Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước vào doanh nghiệp Việt Nam

pdf 5 trang Gia Huy 23/05/2022 1390
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước vào doanh nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnang_cao_hieu_qua_su_dung_von_dau_tu_nha_nuoc_vao_doanh_nghi.pdf

Nội dung text: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước vào doanh nghiệp Việt Nam

  1. Taäp 03/2019 CAÙC VAÁN ÑEÀ KINH TEÁ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Nhà nước vào doanh nghiệp Việt Nam Phạm Bích Ngọc - CQ55/16.02 Tìm hiểu sơ lược về “vốn” và nguồn vốn đầu tư của Nhà nước Vốn là một trong số những nhân tố nền tảng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu nói hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quả tim trong một cơ thể sống thì vốn giống như mạch máu luôn tuần hoàn nhằm duy trì sự sống cho cơ thể và dòng vốn đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp chính là tĩnh mạch giúp lưu thông máu về tim. Trong những năm qua, nguồn vốn Nhà nước huy động cho đầu tư liên tục gia tăng và chiếm tỷ lệ khoảng 30% GDP, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp góp phần tạo nên sự chuyển biến quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, cải thiện văn minh đô thị, đóng góp quyết định vào phát triển kinh tế xã hội và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cùng với các kết quả đạt được, việc quản lý và triển khai thực hiện các dự án đầu tư trong những năm qua đã bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, dẫn đến tình trạng thất thoát, lãng phí vốn, hiệu quả đầu tư kém. Những hạn chế về vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đang là bài toán khó đối với Nhà nước và các doanh nghiệp nhận vốn. Vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Các nguồn lực có thể là của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và tất cả các tài sản vật chất khác. Đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp là việc Nhà nước sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước hoặc vốn từ các quỹ do Nhà nước quản lý để đầu tư vào doanh nghiệp nhằm mục đích tạo lợi nhuận. Đầu tư vốn là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, vấn đề nâng cao hiệu quả đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp luôn là vấn đề “nóng hổi”, tuy nhiên nó không tránh được những rủi ro. Nguyên nhân nào dẫn đến vốn đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp khó tránh khỏi thất thoát và hiệu quả không cao? Thứ nhất, Nhà nước chưa xác định rõ ràng những ngành, những lĩnh vực mà Nhà nước sẽ đầu tư. Thảo luận về phạm vi đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp theo các hình thức đầu tư, có ý kiến đề nghị, cần xác định rõ hơn những ngành, nghiªn cøu khoa häc 44 Sinh viªn
  2. CAÙC VAÁN ÑEÀ KINH TEÁ Taäp 03/2019 lĩnh vực mà Nhà nước được đầu tư, đặc biệt là lĩnh vực độc quyền nhà nước, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; những ngành, lĩnh vực cần duy trì doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần tiếp tục duy trì tỷ lệ cổ phần, vốn góp tại doanh nghiệp; nguyên tắc để mua lại một phần vốn hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác khi Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế, trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội. Thứ hai, vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp chưa được Nhà nước giám sát một cách chặt chẽ nên không phát huy được hiệu quả. Việc giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp tức là giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhằm đánh giá việc tuân thủ quy định về phạm vi, quy trình, thủ tục, thẩm quyền và hiệu quả đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp. Tuy nhiên thực trạng hiện nay cho thấy việc quản lý này của Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn lỏng, khiến tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn vẫn xảy ra. Một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là ROE (tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu). Hiện tại, ROE của 871 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước là 16%, không chỉ thấp xa so với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà còn giảm so với năm 2013. Các doanh nghiệp này hiện có vốn chủ sở hữu 1.233.723 tỷ đồng, nếu ROE tăng thêm 1-2% thì Nhà nước đã có thêm 12.337 - 24.674 tỷ đồng. Như vậy, chưa cần nói đến những doanh nghiệp thua lỗ, mà chỉ cần nói tới việc quản lý, sử dụng vốn kém hiệu quả đã cho thấy cần phải có mô hình quản lý vốn nhà nước mới thay cho cách quản lý hiện nay. Bên cạnh đó, trong những năm qua, hành lang pháp lý về đầu tư, quản lý và sử dụng nguồn vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã cơ bản được hình thành, khắc phục được một số tồn tại, bất cập trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, hệ thống pháp lý này mới chỉ dừng lại ở nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành nên chưa bao quát được hết các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt, cơ chế tài chính cho các tập đoàn, tổng công ty; chế độ về quản lý rủi ro, báo cáo và công bố thông tin, đánh giá xếp loại doanh nghiệp; cơ chế tài chính cho hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp, thanh lý phá sản dự án lớn thua lỗ vỡ nợ, xử lý về mặt tài chính đối với doanh nghiệp liên quan bán phá giá Bên cạnh đó, cơ chế phân công, phân cấp trong thực hiện các quyền chủ sở hữu tại doanh nghiệp Nhà nước còn bị phân tán, chồng chéo, trùng lặp và không rõ phạm vi. Thứ ba, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp chưa được doanh nghiệp sử dụng hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. nghiªn cøu khoa häc 45 Sinh viªn
  3. Taäp 03/2019 CAÙC VAÁN ÑEÀ KINH TEÁ Ông Nguyễn Hữu Quang, thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cho rằng: “Đã 20 năm trôi qua, bàn tới, bàn lui, nghiên cứu, khảo sát không biết bao nhiêu lần, nhưng đến bây giờ vẫn chưa làm được. Khi vụ việc Vinashin, Vinalines xảy ra, vấn đề thành lập cơ quan chuyên quản lại được bàn bạc một cách nghiêm túc, nhưng vẫn chưa làm được, thì gần đây lại “phát lộ” hàng loạt doanh nghiệp có vốn nhà nước làm ăn thua lỗ, mất vốn hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn tỷ đồng, như: PVC, Đạm Ninh Bình, Xơ sợi Đình Vũ, Nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất, Bột giấy Phương Nam, Gang thép Thái Nguyên Danh sách doanh nghiệp có vốn nhà nước làm ăn thua lỗ tiếp tục dài ra đã chứng tỏ mô hình giao các bộ, ngành, địa phương làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp không còn phù hợp”. Việc sử dụng vốn chưa hiệu quả do cơ chế, chính sách quản lý doanh nghiệp còn nhiều bất cập như: Hệ thống quản trị nội bộ doanh nghiệp chưa đáp ứng được các yêu cầu quản lý, yêu cầu giám sát hiệu quả sử dụng các nguồn lực được Nhà nước giao; tính tuân thủ pháp luật, chế độ quản lý tài chính, công khai, minh bạch thông tin của các doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức; sự tách bạch giữa nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ công ích của doanh nghiệp chưa rõ ràng; sự phân công, thực thi vai trò đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp còn phân tán, chồng chéo; quá trình tổ chức, cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp tiến hành chậm, kéo dài. Thứ tư, tình trạng tham nhũng ở các doanh nghiệp không được kiểm soát một cách sát sao dẫn đến tình trạng thất thoát, lãng phí vốn. Một hình thức được xem là khá phổ biến, làm thất thoát lãng phí nguồn vốn Nhà nước là tình trạng tham nhũng, hối lộ trong quan hệ doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân (hối lộ thương mại) biểu hiện phổ biến là lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp Nhà nước nhận “hoa hồng”, “gửi giá” trong các hợp đồng ký kết với doanh nghiệp tư nhân, trong đó có 40% số doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng “Chi phí không chính thức” để tiếp cận nguồn vốn này. Tình trạng này đang là vấn nạn không chỉ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước mà cả những doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này là nhân tố làm hoạt động kinh doanh ngày càng trở nên khó khăn, yếu kém và giảm hiệu quả nền kinh tế. Giải pháp nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp Về phía Nhà nước Thứ nhất, Nhà nước nên xác định rõ hơn những ngành, những lĩnh vực Nhà nước sẽ đầu tư. Về nội dung này, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, phạm vi đầu tư theo các hình thức đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã được quy định chi tiết tại dự thảo Luật, đảm bảo tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc nghiªn cøu khoa häc 46 Sinh viªn
  4. CAÙC VAÁN ÑEÀ KINH TEÁ Taäp 03/2019 của việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần xác định rõ hơn những ngành, lĩnh vực sẽ đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp theo từng hình thức đầu tư cụ thể. Ủy ban Kinh tế cho rằng, cần hạn chế tối đa việc Nhà nước thành lập doanh nghiệp mới, cũng như làm rõ những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần tiếp tục duy trì tỷ lệ cổ phần, vốn góp và đề nghị quy định cụ thể hơn về vai trò, mô hình hoạt động của doanh nghiệp có chức năng đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Thứ hai, Nhà nước cần tăng cường quản lý giám sát tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, hạn chế sự can thiệp hành chính, gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Việc giám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp giúp Nhà nước có thể nắm bắt rõ hơn tình hình sử dụng vốn ở các doanh nghiệp; kịp thời đưa ra các quy định, chính sách buộc doanh nghiệp phải tuân thủ nếu có những khó khăn khi sử dụng nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh; từ đó tăng hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn ở các doanh nghiệp nhằm mang lại lợi nhuận cao hơn về phía Nhà nước và phía doanh nghiệp. Thứ ba, Nhà nước tiếp tục có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả. Để giúp các doanh nghiệp phát triển phù hợp với cam kết hội nhập, Chính phủ cần xây dựng và đưa ra các định hướng chiến lược phát triển ngành, vùng dài hạn làm cơ sở cho doanh nghiệp hoạt động. Đồng thời, tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về tài chính, khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin để giúp các doanh nghiệp xây dựng một hệ thống thông tin đồng nhất phục vụ công tác kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu, của xã hội đảm bảo công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế; tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển và thực hiện các quyền của đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, rất cần có thêm các cơ chế để quản lý phần vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp. Thảo luận trong dự án Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh trong năm 2018, đa số đại biểu Quốc hội cho rằng, việc ban hành Luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp, tái cơ cấu nền kinh tế cũng như đóng góp tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí trong quản lý kinh tế. Về phía các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư của Nhà nước Thứ nhất, doanh nghiệp cần sát sao hơn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh để sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí vốn. Doanh nghiệp nghiªn cøu khoa häc 47 Sinh viªn
  5. Taäp 03/2019 CAÙC VAÁN ÑEÀ KINH TEÁ cần hoàn thiện công tác kế hoạch sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh, xây dựng lộ trình sử dụng vốn cho từng giai đoạn sản xuất và thực hiện tiết kiệm, minh bạch. Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế quản lý, sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh, kiểm tra, đẩy mạnh thu hồi công nợ một cách thường xuyên, tuân thủ nghiêm túc quy tắc quản lý tài chính trong sản xuất. Đồng thời, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực, chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa trang thiết bị trong quản lý để sử dụng vốn một cách khoa học, hợp lý và tiết kiệm mà vẫn mạng lại hiệu quả cao. Thứ hai, doanh nghiệp cần giám sát chặt chẽ và đưa ra những quy định chống tình trạng cán bộ công nhân viên tham nhũng tránh nguy cơ thất thoát vốn trong doanh nghiệp. Tham nhũng là một hiện tượng xảy ra rất phổ biến không chỉ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước mà còn ở các khu vực kinh tế tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài. Để hạn chế tình trạng này, các doanh nghiệp cần mở rộng đối tượng điều chỉnh của pháp luật phòng chống tham nhũng, tăng cường chế tài xử lý đối với doanh nghiệp sử dụng biện pháp “đưa hối lộ” nhằm làm méo mó tính chất thị trường cạnh trang lành mạnh. Tiếp tục nghiên cứu khách quan và rõ ràng hơn về “nhóm lợi ích” trong quá trình hoạch định chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi nhóm các ngành hàng, kiểm soát mặt trái và hạn chế tiêu cực của “nhóm lợi ích” gây thiệt hại cho xã hội. Bên cạnh đó, khuyến khích các DN xây dựng và thực hiện các cơ chế kiểm soát nội bộ và “Quy tắc ứng xử của doanh nghiệp” bao gồm cả những nguyên tắc kinh doanh không tham nhũng, không hối lộ. Như vậy, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp là một vấn đề bức thiết và quan trọng đối với Nhà nước và các doanh nghiệp nhận vốn hiện nay. Nguồn vốn Nhà nước tạo đà cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý sẽ giúp các doanh nghiệp tránh tình trạng thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, giúp hoạt động sản xuất không bị gián đoạn, ngưng trệ. Đây là lí do Nhà nước và các doanh nghiệp nhận vốn cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn giúp kích thích sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Tài liệu tham khảo: trao-doi/trao-doi-binh-luan/quan-ly-su-dung- nguon-von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep-thuc-trang-va-mot-so-kien-nghi-90086.html trang-huy-dong-va-su-dung-von-dau-tu-phat-trien-trong-doanh-70876/ nghiªn cøu khoa häc 48 Sinh viªn