Mô hình liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- mo_hinh_lien_ket_vung_trong_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_va_du.pdf
Nội dung text: Mô hình liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc
- MÔ HÌNH LIÊN KẾT VÙNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DU LỊCH Ở TÂY BẮC1 PGS.TS. Trần Thị Vân Hoa Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Liên kết phát triển kinh tế vùng nói chung, phát triển du lịch nói riêng đã được Chính phủ Việt Nam đề cập đến từ đầu những năm 1990 và được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 đã xác định, du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và là động lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tây Bắc là vùng giàu tiềm năng, có lợi thế phát triển du lịch. Tuy nhiên, du lịch ở vùng này vẫn phát triển mang tính chất đơn lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết trên phạm vi toàn vùng cũng như trong nội bộ từng tiểu vùng, do đó, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế của du lịch. Bài viết này trình bày sự cần thiết liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, liên kết phát triển du lịch nói riêng; đánh giá khái quát thực trạng liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc, đề xuất định hướng và nội dung liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc. Từ khóa: Liên kết kinh tế, mô hình liên kết phát triển du lịch, du lịch vùng Tây Bắc. 1. Đặt vấn đề Vấn đề liên kết vùng, tiểu vùng trong phát triển kinh tế - xã hội đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà quản lý, nhà nghiên cứu trong những năm gần đây. Từ giữa những năm 1950, các lý thuyết về nghiên cứu vùng xuất hiện như là một ngành khoa học có lý thuyết và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Đến những năm 1960, lý thuyết vùng bắt đầu phát triển ở các nước phát triển dựa trên các nghiên cứu về liên kết phát triển vùng công nghiệp, nông nghiệp và tổ chức phát triển các ngành theo vùng lãnh thổ. Trên cơ sở đó, nhiều kết quả nghiên cứu về lý thuyết vùng được ứng dụng vào thực tiễn, làm cơ sở cho việc xây dựng các quy hoạch vùng ở các nước trên thế giới. 1 Bài viết này dựa trên trên kết quả nghiên cứu, khảo sát bước đầu của Đề tài khoa học cấp Nhà nước "Nghiên cứu chính sách, giải pháp và xây dựng mô hình liên kết vùng, tiểu vùng trong phát triển du lịch ở Tây Bắc”, mã số: KHCN-TB22X/13-18. 365
- Từ những năm 1990, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng quy hoạch phân vùng là công cụ quan trọng để thúc đẩy phối hợp liên kết để phát triển vùng. Cả nước có 63 tỉnh/thành phố, được chia thành sáu vùng lãnh thổ - phân nhóm theo các tỉnh/thành phố có điều kiện tự nhiên tương tự và có vị trí giáp ranh, bốn vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã được hình thành. Các Vùng kinh tế (VKT) và VKTTĐ trong hơn 10 năm qua với chức năng là các vùng động lực, đầu tàu định hướng và thúc đẩy sự phát triển của các vùng khác trên phạm vi cả nước, đã phát triển khá toàn diện, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước và đã bước đầu tạo được động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy có sự phát triển kinh tế năng động, đi đầu trong nhiều lĩnh vực quan trọng, nhưng các VKT vẫn chưa tạo ra sự tăng tốc như mục tiêu đặt ra và chưa nâng cao được khả năng cạnh tranh, vẫn chủ yếu dựa vào nhân tố phát triển theo chiều rộng, chất lượng và hiệu quả thấp; chưa có nhiều sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế không mong muốn trong phát triển VKT, một trong những nguyên nhân có tính quyết định là chưa tạo ra được sức phát triển tổng hợp và hiệu quả dựa trên việc thiết lập các mối liên kết cần thiết trong phát triển toàn diện giữa nội bộ các địa phương trong VKT, giữa các VKT với nhau. Tình trạng “cát cứ, mạnh ai nấy làm” của các địa phương trong các VKT và chưa hình thành được cơ chế hữu hiệu điều phối chung cho toàn vùng, là nguyên nhân chính dẫn đến các VKT chưa phát triển một cách có hiệu quả cao, chưa thực sự trở thành động lực làm đầu tàu để lôi kéo các vùng khác phát triển và làm cho sức lan tỏa của VKT trở nên hạn chế. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ du lịch đã được quan tâm nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn. Hoạt động du lịch sẽ không thể phát triển có hiệu quả nếu không quan tâm đầy đủ đến khía cạnh không gian (lãnh thổ) của du lịch. Đó là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở dịch vụ có liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật và các nhân tố khác nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường, hướng đến sự phát triển bền vững (Phạm Trung Lương, 2016). Vùng du lịch là nơi kết hợp các tiểu vùng du lịch, trung tâm du lịch và các điểm du lịch. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được phê duyệt năm 2013 đã xác định Việt Nam có 7 vùng du lịch. 366
- Liên kết phát triển kinh tế - xã hội cũng như liên kết vùng du lịch bao hàm liên kết phát triển nội vùng và liên kết phát triển liên vùng. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp chịu sự tác động của nhiều ngành, đồng thời chịu ảnh hưởng của nhiều cấp theo chiều dọc. Du lịch bản thân là một ngành liên kết giữa lữ hành, khách sạn, lưu trú, sản xuất. Việc liên kết này dựa trên cơ sở phân công lao động với các lợi thế so sánh giữa các vùng, tiểu vùng nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước. Liên kết phát triển vùng du lịch cho phép khai thác lợi thế tương đối của các địa phương tham gia liên kết về tài nguyên du lịch, về cơ sở hạ tầng và các nguồn lực cho phát triển du lịch. Mặt khác, liên kết phát triển vùng, tiểu vùng du lịch còn là nhân tố quan trọng để làm tăng khả năng cạnh tranh trong thu hút các nguồn lực đầu tư cho du lịch, thu hút khách du lịch đến vùng du lịch với tư cách là một điểm đến thống nhất và đến lãnh thổ của từng địa phương liên kết. Vì vậy, liên kết vùng, tiểu vùng để phát triển du lịch là một tất yếu khách quan trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Vùng Tây Bắc thuộc phạm vi chỉ đạo trực tiếp của Ban Chỉ đạo Tây Bắc gồm 12 tỉnh (Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang) và 21 huyện phía Tây của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định Tây Bắc nói riêng và các tỉnh Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ2 nói chung là một trong bảy vùng du lịch ở Việt Nam, có 12 khu du lịch quốc gia, 4 điểm du lịch quốc gia và 1 đô thị du lịch3. Vùng Tây Bắc có diện tích 95.254,4 km2 (chiếm 28,6% diện tích cả nước); dân số 11,4 triệu người (năm 2012), chủ yếu là người dân tộc thiểu số (chiếm 63%), có nền văn hóa lâu đời, nhiều lễ hội truyền thống, có nhiều khu du lịch và trung tâm du lịch cấp quốc gia, nhiều di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng; phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào. Vùng Tây Bắc phần lớn là núi cao, địa hình bị chia cắt, hiểm trở nhất Việt Nam. Trong những năm gần đây, ở Tây Bắc 2 Vùng Trung du, miền núi Bắc Bộ gồm 14 tỉnh, thành phố : Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Phú Thọ, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Giang. 3 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/1/2013 v/v phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 367
- đã bắt đầu hình thành một số mô hình liên kết và chương trình liên kết phát triển kinh tế - xã hội và liên kết phát triển du lịch. Tuy nhiên, các mô hình liên kết trong Vùng hoạt động chưa thực sự bền vững. Do đó, vấn đề cấp bách là phải đẩy mạnh liên kết nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng của toàn vùng. 2. Thực trạng liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc Hiện nay, các tỉnh vùng Tây Bắc đã bước đầu có sự phối hợp trong một số chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên nhìn chung, sự liên kết vùng vẫn chưa được phát huy. Trong đó, sự phối hợp giữa các địa phương còn mang tính hình thức, hành chính; thiếu các cơ chế hiệu quả để tạo sự liên kết, thực hiện các cam kết phối hợp; bất cập trong việc phối hợp thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm. Trong lĩnh vực du lịch, ở Tây Bắc đã bắt đầu hình thành một số mô hình liên kết và chương trình liên kết phát triển du lịch, nổi bật là ba mô hình sau: - Mô hình du lịch về cội nguồn (3 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ); - Mô hình liên kết 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng; - Mô hình du lịch qua những miền di sản Việt Bắc. Các mô hình liên kết này đã triển khai nhiều hoạt động thúc đẩy gắn kết du lịch giữa các địa phương. Chẳng hạn, mô hình du lịch qua những miền di sản Việt Bắc, bao gồm sáu tỉnh vùng Việt Bắc: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, và Thái Nguyên, đã luân phiên tổ chức các chương trình du lịch với nhiều nội dung nhằm quảng bá hình ảnh du lịch Việt Bắc, giới thiệu các điểm đến của mỗi tỉnh thông qua các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Được bắt đầu từ năm 2009, sau 8 năm hoạt động, đến năm 2016, nhóm hợp tác phát triển du lịch sáu tỉnh đã ký kết biên bản thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch. Sáu tỉnh cam kết hợp tác hỗ trợ nhau phát triển du lịch với mục đích cùng phối hợp, tìm các giải pháp tối ưu nhằm khai thác hợp lý các tài nguyên du lịch sẵn có, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đặc biệt là sản phẩm có tính liên vùng, khắc phục những hạn chế của từng địa phương để toàn bộ khu vực Việt Bắc trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn. Một số nội dụng liên kết phát triển du lịch đã bắt đầu được triển khai như: Xây dựng cơ chế chính sách phát triển du lịch địa phương; tập trung phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù của địa 368
- phương, xây dựng tour, tuyến du lịch, tạo chuỗi sản phẩm du lịch liên vùng; hợp tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch; hợp tác phát triển nguồn nhân lực du lịch; phát triển đồng bộ hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch. Mô hình du lịch qua những miền di sản Việt Bắc đã xây dựng cơ chế điều hành, thành lập Ban Chỉ đạo (gồm đại diện lãnh đạo sáu tỉnh), tổ thường trực (gồm lãnh đạo các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh), bố trí kinh phí, luân phiên tổ chức các sự kiện. Mô hình liên kết du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ và Hà Giang). Dự án liên kết du lịch tám tỉnh Tây Bắc mở rộng do EU tài trợ được triển khai thực hiện từ năm 2008, hợp tác trên 4 lĩnh vực: cơ chế chính sách, phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá và phát triển nguồn nhân lực. Về phát triển sản phẩm, tám tỉnh Tây Bắc mở rộng đã hợp tác xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng, tổ chức chương trình khảo sát và hội nghị đánh giá thực trạng, tiềm năng, giải pháp xây dựng các điểm du lịch cộng đồng kiểu mẫu, nhằm định hướng phát triển Du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, hạn chế tính trùng lặp về sản phẩm trong hoạt động du lịch cộng đồng. Xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch mới, độc đáo và khác biệt: tỉnh Điện Biên tập trung phát triển Khu du lịch quốc gia Điện Biên Phủ - Pá Khoang; tỉnh Phú Thọ tập trung khai thác giá trị của hai di sản được UNESCO công nhận là “Hát Xoan Phú Thọ” và “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”; tỉnh Hà Giang tập trung quảng bá sản phẩm Cao nguyên đá Đồng Văn; tỉnh Lào Cai xây dựng quy hoạch Khu du lịch quốc gia Sa Pa; tỉnh Hòa Bình nâng cao chất lượng Khu du lịch Mai Châu; tỉnh Sơn La phát triển Khu du lịch quốc gia Mộc Châu; xây dựng sản phẩm du lịch theo hai tiểu vùng: tiểu vùng sông Hồng (Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang) và tiểu vùng sông Đà (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu), trong đó liên kết và định vị các sản phẩm du lịch, các tuyến du lịch một cách rõ ràng trên bản đồ du lịch và xây dựng chủ đề để nêu bật những trải nghiệm độc đáo mà khách du lịch có thể trải nghiệm ở mỗi điểm đến. Tăng cường kết nối hoạt động du lịch khu vực với các tỉnh vùng Đông Bắc, tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, Thái Lan và Lào. Bên cạnh việc liên kết nội vùng, tám tỉnh Tây Bắc mở rộng đã bắt đầu thực hiện liên kết với các địa phương trọng điểm du lịch như Hà Nội, Quảng Ninh, 369
- TP Hồ Chí Minh và liên kết phát triển du lịch qua biên giới thu hút khách du lịch từ Trung Quốc, Lào nhất là các địa phương có cửa khẩu quốc tế là Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên. Về xúc tiến quảng bá: Các tỉnh đã tổ chức gian hàng xúc tiến du lịch của khu vực 8 tỉnh tại các Hội chợ Du lịch quốc tế: Hội chợ du lịch quốc tế TP. Hồ Chí Minh và Hội chợ du lịch quốc tế Việt Nam tại Hà Nội. Xây dựng các công cụ quảng bá cho du lịch khu vực, góp phần thu hút khách đến với khu vực bao gồm: Bộ thương hiệu du lịch chung của tám tỉnh Tây Bắc mở rộng - bộ thương hiệu du lịch liên vùng thống nhất đầu tiên tại Việt Nam gồm logo - biểu trưng và slogan - khẩu hiệu; Ấn phẩm Cẩm nang hướng dẫn du lịch 8 tỉnh bằng 2 ngôn ngữ Anh - Việt; trang thông tin điện tử 8 tỉnh tại địa chỉ: Tổ chức các hội thảo tăng cường công tác thông tin xúc tiến du lịch và liên kết quảng bá du lịch. Tổ chức Hội chợ Du lịch Tây Bắc nhằm tăng cường hợp tác phát triển du lịch giữa 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng, tạo sự chuyển biến trong công tác quảng bá, xúc tiến điểm đến, giới thiệu sản phẩm du lịch, thế mạnh về du lịch cộng đồng gắn với việc quảng bá hình ảnh du lịch đặc trưng vùng. Về hợp tác phát triển nguồn nhân lực. Tám tỉnh phối hợp xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai các chương trình đào tạo tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành du lịch có trách nhiệm cho cộng đồng, cơ sở lưu trú và doanh nghiệp lữ hành; lựa chọn các trường và trung tâm có chức năng đào tạo nghề du lịch trên địa bàn 8 tỉnh để tiến tới hình thành Trung tâm đào tạo và cấp chứng chỉ nghề du lịch theo tiêu chuẩn VTOS tại khu vực. Tổ chức Cuộc thi Hướng dẫn viên, Thuyết minh viên du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng nhằm đánh giá thực trạng trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của các hướng dẫn viên, thuyết minh viên, từ đó có các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn tiến tới chuẩn hóa theo tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam; phối hợp tổ chức các chuyến tham quan học tập đến các địa phương trong nước. Các mô hình hình liên kết trên đã có kết quả nhất định, số lượng khách du lịch đến Tây Bắc đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, nhìn chung, các mô hình này chưa thật bền vững vì: i) các mô hình thiếu liên kết theo chiều dọc và chiều ngang, thiếu liên kết theo không gian lãnh thổ và liên kết liên ngành, chưa chú ý đến liên kết doanh nghiệp; ii) chưa dựa trên các cơ sở nghiên cứu khoa học 370
- và thực tiễn về liên kết kinh tế vùng và liên kết du lịch, chưa tạo thành chuỗi liên kết; và iii) do tính đặc thù của Tây Bắc, nên trong thực tiễn việc liên kết du lịch trên phạm vi toàn vùng là khó mang lại hiệu quả cao. Hầu hết các mô hình và chương trình liên kết du lịch vẫn chủ yếu là liên kết về quảng bá, xúc tiến, nặng về hình thức. Một số mô hình coi trọng việc đăng cai tổ chức sự kiện luân phiên, chưa thực sự chú ý đến giám sát, điều hành thực thi các nội dung liên kết; các nội dung liên kết về xây dựng sản phẩm đặc thù, về đào tạo nguồn nhân lực, về quy hoạch, về đầu tư v.v., còn ít được coi trọng hoặc chưa thực hiện được. Sau một thời gian dài phát triển, tình trạng manh mún trong du lịch vẫn còn khá phổ biến ở các tỉnh Tây Bắc. Do chưa được liên kết và quy hoạch sản phẩm du lịch đặc thù cấp vùng, tiểu vùng, nên chưa phát huy được thế mạnh du lịch từng vùng, thậm chí còn cạnh tranh lẫn nhau. Chẳng hạn, nhiều tỉnh phát triển ồ ạt du lịch cộng đồng nhưng đều là một mô hình: ngủ nhà sàn, ăn cá nướng, xem văn nghệ, cải biên mô phỏng dân gian. Tình trạng manh mún, trùng lặp về sản phẩm du lịch giữa các địa phương diễn ra khá phổ biến. Điểm hạn chế nhất của các mô hình du lịch ở Việt Nam nói chung và vùng Tây Bắc nói riêng là chưa xây dựng được cơ chế chính sách mang tính chất tiểu vùng phù hợp với tính đặc thù của vùng và tiểu vùng, chưa hình thành được thể chế quản trị chung để điều phối trên phạm vi toàn vùng. Hoạt động du lịch về cơ bản vẫn mang tính khép kín trong từng địa phương. Vì vậy, kết quả liên kết còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của Vùng. 3. Định hƣớng xây dựng mô hình liên kết phát triển du lịch vùng Tây Bắc Vùng Tây Bắc có diện tích rộng, địa hình núi cao rất hiểm trở, khó hình thành liên kết “cứng” phát triển du lịch trên phạm vi toàn Vùng. Tuy nhiên, trong Vùng lại có nhiều loại hình tiểu vùng khác nhau, từng tiểu vùng được kết nối bởi các tuyến đường giao thông tương đối thuận tiện cho phát triển tuyến du lịch. Như vậy cần xác định mô hình liên kết nhiều cấp độ. 3.1. Mô hình liên kết “mềm” phát triển du lịch trên phạm vi toàn vùng Tây Bắc Trên phạm vi toàn vùng Tây Bắc, cần xây dựng mô hình liên kết vùng phát triển du lịch mang tính chất “mềm‟‟, chủ yếu là tư vấn tham mưu, giám sát các tiểu vùng phát triển du lịch. Tuy nhiên, về mặt tổ chức, cần thành lập Ban Chỉ đạo Du lịch cấp toàn Vùng. 371
- Ban Chỉ đạo Du lịch cấp vùng (hay Ban Điều phối Phát triển Du lịch Vùng) thuộc Ban Chỉ đạo Tây Bắc, gồm đại diện Ban Chỉ đạo Tây Bắc, UBND các tỉnh, Tổng cục Du lịch. Văn phòng Ban Điều phối có từ 2 - 3 biên chế. Ban Tư vấn độc lập: gồm đại diện một số nhà quản lý du lịch và doanh nghiệp du lịch. Hình thức hoạt động chủ yếu của Ban này là xây dựng các chủ trương lớn và định hướng phát triển du lịch toàn vùng Tây Bắc, điều phối những vấn đề liên quan mà cấp tỉnh và cấp tiểu vùng không thực hiện được. Hình thức chỉ đạo có thể thông qua hội nghị liên kết du lịch toàn vùng tiến hành mỗi năm họp một lần. Sơ đồ hệ thống tổ chức mô hình liên kết “mềm” phát triển du lịch trên phạm vi vùng Tây Bắc thể hiện ở hình sau: Ban Chỉ đạo Tây Bắc Ban Điều phối Phát triển Du Ban Tƣ vấn lịch Tây Bắc Tiểu vùng sông Tiểu vùng sông Tiểu vùng Tiểu vùng Đà (Hòa Bình, Hồng – sông Lô Cao Bằng, miền Tây 2 Sơn La, (Lào Cai, Yên Lạng Sơn, tỉnh Điện Biên, Bái, Phú Thọ, Bắc Kạn Thanh Hóa Lai Châu) Hà Giang, và Nghệ An Tuyên Quang Sơ đồ 1: Mô hình liên kết “mềm” phát triển du lịch trên phạm vi vùng Tây Bắc 3.2. Mô hình liên kết theo theo tiểu vùng Căn cứ vào đặc điểm kinh tế - xã hội, điều kiện về địa hình, giao thông ở Tây Bắc, có thể hình thành các tiểu vùng du lịch như sau: i) Tiểu vùng sông Đà (4 tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình). ii) Tiểu vùng sông Hồng - sông Lô (5 tỉnh: Yên Bái, Phú Thọ, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang). 372
- iii) Tiểu vùng Đông Bắc (3 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn). iv) Tiểu vùng miền Tây Nghệ n và Thanh Hóa. Mỗi một tiểu vùng này có thuận lợi cơ bản là có tuyến đường giao thông huyết mạch kết nối như đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường số 6 Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên, đường Quốc lộ 2 Hà Giang - Tuyên Quang, đường số 4 Cao Bằng - Lạng Sơn, Ngoài ra, còn các tuyến đường giao thông khác như đường 32, đường 279, đường Hồ Chí Minh. Các tuyến đường này trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng để xây dựng tuyến du lịch liên kết. Vì vậy, ở mỗi tiểu vùng cần xây dựng cơ chế liên kết tiểu vùng. 3.2.1. Về tổ chức bộ máy mô hình tiểu vùng Ban Chỉ đạo tiểu vùng du lịch gồm Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh (có trưởng ban luân phiên), có nhiệm vụ chỉ đạo các ngành liên kết theo chiều dọc, theo chiều ngang. Ban Điều hành gồm Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc Phó Giám đốc phụ trách du lịch của các Sở (Trưởng ban theo chế độ luân phiên) có nhiệm vụ điều hành công việc của tiểu vùng. Hiệp hội Doanh nghiệp Du lịch, gồm lãnh đạo hiệp hội doanh nghiệp các tỉnh có nhiệm vụ tổ chức liên kết các doanh nghiệp trong và ngoài tiểu vùng nhằm phát triển du lịch và định hướng các vấn đề kinh doanh du lịch (Chủ tịch Hiệp hội tiểu vùng theo chế độ luân phiên). 3.2.2. Về cơ chế hoạt động của tiểu vùng Ban Chỉ đạo tiểu vùng họp hàng năm xây dựng kế hoạch hoạt động, định ra nhiệm vụ, phương hướng của toàn tiểu vùng. Ban Điều hành và Ban Tư vấn cùng các tổ chuyên môn tổ chức hội nghị theo định kỳ và một số hội nghị chuyên đề. Ngân sách hoạt động là từ kinh phí xây dựng quỹ từ ngân sách các tỉnh, đóng góp của các doanh nghiệp và các nguồn tài trợ khác, nhằm điều phối cho các hoạt động chung của tiểu vùng. 373
- Ban Chỉ đạo Tây Bắc Ban Chỉ đạo Liên kết Du lịch tiểu vùng sông Hồng – sông Lô Hiệp hội Doanh nghiệp Ban Điều hành Ban Tư vấn Tổ Quỹ Phát Tổ Tổ Phát Bộ phận Thông triển Du Phát triển triển Điều tin lịch tiểu Sản nguồn phối giúp phẩm xúc tiến nhân vùng việc Du lịch quảng bá lực Sơ đồ 2: Liên kết bộ máy của tiểu vùng sông Hồng - sông Lô 3.3. Mô hình liên kết vùng Tây Bắc với các trung tâm du lịch quốc gia Hình thức liên kết toàn vùng với các trung tâm du lịch lớn quốc gia (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hạ Long), hình thành “cực trung tâm” phát triển với toàn Vùng. Các trung tâm du lịch quốc gia có nguồn lực đầu tư mạnh, lại là những trung tâm đón nhận và phân phối du khách cho toàn Vùng. Mặt khác, các trung tâm lớn cũng là trung tâm đào tạo du lịch, trung tâm tập trung các doanh nghiệp tư vấn du lịch, các viện nghiên cứu, các trường đại học có khả năng cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao cho toàn Vùng. 3.4. Mô hình liên kết song phương và đa phương Có thể liên kết giữa hai tỉnh cùng có mục tiêu phát triển du lịch chung hoặc liên kết giữa các tỉnh trong vùng. Kinh nghiệm hợp tác giữa tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái hoặc tỉnh Lào Cai và tỉnh Lai Châu đã tạo động lực phát triển du lịch ở các tỉnh hợp tác. Nhiều dự án phát triển du lịch liên tỉnh bước đầu được xây dựng 374
- như: Chương trình du lịch về cội nguồn, Chương trình du lịch tâm linh lưu vực sông Hồng đã đạt được một số kết quả. Cơ chế song phương vừa gọn nhẹ, có điều kiện triển khai nhiều dự án trong một thời gian ngắn nên cơ chế này cần phải phát huy tối đa. 3.5. Mô hình liên kết cực trung tâm phát triển (cực trung tâm tăng trưởng) Vận dụng lý thuyết về cực tăng trưởng, ở vùng Tây Bắc có thể tập trung đầu tư một số đô thị du lịch, trung tâm du lịch như Sa Pa (Lào Cai), thành phố Điện Biên v.v., xây dựng thành trung tâm du lịch của toàn Vùng. Du khách từ các trung tâm lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hạ Long về các trung tâm du lịch lớn trung Vùng (Sa Pa, Điện Biên). Từ đó, du khách có thể lan tỏa sang các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, hoặc từ Sa Pa, du khách về Lai Châu, Điện Biên. Như vậy, các trung tâm này sẽ trở thành trung tâm phân phối khách, trung tâm các dịch vụ lữ hành, lưu trú, sản xuất đồ lưu niệm, trung tâm đào tạo nguồn nhân lực của toàn Vùng. Các trung tâm (cực tăng trưởng) này phát triển mạnh sẽ trở thành đầu tàu kéo con tàu du lịch của toàn Vùng đi lên. 3.6. Mô hình liên kết du lịch xuyên biên giới Các tỉnh Tây Bắc có thể xây dựng mối liên kết giữa vùng này với các tỉnh phía Nam Trung Quốc và các tỉnh miền Bắc, miền Trung của CHDCND Lào. Trong đó, 6 tỉnh (Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn) giáp giới với 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc). Trên tuyến biên giới này có các cửa khẩu quốc tế, quốc gia. Xây dựng liên kết du lịch giữa các tỉnh phía Bắc Việt Nam với miền Nam Trung Quốc thì vùng này không chỉ là đầu cầu đưa đón khách xuyên biên giới, mà còn là “một điểm đến, hai quốc gia”. Nếu cải cách thủ tục hành chính xuất nhập cảnh, cấp visa thì du khách quốc tế đến Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) đều có thể thuận lợi đến vùng phía Bắc Việt Nam và ngược lại. Như vậy, dòng khách quốc tế sẽ tăng gấp nhiều lần hiện nay. Liên kết du lịch xuyên biên giới với các tỉnh phía Bắc Lào còn khai thông hành lang du lịch Đông - Tây, nối liền vùng phía Bắc Việt Nam với vùng Bắc Lào, Bắc Thái Lan, Myanma và Ấn Độ. Như vậy, hành lang du lịch sẽ được khai thông và phát triển mạnh mẽ. 4. Nội dung liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ở Tây Bắc Như đã nêu ở trên, liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và liên kết phát triển du lịch nói riêng ở Tây Bắc còn rất yếu. Liên kết vùng cần 375
- được xem xét trong mối quan hệ chung giữa chức năng nhiệm vụ của chính quyền Trung ương và địa phương trong điều kiện vận hành kinh tế thị trường; quy hoạch ngành, quy hoạch vùng kinh tế; liên kết vùng trên cơ sở liên kết vi mô, ngành; phân cấp Trung ương và địa phương. Các chương trình liên kết phát triển kinh tế - xã hội cũng như liên kết phát triển du lịch ở Tây Bắc cần phải xem xét cho phù hợp với quy hoạch chung của cả nước và ngành du lịch; dựa trên cơ sở định hướng phát triển vùng, không được phá vỡ quy hoạch tổng thể chung. Động lực của liên kết bao gồm lợi ích tự thân của các tỉnh và lợi ích tổng thể của cả vùng, quốc gia, trong đó nếu làm tốt lợi ích tổng thể sẽ tạo ra lợi ích của địa phương. Trong đó, Ban Chỉ đạo Tây Bắc hay Ban Điều phối vùng du lịch ở Tây Bắc có vai trò quan trọng, là “nhạc trưởng” trong điều hành liên kết. Nội dung liên kết vùng phát triển kinh tế - xã hội bao hàm trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp độ: kinh tế, xã hội, doanh nghiệp, xử lý môi trường. Trong đó vấn đề cần quan tâm là phát huy tiềm năng địa phương, vùng và cả nước, phục vụ công tác ổn định xã hội, an ninh quốc phòng; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của từng địa phương, vùng và quốc gia. Để thực hiện hiệu quả mối liên kết các địa phương trong vùng, ở cấp quốc gia cần có quy định rõ về các vấn đề liên kết phù hợp với yêu cầu cả nước, đặc điểm từng vùng về tự nhiên xã hội; ở cấp địa phương, cần khuyến khích thỏa thuận quy chế liên kết và thực hiện quy chế chung của cả nước, từ đó gắn kết được từng vùng, từng địa phương, bảo đảm phân chia hợp lý quyền lợi giữa các địa phương trong vùng. Trong lĩnh vực du lịch, để phát huy thế mạnh, tiềm năng du lịch của vùng Tây Bắc, cần thực hiện các nội dung liên kết cụ thể sau. Thứ nhất, xây dựng bộ máy tổ chức và cơ chế vận hành liên kết vùng, tiểu vùng phát triển du lịch Ban Chỉ đạo Du lịch cấp toàn vùng Tây Bắc hoạt động theo cơ chế mềm, linh hoạt, trong đó Ban Chỉ đạo Vùng Tây Bắc, Tổng cục Du lịch Việt Nam có vai trò quan trọng. Bộ máy tổ chức liên kết du lịch của cấp tiểu vùng có thể là một ban chỉ đạo độc lập về liên kết du lịch. Ban Chỉ đạo này có bộ phận chỉ đạo chung, bộ phận điều hành, bộ phận tư vấn. Trong đó, bộ phận điều hành (gồm lãnh đạo các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp tỉnh và các Hiệp hội Doanh nghiệp Du lịch các tỉnh) thuộc tiểu vùng đóng vai trò quan trọng. 376
- Các tỉnh thuộc từng tiểu vùng cần xây dựng cơ chế phối hợp liên kết tiểu vùng để vận hành bộ máy tiểu vùng hiệu quả (cơ chế hội nghị liên tỉnh, cơ chế hội nghị định kỳ, cơ chế phối hợp với các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp tỉnh và các hiệp hội du lịch các tỉnh). Đồng thời, cần xây dựng quỹ hoạt động cho các Ban Chỉ đạo toàn Vùng và Ban Điều hành cấp tiểu vùng. Xây dựng cơ chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Du lịch, trao nhiều quyền quyết định cho Ban Chỉ đạo; phân cấp cho Ban Chỉ đạo giải quyết các vấn đề về điều hành cụ thể, quản lý trực tiếp tài nguyên du lịch và phát triển du lịch theo quy hoạch ngành, phù hợp với quy hoạch du lịch chung của Vùng và quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Thứ hai, xây dựng quy hoạch về du lịch Xây dựng tiêu chí, nguyên tắc, định hướng quy hoạch vùng và tiểu vùng. Quy hoạch phải đảm bảo tính hệ thống, thống nhất; phát triển du lịch theo tính bền vững, có tầm nhìn dài hạn và chiến lược; đề cao vai trò cộng đồng và doanh nghiệp đối với quy hoạch, theo nguyên tắc thị trường. Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Tây Bắc đến năm 2025, tầm nhìn 2035; xây dựng quy hoạch du lịch các tiểu vùng: tiểu vùng sông Đà, tiểu vùng sông Hồng - sông Lô, tiểu vùng Cao Bằng - Lạng Sơn - Bắc Kạn; rà soát, bổ sung quy hoạch du lịch các tỉnh phù hợp với quy hoạch du lịch toàn Vùng, tránh tình trạng phát triển ồ ạt một loại sản phẩm du lịch giống nhau, đề cao sắc thái riêng đặc thù vùng, tiểu vùng. Tiếp tục hoàn thành quy hoạch du lịch ở những tỉnh chưa có quy hoạch (hiện nay ở Tây Bắc mới có các tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang xây dựng được quy hoạch tổng thể phát triển du lịch du lịch cấp tỉnh). Thực hiện cơ chế quản lý du lịch theo đúng quy hoạch, dự án, luận chứng kinh tế đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt về khu, tuyến du lịch liên tiểu vùng nhằm tạo ra sự đồng bộ trong quy hoạch tuyến, điểm; đồng bộ trong hệ thống dịch vụ phục vụ khác, khai thác được lợi thế của từng địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc thù nhằm phục vụ đúng nhu cầu và thị hiếu du khách. 377
- Thứ ba, liên kết xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù cho toàn vùng và từng tiểu vùng trong phát triển du lịch Vùng Tây Bắc có địa hình cảnh quan giống nhau, cùng chung văn hóa tộc người nên các sản phẩm du lịch đôi khi “na ná” giống nhau. Vì vậy, cần nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch chung của toàn vùng và từng tiểu vùng, từng tỉnh. Trên phạm vi toàn vùng, có thể xây dựng một số sản phẩm du lịch nổi trội như: Chinh phục thiên nhiên và thể thao mạo hiểm; khám phá, trải nghiệm văn hóa các tộc người; du lịch chợ phiên vùng cao; phát triển du lịch sinh thái - trải nghiệm thiên nhiên; phát triển du lịch tâm linh vùng thượng nguồn các dòng sông; du lịch về nguồn, thăm quan chiến trường xưa v.v. Thứ tư, liên kết xúc tiến quảng bá du lịch vùng và từng tiểu vùng trong phát triển du lịch Liên kết trong công tác quảng bá, xúc tiến điểm đến: Thay vì từng tỉnh triển khai một cách riêng lẻ như trước đây, các cơ quan xúc tiến du lịch cấp tỉnh và cơ quan xúc tiến du lịch của toàn Vùng và từng tiểu vùng phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau và liên kết với các công ty lữ hành để tạo sức mạnh trong công tác quảng bá điểm đến. Thứ năm, liên kết hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực phát triển du lịch - Đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông gắn với tuyến du lịch liên vùng, tiểu vùng; đầu tư đồng bộ các khu du lịch trọng điểm như Sa Pa, Mộc Châu, Điện Biên Phủ - Pa Khoang, cao nguyên đá Đồng Văn, Sơn Dương, lòng hồ sông Đà, Thác Bà, , tạo thành trung tâm du lịch lớn có sức lan tỏa; đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa, hỗ trợ người dân kinh phí tổ chức các lễ hội, sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc; đầu tư phát triển nguồn nhân lực. - Ưu tiên các chương trình đầu tư hạ tầng du lịch quốc gia và các chương trình mục tiêu văn hóa cho các tỉnh trong Vùng, lồng ghép với chương trình xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo. Hàng năm Ban Chỉ đạo toàn Vùng, Ban Điều hành các tiểu vùng, Tổ liên kết phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho toàn vùng trên cơ sở phối hợp chặt chẽ giữa Sở Du lịch các tỉnh, các doanh nghiệp và các trường đại học, cao đẳng. Có chính sách ưu tiên tuyển chọn con em đồng bào các dân tộc thiểu số vào làm ở các khu du lịch. 378
- Thứ sáu, ứng dựng khoa học - công nghệ và liên kết các doanh nghiệp du lịch Nghiên cứu mạng xã hội với quảng bá du lịch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ xanh, công nghệ sạch, ứng dụng công nghệ thông tin, nối mạng toàn bộ khách sạn trên địa bàn toàn Vùng với các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh và với các cửa khẩu quốc tế. Tạo ra sự ràng buộc và liên kết với các thành phần cốt lõi trong chuỗi du lịch bao gồm các công ty: kinh doanh vận chuyển, kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành liên kết với nhau để cung cấp những sản phẩm chất lượng cao với chi phí thấp cho du khách. Các thành phần cốt lõi liên kết với những ngành bổ trợ để nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng giá trị cho khách hàng. Thiết lập mối liên kết với những nền tảng kinh tế quan trọng như cơ sở hạ tầng, cộng đồng dân cư và tài nguyên môi trường cho sự phát triển bền vững. Kết luận Liên kết vùng phát triển kinh tế - xã hội và liên kết phát triển du lịch theo hướng bền vững là giải pháp quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc. Liên kết phát triển trên phạm vi toàn vùng và từng tiểu vùng có mối quan hệ mật thiết với vấn đề phát triển bền vững. Muốn xây dựng được sự liên kết vùng phát triển kinh tế - xã hội nói chung, du lịch nói riêng theo hướng bền vững đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các nội dung, hình thức liên kết hiệu quả. Đối với vùng Tây Bắc, cần đặc biệt lưu ý xây dựng các mô hình liên kết theo từng tiểu vùng, tránh các rào cản về hành chính, văn hóa, điều kiện tự nhiên. Tài liệu tham khảo Tài liệu tiếng Việt 1. Hoàng Văn Hoa, Trần Hữu Sơn (2016), Liên kết phát triển du lịch bền vững vùng Tây Bắc, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế: Phát triển du lịch bền vững: vai trò của doanh nghiệp và cơ sở đào tạo, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tháng 10/2016. 2. Hoàng Văn Hoa, Trần Thị Vân Hoa (2017), Tourism development linkage in Vietnam (Case study of Northern midland and mountainous), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Knowledge transfer and transformmation: global and local business for competitiveness and social justice”, Hiệp hội quản lý Đông Á quốc tế, Kathmandu, Nepal, 3/2017. 379
- 3. Trần Hữu Sơn (2016), Xây dựng cơ chế chính sách liên kết vùng và tiểu vùng du lịch Tây Bắc, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học và công nghệ thúc đẩy liên kết và phát triển vùng Tây Bắc, Chương trình KHCN-TB/13-18, Hòa Bình, tháng 11/2016. 4. Nguyễn Văn Huân (2012), Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn. 5. Phạm Trung Lương (2014), “Phát triển du lịch Điện Biên trong mối liên kết với vùng Tây Bắc”, Hội thảo khoa học “Phát huy giá trị đặc biệt của di tích lịch sử Điện Biên Phủ để đẩy mạnh phát triển du lịch Điện Biên trong mối liên kết với vùng Tây Bắc”, ngày 13/3/2014, Điện Biên Phủ, tr.113-118. Tài liệu tiếng Anh 1. Asian Development Bank (2013), Regional and subregional program links - Mapping the links between ASEAN and the GMS, BIMP-EAGA, and IMT-GT. 2. Lea, J (1998), Tourism and Development in the third world, Routledge, New York. 3. Lowson, Fred and Baud Bovy (1977), “Tourism and Recreation Development” the Architec lural pess London, (208pp). 380