Hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại ở Việt Nam dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Bạn đang xem tài liệu "Hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại ở Việt Nam dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- he_tieu_chi_nuoc_cong_nghiep_theo_huong_hien_dai_o_viet_nam.pdf
Nội dung text: Hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại ở Việt Nam dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- HỆ TIÊU CHÍ NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ PGS. TSKH Trần Nguyễn Tuyên Hội đồng Lý luận Trung ương 1. Khái quát: Qua hơn 30 năm đổi mới, thực hiện cải cách và mở cửa hội nhập, Việt Nam đạt được thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, vị thế đất nước từng bước được cải thiện nâng cao trên trường quốc tế. Bên cạnh kết quả đạt được, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều nguy cơ thách thức to lớn về phát triển trong bối cảnh mới, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về phát triển kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khi đánh giá về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhận định: “Nhiều tiêu chí để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt như GDP bình quân đầu người, tỷ trọng công nghiệp chế tạo và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội, tỷ lệ đô thị hóa, điện sản xuất bình quân đầu người, chỉ số phát triển con người, chỉ số bất bình đẳng thu nhập, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch”. (1) (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, trang 251). Cụ thể, đến năm 2020, dự kiến có 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí các nước công nghiệp: GDP bình quân đầu người đạt 3.200-3.500 USD theo giá thực tế (Theo tiêu chí nước công nghiệp là trên 5.000 USD đầu người), giá năm 2010; tỷ trọng công nghiệp chế tạo trong GDP đạt 15%, (theo tiêu chí trên 20%); tỷ trọng nông nghiệp trong GDP dự kiến đạt 15% (theo tiêu chí dưới 10%); tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 40% (theo tiêu chí 20-30%) Điều đó cho thấy để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần chú trọng phát huy nội lực, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung cải cách thể chế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, thông thoáng đồng thời cần tranh thủ tận dụng các nhân tố mới bên ngoài của quá trình hội nhập quốc tế toàn cầu hóa, nhất là tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cuộc cách mạng công nghiệp 4.0). Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN, diễn ra từ ngày 11 – 13 tháng 09 năm 2018 tại Hà Nội với chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và cách mạng công nghiệp lần thứ 4” đã chỉ rõ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra thời 194
- cơ phát triển hoặc nguy cơ tụt hậu nếu các nước trong khu vực không biết tận dụng cơ hội, chuẩn bị tốt các điều kiện để đón bắt, triển khai cuộc cách mạng này. Phát biểu khai mạc tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết nhiều người cứ nói đến ASEAN với các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, coi là một công xưởng sản xuất của thế giới, nay dưới tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ASEAN được biết đến như là một trong những nơi khởi nguồn nhiều ý tưởng mới sáng tạo trên thế giới. Chính công nghệ cao và nền kinh tế số mới là những lĩnh vực đầy tiềm năng của ASEAN, với dự báo sẽ tăng gấp 4 lần, lên tới 200 tỷ USD vào năm 2025. ASEAN có thể đi tắt trong chính sách công nghiệp hóa, có thể vượt qua các giai đoạn phát triển công nghiệp truyền thống bằng cách phát triển trí tuệ nhân tạo, robot tự động hóa, công nghệ in 3D, vật liệu nano nhằm nâng cao năng suất lao động, sử dụng hiệu quả nguồn lực và tài nguyên. Tuy nhiên, những thách thức mà ASEAN phải đối mặt rất lớn, theo số liệu Tổ chức Lao động thế giới (ILO), 56% số việc làm của các nước ASEAN có khả năng chuyển sang trí tuệ nhân tạo và robot, do đó có nguy cơ chấm dứt kỷ nguyên công xưởng truyền thống của các nước, các tác động thách thức về mặt việc làm, thu nhập, an sinh xã hội, an ninh mạng sẽ rất lớn (2) (Thời báo Kinh tế Việt Nam số 220, ngày 13/09/2018). Kinh nghiệm quốc tế và của các nước ASEAN gợi mở những bài học quý để Việt Nam tham khảo trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh mới dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0. 2-Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Một trong những thành quả, xu thế phát triển mới của nhân loại trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21 là sự ra đời, phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0). Xét về mặt nguồn gốc, cuộc cách mạng này xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” , khái niệm “công nghiệp 4.0” được đưa ra vào năm 2011 tại Hội chợ Hannover giới thiệu các dự kiến của các công trình công nghiệp 4.0 của nước Đức, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền công nghiệp, kinh tế nước này. Theo ông Klaus Schwab, người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới đã phân tích bản chất của Cách mạng công nghiệp 4.0 so với các cuộc cách mạnh công nghiệp trước đó: “ Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Đến bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật và sinh học”. (1) 195
- Theo ông, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực chính gồm: kỹ thuật số, vật lý và công nghệ sinh học. Cụ thể những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là: trí tuệ nhân tạo (AI-Artificial Inteligence), Internet kết nối vạn vật ( IoT-Internet of Things), máy tính lượng tử (Quantum Computers), công nghệ điện toán đám mây (Cloud Computing ), dữ liệu lớn ( Big Data), dữ liệu nhanh (Fast Data) chúng đã và đang làm không gian mạng thay đổi sâu sắc cả về chất và lượng, tiến hóa thành một hình thái mới được gọi là “không gian mạng phức hợp”, đó là sự biến đổi to lớn về quy mô và các mối liên hệ có sự biến đổi về chất của không gian mạng, điều này trước hết gắn với trình độ phát triển cao của công nghệ thông tin, internet. Không gian này được dự báo sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội loài người. Trên lĩnh vực vật lý với Robot thế hệ mới, trình độ tự động hóa cao đang là cuộc cách mạng thay đổi phương thức sản xuất trong nhiều công đoạn của quá trình sản xuất mới, thay thế sức lao động của con người bằng máy móc hiện đại, đồng thời với sự ra đời phát triển mạnh mẽ của công nghệ trí tuệ nhân tạo, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới và nhất là công nghệ nano.(2) Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu mới. Như vậy, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra trong bối cảnh Internet ngày càng phát triển, phổ biến, tính di động cao, được trang bị các bộ cảm biến nhỏ, nhẹ nhưng công suất mạnh với giá thành ngày càng rẻ. Cùng với sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo, công nghệ mới đã và đang tạo ra một thế giới mà trong đó có các hệ thống ảo và vật lý của chuỗi sản xuất trên toàn cầu có thể kết hợp với nhau một cách linh hoạt, cho phép sản xuất theo yêu cầu của thị trường, người tiêu dùng ngày càng đa dạng. Khác với các cuộc cách mạnh công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang tính đột phá cao ,theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá cách mạng công nghiệp 4.0 là “không có tiền lệ lịch sử”, cách mạng công nghiệp 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính trong toán học. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa-vật lý-sinh học với sự đột phá của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, nền văn minh của nhân loại trong thế kỷ 21. Đặc điểm cơ bản của nó là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin. Làn sóng công nghệ mới này đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế giới, đang tạo ra tác động mạnh mẽ, ngày một gia tăng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội. Internet, điện thoại thông minh và hàng nghìn các ứng dụng 196
- công nghệ khác đang làm cho cuộc sống của con người trở lên dễ dàng hơn và năng suất lao động cao hơn. Nhìn chung, tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra với tốc độ nhanh, phạm vi bao phủ rộng, từ lĩnh vực sản xuất đến đời sống, từ hoạt động của mỗi cá nhân đến tổ chức, doanh nghiệp và của cả chính phủ, các bộ ngành. Các hiện tượng như xe không người lái, nhà máy thông minh, thành phố thông minh, chính phủ điện tử đang là những ví dụ về tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến đời sống xã hội. Cách mạng công nghiệp 4.0 là bước phát triển tiếp theo của các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó: - Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào nửa cuối thế kỷ 18, bắt đầu ở nước Anh với thay đổi từ sản xuất với lao động chân tay, sức lao động cơ bắp đến sản xuất cơ khí máy móc do phát minh ra động cơ hơi nước. - Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra nửa cuối thế kỷ 19 cho đến khi Đại chiến thế giới lần thứ Nhất xảy ra năm 1914, với đặc trưng thay đổi từ sản xuất đơn lẻ sang sản xuất hàng loạt bằng máy móc chạy bằng năng lượng điện. - Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ những năm 1970 của thế kỷ XX với sự ra đời của sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet. - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xác định đang bắt đầu từ vài năm gần đây, về bản chất là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano vật liệu mới với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trên phương diện toàn cầu, không chỉ nước Đức có chương trình công nghiệp 4.0, trong thời điểm đó còn nhiều nước phát triển có chương trình chiến lược về sản xuất ứng dụng các thành tựu tiến bộ, tiên tiến của khoa học - công nghệ đang diễn ra rất nhanh. Ở nước Mỹ có “Chiến lược quốc gia về sản xuất tiên tiến” cho ba thập kỷ tới, nước Pháp có “ Bộ mặt mới của công nghiệp nước Pháp”, Hàn Quốc có “ Chương trình tăng trưởng của Hàn Quốc trong tương lai”, Trung Quốc có chương trình “ Sản xuất tại Trung Quốc năm 2025”, Nhật Bản có kế hoạch xây dựng “ Xã hội thông minh 5.0”. (3) Như vậy, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra tại các nước phát triển G7 như Mỹ, EU, Nhật Bản và tại các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc các quốc gia khác cũng tham gia ở mức độ khác nhau và chịu sự tác động của cuộc cách mạng này. 3-Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư -Động lực sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 chính là phát triển công nghệ số hóa tập trung vào ba trụ cột chính như đã phân tích, đây là cuộc cách mạng mới trong phương thức sản xuất dựa trên những thành tựu của công nghệ số trong lĩnh 197
- vực trí tuệ nhân tạo và internet kết nối vạn vật, công nghệ nano. Với những đặc thù này cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tốc độ cao, thay đổi nhanh chóng, có sự kết hợp nhiều công nghệ khác nhau và sẽ tác động sâu rộng tới mọi mặt của đời sống xã hội. Theo dự báo cuộc cách mạng này là một sự thay đổi lớn mang tính đột phá về quy mô phạm vi tác động lớn hơn nhiều so với cuộc cách mạng trước và sẽ tác động tới tất cả các ngành nghề lĩnh vực đời sống xã hội, chứ không phải chỉ liên quan trong ngành công nghiệp quy mô toàn xã hội, hệ thống các doanh nghiệp và từng cá nhân, từng người dân. Cuộc Cách mạng này đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức trong sự phát triển kinh tế xã hội quy mô toàn cầu, đối với từng quốc gia cũng như tác động đến từng công ty, cá nhân chủ thể. -Về lâu dài cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động tích cực, thúc đẩy tăng năng suất lao động, hoàn thiện điều hành quản trị của doanh nghiệp theo hướng hiện đại hơn, đồng thời quản trị rủi ro tốt hơn, thúc đẩy cải cách hành chính, xây dựng các thành phố thông minh, chính phủ điện tử. Về phương diện kinh tế, nó thúc đẩy nền kinh tế chuyển từ thanh toán tiền mặt sang thanh toán qua thẻ hệ thống mạng, xu hướng phát triển của tiền điện tử sẽ tác động tới hệ thống thanh toán và thị trường tiền tệ, thanh toán qua mạng dần dần trở thành chủ đạo, đồng thời thúc đẩy liên kết, giao lưu họp hành qua mạng xã hội. Bên cạnh cơ hội mới to lớn tạo ra, Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với nhân loại, có thể kể đến một số thách thức như sau: -Cuộc cách mạng này có thể phá vỡ cơ cấu lao động truyền thống khi tự động hóa robot thay thế lao động chân tay trong nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh, có khả năng hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào hoàn cảnh thất nghiệp. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới, sự tác động của cuộc cách mạng này đối với cơ cầu lao động xã hội sẽ thay đổi theo từng giai đoạn, giai đoạn đầu sẽ là thách thức với những lao động văn phòng, bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải. Sau đó những biến động về kinh tế nảy sinh từ cuộc cách mạng 4.0 có thể sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống xã hội, tác động đến thể chế chính trị, nếu những khó khăn về việc làm thu nhập, phân hóa giầu nghèo không được giải quyết sẽ dẫn đến bất ổn về chính trị. -Những thay đổi về cách thức giao tiếp trên internet cũng đặt ra nhiều thách thức đối với con người trong thời đại kỷ nguyên số hóa, nhất là sự nguy hiểm về sức khỏe, an ninh tài chính, an ninh mạng, việc bảo hộ thông tin cá nhân cũng dược đặt ra ở yêu cầu cao hơn. -Ngoài ra, những thay đổi về mặt công nghệ kỹ thuật đòi hỏi thể chế của Nhà nước phải có đổi mới theo hướng dự báo được những xu thế thay đổi và xây dựng những giải pháp ứng phó kịp thời. Đồng thời đối với những doanh nghiệp với tư cách 198
- là lực lượng chủ yếu của sự tác động của cuộc cách mạng 4.0, cần tiếp cận nắm bắt nhanh những xu thế thay đổi của cuộc cách mạng này để điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu tài chính và cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo để chuẩn bị, thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng này. Trong cuốn sách “cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, GS Klaus Schwab chỉ ra những thách thức về khả năng các tổ chức doanh nghiệp có thể sẽ chưa sẵn sàng đón nhận các công nghệ tối tân hay các chính phủ sẽ gặp khó trong việc tuyển dụng người cũng như quản lý các công nghệ này một cách toàn diện. Giáo sư Klaus Schwab nhận định: “ Những thay đổi này sẽ sâu sắc đến mức chưa bao giờ trong lịch sử lại có một thời điểm con người đứng trước cùng lúc nhiều cơ hội lẫn rủi ro như thế. Mối quan ngại của tôi là các lãnh đạo chính trị và kinh doanh có thể sẽ giữ lối tư duy quá cổ hủ hoặc quá ám ảnh với việc các đột phá công nghệ sẽ thay đổi tương lai loài người như thế nào”. (4) 4-Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam trong thực hiện CNH, HĐH. Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn quan trọng về phát triển kinh tế -xã hội, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, hiện nay nước ta cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung của thế giới, tham gia và chịu tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, điều này tạo ra những cơ hội, thời cơ và khó khăn, thách thức đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển trong quá trình đổi mới cũng tạo ra những tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp cận, triển khai cuộc cách mạng công nghiệp này. Hơn nữa, do đặc điểm của Cách mạng công nghiệp 4.0 là không phụ thuộc chủ yếu vào máy móc, thiết bị mà tùy thuộc nhiều vào khả năng và trí tuệ của con người, năng lực sáng tạo nên Việt Nam có thể tận dụng ưu thế của nước đi sau, với cấu dân số vàng (số lao động tuổi trẻ chiếm chủ yếu), số người sử dụng điện thoại thông minh, internet chiếm tỷ lệ cao của khu vực, mặt khác Nhà nước , Chính phủ Việt Nam quan tâm, triển khai các nội dung để nắm bắt và ứng dụng các thành tựu, và hạn chế thách thức khó khăn của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trong việc phát triển kinh tế - xã hội. -Bên cạnh thuận lợi, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức nghiêm trọng như: trong khi thế giới đang tiến vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì Việt Nam vẫn chủ yếu ở giai đoạn 2 tức thực hiện dây chuyền gia công, lắp ráp. Theo thống kê 97% doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa , năng lực cạnh tranh, trình độ khoa học công nghệ, nhất là chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Theo thống kê đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hiện nay đang sử dụng công nghệ của những năm 1980, trong đó có 52% đang sử dụng thiết bị lạc hậu, 38% sử dụng thiết bị trung bình, chỉ có 10% là sử dụng thiết bị tương đối hiện đại. Chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học- công nghệ của doanh nghiệp bình quân còn quá thấp, mới chiếm 0,3% tổng doanh thu. (5). Ở Việt Nam 199
- hiện nay, theo thống kê có đến 82% doanh nghiệp chưa có động thái rõ ràng tích cực chuẩn bị cho việc triển khai cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. -Phần lớn lao động Việt Nam chưa được đào tạo bài bản, năng lực lý thuyết và tay nghề còn hạn chế nhất là kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ tiếng Anh để giao tiếp làm việc. Đây là thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt nền tảng công nghệ cao còn hạn chế, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Do vậy về lâu dài Nhà nước cần xây dựng chiến lược và chính sách công nghiệp phù hợp để nắm bắt kịp xu thế toàn cầu, không để “lỡ tàu” một lần nữa. - Bên cạnh thành tựu và cơ hội đem lại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sản xuất nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có gần 70% dân số làm nông nghiệp, nhưng chỉ đóng góp khoảng 20% GDP, trong khi ở các quốc gia phát triển như Hà Lan, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2-4% dân số, nhưng đóng góp tới 40% GDP. Báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới (WB) về “Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: Tăng giá trị, giảm đầu vào” đã chỉ ra xu hướng chung gần đây là GDP nông nghiệp Việt Nam đang giảm, tốc độ tăng năng suất lao động chậm lại, trong khi khoảng cách về thu nhập giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp đang mở rộng. Báo cáo khẳng định để thay đổi được điều này, ngành nông nghiệp Việt Nam cần có cách làm khác, trên cơ sở đổi mới tư duy và cách tiếp cận, cần tập trung chú trọng phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.(6) -Khi ứng dụng công nghệ số, thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến sự thay đổi về mô hình sản xuất, văn hóa kinh doanh, mô hình tổ chức điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải xử lý, thích ứng sự thay đổi này. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi cơ cấu lao động, làm cho sự chuyển dịch lao động diễn ra nhanh hơn, quy mô lớn hơn. Theo nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) có hai ngành mà Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh nhất đó là dệt may và điện tử, điện máy, bởi lẽ những ngành này chịu tác động của quá trình tự động hóa rất lớn. Dự báo sẽ có khoảng 86% lao động ngành dệt may và 75% lao động ngành điện tử sẽ chịu sự tác động. Một số ngành khác cũng sẽ bị ảnh tác động của cuộc cách mạng này là chăm sóc sức khỏe, y tế giáo dục, bán lẻ, giao thông vận tải. (7) -Theo dự báo những rủi ro về công nghệ sẽ ra tăng với những vấn đề và an ninh mạng, thanh toán dữ liệu mức độ cạnh tranh sẽ tinh vi và khốc liệt hơn trước rất nhiều, trong đó các công ty công nghệ tài chính Fintech sẽ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng thương mại. -Bên cạnh đó trước xu hướng phát triển Cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu giải quyết vấn đề nguồn nhân lực, đào tạo được đội ngũ nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang là vấn đề trung tâm, thách thức to lớn đối với Việt Nam hiện nay. Yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao 200
- là một trong những vấn đề lớn nhất trong cuộc cách mạng 4.0 do những thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực trong thị trường kỹ thuật số, theo dự báo trong những năm tới Việt Nam sẽ thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực, trong lĩnh vực công nghệ thông tin nói chung và công nghệ cao nói riêng, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 78 nghìn nhân lực mỗi năm và đến năm 2020 sẽ thiếu hơn 500 nghìn nhân lực chiếm 78% tổng nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin. (8) Theo đánh giá của các chuyên gia về lao động về tay nghề, thể lực lao động của người Việt Nam còn nhiều hạn chế trong khi tác phong kỷ luật công nghiệp chưa cao, đồng thời năng suất lao động của Việt Nam cũng thua xa các nước trong khu vực như: Thái Lan, Malaisia, Indonesia do vậy sắp tới trong điều kiện tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 lợi thế cạnh tranh về lao động giá rẻ sẽ bị giảm sút nhất là trong ngành dệt may, da giầy, những ngành lao động mang tính gia công làm thuê, thực tế yêu cầu lao động Việt Nam và phải được đào tạo, có trình độ chuyên môn cao hơn, phải làm chủ được người máy, công nghệ thông tin, có trình độ tiếng Anh giao tiếp tốt. Theo dự báo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), công nghệ thông tin và tiếng Anh là hai yếu tố nền tảng giúp thế hệ trẻ chủ động tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói chung và cách mạng số nói riêng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển trên nền tảng khoa học công nghệ do đó để có thể tiếp cận xu thế của cuộc cách mạng này, một trong những yêu cầu quan trọng là áp dụng khoa học công nghệ, nhất là số hóa công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính, dịch vụ công của các cơ quan Nhà nước, trong quá trình xây dựng nhà nước liêm chính, kiến tạo phát triển và hành động vì doanh nghiệp và người dân. Điều này đòi hỏi sự có sự thống nhất và nhận thức và vào cuộc đồng bộ của các Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp cũng như đến mỗi cán bộ công chức và người dân. Chuyển tư duy nhận thức từ cơ chế nền hành chính “mệnh lệnh” “xin – cho” sang nền hành chính phục vụ, coi người dân và doanh nghiệp thực sự là “đối tác, khách hàng” trong cung cấp dịch vụ công. Điều đó đòi hòi phải nhanh chóng xây dựng Luật Hành chính công mới tạo hành lang pháp lý góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử đồng thời nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân. Bên cạnh đó cần chú trọng triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trên các phương diện như: Tăng cường đầu tư, hoàn thiện văn bản pháp quy để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, đẩy nhanh quá trình xây dựng chính phủ điện tử, Luật Hành chính công. 5. Dự báo và giải pháp a. Dự báo - Chuyên gia của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế ( OECD) nhận định cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) mới đang ở giai đoạn sơ khai, cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cũng chưa thể đánh giá và dự báo hết được các tác động to lớn của nó. Nhưng thực tế nhiều nước trên 201
- thế giới đã chủ động xây dựng chương trình hành động để nắm bắt thời cơ, tận dụng mọi cơ hội mà cuộc cách mạng này đem lại và hạn chế những thách thức, khó khăn nảy sinh. Thực tế lịch sử cho thấy sự phát triển thần kỳ của các nước công nghiệp mới Đông Á được bắt nguồn từ việc sớm tiếp cận và đi thẳng vào Cách mạng công nghiệp lần thứ ba ngay từ bắt đầu khởi phát vào đầu thập niên 1970. - Ở Việt Nam, do điều kiện chiến tranh và hoàn cảnh lịch sử không có được cơ hội và điều kiện để tiếp cận và bắt kịp ngay từ đầu Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Do vậy vào thời điểm thế giới bắt đầu khởi phát cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đây là cơ hội ngàn vàng, hiếm có để Việt Nam tiến thẳng vào các lĩnh vực công nghệ cao, tranh thủ các thành tựu do cuộc cách mạng này đem lại để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nguy cơ một số nước bị bỏ lại phía sau nếu không có những chiến lược và chính sách, bước đi đúng đắn để bắt kịp với xu thế phát triển mới. Gần đây, nước Đức đã thử nghiệm sản xuất giầy Adidas hoàn toàn bằng robot và công nghệ in 3D để đưa việc sản xuất trở lại các cường quốc, việc làm này nếu mở rộng có thể làm mất việc làm của hàng triệu người trong đó có nhiều người Việt Nam. (9) - Điều đó cho thấy các quốc gia không chỉ dựa vào lợi thế về vốn, công nghệ và tài nguyên khoáng sản sẵn có của nước mình như trước mà phải tìm đến các lợi thế khác về năng lực sáng tạo và khai thác trí tuệ con người. Việt Nam cũng rất khó khăn nếu chỉ dựa vào khai thác những yếu tố như về vốn, công nghệ và tài nguyên khoáng sản, nhưng bù lại Việt Nam có rất nhiều dư địa về tài nguyên con người, đó là thế hệ dân số trẻ, có khả năng tiếp cận và thích nghi nhanh với công nghệ thông tin và giáo dục đào tạo sẽ là chìa khóa để Việt Nam phát huy lợi thế so sánh này. Đây là cơ hội nhưng cũng đồng thời là trách nhiệm, thách thức to lớn của ngành giáo dục và đào tạo hiện nay. -Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phản ánh một trong những xu thế lớn của thời đại hiện nay, đang làm thay đổi góp phần định hình lại thế giới, đưa nền sản xuất văn minh của nhân loại sang một giai đoạn phát triển mới. Vấn đề đặt ra không phải là Việt Nam có nên tham gia hoặc có thể bắt kịp xu hướng phát triển vào cuộc cách mạng 4.0 mà ngược lại nếu không tham gia vào xu hướng chung thì nền kinh tế và công nghiệp nước ta có thể xảy ra tình trạng “lỡ tàu” một lần nữa, làm cho nguy cơ tụt hậu xa hơn về phát triển kinh tế ngày càng nặng nề hơn. b. Giải pháp - Nhận thức được xu thế phát triển của thời đại, nhất là vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua luôn quan tâm đến sự phát triển của khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, coi đó là quốc sách hàng đầu là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế trí thức, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ trương 202
- tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân tổ chức doanh nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ mới tiên tiến vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ những hạn chế yếu kém như: “Khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế-xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm và trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả công nghệ chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp”. Đồng thời Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII xác định rõ mục tiêu phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN, đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. (10) -Thực hiện cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 4/5/2017, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với Việt Nam. Chỉ thị cũng yêu cầu các Bộ ngành, địa phương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ thúc đẩy phát triển tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng và nguồn nhân lực công nghệ thông tin- truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và đảm bảo an toàn an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân vào doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệp 4.0. Trên cơ sở này, cần tập trung vào một số giải pháp trọng yếu sau: -Vì cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. diễn ra với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với các cuộc cách mạng trước đây nên đổi mới giáo dục, đổi mới đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ quan trọng mà rất cấp bách hiện nay, trong đó chú trọng nâng cao trình độ công nghệ thông tin và tiếng Anh ở các bậc học theo hướng hội nhập quốc tế. -Tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện môi trường kinh doanh cạnh tranh, cải cách hành thủ tục chính để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, đưa Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp là con đường nhanh nhất để phát triển lực lượng doanh nghiệp, 203
- nhất là doanh nghiệp công nghệ cao, tạo những nhân tố phát triển đột phá trong nền kinh tế số, tập trung xây dựng thúc đẩy các hoạt động ứng dụng nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng 4.0. Trước hết cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ sản xuất mới. - Các Bộ ngành khẩn trương triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, xây dựng nhà máy, thành phố thông minh. Tập trung xây dựng chiến lược chuyển đổi và phát triển nền quản trị hành chính và doanh nghiệp thông minh, các ngành như nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh Theo hướng này cần tiếp tục rà soát lựa chọn phát triển các sản phẩm chủ lực, mang tính cạnh tranh chiến lược của quốc gia trên cơ sở ứng dụng các công nghệ sản xuất mới, để tập trung đầu tư phát triển. - Về lâu dài cần có kế hoạch tập trung đầu tư cho các ngành mũi nhọn trong điểm của quốc gia như công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới nano, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng. -Đổi mới cơ chế và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp, chú trọng cơ chế về tài chính, thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực đổi mới công nghệ nhất là đối với công nghệ thông tin và công nghệ tiên tiến khác. Tận dụng tiềm năng tri thức, kinh nghiệm chuyển giao công nghệ mới của lực lượng Việt kiều ở nước ngoài. -Để tận dụng cơ hội và khắc phục thách thức khó khăn dưới tác động cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, cần tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức, tuyên truyền thông tin về bản chất xu hướng phát triển và tác động của cuộc cách mạng này, những thời cơ thách thức đặt ra để định hướng dư luận từ các cơ quan của Chính phủ, Bộ ngành đến các tổ chức, doanh nghiệp và người dân có nhận thức đẩy đủ và đúng đắn vể Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. -Vì hạ tầng công nghệ thông tin mà điều kiện nền tảng để tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nên trong Chương trình hành động của Chính phủ ngoài việc quyết tâm chính trị, nắm bắt thời cơ, cần chú trọng các yếu tố về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, cần đầu tư đồng bộ, tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu mang tính nền tảng. Bên cạnh đó thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo dậy nghề trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu làm chủ và khai thác vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, cần xây dựng phương án, đề xuất các chính sách mới phù hợp với việc thay đổi trong cơ cấu lao động, giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với cơ cấu thị trường lao động, đảm bảo thực hiện an sinh xã hội. 204
- Kết luận :Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất văn minh của nhân loại, cuộc cách mạng này diễn ra với tốc độ nhanh hơn, phạm vi rộng lớn từ sản xuất đến đời sống, từ hoạt động của mỗi cá nhân đến các tổ chức doanh nghiệp, và cả chính phủ các bộ ngành, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Cuộc cách mạng này cũng tạo ra cơ hội thách thức to lớn đối với các nước và dân tộc, nắm bắt xu thế này, Việt Nam có điều kiện tranh thủ các điều kiện thuận lợi tận dụng thời cơ, giảm thiểu các khó khăn thách thức đặt ra để rút ngắn khoảng cách phát triển nhất là về kinh tế các nước trong khu vực và thế giới, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./. Chú thích: (1) Klaus Schwab. “ The Fourth Industrial Revolution: What It means and How to Respond”, Foreign Affairs, December 2015. (2) Xem Cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?, công - nghiệp- 4-0- la – gi-153427.ict, ngày 29/5/2016. (3) Hiểu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, http: //vnexprss.net/tin – tuc/khoa- hoc/hieu-ve-cach-mang-cong- nghiep-lan- thu-tu-43574624.html, ngày 24/4/2017 (4) Klaus Schwab. “ The Fourth Industrial Revolution: What iIt means and How to Respond”, Foreign Affairs, December 2015. (5) Công nghiệp Việt Nam thiếu “anh cả”, Báo Tuổi trẻ, thứ hai ngày 28/11/2016. Tr 3 (6 ) Hoàn thiện thể chế ngành nông nghiệp, Thời báo kinh tế Việt Nam , số 75, ngày 29/3/2017. (7 ) Doanh nghiệp trước Cách mạng công nghiệp 4.0. Thời báo kinh tế Việt Nam số 122, thứ ba ngày 23/5/2017. (8) Chuẩn bị nhân lực cho Cách mạng công nghiệp 4.0, Thời Báo kinh tế Việt Nam số 125+126, ngày 26-27/5/2017 Tr.22. (9) Doanh nghiệp trước Cách mạng công nghiệp 4.0. Thời báo kinh tế Việt Nam số 122, thứ ba ngày 23/5/2017. (10) Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb chính trị quốc gia -Sự thật, Hà Nội 2016 Tr.119-120. 205