Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và việc hoàn thiện khung pháp lý về biện pháp phòng vệ thương mại của Việt Nam

pdf 8 trang Gia Huy 18/05/2022 3410
Bạn đang xem tài liệu "Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và việc hoàn thiện khung pháp lý về biện pháp phòng vệ thương mại của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfhiep_dinh_thuong_mai_tu_do_the_he_moi_va_viec_hoan_thien_khu.pdf

Nội dung text: Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và việc hoàn thiện khung pháp lý về biện pháp phòng vệ thương mại của Việt Nam

  1. HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI VÀ VIỆC HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP PHÕNG VỆ THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM Ths. Đỗ Thị Hồng Quyên Trƣờng Đại học Thƣơng Mại Tóm lược: Trong bối cảnh hội nhập thương mại quốc tế hiện nay, với mục đích bảo vệ hoặc hỗ trợ ngành sản xuất trong nước tránh bị thiệt hại từ hàng hoá nhập khẩu thì các biện pháp phòng vệ thương mại đang được xem là một phần quan trọng trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. Nghiên cứu các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và những tác động đối với pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam, bài viết sẽ đề cập tới một số vấn đề về sự tác động của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đối với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các biện pháp phòng vệ thương mại dựa trên cơ sở tôn trọng các cam kết quốc tế. Từ khóa: Hiệp định thương mại tự do, khung pháp lý, phòng vệ thương mại, Việt Nam 1. Khái quát chung về Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới Thuật ngữ ―Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới‖ được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các ―FTA truyền thống‖; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và đặc biệt hơn là nó đã bao gồm cả những lĩnh vực như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại tự do với 55 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 13 FTA và đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA, cụ thể: - Hiệp định CPTPP: Các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 65-95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế quan trong vòng 5-10 năm. Trong CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ số dòng thuế ở mức cao, theo đó: 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 4 khi Hiệp định có hiệu lực; 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11 khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. - Hiệp định EVFTA: Hiệp định điều chỉnh các vấn đề về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại; các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật trong thương mại, đầu tư, 861
  2. phòng vệ thương mại, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững; các vấn đề pháp lý, hợp tác và xây dựng năng lực. Việt Nam và EU cam kết sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99% số dòng thuế trong khoảng thời gian 7 năm đối với EU và 10 năm đối với Việt Nam, với lộ trình (1) ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế sẽ được xoá bỏ thuế quan, (2) sau 3 năm là 58,7% số dòng thuế, (3) sau 5 năm là 79,6% số dòng thuế, (4) sau 7 năm là 91,8% số dòng thuế và (5) sau 10 năm là 98,3% số dòng thuế. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn thuế xuất khẩu hàng hóa sang EU với lộ trình lên đến 15 năm. 2. Biện pháp phòng vệ thƣơng mại trong các Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới và thực tiễn sử dụng biện pháp phòng vệ thƣơng mại của Việt Nam trong hoạt động thƣơng mại quốc tế hiện nay 2.1 Biện pháp phòng vệ thương mại trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới Khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để hàng hóa có thể lưu thông một cách tối đa qua biên giới các nước thì việc cắt giảm và xoá bỏ những rào cản thương mại là thực sự cần thiết. Bởi vậy, các biện pháp bảo hộ thương mại truyền thống như thuế nhập khẩu sẽ bị loại bỏ. Tuy nhiên, trong những trường hợp hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh không công bằng, gây thiệt hại đáng kể để bảo vệ ngành sản xuất của nước nhập khẩu thì Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vẫn cho phép áp dụng một số biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM), các biện pháp PVTM gồm có biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được áp dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không công bằng của hàng hóa nhập khẩu (như bán phá giá hoặc được trợ cấp). Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa trong nước nhằm hạn chế những tác động tiêu cực, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, do hàng hóa nhập khẩu gia tăng đột biến. Các biện pháp này đều được quy định chi tiết tại Điều IV, XVI và XIX của GATT 1994 và các Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng và Hiệp định Tự vệ của WTO. Thêm vào đó, các biện pháp muốn được áp dụng cần phải qua quá trình điều tra, tuân thủ các quy định của các Hiệp định có liên quan của WTO, trong trường hợp bị áp dụng sai so với các quy định của WTO sẽ là đối tượng bị khởi kiện. Vậy, câu hỏi đặt ra là: Tại sao trong các Hiệp định thương mại tự do nói chung và các Hiệp định thương mại tư do (FTA) thế hệ mới nói riêng lại có các điều khoản qui định về biện pháp phòng vệ thương mại? Có lẽ, lý do thứ nhất khiến các FTA cần có những điều khoản về PVTM, đó chính là sự lo ngại về những hệ quả tiêu cực tác động tới ngành sản xuất trong nước từ các Hiệp định. Lý do thứ hai, việc duy trì các biện pháp PVTM trong FTA có thể hỗ trợ hữu ích cho quá trình tìm kiếm sự ủng hộ của các doanh nghiệp đối với đàm phán, thực thi Hiệp định.Theo đó, những cam kết về PVTM cũng sẽ giống như những nội dung tương tự khác như: Kéo dài giai đoạn chuyển đổi, quy định phức tạp về quy tắc xuất xứ và quy định những ngành nhạy cảm 862
  3. trong một hiệp định FTA, tất cả vì mục tiêu hỗ trợ, bảo vệ những ngành hàng cạnh tranh nhạy cảm đối với hàng nhập khẩu. Các biện pháp PVTM được quy định tại các FTA nói chung bao gồm: - Đối với biện pháp chống bán phá và trợ cấp: Các quy định chống bán phá giá và trợ cấp trong FTA nói chung và FTA thế hệ mới nói riêng được phân loại cụ thể là: (i) Không chấp nhận biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp áp dụng đối với thành viên của FTA; (ii) Quy định một cách không cụ thể; (iii) Quy định cụ thể biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp áp dụng đối với thành viên FTA và đối với một số FTA như: EVFTA còn quy định chi tiết một số điều khoản WTO+; CPTPP quy định các thông lệ khuyến khích thành viên tuân thủ nhằm tăng tính minh bạch của các cơ quan điều tra, áp dụng biện pháp. - Đối với biện pháp tự vệ: Các FTA thường phân loại biện pháp tự vệ thành hai nhóm: (1) Biện pháp tự vệ song phương hoặc trong khuôn khổ FTA; (2) Biện pháp tự vệ toàn cầu. Trong đó, nhóm (1) chỉ được áp dụng đối với các thành viên của FTA nhằm ứng phó với hệ quả khi thực hiện cam kết trong Hiệp định như: Giảm thuế, hàng nhập khẩu gia tăng gây thiệt hại cho sản xuất trong nước. Nhóm (2) là biện pháp tự vệ theo ý nghĩa của điều XIX – GATT (Biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nhất định) và Hiệp định tự vệ của WTO. Cấp độ của biện pháp tự vệ cũng được phân loại tương tự chống bán phá giá và trợ cấp gồm: Không cho phép, quy định không cụ thể và quy định chi tiết. Nội dung cam kết về lĩnh vực PVTM trong các FTA về cơ bản được qui định cụ thể như sau: - Các nội dung về PVTM cơ bản đều dựa trên các cam kết chung về PVTM trong khuôn khổ WTO. - Tùy thuộc vào đối tác và tầm quan trọng của thị trường xuất khẩu, Việt Nam có thể linh hoạt trong phạm vi và nội dung áp dụng biện pháp PVTM. - Về nội dung quy định, đa số các quy định về PVTM trong các FTA của Việt Nam liên quan đến biện pháp tự vệ, bao gồm biện pháp tự vệ toàn cầu và biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp. Các hiệp định CPTPP, EVFTA quy định cụ thể đề cập đến các biện pháp khác như: Chống bán phá giá, chống trợ cấp theo hướng dẫn chiếu tới việc áp dụng quy định của WTO. - Đối với các biện pháp tự vệ toàn cầu, biện pháp chống bán phá giá và biện pháp chống trợ cấp, các Hiệp định FTA hầu hết dẫn chiếu đến các nghĩa vụ theo các Hiệp định liên quan của WTO. 2.2 Thực tiễn áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế. Cùng với khả năng sử dụng các biện pháp PVTM để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, các doanh nghiệp có năng lực xuất khẩu lớn của Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM. Khi các nước đối tác FTA cam kết xóa bỏ hàng rào thuế quan, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng được hưởng lợi từ điều này. Như đã phân tích ở trên, xuất khẩu Việt Nam sang một số đối tác FTA đã gia tăng đáng kể trong 863
  4. thời gian gần đây hoặc sau khi FTA có hiệu lực. Tuy nhiên, lợi ích cũng đi kèm với rủi ro thách thức. Hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể đứng trước nguy cơ bị các nước đối tác FTA điều tra, áp dụng các biện pháp PVTM nhiều hơn. Điều này càng có cơ sở khi các đối tác FTA của Việt Nam nằm trong số những nước sử dụng công cụ PVTM nhiều nhất trên thế giới (Ví dụ như: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan ). Cho tới nay, thực hiện chủ trương chủ động hội nhập kinh tế, nền kinh tế nước ta đã hội nhập rất sâu, rộng thể hiện ở việc tham gia WTO và 17 Hiệp định Thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA). Việc thực hiện cam kết trong WTO và các Hiệp định FTA đã tạo ra cơ hội to lớn cho nền kinh tế nhưng cũng đặt các ngành sản xuất của ta trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng hoá nhập khẩu, đặc biệt là từ các nước trong khu vực. Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, Việt Nam đã và đang phát huy vai trò của các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) như một công cụ để đảm bảo môi trường thương mại công bằng. Đây là nhóm gồm các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ mà WTO và các Hiệp định FTA cho phép áp dụng nhằm ngăn chặn tác động tiêu cực của hàng nhập khẩu đến sản xuất trong nước và công ăn việc làm, đảm bảo an ninh kinh tế và an sinh xã hội. Cùng với diễn biến phức tạp của kinh tế khu vực và toàn cầu, chính sách bảo hộ thương mại của một số nền kinh tế lớn đang gia tăng và xung đột thương mại Mỹ-Trung kéo dài, các nước trên thế giới cũng đang tăng cường sử dụng các biện pháp PVTM để đối phó với tình trạng nhập khẩu.1 Trong bối cảnh đó, Bộ Công Thương đã sát cánh cùng doanh nghiệp làm việc với cơ quan quản lý các nước nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho hàng hóa xuất khẩu của ta. Tính đến thời điểm hiện tại2, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra 15 vụ việc PVTM, trong đó gồm: 08 vụ việc chống bán phá giá, 06 vụ việc tự vệ và 01 vụ việc chống lẩn tránh thuế tự vệ. So với con số hơn 150 vụ việc mà các nước đã điều tra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thì con số 15 vụ việc vẫn còn khiêm tốn. Nguyên nhân chính là do chủ trương khuyến khích tự do hóa thương mại của ta và Việt Nam chỉ áp dụng các biện pháp PVTM trong trường hợp thật sự cần thiết trên cơ sở kết quả điều tra đảm bảo các quy định pháp luật. Con số này có thể tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, vì vậy, doanh nghiệp cần chuẩn bị tâm lý, nguồn lực, chiến lược ứng phó cho các vụ việc trong tương lai có thể xảy ra. 3. Pháp luật về phòng vệ thƣơng mại của Việt Nam trong bối cảnh đàm phán, ký kết thực thi các qui định về phòng vệ thƣơng mại trong các FTA và FTAs 3.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về phòng vệ thương mại Nhìn từ góc độ chính sách pháp lý: Các FTA ra đời luôn là thời điểm, cơ hội để các nhà làm luật rà soát, chỉnh sửa lại các văn bản pháp luật có liên quan cho phù hợp với xu thế mới. Về nguyên tắc, hệ thống pháp luật Việt Nam luôn nỗ lực hoàn thiện theo hướng tuân thủ các cam kết quốc tế. 1 An Nguyên, Phòng vệ thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. 2 864
  5. Trước năm 2018, hệ thống pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam bao gồm các văn bản pháp luật được xây dựng trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2006 dưới dạng các Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ. Sau hơn 10 năm thực thi các văn bản này, đánh giá sự cần thiết phải nâng cao cơ sở pháp lý đối với lĩnh vực này. Năm 2017, Luật Quản lý ngoại thương đã được xây dựng, ban hành và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2018, văn bản này đã thay thế cho Pháp lệnh về điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Đây được coi là bước tiến mới của Việt Nam trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nội địa phù hợp với quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bên cạnh luật Quản lý ngoại thương Việt Nam còn ban hành một số văn bản pháp lý khác như: Nghị định số 10/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/01/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp PVTM; Thông tư số 06/2018/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 20/4/2018 quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp PVTM; Nhìn chung, những quy định này tuân thủ các nội dung của các Hiệp định WTO có liên quan. Đối với các biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp, hiện nay pháp luật Việt Nam vẫn đang dẫn chiếu áp dụng từng Hiệp định. Tuy vậy, trong trường hợp tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp, cơ quan điều tra vẫn chưa có cơ sở pháp lý về trình tự thủ tục tiến hành. Do đó, đối với Hiệp định CPTPP vừa có hiệu lực vào tháng 01/2019, Bộ Công Thương đang tiến hành xây dựng văn bản quy định, hướng dẫn thực thi Hiệp định. Đây là một nỗ lực trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực PVTM trong xu thế FTA thế hệ mới. Trong số các FTA mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, hầu hết quy định về điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và Tự vệ đều được dẫn chiếu tới Hiệp định Chống bán phá giá (ADA), Hiệp định Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO (SCM) và Hiệp định Tự vệ thương mại (SA). Ngoài ra có một số quy định mang tính chặt chẽ, với nghĩa vụ cao hơn so với quy định của WTO (WTO+). Các quy định chung về các biện pháp PVTM được quy định tại các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên tập trung vào một số nội dung cơ bản: Thứ nhất, Đối với biện pháp chống bán phá và trợ cấp: Cấp độ của các quy định chống bán phá giá và trợ cấp trong FTA nói chung và FTA thế hệ mới nói riêng được phân loại như sau: (i) Không chấp nhận biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp áp dụng đối với thành viên của FTA; (ii) Quy định một cách không cụ thể; (iii) Quy định cụ thể biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp áp dụng đối với thành viên FTA và đối với một số FTA như: EVFTA còn quy định chi tiết một số điều khoản WTO+; CPTPP quy định các thông lệ khuyến khích thành viên tuân thủ nhằm tăng tính minh bạch của các cơ quan điều tra, áp dụng biện pháp. Thứ hai, Đối với biện pháp tự vệ: Các FTA thường phân loại biện pháp tự vệ làm hai nhóm: Nhóm (1) Biện pháp tự vệ song phương hoặc trong khuôn khổ FTA; (2) Biện pháp tự vệ toàn cầu. Trong đó, nhóm (1) chỉ được áp dụng đối với các thành viên của FTA nhằm ứng 865
  6. phó với hệ quả khi thực hiện cam kết trong hiệp định như: Giảm thuế, hàng nhập khẩu gia tăng gây thiệt hại cho sản xuất trong nước. Nhóm (2) là biện pháp tự vệ theo ý nghĩa của điều XIX – GATT và hiệp định tự vệ của WTO. Cấp độ của biện pháp tự vệ cũng được phân loại tương tự chống bán phá giá và trợ cấp gồm: Không cho phép, quy định không cụ thể và quy định chi tiết. Cụ thể, nội dung cam kết về lĩnh vực PVTM trong các FTA của Việt nam bao gồm: - Các nội dung về PVTM cơ bản đều dựa trên các cam kết chung về PVTM trong khuôn khổ WTO. - Tùy thuộc vào đối tác và tầm quan trọng của thị trường xuất khẩu, Việt Nam có thể linh hoạt trong phạm vi và nội dung áp dụng biện pháp PVTM. - Về nội dung quy định, đa số các quy định về PVTM trong các FTA của Việt Nam liên quan đến biện pháp tự vệ, bao gồm biện pháp tự vệ toàn cầu và biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp. Các hiệp định CPTPP, EVFTA quy định cụ thể đề cập đến các biện pháp khác như: Chống bán phá giá, chống trợ cấp theo hướng dẫn chiếu tới việc áp dụng quy định của WTO. - Đối với các biện pháp tự vệ toàn cầu, biện pháp chống bán phá giá và biện pháp chống trợ cấp, các Hiệp định FTA hầu hết dẫn chiếu đến các nghĩa vụ theo các Hiệp định liên quan của WTO. Có thể thấy, các quy định về điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp trong Luật Quản lý ngoại thương được xây dựng trên cơ sở kế thừa, phát huy từ 02 Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp của Việt Nam, mà 02 pháp lệnh này ra đời (vào năm 2004) nhằm mục đích chứng minh quy định pháp luật của Việt Nam là đầy đủ, hoàn thiện, góp phần hỗ trợ cho quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Do đó, về cơ bản, đối với các quy định dẫn chiếu tới WTO, Luật mới hoàn toàn bám sát và có thể đáp ứng được. Tuy nhiên, đối với các quy định mang tính WTO+, một số quy định vẫn chưa được cụ thể hóa rõ ràng trong Luật. Do đó, việc ban hành 2 văn bản hướng dẫn là Nghị định số 10/2018/NĐ-CP và Thông tư số 06/2018/TT-BCT đã quy định chi tiết hơn quá trình điều tra và áp thuế đối với các hành vi bán phá giá và trợ cấp tại Việt Nam. Đối với biện pháp tự vệ thương mại, Luật Quản lý ngoại thương của Việt Nam có qui định liên quan tới việc áp dụng biện pháp tự vệ khá là linh hoạt, cụ thể tại Điều 99 (trường hợp tự vệ đặc biệt) đã đưa ra định nghĩa: ―Tự vệ đặc biệt là biện pháp tự vệ được Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định áp dụng trong trường hợp gia tăng quá mức hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam do kết quả của việc giảm thuế theo lộ trình của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.‖ Và ―Việc điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt phải tuân thủ điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.‖. Như vậy, pháp luật Việt Nam về PVTM cho phép Việt Nam tuân thủ các quy định liên quan đến điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ trong khuôn khổ FTA. So với các cam kết khi gia nhập WTO, thì các FTA nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng có mức độ cam kết sâu và rộng hơn rất nhiều với mức độ mở cửa lớn hơn (Việt Nam 866
  7. cam kết xóa bỏ tới 80%-90% dòng thuế) dẫn đến việc hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước đối tác FTA sẽ dễ dàng hơn. Bên cạnh đó do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn có những hạn chế, nhiều ngành sản xuất trong nước của Việt Nam khó có thể trụ vững trước sự cạnh tranh gay gắt của hàng hóa nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, để hạn chế thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước, việc quy định cụ thể về các biện pháp PVTM trong hệ thống pháp luật của mình sẽ là cơ sở để Việt Nam điều tra, áp dụng các biện pháp phù hợp và hiệu quả. Do đó trong bối cảnh thực thi các cam kết FTA thế hệ mới thì Bộ Công Thương sẽ từng bước tiến hành xây dựng văn bản quy định, hướng dẫn thực thi các Hiệp định đã ký kết, đây có thể được xem là một nỗ lực rất lớn trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực PVTM trong xu thế FTA thế hệ mới. 3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Việt nam đang tích cực sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ, xây dựng và phát triển năng lực sản xuất trong nước. Các vụ việc phòng vệ thương mại hiện nay tăng so với trước đây đã cho thấy việc áp dụng các quy định theo luật quản lý ngoại thương đã dễ dàng hơn do các quy định chi tiết, cụ thể và có sự tương tích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, so với các đối tác trong các FTA thì số vụ việc điều tra và áp thuế liên quan đến phòng vệ thương mại tại Việt Nam lại chưa lớn. Nguyên nhân chính là do chủ trương khuyến khích tự do hóa thương mại và Việt Nam chỉ áp dụng các biện pháp PVTM trong trường hợp thật sự cần thiết trên cơ sở kết quả điều tra đảm bảo các quy định pháp luật. Cho đến nay, các biện pháp PVTM đã góp phần bảo vệ công ăn việc làm của hàng trăm nghìn lao động thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngoài ra, thuế PVTM còn góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước với mức thuế thu được ước tính lên tới hàng nghìn tỉ đồng cũng như bảo vệ cho hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp trong nước với ước tính chiếm khoảng 6,8% tổng GDP Việt Nam năm 20183. Các biện pháp PVTM vừa là để bảo vệ sản xuất và việc làm trong nước đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu (đặc biệt đối với các hàng hóa thiết yếu của nền kinh tế như sắt thép, phân bón, v.v), góp phần thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày 28 tháng 3 năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 755/QĐ-BCT về Chương trình tổng thể về sử dụng và ứng phó với các biện pháp PVTM nhằm hỗ trợ phát triển một số ngày công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2018-2020, xét đến 2025. Chương trình tổng thể này, cùng với các văn bản pháp luật liên quan, sẽ tạo nền tảng cho việc triển khai các chính sách, biện pháp về PVTM phù hợp với cam kết quốc tế để phát triển các ngành sản xuất trong nước, thực hiện thành công các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. 3 qua-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-16950-16.html 867
  8. Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về phòng vệ thương mại cso thể tahays một số vấn đề cần đặt ra đối với Việt Nam trong việc áp dụng các biện pháp này, cụ thể là: Thứ nhất, khi thực thi các FTA cần nhận thức rõ rằng, việc áp dụng các biện pháp PVTM là ―quyền‖ chứ không phải là nghĩa vụ của các nước thành viên. Để thực hiện ―quyền‖ này thì nghĩa vụ của các nước thành viên là phải đảm bảo tuân thủ theo thỏa thuận về các biện pháp PVTM tương ứng với quyền này theo tiêu chí chung. Đáng chú ý, đối với các FTA thế hệ mới như CPTPP, quy định về PVTM được hiểu là cam kết WTO+, vì CPTPP ghi nhận toàn bộ quy định về PVTM trong WTO và đưa ra những quy định có tính nới rộng, CPTPP ghi nhận các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp theo các quy định của WTO: ―Các Bên khẳng định quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh theo Điều VI Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Chống bán phá giá, và Hiệp định SCM.‖ (Điều 3.1); ―Các Bên khẳng định các quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều XIX Hiệp định GATT 1994, Hiệp định về Tự vệ và Điều 5 Hiệp định về Nông nghiệp.‖ (Điều 3.6) Thứ hai là, trong quá trình điều tra áp dụng các biện pháp PVTM thì việc gia tăng nghĩa vụ là thực sự cần thiết, bởi vì: hiện nay, một số FTA thế hệ mới đã quy định chặt chẽ hơn trong việc điều tra, áp dụng biện pháp PVTM đối với đối tác FTA (cao hơn so với quy định WTO). Cụ thể như, bên cạnh việc phải có một hệ thống văn bản pháp luật tương thích và phù hợp, cơ quan điều tra của Việt Nam còn phải tuân thủ các nghĩa vụ bắt buộc trong các FTA với các đối tác. Chẳng hạn như Việt Nam phải tuân thủ thực hiện các quy định về nguyên tắc thuế thấp hơn, lợi ích công cộng, gia tăng các nghĩa vụ thông báo, tham vấn, cung cấp các thông tin, chế độ bảo mật thông tin Thứ ba, để có thể sử dụng các biện pháp PVTM hiệu quả, đặc biệt là biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp, cần trang bị kiến thức về pháp luật PVTM cho các doanh nghiệp cụ thể như: ngoài biện pháp tự vệ toàn cầu mà các thành viên CPTPP dành cho các thành viên WTO, thì các nước thành viên FTA thế hệ mới có thể áp dụng các biện pháp tự vệ trong thời gian chuyển tiếp do tác động của hiệp định này gây ra; đảm bảo tính minh bạch trong quy trình điều tra; các quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, điều kiện áp dụng các biện pháp PVTM theo các FTA thế hệ mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc hội (2017), Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14; 2. Chính phủ (2018), Nghị định số 10/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại; 3. Bộ Công Thương (2018), Thông tư số 06/2018/TT-BCT quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại; 4. Bộ Công Thương (2019), Thông tư số 37 /2019/TT-BCT ngày 29/11/2019 quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại; 868