Ngành bảo hiểm Việt Nam: Những thách thức trong thời kỳ hội nhập

pdf 16 trang Gia Huy 23/05/2022 1270
Bạn đang xem tài liệu "Ngành bảo hiểm Việt Nam: Những thách thức trong thời kỳ hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnganh_bao_hiem_viet_nam_nhung_thach_thuc_trong_thoi_ky_hoi_n.pdf

Nội dung text: Ngành bảo hiểm Việt Nam: Những thách thức trong thời kỳ hội nhập

  1. NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM: NHỮNG THÁCH THỨC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP ThS. Nguyễn Thị Minh Thảo1 ThS. Ngô Thùy Dung2 ThS. Đặng Thu Trang3 Tóm tắt Bảo hiểm luôn là lĩnh vực được các quốc gia đặc biệt quan tâm vì đây là ngành cung cấp dịch vụ phòng vệ rủi ro cho các cá nhân và tổ chức trước những bất ổn của cuộc sống và kinh doanh. Mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam mới được hoạt động trở lại từ cuối năm 1993, song thời gian qua đã có được sự tăng trưởng mạnh mẽ và dự báo sẽ là thị trường nhiều tiềm năng trong tương lai. Theo báo cáo của Công ty Milliman (một công ty đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn trong đó có lĩnh vực bảo hiểm), tỷ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ của thị trường ASEAN vẫn còn thấp so với các quốc gia đang phát triển. Cụ thể, Singapore là quốc gia phát triển nhất về bảo hiểm trong khối ASEAN cũng chỉ đạt tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ là 4,8% GDP, thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ 12,1% của Hồng Kông và 8% của Nhật Bản. Đa số các quốc gia còn lại của ASEAN đều có tỷ lệ dưới 2%. Bối cảnh đó mở ra một cơ hội lớn cho thị trường bảo hiểm nhân thọ mở rộng thị phần. Tại Việt Nam, sự chênh lệch giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ có thể thấy rõ qua số lượng doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam có 29 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia hoạt động (trong đó có 12 doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài) và một chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Năm công ty bảo hiểm phi nhân thọ đứng đầu thị trường đều là các công ty của Việt Nam (100% Việt Nam hoặc công ty cổ phần mà cổ đông trong nước chiếm tỷ lệ sở hữu chi phối). Ngược lại, trong số 17 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang hoạt động, chỉ có 1 doanh nghiệp Việt Nam, 16 doanh nghiệp còn lại có 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài. Trong năm công ty có thị phần dẫn đầu thị trường (chiếm xấp xỉ 90% thị phần) chỉ có 1 công ty của Việt Nam là Bảo Việt Nhân Thọ. Như vậy có thể thấy lĩnh vực bảo hiểm của Việt Nam có tiềm năng phát triển nhưng đồng thời cũng đứng trước rất nhiều thách thức vô cùng lớn sau khi nước ta gia nhập WTO (2006), AEC và TPP (2015). Từ khóa: Bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ 1, 2, 3 Trường Đại học Thương mại. Email của tác giả chính: minhthaodhtm@gmail.com 407
  2. 1. Đặt vấn đề Bảo hiểm là cách thức chuyển giao rủi ro một cách công bằng từ một cá thể này sang một nhóm cá thể thông qua phí bảo hiểm. Đây được coi là một giải pháp chủ yếu để phòng vệ trước những rủi ro ngẫu nhiên hoặc không lường trước được. Các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) với chức năng cung cấp các sản phẩm bảo hiểm, là đầu mối giúp người mua bảo hiểm thiết lập nguồn phòng vệ và cùng san sẻ tổn thất khi rủi ro xảy ra. Việc Việt Nam gia nhập WTO (2007), AEC (2015), TPP (2015) đã đưa thị trường và ngành bảo hiểm Việt Nam đến với những cơ hội và rất nhiều thách thức. Mặc dù, sau hơn 20 năm tự do hóa, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có được mức tăng trưởng mạnh với CAGR hàng năm đạt 15% trong giai đoạn 2005 - 2015. Tính tới ngày 31/12/2015 ngành bảo hiểm Việt Nam có 17 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 29 DNBH phi nhân thọ, 1 chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài, 12 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 2 công ty tái bảo hiểm. Tuy nhiên có sự chênh lệch đáng kể giữa Top 3 công ty lớn nhất với các công ty còn lại trong ngành. Thêm nữa, thị trường bảo hiểm đang có sự cạnh tranh rất mạnh giữa các DNBH nhằm giành giật thị phần ở tất cả các thị trường bảo hiểm: nhân thọ, phi nhân thọ và tái bảo hiểm, cũng là vấn đề cần quan tâm trong nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang có sự hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay. 2. Các cam kết hội nhập của Việt Nam về lĩnh vực bảo hiểm 2.1. Cam kết của Việt Nam trong WTO Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dấu mốc quan trọng trong lộ trình hội nhập quốc tế. Các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm gồm: (1) Các cam kết chung đối với các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động ở nước ngoài: được phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam; nếu đáp ứng đủ các điều kiện được phép thành lập DNBH 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; được phép thành lập công ty liên doanh kinh doanh bảo hiểm; được phép mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam không vượt quá tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp đó theo quy định của cơ quan có thẩm quyền; và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép thuê đất theo dự án đầu tư của mình. 408
  3. (2) Các cam kết riêng trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm: DNBH hoạt động ở nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm vào Việt Nam đối với: dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; dịch vụ tái bảo hiểm; dịch vụ vận tải quốc tế, bao gồm vận tải biển quốc tế, vận tải hàng không thương mại quốc tế (cả phương tiện, hàng hóa vận chuyển và bất kì trách nhiệm nào phát sinh từ đó) và hàng hóa vận chuyển quá cảnh quốc tế; dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường. DNBH có vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam: kể từ ngày 1/1/2008 các DNBH 100% vốn đầu tư nước ngoài được phép kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc. Chi nhánh của DNBH nước ngoài: sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, DNBH nước ngoài được phép thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam, căn cứ vào các quy định quản lý thận trọng. Như vậy, các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài đã được đối xử bình đẳng như các DNBH của Việt Nam. Các hạn chế về tái bảo hiểm bắt buộc 20%, không được bán bảo hiểm vào khu vực kinh tế nhà nước, hạn chế về mở chi nhánh của DNBH có vốn đầu tư nước ngoài đương nhiên bị bãi bỏ ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 2.2. Cam kết của Việt Nam trong AEC AEC là viết tắt của Asean Economic Community, tiếng việt là Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đây là một khu vực kinh tế bao gồm các thành viên: Cambodia; Brunei; Indonesia; Malaysia; Lào; Philipines; Thái Lan; Việt Nam; Singapore. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được hình thành vào 31/12/2015, tạo ra một thị trường chung cho 10 nền kinh tế ASEAN. Đây là cơ hội lớn nhưng cũng đem lại không ít thách thức cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong bảng xếp hạng cơ hội lớn nhất và rủi ro thấp nhất trong ngành bảo hiểm của 21 thị trường mới nổi do Ernst & Young công bố, Việt Nam ở vị trí thứ 7 về cơ hội và thứ 18 về rủi ro. 409
  4. Theo đánh giá, thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ xếp thứ 7/10 nước ASEAN với điểm số 40/100. Xét về thị phần bảo hiểm trong khối AEC, năm 2014, Việt Nam chỉ chiếm 3,7%, sau cả Philippines với 4,1%, giữ khoảng cách khá xa Indonesia (18,3%), Thailand (25%), Malaysia (19,1%), Singapore (34,1%). Việc này tạo cho Việt Nam thêm áp lực về sự thay đổi thể chế chính sách trong khi các quốc gia trong khu vực đã và đang ngày càng hoàn thiện chính sách tự do hóa nhanh hơn Việt Nam. Việc mở cửa thị trường bảo hiểm đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức, sức cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn, thách thức đặt ra với các doanh nghiệp là thiếu nguồn nhân lực cấp cao; vốn, quản trị, áp lực tỷ suất lợi nhuận giảm dần, thách thức trong việc tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, phát triển các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Khi ký kết AEC, các quốc gia thành viên đã cam kết tự do hóa mạnh mẽ, xóa bỏ các hạn chế trong các ngành ngân hàng, bảo hiểm và các thị trường vốn vào năm 2015. Điều này bao hàm tự do hóa 4 phương thức cung cấp thương mại dịch vụ qua 410
  5. biên giới bao gồm: cung cấp thương mại dịch vụ qua biên giới (phương thức 1), tiêu dùng (sử dụng dịch vụ) ở nước ngoài (phương thức 2), hiện diện thương mại (phương thức 3), và tự do dịch chuyển cá nhân (phương thức 4)(1). Các mức độ cam kết đối với tự do hóa thị trường của các quốc gia thành viên ASEAN khác nhau đáng kể, do các mục tiêu của chính sách quốc gia và mức độ phát triển của ngành kinh tế và tài chính của mỗi nước thành viên. Việt Nam đã đạt được những bước tiến dài trong việc tự do hóa đối với phương thức 1, 2 và 3 trong lĩnh vực bảo hiểm và các dịch vụ phụ trợ liên quan, mặc dù vậy phương thức 4 vẫn còn bị hạn chế. Dưới đây là danh mục những lĩnh vực được xác định tự do hóa vào năm 2015 và các quốc gia thành viên đã cam kết thực hiện trong ngành bảo hiểm. Các quốc gia thành viên đã cam kết Các lĩnh vực bảo hiểm thực hiện tự do hóa vào năm 2015 Bảo hiểm nhân thọ Indonesia, Philippines Bảo hiểm phi nhân thọ Brunei, Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Việt Nam Tái bảo hiểm và tái bảo hiểm tiếp Brunei, Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Việt Nam Trung gian bảo hiểm Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Việt Nam Các ngành dịch vụ phụ trợ của Brunei, Cambodia, Indonesia bảo hiểm Sự ra đời của AEC cũng đồng nghĩa với việc ra đời một thị trường chung đầy tiềm năng. Với tổng GDP của các nước ASEAN đạt 2.600 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trên 5% mỗi năm, dân số trên 625 triệu người, cơ cấu dân số trẻ, mức thu nhập bình quân gần 4.000 USD/người/năm, thương mại nội khối ASEAN khoảng hơn 600 tỷ USD, việc tự do hóa dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực, từ đó tăng cường nhu cầu về dịch vụ bảo hiểm. Sự phát triển của vận tải đường biển, đường bộ, đường hàng không trong nội khối ASEAN cũng sẽ là tiền đề để phát triển thêm các sản phẩm bảo hiểm 411
  6. mới cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đặc biệt, việc xóa bỏ rào cản và sự khác biệt giữa các quốc gia trong khối AEC sẽ tạo ra một thị trường bình đẳng cho các công ty trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, tăng cường thu hút vốn nước ngoài nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn trong nước. Hiện nay, giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm tại Việt Nam vẫn đang duy trì tối đa ở mức 49%. Tuy nhiên, theo cam kết về tự do hóa dịch vụ, khi tham gia AEC, các nước phải mở cửa tất cả các ngành dịch vụ tài chính để tăng cường sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, các nhà đầu tư từ các nước thành viên AEC có thể tham gia sâu hơn vào thị trường bảo hiểm của Việt Nam và ngược lại. Hiện tại quy định của nhiều nước ASEAN đã phù hợp với các tiêu chuẩn trong kế hoạch của AEC đối với sự tự do tham gia vốn cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ như sở hữu nước ngoài trong công ty bảo hiểm có thể được phép lên tới 80% ở Indonesia và 70% ở Malaysia Tuy nhiên thương mại qua biên giới đối với dịch vụ bảo hiểm vẫn phổ biến là bị hạn chế và người tiêu dùng vẫn gặp những rào cản đáng kể. Vì vậy vẫn còn nhiều việc để làm để khách hàng có thể mua các loại hình bảo hiểm xuyên suốt cả Đông Nam Á, như điều đang được thực hiện ở EU. 2.3. Cam kết của Việt Nam trong TPP TPP được xem là thỏa thuận thương mại lớn nhất trong lịch sử nhân loại, giúp giảm thuế xuất nhập khẩu, cũng như các loại bảo hộ thương mại tại 12 quốc gia thành viên. Các thành viên TPP gồm: Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Mexico, Mỹ, New Zealand, Nhật Bản, Peru, Singapore, Úc và Việt Nam. Các nước này hiện chiếm đến khoảng 40% tỷ trọng kinh tế toàn cầu. So với cam kết WTO trong lĩnh vực bảo hiểm đã được đề cập trong phần trên, tại Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ mở cửa bổ sung dịch vụ nhượng tái bảo hiểm xuyên biên giới, nhằm tạo cơ hội thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại nước ngoài được bán sản phẩm qua biên giới, nếu sản phẩm bảo hiểm kém hấp dẫn hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn sẽ rất khó cạnh tranh dẫn đến nguy cơ thụt lùi rồi phá sản. Trong 11 nước tham gia TPP cùng Việt Nam đã có Úc, Canada, Nhật Bản, Mỹ có sự hiện diện thương mại (doanh nghiệp bảo hiểm) tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam. Khả năng những nước này cùng với những nước còn lại sẽ có thêm doanh nghiệp 412
  7. bảo hiểm xin cấp phép hoạt động tại Việt Nam, song điều này còn tùy thuộc vào quyết định đầu tư kinh doanh của đối tác. Về phía Việt Nam, các DNBH đang hoạt động tại Việt Nam cũng sẽ được phép thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại 11 nước thành viên nếu đáp ứng điều kiện của nước sở tại. Xét về vị thế ngành bảo hiểm Việt Nam, khi so sánh với 12 quốc gia thành viên trong khối TPP, thị trường bảo hiểm Việt Nam có quy mô gần như không đáng kể. Trong khi quy mô của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Mỹ, Nhật Bản, Canada (năm 2014) chiếm lần lượt là 35,42%; 5,09%; 3,45% trong khối, thì thị phần bảo hiểm Việt Nam chỉ chiếm 0,06%. Với tương quan so sánh như trên, có thể thấy Việt Nam sẽ phải nhập khẩu dịch vụ bảo hiểm từ các quốc gia thành viên khác, để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cho dòng vốn đầu tư từ các quốc gia đó. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ nhu cầu bảo hiểm tài sản sẽ tăng nhanh chóng khi làn sóng đầu tư nước ngoài từ các nước thành viên vào Việt Nam cũng như các nước ngoài TPP đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, không chỉ bảo hiểm phi nhân thọ mà cả bảo hiểm nhân thọ cũng sẽ hưởng lợi từ TPP. Theo đó, khi hội nhập, nhu cầu bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam sẽ tăng cao về cả số lượng và chất lượng. Nhu cầu bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm cho người cao tuổi sẽ tăng bởi Việt Nam có tốc độ già hóa dân số nhanh. Mặt khác hoạt động giao thương kinh tế, văn hóa, du lịch phát triển kéo theo nhu cầu bảo hiểm. Nhu cầu bảo hiểm trách nhiệm cũng sẽ tăng cao theo tập quán của người nước ngoài và doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Các loại hình bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm ô nhiễm môi trường, trách nhiệm công cộng, trách nhiệm với người thứ 3 , sẽ được phát triển, trong đó nhu cầu bảo hiểm trách nhiệm hàng hóa xuất khẩu sẽ tăng nhanh Cũng trong các cam kết khi gia nhập TPP, lộ trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ được thúc đẩy nhanh chóng cùng với việc nới rộng cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp nhà nước không nắm giữ nhiều sở hữu; lộ trình cổ phần hóa 70.000 cơ sở sự nghiệp công lập cũng sẽ được thúc đẩy , tạo thêm sân chơi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong lĩnh vực bảo hiểm. 3. Khái quát thực trạng hội nhập quốc tế của thị trường bảo hiểm Việt Nam Mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam được hoạt động trở lại từ cuối năm 1993, song thời gian qua đã có được sự tăng trưởng mạnh mẽ và dự báo sẽ là thị trường nhiều tiềm năng trong tương lai. Số lượng DNBH không ngừng gia tăng và ảnh hưởng của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm có sự thay đổi với việc thực 413
  8. hiện cổ phần hóa các DNBH lớn và sự tham gia của các DNBH nước ngoài. Sau hơn 20 năm hoạt động trở lại, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có được một thời kỳ tăng trưởng ấn tượng cả về chất và lượng. Điều này được thể hiện qua các mặt sau: 3.1. Về kết cấu thị trường Số lượng các DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm (DNMGBH) không ngừng gia tăng. Nếu như trong thập niên 1990, thị trường bảo hiểm chỉ có các DNBH nhà nước hoạt động, thì sang thập niên 2000, đã có các DNBH cổ phần (do các DNBH nhà nước thực hiện cổ phần hóa và các DNBH cổ phần tư nhân mới được thành lập), có sự xuất hiện của các DNBH nước ngoài (nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO). Hình 1. Diễn biến tăng trưởng các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1996 - 2015 35 70 30 60 25 50 DNFNT 20 40 DNNT 15 30 DNTBH DNMGBH 10 20 Tổng số 5 10 0 0 2011 1999 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2012 2013 2014 2015 1996 Nguồn: [1], [4] Với tốc độ tăng trưởng chung về số lượng loại hình DNBH và DNMGBH khoảng 7,8%/năm, tính đến ngày 31/12/2015, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có tổng số 61 doanh nghiệp tham gia gồm 30 DNBH phi nhân thọ, (DNFNT) 17 DNBH nhân thọ, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 12 DNMGBH. Kết quả tăng trưởng về số lượng các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới là do trong giai đoạn từ năm 2007 - 2009 có số lượng các DNBH nhân thọ, phi nhân thọ và môi giới bảo hiểm tăng mạnh do việc Việt Nam gia nhập WTO kèm theo các cam kết thực hiện mở cửa thị trường tài chính - bảo hiểm. Tuy có sự tăng trưởng như vậy, song số lượng các DNBH 414
  9. và môi giới bảo hiểm còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực, đứng thứ 6 trong khu vực với số lượng các doanh nghiệp tham gia trên thị trường chưa bằng 1/3 Singapore. Bảng 1. Kết cấu thị trường bảo hiểm các nước trong khu vực ASEAN năm 2014 Nguồn: [3] Về số lượng công ty trong các loại hình dịch vụ bảo hiểm cơ bản tại thị trường Việt Nam đều ở mức thấp so với các nước trong khu vực: - Khu vực bảo hiểm phi nhân thọ: chúng ta hiện có 30 DNFNT tương đương chiếm 9% lượng các công ty đang hoạt động trong khu vực ASEAN, đứng thứ 5 và chưa bằng 1/2 lượng công ty này của Indonesia (79 công ty). Thêm vào đó, năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam cũng ở mức độ hết sức khiêm tốn. Tổng tài sản của các DNFNT đạt 61.499 tỷ đồng (2015), đứng thứ 6 trong khu vực nhưng chỉ bằng 1/8 tổng tài sản của khối DNFNT Thái Lan. - Khu vực bảo hiểm nhân thọ: Chúng ta hiện có 17 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tương đương chiếm 10,9% lượng các công ty đang hoạt động trong khu vực ASEAN, đứng thứ 4 và bằng 1/3 lượng công ty này của Indonesia (51 công ty). Tổng tài sản của các công ty bảo hiểm nhân thọ đạt 131.659 tỷ đồng (2015) đứng thứ 6 trong khu vực nhưng chỉ bằng 1/15 tổng tài sản của các công ty bảo hiểm nhân thọ Singapore. - Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay chưa xuất hiện các doanh nghiệp bảo hiểm hỗn hợp, số lượng doanh nghiệp tái bảo hiểm rất thấp (hiện chỉ có 2 công ty) và 415
  10. số doanh nghiệp MGBH còn hạn chế (12/202 công ty trong khu vực). 3.2. Về quy mô thị trường bảo hiểm Thị trường bảo hiểm Việt Nam thể hiện sự duy trì nhịp tăng trưởng chung về quy mô với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 17,2% (trong giai đoạn 2002 - 2015), tuy nhiên mức tăng trưởng không đồng đều, tăng cao trong khoảng thời gian 2007 - 2010 (bình quân tăng trưởng khoảng 26,8%) còn các năm khác duy trì ở mức tăng khoảng 10%. Việc tăng trưởng về quy mô này là do kết quả của sự tăng trưởng trong doanh thu phí bảo hiểm với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 18,5% (2002 - 2015) và doanh thu đầu tư với tốc độ tăng trưởng khoảng 17,6% (2002 - 2015). Hình 2. Quy mô thị trường bảo hiểm Việt Nam (ĐVT: tỷ đồng) 70000 60000 50000 40000 DT phí BH 30000 DT đầu tư 20000 Quy mô TT 10000 0 1999 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 1996 Nguồn: [1], [4] Với việc tăng trưởng liên tục trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên đóng góp của ngành này vào GDP cũng có sự tăng trưởng liên tiếp với mức tăng bình quân đạt khoảng 3,3%/năm Hình 3. Mức độ đóng góp vào GDP của ngành bảo hiểm (%) 416
  11. 1.4 3 1.2 2.5 1 2 0.8 Phi NT 1.5 Nhân thọ 0.6 Hoạt động ĐT 1 0.4 Toàn TT 0.2 0.5 0 0 1999 2007 2013 2002 2003 2004 2005 2006 2008 2009 2010 2011 2012 2014 1996 Nguồn: [1], [4] Tuy nhiên, nếu so sánh với khu vực ASEAN thì mức độ đóng góp của ngành bảo hiểm vào GDPcòn thấp (chỉ khoảng trên 1,3% GDP), chỉ bằng 1/3 so với mức bình quân chung cả khối ASEAN 3,13%) và bằng 1/6 so với nước dẫn đầu là Singapore (7,12%). Bảng 2. Tương quan so sánh giữa các nước trong khu vực ASEAN về khả năng thâm nhập thị trường giai đoạn 2011 - 2014 Nguồn [3], [4] Thêm vào đó, mật độ sử dụng sản phẩm bảo hiểm (chỉ tiêu này được xác định thông qua giá trị phí bảo hiểm bình quân đầu người) còn thấp, mặc dù mức phí bảo hiểm bình quân này có tốc độ tăng trưởng bình quân là 19,2%/năm (trong giai đoạn 2002 - 2014) và so với năm 1996 mức phí này đã tăng 43 lần (từ 17.000đ/người lên 417
  12. mức 734.000đ/người, tương đương 36 USD/người), nhưng so với khu vực ASEAN thì mức trung bình khoảng 68 USD/ người, tức là thấp hơn mức trung bình trong khu vực. 4. Các thách thức của ngành bảo hiểm Việt Nam trong bối cảnh hội nhập mới và đề xuất Cùng với việc nước ta tham gia WTO, AEC, TTP, ngành bảo hiểm Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển mạnh song cũng bộc lộ khá nhiều thách thức, đòi hỏi các DNBH và cơ quan quản lý nhà nước phải nhận diện và ứng xử phù hợp. 4.1. Nhận diện các thách thức của thị trường bảo hiểm Việt Nam Có thể nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có được những thành công đáng khích lệ. Song với xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng trên bình diện quốc tế và trong khu vực, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, AEC và TPP, thị trường bảo hiểm đang đối diện trước nhiều thách thức hơn là cơ hội, cụ thể: (1) Thị trường bảo hiểm Việt Nam bắt đầu từ một nền tảng thấp nhưng lại có tốc độ tăng trưởng nhanh. Điều này đồng nghĩa với việc quy mô kinh doanh và kinh nghiệm hoạt động của các công ty bảo hiểm có thể chưa bắt kịp với tốc độ phát triển của hoạt động bảo hiểm trên thị trường. Các công ty bảo hiểm trong nước vẫn chỉ chú trọng phát triển lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, lĩnh vực này đang có sự chững lại do nền kinh tế trong nước suy thoái từ 2009 đến nay. Các công ty bảo hiểm nhân thọ của Việt Nam bị cạnh tranh mạnh bởi các DNBH nhân thọ nước ngoài, dần bị sụt giảm thị phần, như bảo Việt từ mức chiếm 29% thị phần (2010) xuống còn 26,94% (2014). Thị phần bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam cho yếu do các DNBH nhân thọ nước ngoài nắm giữ. Hình 4. Thị phần bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 2014 418
  13. Nguồn:[2] (2) Mức độ thâm nhập thị trường và mật độ sử dụng bảo hiểm vẫn còn ở mức thấp, dưới mức trung bình của khu vực ASEAN. Điều này cho thấy các dịch vụ bảo hiểm vẫn chưa thực sự phù hợp và hấp dẫn đối với cá nhân/tổ chức tại nước ta, khiến chưa kích thích các nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ gia tăng thực sự về chất. (3) Thị trường tái bảo hiểm mới chỉ có 2 doanh nghiệp tham gia là VINARE và PVIRe với năng lực tài chính còn ở mức thấp và thiếu kinh nghiệm trong việc tái bảo hiểm một số loại hình sản phẩm. Do vậy, thị trường tái bảo hiểm Việt Nam vẫn phụ thuộc vào các nhà tái bảo hiểm nước ngoài (ví dụ như Bảo Việt và Bảo Minh nhượng tới 70% với doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài để phòng ngừa rủi ro của họ [2]). (4) Nguồn nhân lực trong thị trường bảo hiểm còn hạn chế: với lực lượng lao động trong ngành có tuổi đời bình quân khoảng 30, chủ yếu là sinh viên mới tốt nghiệp, thiếu kiến thức và kinh nghiệm thực tế, tâm lý ổn định trong công tác không cao. Điều này đã khiến cho các DNBH phải cạnh tranh không lành mạnh để thu hút lao động có kinh nghiệm, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của DNBH do sự xê dịch lao động thường xuyên diễn ra và chế độ đãi ngộ không tương xứng với công sức lao động. DNBH phải thường xuyên tìm mọi cách giữa chân người lao động có trình độ và các đại lý có năng lực, tăng hoạt động đào tạo nhân viên mới, đã khiến gia tăng chi phí làm cho thu nhập có khuynh hướng suy giảm. Tỷ lệ luân chuyển lao động trong ngành khá cao, lên đến 80%/năm (tức là chỉ có 20% số nhân viên ở lại). (5) Nhận thức của người dân còn hạn chế: Mặc dù nhận thức được tính ưu việt của hoạt động bảo hiểm đối với việc bù đắp rủi ro cho người mua bảo hiểm nếu xảy ra bất chắc, song một thách thức lớn đối với phát triển ngành bảo hiểm là vấn đề văn hóa, 419
  14. nhận thức của đại bộ phận dân chúng vẫn coi là mua sản phẩm bảo hiểm là dự liệu cho một điều không may mắn, nếu không xảy ra thì lãng phí nên thường từ chối không tham gia hoặc chỉ dè dặt tham gia ở mức thấp. Hình 5. Lý do không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam Nguồn: [1], [2] 4.2. Các đề xuất Với AEC và TPP, lĩnh vực bảo hiểm thực hiện tự do hóa một cách sâu rộng, đặc biệt là bảo hiểm phi nhân thọ. Với tương quan so sánh ngành bảo hiểm Việt Nam với các nước khu vực và trên thế giới, thì nguy cơ Việt Nam là nơi nhập khẩu dịch vụ bảo hiểm từ các quốc gia thành viên là rất lớn. Do đó, để giữ thị phần của mình, thị trường bảo hiểm Việt Nam phải có những bước chuẩn bị trước tình hình hiện tại. - Đối với các DNBH trong nước: (1) Nâng cao sự an toàn trong quản trị điều hành, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các DNBH theo hướng giám sát, đôn đốc DNBH tự đánh giá, xếp loại theo các tiêu chí quy định tại Thông tư số 95/2014/TT-BTC để có biện pháp quản lý, giám sát phù hợp, đảm bảo duy trì an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; nghiên cứu triển khai mô hình quản lý vốn trên cơ sở rủi ro; ban hành các quy định về quản trị rủi ro doanh nghiệp, tăng cường hệ thống công nghệ thông tin của doanh nghiệp và kết nối toàn thị trường; hoàn thành và triển khai Đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho thị trường bảo hiểm nhằm phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp hóa và có chuyên môn cao cho các DNBH. (2) Đa dạng hóa kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm để các thành phần trong nên kinh tế dễ dàng tiếp cận. Hệ thống kênh phân phối được đa dạng theo 420
  15. hướng mở rộng hình thức thi đại lý bảo hiểm trực tuyến tập trung; tăng cường quản lý chất lượng thi đại lý để nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của đại lý; nghiên cứu ban hành hướng dẫn đối với các kênh phân phối mới (thương mại điện tử, điện thoại di động ) nhằm tạo hành lang pháp lý giúp DNBH đa dạng hóa kênh phân phối. (3) Tăng cường hoạt động quảng bá các sản phẩm bảo hiểm theo hướng tiếp cận tới các cá nhân/hộ gia đình, không chỉ tập trung khai thác thị trường thành phố mà cần tiếp cận nhiều hơn tới các thị trường nông thôn, vùng xa. (4) Tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm nhằm học hỏi công nghệ và tiếp cận các cơ hội kinh doanh và phát triển sản phẩm ra ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam, đảm bảo thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật của các nhà tài trợ. - Đối với Chính phủ và đơn vị quản lý nhà nước các cấp: (1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quy định về kinh doanh bảo hiểm theo hướng tiếp tục sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện các chính sách bảo hiểm như bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thủy sản, bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm vi mô Dự kiến trong năm 2016, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung 02 nghị định thay thế các nghị định về kinh doanh bảo hiểm theo hướng kế thừa các quy định còn phù hợp với thực tiễn của các nghị định hiện tại, nâng các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính từ các thông tư lên nghị định nhằm đáp ứng yêu cầu của Luật Đầu tư 2014, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng cường năng lực quản trị, điều hành của các doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Dự kiến nghị định liên quan đến điều kiện và thủ tục hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ được đẩy nhanh tiến độ ban hành để đảm bảo có hiệu lực từ ngay 1/7/2016 (Ngày Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực); Nghị định về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trình Chính phủ ban hành trong quý IV/2016 (để đảm bảo có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 - ngày bắt đầu năm tài chính 2017). (2) Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển và da dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, trong đó chú trọng phát triển các sản phẩm có tính cộng đồng và an sinh xã hội cao, cho phép điều chỉnh các sản phẩm bảo hiểm linh hoạt phù hợp với nhu cầu của từng khách hàng cá nhân. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung cho toàn thị trường phục vụ cho việc định phí bảo hiểm, tạo mặt bằng về mức phí sàn, góp phần lành mạnh 421
  16. hóa môi trường cạnh tranh trên thị trường. (3) Tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh doanh bảo hiểm và tạo cơ hội cho các DNBH trong nước được tiếp cận hợp tác quốc tế. Hoạt động này được thực hiện theo hướng tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát DNBH; nghiên cứu, đề xuất tổ chức bộ phận chuyên trách hỗ trợ phòng chống gian lận bảo hiểm, hỗ trợ tư vấn pháp lý, trọng tài; xây dựng và triển khai hệ thống công nghệ thông tin kết nối giữa cơ quan quản lý và thị trường nhằm rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính; hệ thống hỗ trợ công tác phân tích, đánh giá và cảnh báo nguy cơ sớm của doanh nghiệp. (4) Có cơ chế khuyến khích các DNBH phát triển các sản phẩm bảo hiểm mang lại ích lợi cho số đông dân cư như bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm nông nghiệp Tài liệu tham khảo 1. Bộ Tài chính, Báo cáo Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2002 - 2015. 2. Công ty chứng khoán VP Bank (VPBS), Báo cáo phân tích thị trường bảo hiểm 2014. 3. Ngô Trung Dũng, Việt Nam ở đâu trên tấm “bản đồ” bảo hiểm ASEAN, Tạp chí Đầu tư chứng khoán 12/2015. 4. Báo Đầu tư: Đặc san Toàn cảnh thị trường bảo hiểm Việt Nam số tháng 5/2013, 5/2014, 5/2015. 422