Nâng cao dân trí tài chính góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao dân trí tài chính góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nang_cao_dan_tri_tai_chinh_gop_phan_thuc_day_tai_chinh_toan.pdf
Nội dung text: Nâng cao dân trí tài chính góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam
- NÂNG CAO DÂN TRÍ TÀI CHÍNH GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM NCS. Ngô Ánh Nguyệt Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh Tóm tắt Tài chính toàn diện là việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức (thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm) một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu và với chi phí hợp lý tới tất cả người dân, doanh nghiệp. Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao dân trí về tài chính. Nâng cao dân trí tài chính giúp thế hệ người dân được trang bị tốt hơn với dịch vụ tài chính. Việc nâng cao dân trí tài chính được đặt ra trong chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu về tài chính toàn diện ở Việt Nam. Bài viết này sẽ khái quát các khái niệm, tác động của dân trí tài chính tới tài chính toàn diện, cũng như thực trạng dân trí tài chính tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết sẽ đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao dân trí tài chính, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam. Từ khoá: Tài chính, dân trí tài chính, tài chính toàn diện, tiếp cận tài chính, giáo dục tài chính. 1. Khái niệm dân trí tài chính Đã có rất nhiều nghiên cứu về dân trí tài chính được đề cập trong các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, đặc biệt là các nước phát triển có hệ thống tài chính phát triển, người dân có thể tiếp cận với dịch vụ tài chính một cách dễ dàng. Đây coi là một chỉ số mà các chính phủ các nước phát triển rất quan tâm như nhân tố góp phần đánh giá chất lượng và tiềm năng phát triển toàn diện của nền tài chính. Tuy nhiên, một định nghĩa chung về “dân trí tài chính” vẫn chưa có sự thống nhất, mà thường được điều chỉnh hay thay đổi tùy thuộc vào từng nghiên cứu, chương trình triển khai của mỗi tổ chức quốc tế hoặc quốc gia. Các tổ chức uy tín trên thế giới cũng đã đưa ra nhiều khái niệm về dân trí tài chính khác nhau (Bảng 1). Bảng 1: Định nghĩa về dân trí tài chính của các tổ chức Tổ chức Định nghĩa Nguồn AU Là sự hiểu biết của một cá nhân về khái niệm Bản phác thảo đo lường (Australian Unity) tài chính và các sự lựa chọn tài chính trong chất lượng cuộc sống và bối cảnh tình hình kinh tế cá nhân của họ, kết hiểu biết tài chính của AU hợp với hành vi và khả năng sử dụng kiến (2014) thức tài chính để đạt được mức độ phúc lợi tài chính mong muốn. ANZ Là khả năng đánh giá và đưa ra quyết định ANZ (2011) đúng đắn về việc sử dụng và quản lý tiền bạc. Bên cạnh đó cũng chính là sự kết hợp giữa kỹ năng, kiến thức, thái độ và cuối cùng là hành vi của họ đối với tiền bạc. OECD Là sự kết hợp của nhận thức, kiến thức, OECD (2012) kỹ năng, thái độ và hành vi thiết yếu để đưa ra quyết định tài chính hiệu quả; cuối cùng đạt được mức độ cao về hiểu biết tài chính cá nhân. 176
- Tổ chức Định nghĩa Nguồn Văn phòng quản Là khả năng đưa ra những đánh giá đúng đắn Văn phòng quản lý chi lý chi tiêu Chính và việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài tiêu Chính phủ Hoa Kỳ phủ Hoa Kỳ chính trong hiện tại và tương lai để quản lý (2012) (GAO) tiền bạc. FINRA Là những hiểu biết căn bản của các nhà đầu FINRA (2003) tư về các nguyên lý, công cụ, tổ chức và điều luật của thị trường. Jump$tart Là khả năng sử dụng kiến thức và kỹ năng để Hội liên hiệp Jump$tart về điều khiển nguồn lực tài chính một cách hiệu hiểu biết tài chính cá nhân quả cho sự đảm bảo về tài chính trong cuộc đời. Chính phủ Úc Là sự hiểu biết về tiền bạc và các khái niệm tài Chính phủ Úc (2014) (ASIC) chính; và khả năng sử dụng kiến thức đó để đưa ra quyết định tài chính một cách hiệu quả. Nguồn: Australian Unity Từ các khái niệm trên có thể hiểu rằng: Dân trí tài chính là tổng hợp nhận thức kiến thức, thái độ và hành vi tài chính cần thiết để có thể đưa ra các quyết định tài chính lành mạnh và cuối cùng đạt được lợi ích tài chính. Nâng cao dân trí tài chính giúp các cá nhân và hộ gia đình hoạch định ngân sách để chi tiêu, tiết kiệm, đề phòng cho những rủi ro và lập kế hoạch tương lai cho cuộc sống. Không chỉ vậy, nâng cao dân trí tài chính còn mang ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính và sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Dân trí tài chính bao gồm các vấn đề là kiến thức tài chính, thái độ tài chính và hành vi tài chính. Kiến thức tài chính: Gồm kiến thức về các khái niệm tài chính cơ bản (lạm phát, lãi suất kép, ), hiểu biết các sản phẩm và dịch vụ tài chính, các kỹ năng tài chính cơ bản (thanh toán, mở tài khoản); Hành vi tài chính: Thể hiện thông qua việc quản lý tiền bạc hàng ngày, việc lập kế hoạch dài hạn, mức độ sử dụng và khả năng lựa chọn các sản phẩm tài chính phù hợp cũng như việc tìm kiếm dịch vụ tư vấn tài chính; Thái độ tài chính: Thể hiện qua thái độ với tiết kiệm, thái độ với tương lai, sự tự tin với các kế hoạch khi về hưu, xu hướng tiết kiệm, cho vay. 2. Vai trò của nâng cao dân trí tài chính trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện Thứ nhất, dân trí tài chính giúp các hộ gia đình cân đối hoạt động tài chính, giảm rủi ro cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng; tạo niềm tin và sự tự tin để chủ động tiếp cận đến các sản phẩm, dịch vụ sẵn có trên thị trường chính thức, hạn chế sự mở rộng của thị trường tài chính phi chính thức, trực tiếp thúc đẩy tài chính toàn diện ở mỗi quốc gia. Thứ hai, nâng cao dân trí về tài chính làm phong phú nhu cầu sử dụng sản phẩm tài chính, giúp hiện đại hóa, đa dạng hóa hệ thống tài chính, tăng sự linh động và hiệu quả. Cụ thể, khi được nâng cao dân trí tài chính, người dân có khả năng so sánh và đánh giá chất lượng các loại hình sản phẩm tài chính khác nhau để lựa chọn ra sản phẩm phù hợp nhất với tình hình tài chính bản thân. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải không ngừng cải tiến và sáng tạo các sản phẩm dịch vụ tài chính để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng tài chính, khiến thị trường tài chính không ngừng cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy thị trường tài chính phát triển và hoàn thiện hơn. Hơn nữa, khi dân trí tài chính cao, cá nhân/hộ gia đình sẽ có xu hướng tiết kiệm và quản lý ngân sách tốt hơn, giúp gia tăng nguồn lực tiết kiệm trong dân, thúc đẩy nguồn vốn đầu tư cho xã hội, tạo hiệu ứng tích cực cho đầu tư và tăng trưởng nền kinh tế. 177
- Thứ ba, dân trí về tài chính cao hơn giúp thúc đẩy kỷ luật thị trường và khuyến khích quản lý rủi ro thận trọng cũng như nâng cao chuẩn mực dịch vụ. Dân trí tài chính cao giúp cá nhân/hộ gia đình biết cách tự bảo vệ mình, biết phát hiện và thông báo cho cơ quan quản lý những sai phạm của các tổ chức trung gian tài chính. Điều này sẽ hỗ trợ hoạt động giám sát được dễ dàng hơn, giảm nhẹ nguồn lực của Nhà nước vào việc giám sát, kiểm tra và xử lý sai phạm, và trên hết là tạo một môi trường kinh tế - tài chính lành mạnh, bền vững làm cơ sở cho từng cá nhân, doanh nghiệp phát triển, cải thiện kinh tế, rồi từ đó lại tạo ra động lực mới cho sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, hình thành một vòng tròn phát triển bền vững với những bước tiến mới trong đời sống kinh tế - xã hội. Thứ tư, những quyết định đầu tư dựa trên dân trí về tài chính cao có khả năng giúp tăng cường hiệu quả phân bổ nguồn lực kinh tế. Nâng cao dân trí tài chính không chỉ góp phần trực tiếp gia tăng số lượng người trưởng thành tiếp cận và sử dụng các sản phẩm/dịch vụ tài chính, thúc đẩy tài chính toàn diện mà còn gián tiếp hỗ trợ thực hiện các mục tiêu quốc gia như thúc đẩy luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, tăng tính minh bạch và cạnh tranh lành mạnh cho thị trường tài chính, hướng tới phát triển bền vững và toàn diện cho mỗi quốc gia. 3. Thực trạng dân trí tài chính và nâng cao dân trí tài chính ở Việt Nam 3.1. Thực trạng dân trí tài chính ở Việt Nam Các cuộc điều tra nghiên cứu cho thấy Việt Nam có dân trí tài chính khá thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Cụ thể so với thế giới, dân trí về tài chính Việt Nam xếp 90/118 nước (Standard & Poor. 2014); so với các nước trong khu vực, Việt Nam được xếp vào hàng thứ 11/16 nước Đông Nam Á (MasterCard, 2014). Một nghiên cứu đánh giá trình độ dân trí về tài chính của phụ nữ thuộc nhiều quốc gia trong đó Việt Nam xếp thứ 25 trong tổng số 27 nước được khảo sát (Visa, 2013). Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ người tiếp cận đến dịch vụ tài chính chính thức của Việt Nam rất thấp (theo WB, Việt Nam chỉ có 31% người dân có tài khoản tại tổ chức tín dụng, và với vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa thì con số này còn thấp hơn, 27%), khiến Việt Nam chỉ đứng 103/144 về mức độ sẵn có về dịch vụ tài chính trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2015-2016 của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum - WEF). Cuộc điều tra của Standard & Poor năm 2014 về mức độ hiểu biết tài chính cho thấy Việt Nam ở vị trí thấp hơn nhiều so với các nước cùng khu vực (Bảng 2) bởi chỉ 24% người trưởng thành ở Việt Nam được xếp vào hạng có trình độ dân trí về tài chính ở mức cao. Bảng 2: Điều tra về hiểu biết tài chính toàn cầu của Standard & Poor’s năm 2014 Quốc gia Người trưởng thành hiểu biết về tài chính (%) Campuchia 18 Trung Quốc 28 Indonesia 32 Malaysia 36 Philippines 25 Thái Lan 27 Việt Nam 24 Nguồn: Standard & Poor’s năm 2014 Về kiến thức tài chính: Việc thiếu kiến thức và hiểu biết về các loại sản phẩm, dịch vụ tài chính khiến người dân thiếu sự tự tin, ngại tiếp cận và thái độ không tin tưởng đối với các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Theo khảo sát của công ty tài chính tại Việt Nam vào năm 2013 thì thấy chỉ có khoảng 51% người dân tự nhận xét mình có hiểu biết về kiến thức tài chính. Còn lại, 42,5% người dân cho rằng mình biết đại khái và 6,5% cho rằng hoàn toàn không hiểu gì về hình 178
- thức mua sắm, vay tiêu dùng. Việc người vay không hiểu biết một cách hệ thống về kiến thức tài chính tín dụng đã dẫn đến tình trạng rất nhiều người dân có mức thu nhập thấp bị dính bẫy tín dụng đen bởi quan điểm vay tiêu dùng ở công ty tài chính và vay tín dụng đen đều giống nhau. Việc không hiểu rõ sản phẩm dịch vụ cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến người dân không sử dụng thẻ tín dụng, bảo hiểm ở Việt Nam (Nielson, 2010). Điều này cho thấy mối liên hệ rõ nét giữa dân trí về tài chính và sự tiếp cận dịch vụ, công cụ tài chính ngân hàng hiện đại của dân chúng và do đó hạn chế quá trình phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện đại ở Việt Nam Về hành vi tài chính: Tỷ lệ người Việt Nam sử dụng sản phẩm tài chính ở mức khá thấp (WB, 2011); giao dịch tài chính phi chính thức ở tỷ lệ cao. Mức chênh lệch lớn giữa tỷ lệ nợ chính thức và phi chính thức cũng như một số chỉ số khác (so với các nước khác trong bảng) cho thấy một bộ phận dân cư chưa tiếp cận được các dịch vụ ngân hàng ở mức khá cao (Bảng 3). Bảng 3: Mức độ phổ cập tài chính tại Việt Nam Tài khoản Tài khoản Có khoản Có tiền gửi Có khoản Có khoản nợ tài các tổ cho mục tiết kiệm tại các nợ trong với các Quốc gia/ chức tín đích kinh trong quá TCTD trong quá khứ TCTD trong Khu vực dụng (% doanh (% khứ (% trên quá khứ (% (% trên quá khứ (% trên 15 tuổi) trên 15 tuổi) 15 tuổi) trên 15 tuổi) 15 tuổi) trên 15 tuổi) Cambodia 3,7% 0,2% 31% 0,8% 59,5% 19,5% Bangladesh 39,6% 5,5% 26,8% 16,6% 37,3% 23,3% Indonesia 19,6% 3,2% 40,5% 15,2% 49,1% 8,5% Malaysia 66,2% 6,5% 51% 35,4% 32,5% 11,2% Lào 26,8% 4,5% 54,5% 19,4% 32,5% 18,1% Philippines 26,6% 5,6% 45,5% 14,7% 58,1% 10,5% Sri Lanka 68,5% 4,6% 36,3% 28,1% 34,1% 17,7% Taiwan 87,3% 10,2% 58,1% 45,7% 24% 9,6% Thái Lan 72,7% 8,7% 60% 42,8% 27,2% 19,4% Việt Nam 21,4% 3,8% 35,3% 7,7% 43,9% 16,2% (Nguồn: Global Findex, 2011, WB, 2011) Về thái độ trong việc ra các quyết định tài chính: Theo nghiên cứu của WB về vấn đề tiếp cận tài chính cá nhân thì gia đình và bạn bè là nơi đi vay đầu tiên của 29% người Việt Nam trên 15 tuổi so với 18,4% các cá nhân tại Việt Nam sử dụng nguồn tín dụng chính thức (từ các định chế tài chính). Phụ nữ, người ở một độ tuổi nhất định ít sử dụng nguồn tín dụng phi chính thức, còn người có thu nhập thấp nhất có khuynh hướng sử dụng nguồn tín dụng phi chính thức nhiều hơn. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), nhận thức tài chính của người dân về hình thức cho vay cá nhân còn rất thấp, chỉ 51% số người được hỏi đã nghe và hiểu về cụm từ cho vay khách hàng cá nhân. Một cuộc khảo sát ở 7 trường trung học của Thành phố Hồ Chí Minh với đối tượng học sinh từ 13 - 18 tuổi (2012, 2013) thu được kết quả như sau: chỉ có 17,2% số học sinh biết tiết kiệm và chi tiêu một phần tiền có được, 8,8% chi tiêu toàn bộ số tiền có được và số còn lại không biết tiêu tiền hoặc tiết kiệm. Trong cuộc điều tra của OECD (2012), Việt Nam xếp thứ 26 trong 28 nước, đứng trên Indonesia và Pakistan. 33% số người được khảo sát ở Việt Nam không lập ngân sách để quản lý thu nhập và chi tiêu (OECD, 2014). Như vậy, từ thực trạng trên cho thấy, dân trí tài chính với thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam có mối quan hệ tác động. Do đó, nâng cao dân trí về tài chính là cơ sở để phát triển bền vững hệ thống tài chính gắn với tăng trưởng kinh tế hiệu quả, bền vững. 179
- 3.2. Thực trạng nâng cao dân trí tài chính ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong những năm qua, việc nâng cao dân trí tài chính đã được thực hiện thông qua một số chương trình do một số ngân hàng thương mại cổ phần và công ty tư vấn tài chính triển khai. Đối tượng mà các chương trình này hướng đến cũng rất đa dạng, từ học sinh tiểu học, trung học, sinh viên đại học đến những người tiêu dùng tài chính. Hình thức tổ chức cũng rất đa dạng: lớp học ngoại khóa, gameshow; tọa đàm, video hướng dẫn kỹ năng quản lý tài chính và giới thiệu các dịch vụ tài chính - ngân hàng Tiêu biểu có thể kể đến một số ngân hàng và công ty tài chính như: HSBC, Quỹ Citi Foundation, Công ty Visa International, Home Credit Vietnam, Sacombank, Creative Wealth Việt Nam Một số chương trình giáo dục tài chính tiêu biểu có thể kể đến như: Chương trình JA More than Money cho học sinh tiểu học, thư viện tài chính trực tuyến, Chương trình “quản lý tài chính và hướng nghiệp” dành cho sinh viên của HSBC; chương trình “Giáo dục tài chính cho học sinh phổ thông trung học” (Quỹ Citi Foundation); Chương trình “Giáo dục kỹ năng quản lý tài chính cho tất cả mọi người” (Công ty Visa International) Nhìn chung, tất cả các chương trình trên đều là những nội dung giáo dục tương đối mới mẻ, mang tính bổ trợ cao, có thể cung cấp nhiều kiến thức bổ ích để giúp người tham gia có cơ hội tiếp xúc và cải thiện nền tảng kiến thức tài chính, có ý niệm về việc lên kế hoạch tài chính cá nhân, đầu tư và tiết kiệm Bên cạnh các ngân hàng và công ty tư vấn tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là những cơ quan Nhà nước hiện đang triển khai các hoạt động thông tin tuyên truyền để nâng cao nhận biết của người dân về lĩnh vực tài chính - ngân hàng như tuyên truyền bằng tờ rơi, website, phối hợp với các báo điện tử, báo in, tuyên truyền trên đài phát thanh, phát sóng trên truyền hình Tuy nhiên tại Việt Nam, vấn đề nâng cao dân trí tài chính còn nhiều hạn chế. Sự hạn chế này thể hiện: (i) Các hoạt động tổ chức nhỏ lẻ và chỉ hướng đến nhóm đối tượng nhất định; (ii) Một số chương trình được thiết kế nhằm phục vụ mục đích thương mại, quảng bá hình ảnh, sản phẩm của tổ chức; (iii) Việc thực hiện các hoạt động thiếu tính liên tục; (iv) Nội dung đào tạo chưa toàn diện. Các hoạt động này tuy đã có định hướng nâng cao dân trí tài chính nhưng chưa có chương trình khảo sát đo lường dân trí tài chính mang tính chất một chương trình tầm cỡ quốc gia, được tổ chức quy mô và có lộ trình dài hạn phục vụ mục tiêu nâng cao dân trí tài chính cho cộng đồng. 4. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao dân trí tài chính ở Việt Nam Để nâng cao dân trí tài chính, từ đó thúc đẩy tài chính toàn diện và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước một cách bền vững tại Việt Nam, bài viết có một số khuyến nghị chính sách sau: Một là, tổ chức nghiên cứu khảo sát tổng thể cấp quốc gia về tình trạng dân trí tài chính mang tính thường kỳ để đánh giá tình hình, nhu cầu đào tạo, ; và đánh giá tác động, ảnh hưởng hay vai trò của dân trí về tài chính trong phát triển tài chính toàn diện. Hai là; xây dựng một khung chương trình giảng dạy quốc gia về giáo dục tài chính nhằm hình thành năng lực hiểu biết tài chính cơ bản (kiến thức, hành vi, thái độ về tài chính) cho thế hệ trẻ, những người trưởng thành chưa có kiến thức tài chính, những người có nhu cầu sử dụng sản phẩm/dịch vụ tài chính và cả những người yếu thế (phụ nữ, người già, người tàn tật). Theo đó, chiến lược sẽ thiết lập một chương trình giảng dạy giáo dục tài chính xuyên suốt và liên tục các cấp học, từ cấp tiểu học cho đến cao đẳng, đại học theo nguyên tắc học tập suốt đời với mục tiêu hình thành kiến thức tài chính vững mạnh và có hệ thống, định hình thói quen tốt cho thế hệ trẻ ngay từ bé, giúp thế hệ trẻ không bỡ ngỡ trước vấn đề tiền bạc và tài chính khi bắt đầu bước vào cuộc sống xã hội hoặc thực sự sống tự lập (thời gian sau đại học). Tùy theo năng lực tiếp thu, tiếp nhận nguồn kiến thức ở mỗi cấp học mà đưa ra các chương trình học phù hợp. Ngoài ra, để tránh 180
- việc chỉ truyền tải kiến thức suông, cứng nhắc và thiên về lý thuyết, ở mỗi cấp học đều sẽ đưa ra các hoạt động ngoại khóa (extra curricurlum) liên quan trực tiếp đến các bài học về tài chính nhằm tăng khả năng tiếp thu và học hỏi ở học viên. Đồng thời gắn đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về tài chính ngân hàng (bao gồm các kiến thức cơ bản; các kỹ năng sử dụng tiền vốn ) với chương trình quốc gia khởi nghiệp. Ba là, gắn đào tạo, truyền thông phổ cập dân trí về tài chính với các giải pháp công nghệ, kỹ thuật truyền thông hiện đại đa phương tiện như xây dựng một chương trình truyền hình về giáo dục tài chính với những kiến thức tài chính cơ bản cần biết cho mọi lứa tuổi trong khung thời gian phát sóng phù hợp; đồng thời thiết lập một trang điện tử (website) chuyên về bồi dưỡng kiến thức tài chính để mọi người dân có thể tiếp cận. Để làm điều này, Chính phủ cần thúc đẩy chính sách phát triển và huy động ngân sách cho các chương trình giáo dục tài chính cho toàn dân. Bốn là, Gắn phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng hiện đại với nâng cao trình độ dân trí về tài chính cho mọi tầng lớp dân cư. Trong đó, các tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm xã hội về đào tạo, nâng cao trình độ dân trí về sử dụng các công cụ tài chính, sử dụng vốn cho nhân dân - theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng hay theo kịch bản do cơ quan, tổ chức chuyên ngành và có kinh nghiệm thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng theo chuẩn phù hợp. Coi việc đào tạo, huấn luyện về tài chính, tín dụng cho nhân dân, cho khách hàng (người tiêu dùng) là giải pháp minh bạch về tài chính - tránh tình trạng người đi vay không đọc, không hiểu các nội dung, điều khoản trong hợp đồng tín dụng mà vẫn ký khi vay vốn. Những giải pháp này sẽ đảm bảo quyền, lợi ích cho người tiêu dùng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Chung, Lê Văn Hinh (2016), Dân trí về tài chính và phát triển hệ thống ngân hàng bền vững - gợi ý chính sách cho Việt Nam, Đăng trong hội thảo Khoa học Quốc gia “Hoàn thiện thể chế cho phát triển bền vững Hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2016-2020”, do Đại học Kinh tế Quốc dân và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức, tháng 11 năm 2016. 2. Nguyễn Vĩnh Hưng (2015) “Evaluation of financial literacy in VietNam and national fianancial education program”, Asian Development Bank Institute, High-Level Global Symposium: Promoting Better Lifetime Planning through Financial Education. 3. Trần Thọ Đạt và các cộng sự (2017), Báo cáo kinh tế Việt Nam 2016, báo cáo thường niên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 4. OECD. 2005. Improving Financial Literacy: Analysis of issues and policies. 5. OECD. 2012. PISA - Financial litercay Framework. 6. OECD.2015. National Strategies Financial Education Policy Handbook. 7. Schwab, K., Sala-i-Martin, X., & Brende, B. (2015). The Global Competitiveness Report 2015 - 2016 (vol 5.) 8. WB 2014. “Global financial development report 2014: Financial inclusion”, Washington, D.C, 9. Nắm vững kiến thức tài chính để trở thành người vay thông minh, truy cập tại 20161125151407249.htm 10. Chiến lược giáo dục tài chính ở Việt Nam, truy cập tại luoc-giao-duc-tai-chinh-o-viet-nam/ 181