Mở rộng tài chính toàn diện để đẩy lùi tín dụng đen
Bạn đang xem tài liệu "Mở rộng tài chính toàn diện để đẩy lùi tín dụng đen", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- mo_rong_tai_chinh_toan_dien_de_day_lui_tin_dung_den.pdf
Nội dung text: Mở rộng tài chính toàn diện để đẩy lùi tín dụng đen
- MỞ RỘNG TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỂ ĐẨY LÙI TÍN DỤNG ĐEN ThS. Nguyễn Trần Minh Trí Viện Kinh tế & Chính trị thế giới - Viện HLKHXHVN Tóm tắt Người nghèo không tiếp cận được các dịch vụ tài chính do thiếu năng lực tài chính và kinh tế là một biểu hiện của thất nghiệp, đói nghèo và bất bình đẳng. Tài chính toàn diện (Financial Inclusion) là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luận chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tài chính toàn diện được coi là trụ cột quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững, góp phần huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội. Đặc biệt, việc mở rộng Tài chính toàn diện còn là cách thức quan trọng để đẩy lùi tín dụng đen, trực tiếp và gián tiếp góp phần bảo đảm an sinh và trật tự xã hội ở Việt Nam. Các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Nhóm các nước G20 đều rất chú trọng đến việc hỗ trợ và thúc đẩy các quốc gia thực thi các giải pháp để đạt được mục tiêu về tài chính toàn diện. Đã có 55 nước đưa ra cam kết về thực thi tài chính toàn diện, hơn 30 nước ban hành hoặc đang xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Từ khóa: Tài chính toàn diện; Tín dụng đen; Lãi suất; Người nghèo Theo Tổ chức Hợp tác toàn cầu về Tài chính toàn diện (GPFI), tài chính toàn diện là một trạng thái theo đó tất cả các người ở độ tuổi lao động có thể tiếp cận hiệu quả tới dịch vụ tín dụng, tiết kiệm, thanh toán và bảo hiểm từ các nhà cung cấp dịch vụ chính thống. Tài chính toàn diện giúp bộ phận xã hội chưa tiếp cận dịch vụ ngân hàng hoặc đã tiếp cận nhưng không chính thống được tham gia hệ thống tài chính chính thống, qua đó giúp đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo, an ninh việc làm, cải thiện đời sống và phúc lợi xã hội. Theo Liên Hợp Quốc, mục tiêu của tài chính toàn diện bao gồm: Tiếp cận ở mức chi phí hợp lý của tất cả các hộ gia đình trong nhiều loại dịch vụ tài chính, bao gồm dịch vụ tiết kiệm hoặc gửi tiền, dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, tín dụng và bảo hiểm. Các tổ chức kinh doanh an toàn và hiệu quả, được quản lý bởi hành lang pháp lý và những tiêu chuẩn hoạt động ngành rõ ràng; Bền vững thể chế và tài chính, đảm bảo tính liên tục và chắc chắn của hoạt động đầu tư; Cạnh tranh giúp mở rộng sự lựa chọn và đáp ứng khả năng chi trả Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra tầm nhìn cho Chương trình tăng cường cơ hội tiếp cận Tài chính toàn cầu tới năm 2020, tập trung vào 25 quốc gia ưu tiên (trong đó có Việt Nam) nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính chính thống cho cá nhân, thông qua tăng số lượng tài khoản giao dịch để tăng tỷ lệ gửi tiền và giao dịch qua tài khoản ngân hàng dựa trên 3 nền tảng chính - cam kết chính trị, môi trường pháp luật - thể chế và hạ tầng thanh toán/công nghệ thông tin và truyền thông. Các nhà lãnh đạo G20 từ tháng 6/2010 đã đưa ra 9 nguyên tắc cho tài chính toàn diện và đây cũng là những trọng tâm của kế hoạch hành động Nhóm G20. Tại khu vực ASEAN, các quốc gia thành viên cũng coi tài chính toàn diện là một trong ba trụ cột của Tầm nhìn ASEAN 2025 về hội nhập tài chính và đã thành lập Nhóm công tác về tài chính bao trùm để thúc đẩy lĩnh vực này trong khu vực Tại các hội nghị APEC được tổ chức hàng năm, tài chính toàn diện được nhiều nước chủ nhà APEC quan tâm và ưu tiên, nhất là từ khi được đưa vào là một trong những trụ cột trong hợp 271
- tác tài chính APEC (năm 2010); Theo đó, các nền kinh tế đã chia sẻ kinh nghiệm nhằm mục đích cuối cùng là xây dựng và thực thi có hiệu quả một Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện phù hợp cho riêng mình, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Tại sự kiện Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC 2017 vừa qua, tài chính toàn diện là một trong 4 nội dung hợp tác ưu tiên. Chủ đề được tập trung thảo luận là về phát triển thị trường tín dụng và các sản phẩm dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp và nông thôn, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững, tái cơ cấu và phát triển một nền nông nghiệp có chất lượng. Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC 2017, Diễn đàn APEC về tài chính toàn diện lần thứ 7 cũng đã tập trung vào việc định hướng tài chính toàn diện phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Nhiều nội dung liên quan đến tài chính toàn diện đã đưa ra thảo luận như: Việc xác định đúng đắn phạm trù tài chính toàn diện; Thực trạng triển khai các ứng dụng kỹ thuật số trong lĩnh vực này; Giáo dục tài chính nhằm nâng cao hiệu quả nhận thức của người dân trong tiết kiệm và đầu tư; Phát triển bảo hiểm vi mô qua đó thúc đẩy một nền tài chính toàn diện năng động, bền vững trong các nền kinh tế thành viên APEC. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều chính sách và hoạt động trong khuôn khổ tài chính toàn diện như phát triển tài chính vi mô, thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của người dân Theo Quyết định 1726/QĐ-TTg phê duyệt đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành vào ngày 5/9/2016, NHNN có nhiệm vụ xây dựng Dự thảo khung chiến lược quốc gia tài chính toàn diện dự kiến trình Thủ tướng thông qua vào năm 2020. Mục tiêu tổng quát của chiến lược này là phấn đấu đảm bảo tất cả người dân và DN, nhất là người dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các DNNVV có quyền tiếp cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ tài chính chính thức, phù hợp với nhu cầu, có chất lượng, tiện lợi, nhanh chóng với mức chi phí hợp lý trên cơ sở phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả và bền vững. Ngoài ra, NHNN - cơ quan được Chính phủ giao chủ trì điều phối tài chính toàn diện tại Việt Nam và xây dựng Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện cũng đã phối hợp chặt chẽ với các đối tác quốc tế, các nền kinh tế thành viên APEC triển khai các nội dung hợp tác, trong đó có nội dung về giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng. NHNN cũng tích cực tham gia các chương trình, diễn đàn hợp tác về tài chính toàn diện của Quỹ Đầu tư phát triển Liên Hợp Quốc; Tiến hành thủ tục tham gia Liên minh tài chính toàn diện; Triển khai các chương trình, dự án về tài chính toàn diện của WB/Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); Tổ chức các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức và kiến thức về tài chính toàn diện, đồng thời tích cực hoàn thiện lộ trình xây dựng Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện Những phương thức thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) và hỗ trợ của công nghệ, dịch vụ ngân hàng tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới. NHNN cũng đã ban hành Kế hoạch của ngành triển khai Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020. NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo Fintech của NHNN nhằm hoàn thiện hệ sinh thái, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho các DN Fintech ở Việt Nam ra đời và phát triển. So với các nước đang phát triển, Việt Nam được đánh giá có một số lợi thế nhất định trong triển khai tài chính toàn diện như nền tảng công nghệ thông tin (đặc biệt là tỷ lệ người dùng internet và thiết bị thông minh tăng nhanh), độ bao phủ trên diện rộng các dịch vụ kỹ thuật số, sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, sự hỗ trợ tích cực của các đối tác phát triển quốc tế Tuy nhiên, Việt Nam cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức khi xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, cụ thể: Nhận thức chung của xã hội về tài chính toàn diện chưa đầy đủ; Chưa có cơ chế đảm bảo sự cam kết theo đuổi và thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện về tài chính toàn diện ở Việt Nam, đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên liên quan; Cơ sở dữ liệu về tiếp cận tài chính còn thiếu, chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính toàn diện; Cơ sở hạ tầng tài chính còn thiếu và chưa được kết nối đồng bộ; Nền tảng 272
- đảm bảo an ninh mạng Bên cạnh đó, còn phải kể đến các rào cản như: Tỷ lệ người nghèo chưa được tiếp cận các nguồn tín dụng và dịch vụ tài chính chính thức còn cao; Sự chênh lệch giàu nghèo và sự khác biệt trong phát triển giữa các vùng miền; Mức độ nhận thức và phổ cập giáo dục tài chính của người dân; Văn hóa và thói quen sử dụng dịch vụ tài chính chính thức Tại Việt Nam, trên 1/3 số người trưởng thành, chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn, đô thị, có tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức, thấp so với mức trên dưới 80% ở các quốc gia trong khu vực như Trung Quốc và Thái Lan. Trong khi đó, với hơn 70% dân số tập trung tại khu vực nông thôn, chiếm khoảng 72% lực lượng lao động nhưng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất hạn chế. Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng tương đối cao so với tổng dư nợ cho vay nền kinh tế (chiếm khoảng 28%) nhưng chủ yếu do hệ thống Agribank, Quỹ tín dụng nhân dân, một số ngân hàng thương mại nhà nước còn các ngân hàng thương mại cổ phần khác vẫn còn e ngại. Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa đạt đến 25%. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các hình thức“vay online”, “vay trực tuyến” mới mẻ tân kỳ, cũng với các hoạt động chơi hụi, họ truyền thống xuất hiện nhan nhản, với những lời quảng cáo rất hấp dẫn, như thủ tục vay siêu nhanh, siêu đơn giản và mội nhu cầu vay vốn được chấp nhận. Hoạt động cho vay kiểu tín dụng “đen” này có quy mô ngày càng lớn, phạm vi ngày càng mở rộng và hệ lụy cũng ngày càng nặng nề cả về kinh tế và xã hội Theo số liệu thống kê chưa chính thức của Bộ Công an tại Hội nghị trực tuyến triển khai Nghị định 116 của Chính phủ ngày 26/12/2018, ước tính tín dụng đen đang cho vay khoảng 2.500 tỷ đồng; trong 4 năm qua, cả nước có tới 7.624 vụ phạm tội liên quan đến tín dụng đen, với 56 vụ giết người, 398 vụ cố ý gây thương tích, 629 vụ cướp tài sản, 1.809 vụ lừa đảo Lực lượng cảnh sát hình sự đang theo dõi, quản lý 124 băng nhóm với 831 đối tượng hoạt động có tổ chức về lĩnh vực cho vay nặng lãi. Tín dụng “đen” theo nghĩa hẹp là cho vay nặng lãi, còn theo nghĩa rộng là các dạng huy động và cho vay tín dụng bất hợp pháp không qua hệ thống ngân hàng, không đăng ký kinh doanh, cũng như không chịu sự quản lý chính thức bởi bất cứ cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan nào. Việc cho vay và vay tiền ngoài các tổ chức tín dụng là quan hệ dân sự và không bị cấm. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động này chỉ vi phạm pháp luật khi việc cho vay được xác định là có lãi suất vượt quy định và người cho vay tiền có tính chất “chuyên bóc lột”; hoặc có những hành vi bất hợp pháp khác, như đe dọa, cưỡng bức, lừa dối trong giao dịch cho vay và đòi nợ vay Tín dụng “đen” phổ biến và đa dạng về hình thức, không khó nhận diện, nhưng không dễ bắt quả tang, do có nhiều chiêu thức qua mặt cơ quan chức năng: Các chủ tín dụng “đen” thường không thể hiện hoặc che giấu mức lãi suất thực trong “hợp đồng dân sự”, mà thường khấu trừ luôn tiền lãi vào số tiền gốc ngay khi giao tiền hoặc lấy lãi theo ngày. Hơn nữa, các chủ này thường chia nhỏ số tiền cho vay để lách quy định thu lợi trên 30 triệu đồng; hoặc thậm chí giấu mặt, chỉ đạo ngầm người khác thực hiện Bởi vậy, việc xử lý hình sự đối với các đối tượng cho vay nặng lãi thường chỉ quy thành xử lý các hành vi như “bắt giữ người trái pháp luật”, “cưỡng đoạt tài sản”, “cố ý gây thương tích” mà các chủ nợ thực hiện để thu hồi nợ đã cho vay. Đặc trưng cơ bản của tín dụng “đen” là có lãi suất huy động và cho vay cao, trong khi thủ tục thực hiện thì vô cùng đơn giản so với các hoạt động tín dụng ngân hàng chính thức hiện hành. Các con nợ của các hoạt động tín dụng “đen” cũng ngày càng đa dạng và mở rộng, từ những chủ cửa hàng vàng lớn, đến người “cùng quá hóa quẫn”, sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện, miễn có tiền giải quyết nhu cầu nóng, bất chấp hệ quả và thường tự ám thị mình về khả năng trả nợ “trong tầm tay”; trong khi ngại các thủ tục và điều kiện vay chặt chẽ của ngân hàng. Người cho vay thường là người có tiền tích trữ mà không muốn gửi hay kinh doanh ngân hàng với lãi suất thấp; hoặc đơn giản chỉ là người huy động trung gian để hưởng chênh lệch lãi 273
- suất hay hoa hồng hấp dẫn. Tuy nhiên, có nhiều người đóng vai trò chuyên nghiệp hơn, trở thành kẻ cho vay nặng lãi có máu mặt lâu năm ở địa phương, với đội ngũ nhân viên “có số có má”, luôn sẵn sàng và ưa chuộng “thực thi luật rừng”, lạnh lùng và tàn nhẫn. Hệ quả tín dụng “đen” về phía người vay và cả phía người cho vay với vai trò làm trung gian huy động vốn, là sự gia tăng chóng mặt đến kinh hoàng của món nợ phái trả tích cóp theo năm tháng, do “lãi mẹ đẻ lãi con” và viễn cảnh bị phá sản, bị xiết nợ đầy bạo lực luôn treo lơ lửng trên đầu Hậu quả càng nặng nề hơn nếu có sự liên kết nhóm lợi ích giữa tín dụng “đen” với người hoạt động tín dụng ngân hàng ?! Nhận diện và ngăn chặn tín dụng đen là cần thiết và cần sự đồng bộ các giải pháp, sự phối hợp chặt chẽ từ các bên liên quan: Một mặt, cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng ngày càng minh bạch và đầy đủ, chặt chẽ hơn trong hệ thống luật pháp, cũng như sự tích cực vào cuộc của các cơ quan hành pháp trong nhận diện, truy xét và xử lý các tội phạm tín dụng đen; Đồng thời, người dân cũng cần tự cảnh tỉnh mình, biết chủ động kiểm soát những nhu cầu thiết yếu; tăng cường năng lực nhận thức pháp lý và không dễ dãi nhắm mắt ký nhận những khoản vay với các điều kiện mà mình không thể đáp ứng chắc chắn, để không tự mình biến thành nạn nhân của chính mình, nhất là biến bản thân từ người không có tiền thành con nợ ngập chìm trong bẫy nợ tín dụng “đen”. Mức lãi suất trần để xác định dấu hiệu của tội phạm cho vay nặng lãi được thể hiện trong Điều 201 Bộ Luật Hình sự 2015, theo đó: “1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; 2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Trần lãi suất theo quy định tại Điều 468 Bộ Luật Dân sự 2015 là khoảng 20%/năm, tức khoảng gần 1,7%/tháng. Còn theo Nghị định 19/2019/NĐ-CP về họ, hụi, biêu, phường có hiệu lực từ ngày 5/4/2019, việc tổ chức họ phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự; việc tổ chức họ chỉ được thực hiện nhằm mục đích tương trợ lẫn nhau giữa những người tham gia quan hệ về họ; không được tổ chức họ để cho vay lãi nặng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, huy động vốn trái pháp luật hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác. Lãi suất trong họ có lãi do các thành viên của dây họ thỏa thuận hoặc do từng thành viên đưa ra để được lĩnh họ tại mỗi kỳ mở họ, nhưng không vượt quá 20%/năm của tổng giá trị các phần họ phải góp trừ đi giá trị các phần họ đã góp trên thời gian còn lại của dây họ. Trường hợp mức lãi suất giới hạn nói trên được điều chỉnh bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, thì áp dụng mức lãi suất giới hạn được điều chỉnh đó. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận hoặc do từng thành viên đưa ra để được lĩnh họ tại mỗi kỳ mở họ vượt quá lãi suất giới hạn nêu trên, thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Trong trường hợp chậm góp, chậm giao phần họ, thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên, nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn quy định của số tiền chậm trả trên thời gian chậm trả, nếu không có thỏa thuận, thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định của số tiền chậm trả trên thời gian chậm trả. Trường hợp đến kỳ mở họ mà thành viên đã lĩnh họ không góp phần họ hoặc góp phần họ không đầy đủ thì phải trả lãi như sau: Trường hợp họ không có lãi, lãi suất được xác định theo thỏa thuận, nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn quy định của số tiền chậm góp họ trên thời gian chậm góp, nếu không có thỏa thuận thì lãi suất được xác định 274
- bằng 50%/năm mức lãi suất giới hạn quy định của số tiền chậm góp trên thời gian chậm góp; trường hợp họ có lãi, lãi suất được xác định theo mức quy định tại khoản 5 Điều 466 của Bộ luật Dân sự đối với họ có lãi. Mặt khác, cần mở rộng tài chính toàn diện đáp ứng nhu cầu chính đáng và có thực của người dân; Đặc biệt, cần mở rộng của các nguồn tín dụng ngân hàng cho vay tiêu dùng với lãi suất và thời hạn hợp lý. Những nỗ lực đáng khích lệ theo hướng đó là chủ trương Agribank sẽ giành 5.000 tỷ đồng cho vay tiêu dùng và Ngân hàng Chính sách từ ngày 1/3/2019 nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo từ 50 triệu đồng/hộ lên 100 triệu đồng/hộ vay không phải bảo đảm tiền vay. Đồng thời, nâng thời hạn cho vay tối đa lên 120 tháng phù hợp với quá trình sinh trưởng và phát triển của các đối tượng đầu tư dài hạn theo Quyết định số 12/QĐ-HĐQT của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước kiêm Chủ tịch Ngân hàng chính sách xã hội. Chính phủ cần có chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng điện tử và xác định vai trò, trách nhiệm của các bên tham gia đối với phát triển thị trường; Ban hành quy định các chính sách an ninh bắt buộc đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính số để giảm thiểu rủi ro thất thoát tài sản và dữ liệu; Có chính sách đầu tư vốn, công nghệ xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia, xây dựng hệ thống pháp lý quy định số hóa dữ liệu, cập nhật và cung cấp thông tin cho trung tâm dữ liệu; Đặc biệt, cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện. Với vai trò đầu mối, NHNN cần tiếp tục tăng cường tham gia vào các chương trình, diễn đàn quốc tế về tài chính toàn diện, đẩy mạnh hợp tác về tài chính toàn diện trong khuôn khổ APEC, ASEAN và với các đối tác phát triển như WB, ADB, UN nhằm huy động và tận dụng nguồn lực kỹ thuật và tài chính để triển khai tài chính toàn diện thành công tại Việt Nam. Các ngân hàng thương mại cũng cần nhanh chóng tiếp cận và áp dụng các công nghệ tài chính số, như các ứng dụng di động, dịch vụ ngân hàng trực tuyến; Chủ động đầu tư vốn, nâng cấp hạ tầng công nghệ của ngân hàng tương thích với nền tảng tài chính số, đồng thời có chính sách đào tạo nâng cao chất lượng nhân sự có khả năng vận hành và làm chủ hệ điều hành, cơ sở dữ liệu ngày càng phức tạp; Nghiên cứu hợp tác với các tổ chức tài chính/phi tài chính xây dựng hệ thống ngân hàng đại lý nhằm mở rộng mạng lưới khách hàng tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính (2017), Tài liệu tài chính toàn diện tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC 2017; 2. ADB (2014), “Report and Recommendation of the President to the Board of Directors - Proposed Policy-Based Loan for Subprogram 2- Socialist Republic of Viet Nam: Microfinance Development Program” 3. Eduardo Cabral Jimenez (2014), “Role of smart policies and regulation in financial inclusion”, Alliance for Financial Inclusion (AFI), Bangkok, Thailand. 4. Isaku Endo (2014), “Remittance markets and financial inclusion in ASEAN”, Payment Systems Development Group, The World Bank, USA. 275