư sẽ làm tăng cung tạo điều kiện cân bằng quan hệ cung cầu. 8.7 Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo Cạnh tranh hoàn hảo sẽ tránh được độc quyền đẩy giá lên, mặt khác cạnh tranh sẽ thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất góp phần làm cho giá cả hàng hóa hạ xuống 162
- 8.8 Mua lấy 1 tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát Lạm phát và thất nghiệp là 2 yếu tố đối nghịch nhau, người ta có thể mua lấy 1 tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát vừa phải để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bình thường và đời sống xã hội ổn định. II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHTW 1. Vai trò của NHTW trong điều tiết vĩ mô NHTW ra đời trong quan điểm là ngân hàng phát hành với chức năng phát hành tiền cho lưu thông, về sau, khái niệm NHTW thay cho ngân hàng phát hành với chức năng vừa phát hành tiền vừa quản lý về lưu thông tiền tệ,có các vai trò sau: 1.1 Điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế Khối lượng tiền trong lưu thông trong mối quan hệ với khối lượng hàng hóa có tác động rất lớn đến ổn định và phát triển kinh tế với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng. NHTW giữ vai trò quyết định khối lượng tiền trong lưu thông qua các công cụ của nó như các chính sách về lãi suất, về dự trữ pháp định nhằm đảm bảo khối lượng tiền trong lưu thông đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế 1.2 Ổn định đồng tiền nội địa Sức mua của đồng tiền chịu tác động từ nhiều phía, cung cầu về tiền tệ, giá vàng, tỷ giá ngoại hối NHTW phải tiềm mọi biện pháp ổn định sức mua của đồng tiền nội địa nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách kinh tế và quan hệ quốc tế. Khi sức mua của đồng tiền giảm tức là giá cả hàng hóa tăng lên chứng tỏ quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội lớn hơn quỹ hàng hóa. NHTW tìm biện pháp giảm quỹ tiêu dùng và phát triển sản xuất Ngược lại khi sức mua của đồng tiền tăng tức là giá cả hàng hóa sẽ giảm, chứng tỏ quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội nhỏ hơn quỹ hàng hóa. NHTW sẽ tìm biện pháp đưa thêm tiền vào lưu thông để kích thích tiêu dùng và kích thích sản xuất. Ngoài ra NHTW còn can thiệp để ổn định giá vàng và giá ngoại tệ tạo cơ sở cho ổn định tiền. 1.3 Điều tiết sản xuất, thiết lập cơ cấu kinh tế hợp lý Là việc NHTW sử dụng các biện pháp cần thiết để phân phối tài nguyên của xã hội cho các ngành, lĩnh vực tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng và cân đối thể hiện trên 2 mặt: 163
- + NHTW tham gia vào việc xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế vì vậy ngay từ đầu đã góp phần vào việc hình thành cơ cấu kinh tế. + Tham gia thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế đó qua việc cung cấp tín dụng cho ngành này hoặc hạn chế tín dụng ở 1 ngành khác để đảm bảo sản xuất được ổn định và cân đối. 1.4 Vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng - Thể hiện trong việc kiểm soát khối lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng cung cấp cho nền kinh tế đồng thời cũng nắm được khối lượng tín dụng đã và sẽ cung cấp cho nền kinh tế. 2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ • Ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái: Thực chất của mục tiêu này là kiểm soát lạm phát để bảo vệ giá đối nội và đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Đây là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. • Ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế: Đây là mục tiêu cơ bản và tất yếu của chính sách tiền tệ. Muốn ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế cần phải khuyến khích mở rộng đầu tư bằng cách khai thác các nguồn vốn tiềm năng trong nước và nước ngoài. • Tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định trật tự xã hội: Ở nước ta, trong 3 nhân tố thuộc yếu tố cung là lao động, nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật thì yếu tố lao động có tiềm năng lớn nhất. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển kinh tế với thì chính sách tiền tệ phải khai thác tối đa lực lượng lao động tro xã hội, còn tiền tệ và tín dụng là chất xúc tác quan trọng. Tuy nhiên cần lưu ý rằng sử dụng chính sách tiền tệ để tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp thì rất có thể đi đến tình trạng lạm phát cao. Vấn đề quan trọng ở chỗ là làm thế nào để vừa kiềm chế và kiểm soát được lạm phát vừa tạo được công ăn việc làm. Người ta cho rằng, nếu duy trì lạm phát ở một tỷ lệ vừa phải thì hình như đó lại là liều thuốc kích thích tăng trưởng kinh tế. 3. Các công cụ của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ của 1 quốc gia về cơ bản có 2 loại: 164
- • Chính sách mở rộng tiền tệ Còn được gọi là chính sách nới lỏng tiền tệ. Chính sách này được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất nghiệp gia tăng. Trong tình hình này, chính sách nới lỏng tiền tệ làm tăng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, mở rộng đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Chính sách mở rộng tiền tệ đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống suy thoái. • Chính sách thắt chặt tiền tệ: Còn được gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Loại chính sách này được áp dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá, đồng thời lạm phát ngày càng gia tăng. Chính sách thắt chặt tiền tệ đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống lạm phát. Để thực hiện các chính sách trên NHTW sử dụng các công cụ sau: 3.1 Các công cụ trực tiếp 3.1.1 Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay NHTW có thể ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay và bắt buộc các NHTM áp dụng khi muốn tăng mức cho vay NHTW hạ lãi suất tiền gửi và tiền cho vay. Công cụ này có ưu và nhược điểm: Ưu điểm: NHTW có thể tác động trực tiếp đến các dự án đầu tư bằng các điều kiện tín dụng Nhược điểm: Lãi suất được ấn định có thể không phù hợp với nền kinh tế gây khó khăn cho việc thực hiện các dự án đồng thời tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm. Bên cạnh đó việc quy định lãi suất tiền gửi của các NHTM áp dụng có tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ nhưng lại làm cho hoạt động của tổ chức tín dụng kém linh hoạt. 3.1.2. Ấn định hạn mức tín dụng Là việc NHTW ấn định 1 khối lượng sẽ cung cấp cho nền kinh tế trong 1 thời gian nhất định, sau đó tìm các kênh để đưa vào, biện pháp này được thực hiện rất lâu ở các nước XHCN theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đây là cách vận dụng máy móc công thức của Mac: Kt=Kc, tức là nhận định rằng phải định được Kc sau đó tạo ra Kt và đưa vào nền kinh tế, thật ra đây là sự hiểu lầm công thức của Mac, ông chỉ đưa ra yêu cầu để hàng hóa lưu thông bình thường thì Kt=Kc chứ ông không định lượng Kc là 1 con số nào đó bởi vì Kc=P.Q/V là 1 đại lượng luôn biến 165
- động và khó tính toán trong 1 thời gian tương đối dài, hiện nay người ta sự đoán 1 Kc mà nó có thể cần thiết cho nền kinh tế sau đó tạo điều kiện để thực hiện nó trên cơ sở để cho quy luật cung cầu vận động. Biện pháp này có ưu và nhược điểm Ưu điểm: Có thể kế hoạch 1 cách chắc chắn khối lượng tiền trong lưu thông Nhược điểm: Thiếu linh hoạt khi tình hình biến động và chỉ thực hiện được trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung. 3.1.3 Phát hành trái phiếu Nhà nước Nhằm làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông qua việc NHTW thỏa thuận với Bộ Tài chính về việc phát hành 1 khối lượng trái phiếu nhất định, biện pháp này chỉ thực hiện khi không còn biện pháp nào khác. Nó có ưu điểm là làm giảm bớt khối lượng tiền trong lưu thông nhưng có nhược điểm là phục vụ cho mục tiêu chi tiêu của ngân sách 3.1.4 Phát hành tiền cho ngân sách và cho đầu tư Khi ngân sách bị thiếu hụt, NHTW có thể phát hành tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Biện pháp này dễ đưa đến lạm phát, thông thường biện pháp này được áp dụng để phát hành tiền cho đầu tư phát triển xem như là ứng trước cho sản xuất Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường các công cụ trực tiếp thường được áp dụng trong những trường hợp nhất định. NHTW thường sử dụng các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ 3.2 Các công cụ gián tiếp 3.2.1 Quy định tỷ lệ dự trữ pháp định Là phương thức quản lý khối lượng tiền trong lưu thông bằng các quy định tỷ lệ mà các NHTM được phép cho vay khi nhận được 1 khối lượng tiền gửi, tỷ lệ dự trữ pháp định là tỷ lệ % trên số tiền gửi mà 1 NHTM nhận được phải gửi vào Tài khoản tại NHTW hoặc giữ tại ngân hàng theo quy định. Với biện pháp này NHTW nắm được khối lượng tín dụng mà các NHTM và các tổ chức tín dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế. Do đó NHTW có thể tác động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ pháp định 3.2.2 Biện pháp thị trường mở Nội dung của biện pháp này là NHTW tiến hành mau và bán các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. 166
- Trong trường hợp NHTW muốn tăng khối lượng tiền trong lưu thông NHTW sẽ mua vào 1 lượng chứng khoán nhất định, việc các NHTM bán chứng khoán cho NHTW sẽ làm tăng dự trữ cho các NHTM nhờ vào lượng tiền nhận được từ NHTW. Ngược lại, nếu NHTW muốn thu hẹp khối lượng tiền tệ NHTW sẽ bán ra 1 lượng chứng khoán nhất định, biện pháp này có ưu điểm là tác động trực tiếp đến dự trữ của các NHTM buộc các NHTM phải gia tăng hay giảm khối lượng ín dụng. Nhưng có nhược điểm chỉ thực hiện được trong điều kiện các khoản tiền trong lưu thông đều nằm tại các NHTM. 3.2.3 Biện pháp chiết khấu, tài chiết khấu và cho vay của NHTW Là hình thức cung cấp tín dụng của NHTW cho các NHTM trong điều kiện có thế chấp, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của các NHTM. Việc ấn định lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu cao hay thấp có tác động đến khả năng cho vay của các NHTM và do đó làm cho khối cung tiền tệ tăng lên hay giảm đi. Biện pháp này có ưu điểm các khoản cho vay của NHTW đảm bảo thu được về. Việc cho vay gắng liền với yếu cầu phát triển kinh tế, do sự tác động của quy luật cung cầu nhưng có nhược điểm việc vay hay không vay phụ thuộc vào các NHTM. 3.2.4 Giới hạn khối lượng tín dụng trên số tiền gửi nhận được NHTW quy định giới hạn tỷ lệ tín dụng mà các NHTM có thể cung cấp khi nhận được 1 lượng tiền gửi, biện pháp này thường được đi kèm bằng biện pháp quy định tỷ lệ dự trữ ổn định, thông thường NHTW thường quy định tỷ lệ dư nợ tín dụng của các NHTM không được vượt qua bao nhiêu nhiêu lần so với vốn tự có. Biện pháp này có ưu điểm quy định được 1 khối lượng tín dụng vừa phải theo yêu cầu phát triển kinh tế có tính đến mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư. 3.3 Một số công cụ khác 3.3.1 Dự đính công trái bắt buộc Là việc NHTW quy định 1 tỷ lệ trên số tiền gửi mà 1 NHTM nhận được phải dùng vào việc mua công trái bắt buộc nhằm hạn chế khối lượng tín dụng của các NHTM và làm công cụ của NHTW thông qua việc chiết khấu các công trái này, khi 167
- các NHTM cần vốn thông qua đó NHTW có thể sử dụng công cụ thị trường mở để điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông 3.3.2 Dự đính công trái tự nguyện Ngoài việc buộc các NHTM mua công trái bắt buộc, NHTW còn kích thích các NHTM mua thêm công trái khi số tiền cho vay không hết. 3.3.3 Phát hành giấy bạc,cho phép lưu thông các công cụ thay tiền mặt Thông thường khi các công cụ thay tiền mặt được sử dụng thì lưu thông tiền tệ sẽ nhanh hơn, tiết kiệm được chi phí lưu thông và đặc biệt làm tăng khả năng tín dụng của các NHTM bởi vì khi mọi khoản tiền đều được thanh toán qua ngân hàng bằng các công cụ thay tiền mặt như sec, the tín dụng, lệnh chuyển khoản sẽ làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gần như không bao giờ mất khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. 168
- CHƯƠNG IX QUAN HỆ THANH TOÁN VÀ TÍN DỤNG QUỐC TẾ I. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ 1. Các loại cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán quốc tế là bản đối chiếu giữa các khoản tiền thu được từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, thực chất cán cân thanh toán là một tài liệu thống kê, có mục đích cung cấp sự kê khai đầy đủ dưới nhiều khoản mục phù hợp với yêu cầu phân tích những quan hệ kinh tế tài chính của một nước đối với nước ngoài trong một thời gian xác định. Tùy theo những yêu cầu phân tích trong quản lý, cán cân thanh toán có thể được soạn thảo dưới những hình thức thích hợp. - Cán cân thanh toán trong một thời kỳ: là bản đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà nước đó thực tế chi ra nước ngoài trong một thời gian nhất định. Như vậy loại cán cân này chỉ phản ánh số liệu thực thu và thực chi của một nước với nước ngoài trong thời kỳ đã qua. - Cán cân thanh toán tại một thời điểm: là bản đối chiếu giữa các khoản tiền đã và sẽ chi ra và thu vào ở một thời điểm nào đó. Như vậy trong nội dung loại cán cân này chứa đựng cả các số liệu phản ánh các khoản nợ nước ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng vào ngày của cán cân. Tình trạng của cán cân thanh toán là nhân tố ảnh hưởng có tính chất quyết định đến tỉ giá hối đoái và quan hệ thương mại quốc tế của một quốc gia 2. Nội dung của cán cân thanh toán Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế bao gồm những khoản mục sau đây: 2.1. Khoản mục hàng hoá. Khoản mục hàng hoá phản ánh tổng giá trị hàng hoá xuất và nhập của một nước, mối tương quan giữa tổng thu và tổng chi của khoản mục này hình thành cán 168